Monday 30 April 2012

 

http://www.tamduyen.com/wp-content/uploads/2010/07/DalaiLama-896x1024.jpg
Khi cảm thấy hoang mang, mất tự tin, hãy nghĩ ngay đến tiềm năng tuyệt vời được sinh làm thân con người, tấm thân ấy chỉ ước mong được nẩy nở. Vì thế, hãy nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất giữ trong ta để tìm lấy nguồn hạnh phúc: Hân hoan là một sức mạnh, hãy khơi động và chăm lo cho xúc cảm ấy.
2/ Những gì cốt yếu có thể đem đến hạnh phúc chính là biết: Hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự hoan hỷ nội tâm sẽ biến cải cảm quan của ta khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và ta sẽ tìm được sự anh bình cho tâm thức.
3/ Khi có kẻ nào làm ta tổn thương, đừng do dự một chút nào cả, Hãy tha thứ cho họ. Vì khi biết nghĩ đến những gì đang kích động họ và đưa họ đến những hành vi ấy, ta sẽ hiểu chính đấy là những khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, không phải họ quyết tâm và cố tình làm ta thương tổn và gây thiệt hại cho ta. Tha thứ là một một phương cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, không phải là một hành động bỏ qua. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận hiện trạng thực tế của những cảnh huống xảy ra cho ta.
4/ Hãy bố thí cho kẻ khác, không mong đợi sự hồi đáp và cũng không tính toán gì hết; Bố thí để tìm lấy sự sung sướng và để yêu thương, chính đấy là cách tạo ra những phúc hạnh lớn lao nhất. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có khả năng gom tất cả chúng sinh có giác cảm lại gần với nhau chính là Tình thương.
5/ Hãy cám ơn kẻ thù của ta, họ là những vị thầy lớn nhất cho ta. Họ tập ta đương đầu với khổ đau và giúp ta phát huy sự nhẫn nhục, lòng rộng lượng và từ bi, nhưng không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
6/ Những trang sức đẹp nhất mà ta có sẳn chính là: Tình thương và lòng từ bi. Nếu ta tìm hiểu những điều kiện nào có thể giúp ta đạt được hạnh phúc và tạo được an vui, ta sẽ nhận thấy những điều kiện ấy nằm trong khả năng con người và sự vận hành của tâm thức, và ta hoàn toàn có đủ khả năng để tạo ra những điều kiện ấy.
7/ Không thể thực hiện sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không có sự giải trừ vũ khí trong nội tâm. Bạo lực làm phát sinh bạo lực. Chỉ có an bình trong tâm thức mới có thể tạo ra một sự sống trong sáng, không hàm chứa những xung năng đối nghịch. Sự giải binh toàn cầu là một trong những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Chỉ là một giấc mơ thôi...
8/ Khổ đau tinh thần và tình cảm ta đang gánh chịu chính là người hướng dẫn vạch cho ta thấy thái độ của ta đúng hay sai. Tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống mà ta đang sống có thể làm nhẹ bớt hoặc vượt hẳn lên trên những khổ đau mà ta đang phải chịu đựng, điều ấy có nghĩa là ta cần phải biến cải sự vận hành của chính tâm thức ta.
9/ Hãy biết: Hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác, vì mỗi một dịp may như thế đồng thời cũng là một phút giây vui sướng cho riêng ta. Hãy hân hoan khi ta được hạnh phúc, bởi vì yêu thương kẻ khác khó có thể thực hiện được nếu ta quên yêu thương lấy chính ta, và sự hân hoan đó sẽ giúp ta tin tưởng và vững tâm hơn. Tùy vào cách cảm nhận trước những cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu, mà các thể dạng như trung hòa, hạnh phúc hay khổ đau sẽ phát sinh trong cuộc sống của chính mình.
10/ Yêu thương và từ bi sẽ xoá bỏ mọi sợ hãi khi phải sống, Vì khi nào những xúc cảm tich cực ấy hiển lộ trong ta, sự vững tin sẽ hiển hiện trong nội tâm và sự sợ hãi sẽ tan biến. Chính tâm thức ta tạo ra cái thế giới mà ta đang sống.
11/ Tập khắc phục tâm thức; chẳng những sẽ giúp ta sống trong an bình với chính ta mà đối với kẻ khác nữa, điều ấy cũng giúp ta tìm thấy sự hoan hỷ cho nội tâm trong bất cứ trạng huống nào mà ta vấp phải. Không có một điều gì hay bất cứ ai có thể làm cho một người khác cảm thấy bất hạnh, nếu người này có một tâm thức tinh khiết đã loại bỏ được những xúc cảm phát sinh từ những xung năng đối nghịch.
12/ Chúng ta không thể nào tìm thấy hạnh phúc nếu chỉ biết ham thích ảo giác và không nhìn thẳng vào hiện thực. Hiện thực không tốt đẹp cũng chẳng xấu xa. Vạn vật là như thế, không thể nào bắt buộc chúng phải hiển hiện đúng với ý muốn của riêng ta. Thấu hiểu và chấp nhận điều ấy chính là một trong những chìa khóa của hạnh phúc.
13/ Phật giáo giảng rằng: Giây phút trước khi chết thật hệ trọng, bởi vì những giây phút đó là dịp may cuối cùng giúp ta hiện hữu trong giai đoạn trung ấm (bardo) – tức thế giới chuyển tiếp giữa cái chết và sự tái sinh – xảy ra sau khi đã trút hơi thở cuối cùng. Để có thể sống với một tâm thức an bình trong những giây phút cuối cùng phải chuẩn bị suốt một cuộc đời tu tập, và trong những giây phút ấy cần phải tập trung tâm thức hướng vào những xúc cảm nhân từ thật sâu xa, hoặc hướng vào mối giây tình cảm buộc chặt thầy và môn đệ, hoặc hướng vào Tánh không và Vô thường, làm được như thế ta sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp. Những giây phút trước khi lâm chung thật quan trọng vì đó là lúc ta nắm giữ trong tay phần số của ta trong kiếp tái sinh. Khi đã hiểu được cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào sẽ giúp ta sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại và nằm xuống trong an bình.
14/ Giận dữ và hận thù cần có một đối tượng để bộc phát, giống như lửa cần có củi khô để cháy. Khi phải đối đầu với những hoàn cảnh hận thù, chẳng hạn có kẻ muốn khiêu khích hay tìm cách ám hại, ta hãy dùng sức mạnh của nhẫn nhục để chận đứng ngay sự chi phối của những xúc cảm tiêu cực có thể xảy ra. Nhẫn nhục phát sinh từ khả năng chịu đựng, đừng để bất cứ gì làm cho ta dao động, dù trong tình huống nào cũng thế. Nếu biết dựa vào nhẫn nhục, sẽ không có một kẻ nào đủ sức khuấy động được tâm thức ta.
