Tám tiết thơ giúp tập luyện Tâm Đức
Hoang Phong dịch
Bài chuyển ngữ dưới đây trích từ một quyển sách của Đức Đạt lai lạt Ma mang tựa đề "Tâm Thức Giác Ngộ, Những lời khuyên Trí tuệ cho những con người ngày nay" (L'Esprit en Eveil, Conseils de Sagesse aux hommes d'aujourd'hui, nxb Presses du Chatelet, 2009. Phiên bản tiếng Anh: In My Own Words, nxb Hay House, 2008). Phần chuyển ngữ gồm toàn bộ một chương ngắn (chương 8, tr. 121-129) bình giảng một bài thơ gồm tám tiết bốn câu do một nhà sư Tây Tạng thuộc hậu bán thế kỷ XI và tiền bán thế kỷ XII trước tác nhằm vào việc luyện tập tâm thức cho một người tu tập Đạo Pháp.
"Tám Tiết thơ giúp tập luyện Tâm thức" là tựa của một bài thơ ngắn do một nhà sư Tây Tạng là Guéshé Langri Tangpa (1054-1123) trước tác với chủ đích giúp phát huy tinh thần giác ngộ qua phép thiền định về hoán chuyển giữa ta và người khác, (một phép thiền định rất phổ thông của Phật giáo Tây Tạng: đó là cách tự nguyện xin được nhận về phần mình tất cả khổ đau của người khác, và trao lại cho họ tất cả những gì đạo hạnh của mình), và xem đấy là mục đích cao cả nhất trong cuộc sống của chính mình. Tôi được nghe giảng về các tiết thơ này từ thuở còn bé khi tôi còn ở Lhassa, và từ đấy mỗi ngày tôi đều đọc lên những tiết thơ ấy, đấy cũng là những gì thuộc vào sự tu tập hằng ngày của tôi. Những tiết thư ấy như sau:
"Tôi quyết tâm hành động bằng mọi cách để mang lại
Sự an vui tuyệt vời cho tất cả chúng sinh,
Sự tuyệt vời ấy vượt lên trên tất cả những thứ bùa phép mầu nhiệm nhất,
Tôi xin được yêu thương chúng sinh với tất cả tâm hồn tôi.
Mỗi khi tiếp xúc với họ,
Tôi xin tự xem mình là người kém cỏi nhất,
Và trong tận đáy lòng, tôi xin kính cẩn xem tất cả
Đều là những con người tối thượng.
Đối với từng hành động, tôi xin luôn dò xét
Trong tận cùng tâm thức, nếu có một xúc cảm bấn loạn nào lóe lên,
Có thể mang lại nguy hại cho người khác hoặc cho tôi,
Thì tôi sẽ cương quyết chống lại hầu loại bỏ nó.
Tôi xin yêu thương tất cả chúng sinh hung dữ,
Những ai đã tạo ra những thảm họa nặng nề,
Và những khổ đau mênh mông,
Tôi xin yêu thương họ như vừa khám phá ra một gia tài vô giá.
Vì ganh ghét mà một số người ngược đãi tôi,
Trút lên tôi những lời nhục mạ, vu khống và mọi điều tệ hại khác,
Thì trước những thử thách ấy, tôi xin nhẫn nhục chịu đựng,
Và hiến dâng cho họ tất cả sự vinh quang.
Đối với những người vô cớ làm tôi bị thương tổn nặng nề,
Dù tôi từng mang lại sự tốt lành cho họ và đặt hết lòng tin nơi họ,
Thì tôi xin vẫn được xem họ
Như những vị thầy tâm linh tốt nhất của tôi.
Tóm lại tôi xin mang lại cho tất cả chúng sinh,
Dù trực tiếp hay gián tiếp và không phân biệt một ai
Mọi sự giúp đỡ và những niềm phúc hạnh của tôi,
Và đổi lại, tôi xin gánh vác với tất cả sự kính cẩn
Những bất hạnh và khổ đau của những người mẹ của tôi, (xem tất cả chúng sinh như những người mẹ của mình).