15/ Hãy tổ chức sự sống của ta nhắm vào những gì: hàm chứa một giá trị đích thực có thể đem đến một ý nghĩa cho sự sống của ta, nhưng không nên hướng vào lạc thú và cuộc sống phù phiếm, cuốc sống ấy chỉ đẩy ta xa thêm, ra bên ngoài sự sống của chính ta. Hãy xây dựng một cuộc sống dựa vào một trách nhiệm quan trong nhất, đó là trách nhiệm mà ta phải phục vụ kẻ khác.
16/ Không có một hành vi đạo hạnh nào gọi là nhỏ hay lớn, bởi vì mỗi hành vi đạo hạnh đều góp phần vào sự xây dựng hoà bình trên thế giới này. Điều đáng kể duy nhất là hiến dâng tất cả cho kẻ khác và lấy đó làm niềm hạnh phúc. Phẩm tính lớn nhất của khả năng con người là lòng vị tha.
17/ Đừng đánh mất thì giờ vì ganh tị và cải vả. Hãy suy tư về vô thường để ý thức được giá trị của sự sống. Nếu muốn thực hiện an bình trong tâm thức và trong tim, cần phải thay đổi những thói quen suy nghĩ có sẵn trong đầu. Nếu không muốn hóa điên vào lúc bắt buộc phải rời bỏ thế giới này, thì ta phải tu tập ngay từ bây giờ để hiểu rằng: Không nên bám víu vào mọi sự vật và đừng mơ tưởng đó là những thứ mà rồi đây ta có thể mang theo khi chết.
18/ Đừng bỏ mặc tấm thân này, cũng đừng quan tâm đến nó một cách quá đáng, nhưng phải kính trọng nó và chăm sóc cho nó như một thứ dụng cụ quý giá và cần thiết có thể góp phần giúp cho tâm thức đạt được Giác ngộ.
19/ Hành vi mà ta thực thi phản ảnh từ tư duy và xúc cảm của chính ta. Tự nơi chúng, những hành vi ấy không mang tích cách tích cực hay tiêu cực, tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào những ý đồ tiềm ẩn đã thúc đẩy ta. Ý đồ sẽ giữ vai trò quyết định cho nghiệp, tức quy luật về nguyên nhân và hậu quả, nghiệp sẽ tạo ra cho ta một cuộc sống và trong cuộc sống ấy ta sẽ có cảm giác như là đang hạnh phúc hay đang khổ đau.
20/ Bố thí trước hết phải tập thế nào để đừng va chạm đến tự ái và làm tổn thương kẻ khác. Làm được như thế có nghĩa là tránh không làm hại đến chính ta, vì làm tổn thương kẻ khác chính là tự làm tổn thương đến ta trước đã.
21/ Không thể nào nắm bắt được hiện tại. Không có gì tồn tại trong thế giới này, không có gì tự nơi chúng có thể hiện hữu được. Vậy thì, cố gắng nắm bắt và chiếm giữ những đối tượng của các giác quan mà ta cảm nhận được trong hiện tại để làm gì? Chúng không mang một thực thể nào cả. Chúng chỉ là hậu quả của trùng trùng điệp điệp những nguyên nhân và điều kiện khác đã tác tạo ra chúng. Chúng không sinh ra để tồn tại bởi vì chúng biến đổi từng giây phút một. Do đó, chớ nắm bắt gì cả.
22/ Tham vọng không kềm giữ được sẽ biến tâm thức con người thành nô lệ và sẽ không bao giờ để cho tâm thức được yên, khi nào ham muốn lạc thú vẫn còn thúc đẩy tâm thức để tạo ra vô số cảnh huống khác nhau trong mục đích giúp thoả mãn những tham vọng trong sinh hoạt hằng ngày, thì khi đó tâm thức vẫn còn nô lệ và bất an. Tham vọng khi đã được kềm chế và khắc phục sẽ giải thoát con người ra khỏi mọi hoàn cảnh, dù là hoàn cảnh hạnh phúc hay khổ đau cũng thế, và sẽ đem đến an bình trong tim và trong tâm thức.
23/ Trau dồi nhẫn nhục là tập phát huy lòng từ bi hướng vào những kẻ đã đem đến thương tổn cho ta, nhưng không phải vì thế mà chấp nhận cho họ tàn phá ta. Lòng từ bi là vị lương y tốt nhất để chữa chạy cho tâm thức. Từ bi sẽ giải thoát cho ta trước những bám víu và những xung năng đối nghịch.
24/ Chỉ vì vô minh và thiếu nhận xét minh bạch, nên ta tiếp tục tạo ra những điều bất hạnh cho chính ta. Tâm thức luôn luôn bị giằng co giữa những gì ta ưa thích và ghét bỏ. Ta hành động giống như có thể lẩn tránh được những cảnh huống đang hiện ra với ta. Ta quên mất là tất cả không có gì tồn tại và tự nó hiện hữu. Ta cũng quên là ta có thể chết bất cứ lúc nào.
25/ Bám víu vào những đối tượng của giác cảm sẽ làm cho tâm thức thèm thuồng và bịnh hoạn. Tom góp được nhiều của cải không có nghĩa là làm cho tâm thức được an bình một cách tương xứng. Hãy nhìn vào những kẻ có đầy đủ tiện nghi vật chất, họ có thể tự cung phụng cho đến hết cuộc đời, nhưng họ vẫn sống trong buồn bực, lo âu, bất toại nguyện và khép kín. Họ không hiểu rằng hiến dâng sẽ đem đến niềm hân hoan to lớn nhất. Họ không thể hiểu được là không cần phải có thật nhiều của cải mới đủ sức hiến dâng một nụ cười để giúp cho kẻ khác được sung sướng. Những điều kiện vật chất của họ thật đầy đủ, nhưng không đem đến cho họ một mảy may hạnh phúc, vì chưng chỉ có một thứ duy nhất có thể cải thiện được cuộc sống nội tâm trong bất cứ hoàn cảnh vật chất nào, ấy chính là sự tu sửa tâm linh.
26/ Tôi ước nguyện sẽ xử dụng không dám phí phạm một giây phút nào trong sự hiện hữu của tôi để góp phần vào việc giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra khổ đau và giúp chúng sinh tìm thấy hạnh phúc cũng như nhìn thấy những nguyên nhân nào sẽ đem đến hạnh phúc. Tôi xin phát nguyện để ghi nhớ rằng phát lộ lòng từ bi đối với chúng sinh khởi sự bằng từ bi đối với chính mình, nhưng không hàm chứa một chút bóng dáng nào của sự ích kỷ, vì mỗi người trong chúng ta đều là thành phần của cộng đồng chúng sinh.
27/ Phương pháp thiền định phân tích đem đến sự vững tin giúp ta biến cải tâm thức. Sự biến cải đó đòi hỏi nhiều thời gian, và cách tập luyện cũng rất gần với các phương pháp khoa học. Những xúc cảm làm đảo điên và kích động ta là những đối tượng giúp cho cho ta quan sát, để từ đó chọn lấy những liều thuốc hóa giải hiệu nghiệm nhất khả dĩ giúp đạt được mục đích mong muốn, tức giải thoát ta ra khỏi ảnh hưởng của những xúc cảm bấn loạn để đạt được Giác ngộ. Nên ghi nhớ rằng hai thể dạng xung khắc nhau không thể nào hội nhập chung với nhau cùng một lúc trong tâm thức. Vì thế, thí dụ nếu ta đang nổi giận với một người nào đó, hãy nghĩ ngay đến việc phát lộ tình thương đối với người ấy. Nếu ta phát lộ được yêu thương, giận dữ sẽ biến mất trong tâm thức. Tình thương là liều thuốc hoá giải sự giận dữ.
28/ Tất cả đều mang tính cách vô thường, nhờ đó ta có thể biến cải được tâm thức và những xúc cảm bấn loạn làm dấy động tâm thức. Chẳng hạn như hận thù hay giận dữ, chúng phải tùy thuộc vào bối cảnh để hiển hiện. Tự nơi chúng, chúng không phải là những hiện thực, chúng không hiện hữu một cách thường xuyên trong tâm thức ta, vì thế ta có thể khắc phục, biến cải và loại trừ chúng được. Để giúp thực hiện việc ấy, cần nhất là phải tái tạo chúng trong bối cảnh mà chúng đã phát sinh, phân tích bối cảnh nào đã làm cho chúng bộc phát và tìm hiểu nguyên do của sự bộc phát ấy. Thực hiện được một thể dạng phúc hạnh lâu bền có nghĩa là loại trừ ra khỏi tâm thức những xúc cảm tiêu cực.
29/ Khổ đau không phải phi lý nhưng cũng không phải vô ích, chẳng qua chỉ vì nghiệp mà chúng phát sinh, nghiệp ở đây có nghĩa là quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối chu kỳ của mọi hiện hữu. Chu kỳ hiện hữu có thể sẽ khó hiểu nếu không tin vào hiện tượng tái sinh. Tư tưởng và hành vi của ta trong nhiều kiếp sống liên tiếp từ trước sẽ tạo ra hậu quả tích cực hay tiêu cực tùy theo ý đồ thúc đẩy làm phát sinh ra tư tưởng và hành vi. Nguyên tắc ấy cũng xảy ra chung cho cả một dân tộc hay một quốc gia. Những gì xảy ra cho dân tộc Tây tạng là hậu quả của nghiệp. Nhưng điều ấy cũng không cấm cản đi tìm một giải pháp làm thế nào để nhân quyền ở Tây tạng được tôn trọng, kể cả nền văn hóa ngàn năm, tư tưởng triết học và tôn giáo đặc thù của nền văn minh chúng tôi. Không nên hiểu lầm nghiệp với định mệnh, nhưng phải rút tỉa kinh nghiệm từ những bài học mà ta gặp phải trong sự sống để hành động trong chiều hướng tích cực và ý thức.
30/ Làm thế nào để có thể phát triển hoà bình trên thế giới nếu chúng ta không biết kính trọng thiên nhiên? Từ con người đến muôn thú, tất cả đều liên kết với nhau trong một ước vọng chung có tính cách phổ quát, tức lẩn tránh khổ đau và tạo được những điều kiện thuân lợi đem đến an lành và bình an cho sự sống. Thật hết sức quan trọng phải luôn luôn tự nhắc nhở về điều ấy, vì lẽ lẩn tránh khổ đau là quyền căn bản của mọi chúng sinh có giác cảm. Để giúp cho mọi người biết tôn trọng cái quyền căn bản đó, chính chúng ta phải làm gương cho kẻ khác trước đã.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).1/5/2012. 

Sunday 29 April 2012


Đại Bi Kinh

Cao Tề Thiên Trúc tam tạng Na Liên Đề Na Xá dịch từ Phạn ra Hán văn.
Kinh Đại Bi - Quyển Thứ Năm
Trồng Căn Lành - Phẩm thứ 13
Lại nữa A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo thọ trì các pháp môn như vậy rồi và có các tịnh tín thiện nam tín nữ v.v... vui nghe pháp và có đến nghe nhưng không diễn thuyết, như vậy vì người nầy sợ Tăng. Vì sao vậy? Vì những người nầy muốn làm pháp khí, muốn nghe giáo pháp nhưng không thuyết giảng vậy, làm cho người khác không tiếp tục nghe được. Vì không nghe giảng tiếp, nên liền mất căn lành, cho nên cũng lại làm thối thất căn lành của kẻ khác nữa. Người nầy không hiểu nên có thể làm hay không thể làm. Nầy A-Nan! Ta vì nghĩa nầy muốn cho rõ ràng nên nói thí dụ. Ví dụ như người Thương Nhơn mua sắm của quý đến nơi đường sá nguy hiểm, mở các của báu ấy đem ra bố thí tại chỗ, bảo lớn với bọn cướp rằng :
Ta có của quý nầy khó có thể có được. Ngươi hãy trả giá, ta sẽ bán những của quý nầy cho ngươi. Nầy A-Nan! Lúc ấy quân cướp liền cầm đao gậy lên đánh người Thương Nhơn nầy và đoạt những của báu ấy. Nầy A-Nan! Điều nầy nghĩa gì? Các người thương nhơn nầy có thể bố thí những đồ vật quý giá ấy chăng? Những người giặc cướp nầy có mua không?
A-Nan bạch rằng : Các thương nhơn nầy đang đi trên đường hiểm trở còn không dám mở những của quý ra, hà huống là giặc cướp. Thế Tôn! Các thương nhơn nầy nên giữ gìn những bảo vật nầy và cũng nên có gậy gộc để phòng vệ để đi qua chỗ nguy hiểm cho được yên ổn. Việc nầy đáng ra nên làm.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Ngài A-Nan rằng : Lại có một thương nhơn cũng mang của quý báu từ phương xa lại, đến các thành ấp, kinh thành, làng mạc. Khi đến rồi liền mở những của quý ấy ra mà bố thí tại chỗ. Có người tốt đến mua những bảo vật kia, liền đó thương nhơn có cầm dao gậy cùng với người mua đánh nhau. Nầy A-Nan! Điều nầy nghĩa gì? Thương nhơn nầy có được xứng danh không?