Tôi xin cố gắng giữ cho các phép tu tập ấy
Không bị ô nhiễm bởi tám mối lo toan thế tục, (gồm có: lợi lộc, lạc thú, ngợi khen, vinh quang, danh vọng, thua thiệt, khổ đau, thất sủng, quở phạt) .
Và khi đã thấu hiểu được thế nào là bản chất ảo giác của mọi hiện tượng,
Thì khi ấy tôi cũng sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám víu".
Bảy tiết đầu tiên của bài "Tám tiết thơ giúp tập luyện tâm thức" đề cập đến chủ đề liên quan đến thể dạng giác ngộ quy ước (hay tương đối) của tâm thức mà thuật ngữ Phật giáo gọi là bồ-đề-tâm (bodhicita) tương đối. Tiết sau cùng nêu lên thật ngắn gọn thể dạng thứ hai của sự giác ngộ là bồ-đề-tâm tuyệt đối.
Bài chuyển ngữ dưới đây trích từ một quyển sách của Đức Đạt lai lạt Ma mang tựa đề "Tâm Thức Giác Ngộ, Những lời khuyên Trí tuệ cho những con người ngày nay" (L'Esprit en Eveil, Conseils de Sagesse aux hommes d'aujourd'hui, nxb Presses du Chatelet, 2009. Phiên bản tiếng Anh: In My Own Words, nxb Hay House, 2008). Phần chuyển ngữ gồm toàn bộ một chương ngắn (chương 8, tr. 121-129) bình giảng một bài thơ gồm tám tiết bốn câu do một nhà sư Tây Tạng thuộc hậu bán thế kỷ XI và tiền bán thế kỷ XII trước tác nhằm vào việc luyện tập tâm thức cho một người tu tập Đạo Pháp.
"Tám Tiết thơ giúp tập luyện Tâm thức" là tựa của một bài thơ ngắn do một nhà sư Tây Tạng là Guéshé Langri Tangpa (1054-1123) trước tác với chủ đích giúp phát huy tinh thần giác ngộ qua phép thiền định về hoán chuyển giữa ta và người khác, (một phép thiền định rất phổ thông của Phật giáo Tây Tạng: đó là cách tự nguyện xin được nhận về phần mình tất cả khổ đau của người khác, và trao lại cho họ tất cả những gì đạo hạnh của mình), và xem đấy là mục đích cao cả nhất trong cuộc sống của chính mình. Tôi được nghe giảng về các tiết thơ này từ thuở còn bé khi tôi còn ở Lhassa, và từ đấy mỗi ngày tôi đều đọc lên những tiết thơ ấy, đấy cũng là những gì thuộc vào sự tu tập hằng ngày của tôi. Những tiết thư ấy như sau:
"Tôi quyết tâm hành động bằng mọi cách để mang lại
Sự an vui tuyệt vời cho tất cả chúng sinh,
Sự tuyệt vời ấy vượt lên trên tất cả những thứ bùa phép mầu nhiệm nhất,
Tôi xin được yêu thương chúng sinh với tất cả tâm hồn tôi.
Mỗi khi tiếp xúc với họ,
Tôi xin tự xem mình là người kém cỏi nhất,
Và trong tận đáy lòng, tôi xin kính cẩn xem tất cả
Đều là những con người tối thượng.
Đối với từng hành động, tôi xin luôn dò xét
Trong tận cùng tâm thức, nếu có một xúc cảm bấn loạn nào lóe lên,
Có thể mang lại nguy hại cho người khác hoặc cho tôi,
Thì tôi sẽ cương quyết chống lại hầu loại bỏ nó.
Tôi xin yêu thương tất cả chúng sinh hung dữ,
Những ai đã tạo ra những thảm họa nặng nề,
Và những khổ đau mênh mông,
Tôi xin yêu thương họ như vừa khám phá ra một gia tài vô giá.
Vì ganh ghét mà một số người ngược đãi tôi,
Trút lên tôi những lời nhục mạ, vu khống và mọi điều tệ hại khác,
Thì trước những thử thách ấy, tôi xin nhẫn nhục chịu đựng,
Và hiến dâng cho họ tất cả sự vinh quang.
Đối với những người vô cớ làm tôi bị thương tổn nặng nề,
Dù tôi từng mang lại sự tốt lành cho họ và đặt hết lòng tin nơi họ,
Thì tôi xin vẫn được xem họ
Như những vị thầy tâm linh tốt nhất của tôi.
Tóm lại tôi xin mang lại cho tất cả chúng sinh,
Dù trực tiếp hay gián tiếp và không phân biệt một ai
Mọi sự giúp đỡ và những niềm phúc hạnh của tôi,
Và đổi lại, tôi xin gánh vác với tất cả sự kính cẩn
Những bất hạnh và khổ đau của những người mẹ của tôi, (xem tất cả chúng sinh như những người mẹ của mình).
Tôi xin cố gắng giữ cho các phép tu tập ấy
Không bị ô nhiễm bởi tám mối lo toan thế tục, (gồm có: lợi lộc, lạc thú, ngợi khen, vinh quang, danh vọng, thua thiệt, khổ đau, thất sủng, quở phạt) .
Và khi đã thấu hiểu được thế nào là bản chất ảo giác của mọi hiện tượng,
Thì khi ấy tôi cũng sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám víu".
Bảy tiết đầu tiên của bài "Tám tiết thơ giúp tập luyện tâm thức" đề cập đến chủ đề liên quan đến thể dạng giác ngộ quy ước (hay tương đối) của tâm thức mà thuật ngữ Phật giáo gọi là bồ-đề-tâm (bodhicita) tương đối. Tiết sau cùng nêu lên thật ngắn gọn thể dạng thứ hai của sự giác ngộ là bồ-đề-tâm tuyệt đối.
Tiết thứ nhất của bài thơ mang ý nghĩa như sau: "Những ai đã quyết tâm mang lại sự an vui tối thượng cho tất cả chúng sinh, một sự an vui quý giá hơn cả viên bảo châu mầu nhiệm giúp thực hiện được mọi điều nguyện ước, tất nhiên sẽ phát nguyện như sau: xin cho tôi được mãi mãi yêu thương tất cả chúng sinh". Tiết thơ nêu lên sự tương kết giữa "tôi" và người khác. Thế nhưng trên thực tế sự tương kết đó có thật sự xảy ra hay không? Trong cuộc sống thường nhật, thật ra ta chỉ biết quan tâm - tất nhiên là với tất cả sự hăng say - đến cá nhân mình và quyền lợi của mình. Ta đặt lên trên hết sự tìm kiếm an vui hầu mang lại hạnh phúc và tránh khỏi khổ đau cho riêng mình. Đấy là mối bận tâm hàng đầu và trọng đại nhất so với tất cả những mối bận tâm khác, và đấy cũng là gánh nặng mà ta phải tự đảm trách cho mình. Trong khi đó, việc lo toan cho người khác thì ta lại đặt xuống hàng thứ yếu, không có gì đáng để quan tâm hoặc đấy là một thứ gì hoàn toàn vô nghĩa.
Thực trạng đó phải được thay đổi, chúng ta phải gia tăng sự luyện tập tâm thức đến một mức độ có thể hoán đổi được việc xem sự an vui của chính mình là quan trọng hơn hết và đặt sự an vui của người khác xuống hàng thứ yếu. Chúng ta cần phải phát huy một sự kính trọng sâu xa và một mối quan tâm chân thật đến sự an vui của người khác và đồng thời không nên quan tâm quá đáng đến sự an vui của chính mình. Đấy là mục đích cần phải thực hiện. Muốn thành công ta phải luyện tập tâm thức mình thật chuyên cần, sự luyện tập đó dựa vào nhiều phương pháp khác nhau.
Tiết thứ hai là: "Mỗi khi có dịp tiếp xúc với người khác, tôi xin tự xem mình là người kém cỏi hơn cả, và tất cả các người khác đều hàm chứa một giá trị tối thượng, sự quán nhận ấy xuất phát tự đáy tim tôi". Tất nhiên là cách cư xử khiêm tốn nêu lên trong tiết thơ trên đây trái ngược lại với thái độ trịch thượng mà ta thường có khi phóng nhìn vào người khác. Vì thế ta nên thay đổi thái độ đó và phải kính trọng tất cả chúng sinh, xem tất cả chúng sinh đều là anh chị em của mình và riêng mình thì phải là người thấp kém nhất khi so sánh với họ. Ta phải biết yêu thương họ và mang thân xác, tâm thức cũng như toàn diện con người của ta để hướng vào mục đích mang lại sự an vui cho tất cả chúng sinh mà chính chúng ta đã đặt họ lên hàng tối thượng.