Ngài A-Nan thưa rằng : Không thể được, bạch Đức Thế Tôn! Không thể được Đức Tu Già Đà Thế Tôn! Các thương nhơn ấy nên làm như thế nầy: Những vật của ta hy hữu khó có được, ngươi nên trả giá với ta, ta sẽ vì ngươi mà bán. Thế Tôn! Lẽ ra các thương nhơn phải nên như vậy, không nên cho những của quý nầy. Việc cầm dao gậy đánh nhau là sai quấy.
Phật bảo : A-Nan! Có các Tỳ Kheo, giữ gìn lưu thông các tạng giáo pháp ví như Kinh, Kỳ Dạ, Già Đà, Tỳ Đa Ca La Na, Ưu Đà Nan, Ni Đà Na, A Bà Na, Y Đế Tỳ Lợi Đa Ca, Xà Đa Ca, Tỳ Phất Lược A Phù Đà, Đạt Ma Ưu Bà Đề Xá như những giáo pháp nầy là pháp khí vậy. Không nói thì không thể nghe, mà không được nghe thì lòng tin vui nhận khó phát sanh.
Mà đã không sanh thì khó được các căn lành thù thắng để vào Niết Bàn. Họ không phải là pháp khí để mà diễn nói cũng như việc nghe để phát khởi thiện tâm, nên đã không sanh, mà đã không phát sanh thì không được giải thoát. Do vậy người nầy chỉ sanh phỉ báng giáo pháp, làm các tội nghiệp, đọa vào 3 đường ác. Nầy A-Nan! Dụ như người thương nhơn ngu muội, phải mở túi báu vật, nơi mà không nên mở; nơi không đáng mở lại mở toang ra. Nơi đáng mở thì lại chẳng mở. Nơi không đáng làm thì lại làm. Nãy A-Nan! Nếu có kẻ tịnh tín thiện nam tín nữ nào có tấm lòng thanh tịnh muốn nghe pháp, nên vì pháp khí mà đến nghe pháp; nên có thể nói những gì khó nói. Không nên nói những gì không đáng nói. Cho nên A-Nan! Nếu là như vậy, đúng là pháp khí, kẻ ấy tin sâu, vui vẻ ham muốn cầu chốn Niết Bàn, nên hãy vì họ mà nói. Nếu có kẻ chẳng vì pháp khí, không tin vui cầu, phá giới phạm hạnh mà cầu Niết Bàn, quả thật kẻ ấy làm ngược lại giáo pháp của Phật vậy. Kẻ nào không tùy thuận thì không nên nói. Vì sao vậy? Vì đối với những người ngu si như thế khi nghe pháp rồi, sanh tâm kiêu mạng. Cho nên A-Nan! Phải biết việc nầy, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ muốn vì pháp khí mà vui nghe thì hãy khuyến khích mà nói. Các người nghe khác cũng vì nhiếp tâm mà nghe. A-Nan! Người kia cũng vậy, có thể sanh nơi vô lượng A Tăng Kỳ gồm các đại công đức. Nầy A-Nan! Nghĩa nầy là gì? Đất đai có giới hạn và chúng sanh có giới hạn không? Nhiều hay ít?
A-Nan thưa rằng : Như con nghe Phật nói thì chúng sanh nhiều không bằng cảnh giới vậy.
Phật bảo : A-Nan! Đúng đấy, đúng đấy. Như ta đã từng nói chúng sanh thì có nhiều; nhưng không bằng cảnh giới của đất đai, nước, lửa v.v... Nầy A-Nan! Cho đến ba ngàn thế giới lớn nhỏ khác cũng có chúng sanh. Có người biết được, có người chẳng biết được. Có người thấy nghe được, có người chẳng có thể thấy nghe được., giống như một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa chẳng hạn, giả sử đủ thời thì được làm thân người, thành người đàn ông trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa. Tất cả đều thành Duyên Giác, Bồ Đề. Nầy A-Nan! Cho đến vô lượng vô biên các thế giới có đất đai mà biên giới của đất đai ấy thì khó thể biết được và đất đai ấy gồm nhiều hạt bụi mà nếu những hạt bụi ấy giả sử được làm thân người thì sẽ thành thân đàn ông, khi thành thân người rồi trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, tất cả đều được thành Duyên Giác giác ngộ Bồ Đề. Nầy A-Nan! Lại cũng có rất nhiều thế giới, có núi Tu Di, núi Thiết Vi và núi Đại Thiết Vi. Núi Tuyết, núi Hương và núi đen cho đến ba ngàn đại thiên thế giới gồm có cây thuốc, cây nhỏ, rừng rậm đều làm hạt bụi. Có kẻ biết có kẻ không biết.. Có thể thấy nghe, hoặc không thể thấy nghe, đều được thành người, tất thành người nam, trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, có lúc nào đó đều thành Duyên Giác Bồ Đề. Nầy A-Nan! Các vị Duyên Giác ấy giả sử sống lâu từ quá khứ cho đến vị lai, thọ mạng không thể tính biết được và trong chúng sanh kia có một người không thành được Duyên Giác Bồ Đề. Người đó làm một vị Trưởng Giả lại từ quá khứ cho đến vị lai ở trong thọ mệnh không thể biết được và vị Trưởng Giả nầy đã cúng dường vô số các Bích Chi Phật đồ uống, thức ăn, áo quần, giường nằm, chỗ ngồi, thuốc thang chữa bịnh. Một lòng hiến thân xưng tán đầy đủ. Cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường các vị Bích Chi Phật. Sau khi các vị Bích Chi Phật nhập Niết Bàn liền xây tháp bảy báu vì chư thiên nhơn mà làm tràng phan bảo cái, các loại hoa hương, dầu thơm cho đến xông hương, áo quần ca múa, âm thanh, kỹ nhạc, tận đến trong trời người mà cúng dường đầy đủ cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường. Nầy A-Nan! Ý nầy thế nào? Đại Trưởng Giả kia được phước nhiều không?
A-Nan bạch rằng : Như chỗ con nghe Phật giải nghĩa thì, nếu hay cúng dường cung kính tôn trọng một vị Bích Chi Phật thì được phước đức nhiều vô lượng không thể tính đếm, không so sánh, không hạn định và không thể suy nghĩ được hà huống cúng dường rất nhiều Bích Chi Phật tùy theo nơi thọ mạng ấy, mà sau khi diệt độ còn cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường nữa.
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng : Ta nay nói thật cho ngươi biết rằng Bích Chi Phật kia đầy đủ giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến và thọ nhận nơi vị Trưởng Giả kia nhiều loại cúng dường. Chỉ có một vị Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ra đời không thọ nhận của Trưởng Giả áo quần, đồ ăn, thức uống, giường nằm, chỗ ngồi, thuốc thang lúc bịnh, lại cũng không nhận pháp. Sau đó Trương Giả kia thấy Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, oai nghi người thường thị hiện nơi đời, cũng được phước đức nhiều như cúng dường vị Bích Chi Phật vậy, đầy đủ giới điụnh huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, gấp trăm ngàn Ức Na Do Tha. Khi Trưởng Giả thấy Phật Như Lai thị hiện thân bình thường nơi đời có oai nghi, liền được phước đức. Vì sao vậy? Vì Phật Như Lai đầy đủ vô lượng A Tăng Kỳ, bất khả tư nghì đại công đức vậy. Nầy A-Nan! Chư Phật Như Lai có đầy đủ thiện căn phước đức không có cùng tận hà huống Như Lai có vô lượng công đức lành. Nầy A-Nan! Nếu có Bích Chi Phật tu hành bố thí được phước đức vô lượng A Tăng Kỳ và theo nơi Phật mà bố thí thì được phước đức cũng lại nhiều vô lượng vô biên không có ngằn mé vậy. Có gì khác nhau? Nầy A-Nan! Việc bố thí kia, không có gì khác cả. A-Nan! Dụ như có người cầu lợi đi đến nơi khác. Sau khi được lợi rồi, sau đó trở lại. Nầy A-Nan! Nếu bố thí nơi Bích Chi Phật sẽ được phước đức, Đức Phật Như Lai nầy cũng lại như thế. Nầy A-Nan! Nếu lại có người vì nơi chư Phật mà tu hành bố thí thì được phước đức vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp, không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không thể đơn lẻ, không có biên giới, không có cùng tận. Nầy A-Nan! Nếu nơi Đức Phật tu hành bố thí thì được phước đức, ta nay vì ngươi mà nói thí dụ. Những người có trí thì phải giải bày dụ nầy. Nầy A-Nan! Dụ như họa sư, họa tuy tinh hảo; nhưng trong ấy có bị một ít lỗi lầm, sau đó hoạ sư sửa lại ngay ngắn đẹp đẽ. Như vậy đó A-Nan! Nếu nơi Bích Chi Phật mà tu hành bố thí được phước đức thì nơi chư Phật mà tu hành bố thí, phước đức cũng lại như vậy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Đức Bích Chi Phật kia vì biết rằng được tên Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật nầy biết rằng đều do từ trí tuệ của Như Lai mà sanh. Vì chư Phật Như Lai có đầy đủ các trí để chuyển lại đẹp đẽ. Cho nên A-Nan! Hoặc nơi Đức Phật cho đến hình tượng, áo quần, ăn uống, chỗ ngủ, nơi ngồi, thuốc thang chữa bịnh, cung kính tốn trọng khiêm hạ cúng dường thì phước đức được nhiều không?
A-Nan thưa rằng : Như vậy Đức Bà Già Bà. Như vậy Đức Tu Già Đà. Nếu từ nơi Phật cho đến hình tượng cung kính cúng dường thì được phước đức nhiều không thể kể, thưa Thế Tôn.
Nếu từ nơi Phật cho đến phát tâm một lòng kính tín thì được phước đức nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể đếm được, hà huống có người từ nơi Phật cho đến hình tượng cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường. Nói lời ấy rồi, Phật bảo A-Nan! Việc cúng dường một vị Phật Như Lai được tất cả đầy đủ những niềm vui cho đến cúng dường tất cả thì việc cúng dường từ 2, 3, 4, 5 cho đến 10 vị Phật, hoặc 20, 30 cho đến trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức Na Do Tha, trăm ức Na Do Tha, ngàn ức Na Do Tha, trăm ngàn ức Na Do Tha cho đến đầy cả cõi Diêm Phù Đề nầy cho các vị Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cho đến trời tứ thiên và hạ thiên thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới, trong đó có trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức núi Tu Di, trăm ức núi Thiết Vi, trăm ức biển lớn, trăm ức cõi Diêm Phù Đề, trăm ức Uất Đan Việt, trăm ức Phất Bà Đề, trăm ức Cồ Đà Ni, 8 vạn châu nhỏ cùng với quyến thuộc, trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức Tứ Thiên Vương thiên, trăm ức 33 cõi trời, trăm ức Tu Dạ Ma thiên, trăm ức Đẩu Suất Đà thiên, trăm ức Hóa Lạc thiên, trăm ức Tha Hóa Tự Tại thiên, trăm ức Phạm Thiên cho đến A Ca Nhị Trá thiên. Đây là tên của 3.000 Đại Thiên Thế Giới. Trongđó đầy đủ chư Phật Như Lai ỨngChánh Biến Tri. Dụ như mía ngọt, tre trúc, cây cỏ trong rừng. Các Như Lai đó có đời sống dài lâu như hằng hà sa kiếp. Lúc ấy có vị Trưởng Giả thọ mệnh ở đời cũng lại như vậy cho đến y áo, thức ăn, đồ uống, chỗ nằm, thuốc men cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường cho chư Như Lai kia. Sau khi Phật diệt độ lại xây tháp bảy báu cùng với các tràng phan bảo cái tốt đẹp cùng các thứ hương hoa, hương bột và hương xông. Tất cả các hoa cúng dường đều là những hoa sen quý, Ưu Bát La Hoa, Câu Ni Đà hoa, Phần Đà Lợi hoa, tất cả ca múa nhiều loại âm nhạc cũng như vậy và tất cả đồ vui cung kính cúng dường tôn trọng khiêm hạ. Nầy A-Nan! Vì sao vậy? Vị Đại Trưởng Giả kia được phước đức nhiều không?
A-Nan bạch rằng : Như vậy đó Đức Bà Già Bà. Như vậy đó Đức Tu Già Đà, vị TrưởngGiả kia đối với một Đức Như Lai đã cúng dường thức ăn, đồ uống, nên được phước đức nhiều không thể tính đếm được hà huống từ nơi chư Phật mà ở nơi hằng hà sa kiếp để cúng dường cung kính tôn trọng khiêm hạ một cách đầy đủ. Sau khi Đức Phật kia diệt độ, lại còn dựng tháp bảy báu để cúng dường nữa thì phước đức không thể ví dụ được.