Tiết thứ ba là: "Đối với từng hành động, tôi xin luôn canh chừng từ trong tận cùng của tâm thức tôi, nếu thấy có một sự hiềm khích hay méo mó nào xảy ra có thể mang lại nguy hại cho người khác và cho tôi, thì tôi sẽ cương quyết đương đầu ngay hầu loại bỏ nó". Chỉ khi nào biết thương yêu người khác và tự đặt mình vào một vị thế khiêm tốn, thì khi đó chúng ta mới có thể nhận thấy được những gì lệch lạc sẵn có trong tâm thức của mình từ trước, chẳng hạn như thái độ tâm thần lầm lạc tự cho mình là quan trọng hơn hết, hoặc các quan điểm sai lầm về bản chất thật sự của chính mình. Tiết thơ thứ ba nêu lên các sự lệch lạc ấy nhằm khuyên chúng ta phải canh chừng ngay từ bên trong tâm thức để ngăn chận không cho các cách hành xử lầm lẫn như thế có thể xảy ra. Khi chúng vừa loé lên thì ta phải kiểm soát ngay tâm ý của mình, tương tự như ta phải canh chừng an ninh cho một ngôi nhà. Sự canh chừng đó phải thật cẩn trọng và cảnh giác, sự cẩn trọng và cảnh giác ấy có thể so sánh với hai người lính cảnh sát của nội tâm. Khi tâm thức đã được canh giữ cẩn thận thì ta sẽ không còn cần đến sự kiểm soát của bất cứ một người cảnh sát nào ở bên ngoài, vì trong trường hợp đó đương nhiên ta sẽ không phạm vào các hành động thiếu đạo hạnh và độc hại. Thế nhưng nếu không có hai người cảnh sát bên trong - tức sự cẩn trọng và cảnh giác - canh giữ, thì dù cho hùng mạnh đến đâu các lực lượng cảnh sát bên ngoài cũng khó mà kiểm soát được một tình trạng hung bạo khi nó đã bùng nổ ra. Thật cũng không đến đỗi quá khó để nhận thấy điều ấy, sự can thiệp của cảnh sát nào mấy khi hiệu quả trước những thảm cảnh do khủng bố gây ra.
Tiết thứ tư là: "Mỗi khi trông thấy các chúng sinh hung ác phải gánh chịu sức mạnh nghiền nát của những hành động hung bạo và sai lầm, thì tôi xin được xem họ như những gì trân quý nhất, tương tự như tôi vừa khám phá ra một kho tàng". Nội dung của tiết thơ nêu lên trường hợp những kẻ ghê tởm nhất, chẳng hạn như những kẻ ăn thịt người hay những kẻ thật tồi tệ. Mặc dù không hề có ý định làm hại họ, thế nhưng thói thường chúng ta vẫn tìm cách tránh né họ và quay ra hướng khác để tránh mọi sự giao tiếp với họ. Thế nhưng thật ra ta không nên giữ thái độ như thế. Những gì mà chúng ta cần phải tập là yêu thương họ, dù cho họ đang hiện diện trước mặt ta hay không cũng thế. Chúng ta phải cố gắng tập luyện như thế nào để mỗi khi gặp họ ta sẽ không thốt lên: "Thật khổ! Lại phải làm một cái gì đây để giúp họ!", hoặc: "Lại thêm một gánh nặng nữa, một sự khổ nhọc nữa phải gánh vác!". Thay vì phản ứng như vậy khi gặp họ, thì ta nên tìm thấy niềm hân hoan như vừa khám phá ra một viên bảo châu quý giá, một kho tàng hay một cái gì đó thật tuyệt vời, phải xem đấy là một cơ hội hiếm hoi mang lại cho ta dịp may để giúp đỡ họ.