Sau khi nói lời ấy rồi, Phật bảo A-Nan : Ta nay nói thật với ngươi. Nếu vị Trưởng Giả kia ở nơi chư Phật mà được thọ mệnh cung kính cúng dường khiêm hạ và sau khi Phật diệt độ lại còn dựng tháp bảy báu, nên đây là những thắng diệu cúng dường nên được phước báu. Nầy A-Nan! Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhơn nào ở nơi chư Như Lai phân biệt diễn thuyết bồ đề thì tạo nên niềm tin hoan hỷ đầy đủ sâu xa; đây là phần giảng giải tốt đẹp của Tăng để người phát tâm tu hành làm điều thiện. Phải tin rằng tất cả các hành là vô thường, tất cả khổ là không, tất cả các pháp vô ngã và tịch tịnh Niết Bàn. Nầy A-Nan! Đây là lòng tin sâu sẽ được phước đức và chuyển lại hơn trước. Nầy A-Nan! Nếu lại có người tin tưởng như vậy và nói các pháp bảo tạng cho người khác thì sẽ được phước đức như vậy và còn rộng lớn hơn như thế nữa. Như vậy đó cả A Tăng Kỳ, như vậy đó khó có thể nói hết được, không so sánh được, không có giới hạn. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Các pháp bảo như thế vô thượng pah1p tạng, ban đầu trung bình và cuối cùng trở thành tốt. Nếu có kẻ nào y như thế mà tu hành bố thí thì được công đức pháp tạng giống như hạt cải. Hãy biết như vậy. Vì sao thế? Nầy A-Nan! Bố thí như vậy trong thế gian bị pháp sanh tử chi phối. Nầy A-Nan! Ta từ vô lượng A Tăng Kỳ ức Na Do Tha kiếp đã tu tập pháp tạng, đoạn trừ sanh tử, lìa các ăn uống lưu luyến lâu nay. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào nghe được pháp tạng nầy sẽ từ pháp nầy mà được giải thoát. Cho đến ra khỏi được các già chết, lo buồn, khổ não mà được giải thoát.
Nầy A-Nan! Ta xem nghĩa nầy xong nên nói rằng : Có 2 loại người được đại phước đức. Thứ nhứt là vì siêng năng mà nói; thứ hai là chí tâm chuyên nghe. Sau khi nghe rồi Ngài Huệ Mệnh A-Nan bạch Phật rằng :
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào tin sâu đầy đủ như thật mà tu hành, phân biệt các pháp, tín giả vui làm thì pháp ấy chính là pháp lành mà nên phát tâm tu hành tốt đẹp, giải bày tất cả các hành vô thường, khổ, không và vô ngã, tịch diệt Niết Bàn, như vậy làm những việc lành, suy nghĩ chánh đáng thì phước được bao nhiêu?
Phật bảo : Nầy A-Nan! Nếu lại có người biết pháp do Tăng thuyết ra mà phát tâm tu hành thì kẻ thiện nam người thiện nữ kia, suy nghĩ sâu xa nhiếp tâm chuyên nghe, sau khi nghe rồi cho đến gãy một móng tay tin sâu hiểu rộng thì pháp ấy do Tăng nói là pháp lành, phát tâm tu hành, kẻ kia sẽ được phước đức nhiều không thể kể hết được, hà huống kẻ thiện nam, người thiện nữa suy nghĩ chơn chánh nhiếp tâm chuyên nghe. Nghe được pháp rồi cho đến trong một cái khảy móng tay thật hành đúng pháp, giải nghĩa các hành vô thường, tất cả khổ, tất cả không, các pháp vô ngã và Niết Bàn tịch tịnh. Nầy A-Nan! Nếu ở trong nhiều thế giới ấy có tất cả những cảnh giới của chúng sanh thì trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, giả sử có lúc được làm người. Người kia được làm người rồi trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, giả sử có lúc sẽ thành chánh giác, chứng vô thượng Bồ Đề thì các Đức Như Lai kia, giả sử thọ mệnh của các Ngài từ quá khứ cho đến vị lai không thể tính hết được cũng giống như vậy.
Nầy A-Nan! Giả sử trong số chúng sanh ấy có một người, nơi vô thượng Bồ Đề mà không thành chánh giác và người kia chính là Đại Trưởng Giả lại cũng theo thọ mệnh từ trong quá khứ cũng không thể biết hết được, cho đến cả vị lai cũng lại như thế. Lúc ấy Trưởng Giả cho đến hết mình cúng dường cung kính tôn trọng, khiêm hạ cúng dường các Đức Như Lai cùng các nhạc cụ, áo quần, đồ ăn, thức uống, chỗ ngồi, nơi nằm, thuốc thang chữa trị mà cúng dường và sau khi các Đức Phật nhập Niết Bàn rồi còn dựng tháp bảy báu, sau đó lại còn dùng tràng phan bảo cái, tất cả hương hoa, hương bột, cả đời cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường. Nầy A-Nan! Ý nầy nghĩa gì? Nơi vị Trưởng Giả kia có được phước đức nhiều hay ít?
A-Nan bạch Phật rằng : Nếu vị Trưởng Giả kia cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường tất cả các Đức Như Lai sẽ được phước đức vô lượng, không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, không so sánh và không có giới hạn, hà huống từ nơi chư Phật, theo thọ mệnh mà cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường, sẽ được phước đức không thể nghĩ được.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Đúng vậy! đúng vậy! Như ta đã nói, vị Trưởng Giả kia sẽ được phước đức không thể cùng tận. Cho nên A-Nan! Ta nay nói thật cho ngươi! Nếu vị Trưởng Giả kia theo nơi thọ mệnh của chư Phật mà cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường thời được phước đức. Nếu có người tin sâu, suy nghĩ kỹ rồi nhiếp tâm chuyên nghe và sau khi nghe rồi cho đến một cái khảy móng tay liền tin tưởng vui vẻ thực hành pháp nầy và phát tâm lại cũng hiểu về tất cả các hành đều vô thường, tất cả khổ, tất cả không, chư pháp vô ngã, Niết Bàn tịch tịnh thì phước đức không thể ví dụ được. Nầy A-Nan! Như vậy có 2 loại người ta đã nói trước được phước đức rất nhiều. Một là chí tâm nói, hai là chí tâm nghe. Lúc ấy Đức Phật nói bài kể rằng :
Vì nơi hai loại nghĩa
Muốn nghe nơi Phật nói
Tất cả việc làm hết
Gần Thánh thành giác ngộ
Nếu là người thuyết pháp
Và nghe chánh pháp Phật
Cả hai được phước nhiều
Hay tạo các cảnh Phật
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo A-Nan rằng : Lại cũng có 2 loại người cùng Ma Ba Tuần gây đại chiến tranh. Thế nào là hai? Một là chí tâm nói, hai là chí tâm nghe. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Những người phạm hạnh được thông suốt nghĩa là thiện tri thức và bạn lành phát tâm lưu chuyển. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh gặp thiện tri thức, sau khi gặp rồi, từ sanh cho đến giải thoát, cho đến già bịnh chết, lo buồn, khổ não không còn mà được giải thoát. Nầy A-Nan! Việc nầy từ xưa ta đã nói cho các Thanh Văn có 2 nhân duyên có thể sanh chánh kiến. Một là từ người khác nghe pháp, hai là tại nội tâm mình tư duy. Từ người khác mà nghe có nghĩa là từ Phật được nghe. Nội chánh tư duy có nghĩa là từ Phật mà biết. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Như các phàm phu khi Phật chưa xuất hiện, tự mình không thể tư duy. Sau khi Phật xuất thế rồi, dạy cho phàm phu làm như thế. Nầy A-Nan! Ta xem ý nghĩa ấy nên nói điều nầy. Suy nghĩ bên trong đều từ chư Phật. Lúc ấy Đức Phật nói bài kệ rằng :
Lành thay kẻ trượng phu
Được thấy tăng các trí
Nếu có kẻ dứt nghi
Bỏ phàm được thành Thánh
Thấy Thánh được an vui
Cùng sống lại được yên
Không thấy các người ngu
Như hay được yên ổn.