Tiết thứ năm là: "Khi người khác trút lên đầu tôi mọi sự giận dữ, nguyền rủa tôi, vu khống tôi, hoặc mang lại mọi thứ tệ hại khác cho tôi, thì xin cho tôi đủ sức gánh chịu mọi sự thua thiệt và hiến dâng cho họ sự vinh quang". Thật hết sức quan trọng phải giữ một thái độ rộng mở và thiết tha yêu thương người khác. Tuy nhiên hơn thế nữa việc tu tập còn đòi hỏi chúng ta nhất thiết phải giữ thái độ ấy đối với những ai vì một lý do nào đó muốn làm hại ta, dù đấy là trường hợp họ bị khích động bởi sự giận dữ thúc đẩy họ thực thi những ý đồ lắt léo nhằm mục đích cố tình làm thương tổn đến ta, hay đấy là trường hợp mà họ chỉ mang những ý định ấy trong đầu cũng vậy. Trong các trường hợp như thế, ta phải xem họ như những gì vô cùng quý giá. Thái độ mà ta phải giữ đối với những người khi mà sự ác ý của họ chuyển thành hành động chống lại ta, là phải chấp nhận sự thua thiệt và mất mát về phần mình và nhường cho họ sự chiến thắng. Đấy là ý nghĩa của tiết thơ trên đây.
Tiết thứ sáu là: "Đối với một người mà tôi hằng mang lại điều tốt cho họ, thế nhưng họ lại đối xử tồi tệ với tôi, thì xin cho tôi được xem người ấy như một vị đạo sư tối thượng". Tất nhiên trong số trùng trùng điệp chúng sinh, luôn luôn có một số nào đó mà ta phải miễn cưỡng giúp đỡ họ, hoặc phải cố gắng tỏ ra thật tốt đối với họ - đấy là một thái độ cao cả và thích đáng. Thói thường người được giúp đỡ phải tỏ ra biết ơn và phải có một vài cử chỉ nào đó trước lòng tốt của ta. Thế nhưng cũng có trường hợp mà người được ta giúp đỡ lại đối xử một cách quá thấp kém không xứng đáng với hành động của ta. Trường hợp đó khiến cho ta cảm thấy bị tổn thương và bị đối xử tệ bạc. Vậy một người đang tu tập cách hành xử trong cuộc sống hay nói cách khác là một vị bồ-tát, thì phải phản ứng ra sao? Tất nhiên là phải đối xử với người ấy như là một vị đạo sư hướng dẫn tâm linh cho mình, và xem đấy là một dịp may vô cùng quý giá được gặp một người như thế để yêu mến họ, bởi vì chính họ đã mang lại một cơ hội hiếm hoi để giúp mình luyện tập sự kiên nhẫn và lòng bao dung. Đấy là thể dạng tâm thức mà người bồ-tát phải tập luyện.
Sau đây chúng ta xét đến nội dung của tiết thứ bảy, đấy là: "Tóm lại, tôi xin được trực tiếp hay gián tiếp mang lại sự tốt lành và tình thương cho tất cả những người mẹ của tôi; tôi xin được kín đáo nhận chịu về phần tôi tất cả những bất hạnh và khổ đau của những người mẹ ấy". Trường hợp này vẫn còn thuộc vào cấp bậc giác ngộ tương đối của tâm thức. Nếu muốn cho cách hành xử tốt đẹp đó, tức là yêu thương người khác hơn cả chính mình, được phát huy thật cao độ và nhiệt tình, thì nó phải được thoát ra từ cội nguồn của lòng từ bi. Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt cầu mong sao cho họ tìm được sự giải thoát trước những khổ đau ấy. Tất nhiên một mặt chúng ta phải biết lo lắng sâu xa khi nghĩ đến những cảnh thống khổ của người khác, thế nhưng một mặt khác thì chúng ta cũng phải biết mở rộng lòng mình cho niềm hân hoan tràn ngập, khi chúng ta nhìn thấy những cảnh hạnh phúc và an vui của người khác, và đấy cũng là một cách phát lộ lòng tốt và tình thương của mình. Cả hai thái độ ấy - tức lòng từ bi và sự hân hoan phát sinh từ tình thương chân thật - là cội nguồn giúp cho yêu thương bám rễ, và sự yêu thương đó sẽ thúc đẩy chúng ta nên nghĩ đến người khác hơn là chính mình. Đấy cũng là nguyên tắc căn bản trong phép luyện tập gọi là tonglen (tức là cách hiến dâng và nhận lãnh) mà tiết thơ trên đây đã nêu lên.
Thật ra trên thực tế, sự kiện hoán chuyển hạnh phúc của mình cho người khác và ngược lại xin nhận chịu khổ đau của họ chỉ có thể xảy ra được trong một số trường hợp thật hiếm hoi: tức là chỉ có thể thực hiện được khi nào giữa ta và người ấy đã từng có một sự liên hệ và tương quan nghiệp lực thật đặc biệt nào đó từ các kiếp trước. Chỉ trong các trường hợp như thế thì sự hoán chuyển khổ đau của người khác sang cho cho mình may ra mới có thể xảy ra được, trên thực tế thì chuyện ấy rất khó thực hiện. Thế nhưng tại sao lại khuyến khích mọi người nên tập luyện theo phép tu tập ấy? Bởi vì đấy là một phương pháp giúp đạt được một cá tính cực mạnh, một lòng quả cảm vô song và một sự nhiệt tình sâu đậm; những phẩm tính ấy sẽ giúp cho sự tu tập của mình thăng tiến nhanh hơn trên đường đưa đến giác ngộ tâm linh.
Tiết thứ tám và cũng là tiết cuối cùng mang ý nghĩa như sau: "Cầu xin cho sự tu tập của tôi tránh được mọi sự ô nhiễm của tám mối lo toan thế tục. Vì quán nhận được tất cả các dharma tức là các thành phần cấu hợp tạo ra mọi hiện tượng đều là ảo giác, nên tôi cầu xin loại bỏ được chúng hầu giải thoát cho tôi ra khỏi sự trói buộc của các chu kỳ hiện hữu". Ý nghĩa nêu lên trong tiết thơ thứ tám là sự giác ngộ tuyệt đối của tâm thức. Trong khi các tiết khác chỉ nhắm vào các phương tiện tu tập, thì tiết thứ tám lại hướng trực tiếp vào con đường giác ngộ tâm linh.
Phát huy tâm thức hướng vào mục đích yêu thương người khác hơn cả chính mình đôi khi cũng cho thấy một sự nguy hiểm nào đó, vì chúng ta từng bị chi phối từ quá lâu đời bởi những lệch lạc tâm thần thường phát sinh khi tu tập Đạo Pháp. Vì muốn được nhiều người biết đến nên đôi khi ta cũng có thể rơi vào sự thèm khát uy danh do phép tu tập vì lòng lòng vị tha mang lại; hoặc biết đâu từ trong thâm tâm ta cũng mong đợi một cách kín đáo những người được hưởng các thành quả tu tập của ta sẽ mang tặng ta những món quà hồi đáp. Hoặc giả ta cũng có thể thốt lên: "Chính thế! Tôi đây là một người tu hành, một người tu tập Đạo Pháp!". Đó là những gì có thể mang lại cho ta những cảm tính kiêu hãnh để tự thấy mình cao hơn và chính mình là người ban ơn cho kẻ khác. Tất cả những sự méo mó tâm thần đó và các thái độ do chúng làm phát sinh có thể xảy ra với chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế việc tu tập mang lại giác ngộ cho tâm thức cũng có thể trở nên nguy hiểm, do đó chúng ta phải thật thận trọng không để vướng vào những gì mà người ta gọi là "tám mối lo toan của thế tục" (còn gọi là "tám dharma thế tục") (có thể xem thêm bài viết "Khái niệm về tám mối lo toan thế tục” của Hoang Phong trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,...), trong số các mối lo toan đó có thể kể ra: hy vọng được vinh quang, hy vọng được ngợi khen, hy vọng được thích thú, hy vọng được lợi lộc... Nhất định phải loại bỏ hoàn toàn những thứ lệch lạc ấy ra khỏi việc tu tập Đạo Pháp của mình. Phải giữ cho sự tu tập được tinh khiết, tức là phải hoàn toàn quên mình và đặt người khác lên trên mọi sự ngờ vực. Đấy là một điều vô cùng quan trọng.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).5/12/2011.
No comments:
Post a Comment