Che nên A-Nan! Ta đã vì nghĩa nầy mà tùy theo hoàn cảnh diễn thuyết phạm hạnh đầy đủ. Nghĩa là các thiện tri thức và các bạn lành hay sanh tâm thiện liên tục lưu chuyển. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào khi gặp Thiện tri thức liền được sanh tâm lành, sau khi sanh tâm lành rồi lại sanh tính tâm, tín tâm rồi lại làm tất cả việc thiện, làm việc thiện rồi liền được các pháp lành. Sau khi được các pháp lành rồi, an trụ nơi pháp ấy. Trụ nơi pháp ấy rồi từ nơi Phật mà tôn trọng kính tin. Từ nơi Tăng mà cũng được kính trọng, sẽ được vào hàng Thánh, thích tu giới, tự tại nơi giới, dùng trí tuệ tán thán giới, vui nơi Niết Bàn. Nầy A-Nan! Như mây làm mưa đầy hố nhỏ, sau khi đầy hố nhỏ rồi thì cũng đầy hố lớn. Hố lớn đầy rồi thì sông nhỏ. Sông nhỏ đầy rồi đến sông lớn. Sông lớn đầy rồi lại đến biển. Như vậy đó A-Nan! Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhơn nào từ nơi chư Phật mà nghe Phật nói rồi sẽ được căn lành mạnh mẽ. Sau khi được căn lành rồi thì gần gũi Thiện tri thức. Sau khi gần gũi Thiện tri thức rồi thì được những bạn lành. Sau khi được bạn lành rồi thì được điều thông suốt. Sau khi được điều thông suốt rồi lại được lành cao cả. Sau khi được lành cao cả rồi thì được tâm tốt đẹp. Sau khi được tâm tốt đẹp rồicho đến như pháp mà thuận theo phát tâm tu hành cứu cánh, chuyển cứu cánh đến thanh tịnh, cứu cánh phạm hạnh là cứu cánh tối hậu.
Nầy A-Nan! Ta đã xem tất cả ngoại vật cũng đồng thời sanh trưởng, khi hoa quả thành tựu thì cũng có không biết bao nhiêu cái mất đi hà huống các ngươi làm việc thiện ấy cũng sẽ bị mất. Sự mất mát đó không trụ nơi đâu cả. Cho nên A-Nan! Các ông phải nên tu hành và làm việc thiện. Không có chúng sanh nào là không tu hành làm việc thiện, mà không chứng được quả và có mất mát. Nầy A-Nan! Ta cũng đã từng tutất cả các việc lành và cũng đã có nhiều sai quấy. Nầy A-Nan! Khi ta tu hạnh Bồ Tát thì ta cũng đã tu tất cả những công đức lành nên được quả báo không sai trái. Nầy A-Nan! Ta xem khi Như Lai trên đường hành đạo thì từ nơi đòi hố có cao thấp bằng ngang, có chỗ hôi thối, có nơi thơm tho sạch sẽ. Có nhiều cây cỏ quý giá nơi rừng; nhưng đồng thời cũng có cỏ úa nằm sâu ở đó. Khi thần cây hiện thân hướng về lễ bái, thành ấp, đường sá, lại có chúng sanh, thấy Phật Như Lai theo Phật mà làm. Sau đó Như Lai trở lại chỗ cũ. Nầy A-Nan! Ta xem trong đời quá khứ chư Phật, Bồ Tát đã cúi đầu hướng về làm lễ với Thanh Văn, Duyên Giác, Sư Tăng, Cha Mẹ, người trưởng thượng, Sa Môn, Bà La Môn. Tất cả các ngoại vật sau khi thấy Phật rồi liền cúi đầu thấp xuống để lễ. Nöi cao sẽ thấp, nơi thấp được cao. Cao thấp các nơi đều được ngang bằng. Nầy A-Nan! Ta xem tất cả ngu si phàm phu vì không tôn trọng bậc trưởng thượng cũng như không cung kính, lại cũng chẳng lễ bái, ngã mạng tự ti. Vì ngã mạng cho nên bị hại vào nơi ràng rịt. Nầy A-Nan! Như Lai xem dây nhợ bị cột chân tay; nên đã làm tất cả các việc lành. Nầy A-Nan! Hãy xem Như Lai làm các việc thiện như Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự. Đây là những việc lành để nhiếp hộ chúng sanh, không có phân biệt đây là cha ta, đây là mẹ ta, anh em chị em thân thuộc bà con. Nầy A-Nan! Ta vì tất cả chúng sanh luôn luôn có tâm bình đẳng không phân biệt. Nầy A-Nan! Ta từ lâu xa không có chúng sanh nào là không nhiếp thọ bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, cũng như nhiếp thọ những người ngu si phàm phu vậy. Nhưng họ không biết thiện căn phước đức nhơn duyên nầy. Sanh tử là căn bản để bị thọ những quả báo. Nầy A-Nan! Ta đã cùng chúng sanh được những căn lành phước lạc nầy vì tự chính thân ta đã tu nhiều nghiệp lành mới được quả báo như vậy. Nãy A-Nan! Tất cả thế gian đều có niềm vui; nhưng tất cả đều bị pháp vô thường biến đổi và ngay cả niềm vui nầy cũng bị vô thường nốt. Khi ta tu Bồ Tát hạnh thì vì các phàm phu mà thành thục Phật đạo làm cho ta được vô vi thánh và vô lậu lạc. Vô lậu lạc nầy là thường, khôn gthay đổi và không bại hoại. Cho nên A-Nan! Các bậc Thánh cũng phải tu những thiện nghiệp như thế và các bậc thánh trí cũng sẽ tu những thiện nghiệp như thế. Đây là chánh nghiệp. Như vậy đó A-Nan! Ta đã từ thánh trí nầy mà tu thiện nghiệp. Nầy A-Nan! Và ta cũng sẽ nói về các việc khác. Nếu có chúng sanh vì cầu Niết Bàn cho đến phát tâm làm một ít việc lành, thì đây là chủng tử vậy.
Nghe Phật Như Lai nói các pháp thâm diệu như thế, liền giải bày ý nghĩa sâu sắc và nhớ nghĩ đến Đức Phật, tâm sanh ái kính, có người rơi lệ, có kẻ la lên. Ngay cả nơi địa ngục ngạ quỷ súc sanh không có nơi nào là không từ nơi bồ đề nầy mà không được cứu cánh. Không có nơi nào như vậy cả. Nầy A-Nan! Lại có chúng sanh nhớ nghĩ đến Như Lai, từ pháp giác ngộ mà ưa chảy nước mắt! Người tóc dựng mà la lên. Nầy A-Nan! Hãy khoan làm khác đi. Những chúng sanh bị đọa nơi ác đạo như địa ngục súc sanh ngạ quỷ không có nơi nào là không có vậy. Nầy A-Nan! Hãy đừng buông lung. Hãy chuyên cần phương tiện, tu các việc lành. Nầy A-Nan! Chư Phật Thế Tôn cũng không phóng dật mà chứng giác ngộ cũng như các trợ đạo pháp cũng chẳng phóng dật mà được. Nầy A-Nan! Nếu có những điều lành được thọ nhận như vậy là kẻ cầu lợi ích vậy, cầu an lạc, cầu lân mẫn, khởi tâm từ bi, nên như vậy mà làm. Kẻ nào đáng độ, ta đã độ xong. Nay các ngươi cũng nên làm như vậy. Đừng làm cho chơn đạo ấy đoạn tuyệt. Lại cũng đừng làm cho chánh pháp của Phật bị chìm đắm. Nầy A-Nan! Hãy nên làm cho pháp nhãn của Phật được ở lại dài lâu. Các ngươi hãy vì trời người mà lưu bố rộng ra. Nầy A-Nan! Ta nay đúng lúc phó chức chánh pháp bảo tạng cho ông, hãy đừng cho mất. Hãy làm như vậy. Đây là lời dạy của ta vậy.
- Phẩm Dạy Khuyên thứ 14
Lúc ấy Ngài Huệ Mệnh A-Nan bạch Phật rằng :
Kính bạch Thế Tôn! Con nay phải tu hành Pháp Nhãn như thế nào? Nếu con tu hành chánh pháp nhãn của Phật thì phải làm sao để lưu bố được rộng rãi khắp trời người? Bạch Thế Tôn! Và con làm sao kết tập pháp nhãn được? Làm sao hiển bày được?
Nói xong lời ấy, Phật lại bảo A-Nan : Sau khi ta diệt độ có các Tỳ Kheo tập trung tụng pháp Tỳ Ni thì Đại Đức Ma Ha Ca Diếp tối vi Thượng Thủ. A-Nan thì phải vì các vị Đại Đức Tỳ Kheo ấy mà hỏi như thế nầy :
Thế Tôn đã nói Đại A Bạt Đà Na ở đâu? Ở nơi đâu nói Ma Ha Ni Đà Na? Ở nơi đâu nói Đại Tập Pháp? Ở nơi đâu nói Ngũ Tam Pháp? Ở nơi đâu nói chư Thiên đến hỏi đạo? Ở nơi đâu Đế Thích hỏi đạo? Ở nơi nào chư Thiên từ thâm cung đến? Nöi nào đã nói Kinh Phạm Võng? Như vậy theo thư 1lớp và các Tỳ Kheo kia sẽ hỏi lại ngươi.
Nầy A-Nan! Phật đã giảng kinh tại nơi đâu? Nöi nào đã nói Kỳ Dạ? Nơi nào đã nói Tỳ Đa Ca La Na? Nơi nào đã nói Già Đà? Nơi nào đã nói Ưu Đà Na? Nơi nào nói Ni Đà Na? Nơi nào nói Y Đế Tỳ Lợi Đa Ca. Nơi nào nói Xà Đa Ca? Nơi nào nói Tỳ Phất Lược? Nơi nào nói A Bà Đà Na? Nơi nào nói A Phù Đà Đạt Ma? Nơi nào Ưu Bà Đề Xá? Nầy A-Nan! nơi nào Phật đã nói tạng Duyên Giác? Nơi nào Phật nói Bồ Tát tạng?
Nầy A-Nan! Sau khi các Tỳ Kheo ấy hỏi như thế rồi, ngươi nên đáp như thế nầy :
Ta nghe như vầy, một lúc Phật tại Ma Già Đà quốc (Mayadha), dưới cây Bồ Đề, lúc mới thành chánh giác.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở thành Già Đa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở Ma Già Đà, dưới cây A Xà Bà La Ni Câu Đà tu hành khổ hạnh.
Ta nghe như vầy, một thuở Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại núi Tỳ Phú La.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại nước Ma Già Đà, tại núi Bi Đề Ha.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại Vương Xá thành, núi Tiên Nhơn chỗ tảng đá đen lớn.
Ta nghe như vầy, một thời Đức Phật tại nước Xá Vệ nơi vườn của ông Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật tại thành Tỳ Xá Ly, trong vườn Ám La Thọ.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại Tỳ Xá Ly bên cạnh hồ Di Hầu, ở Tịnh Xá Đại Lâm, giảng đường Trọng Các.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Già Đa, tại đỉnh núi Già Đa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại nước Câu Đàm Di trong vườn Cồ Sư La.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Ba Chỉ Đa, nơi vườn A Dục Xà, nơi rừng Ca La Ca.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại dòng họ Thích thuộc thành Ca Tỳ La vườn Ni Câu Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Ba Li Phất, vườn Cüu Cüu Thóa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Ma Thâu La trong rừng cây Tần Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Câu Thi Na, nơi đất Lực sĩ sanh, sông A Lợi La Bạt Đề bên cạnh Sa La song thọ.
Nầy A-Nan! Như vậy đó theo thứ lớp nơi nơi xứ xứ mà Phật đã nói pháp. Tại các nơi ấy đông người tập họp. Tùy theo thời tiết, tùy theo ý nghĩa, tùy theo nhân duyên, tùy theo hỏi đáp mà phát khởi ra sự việc, cũng tùy người, tùy việc nữa. Phải nên phân biệt nói rộng ra vậy. Hãy tùy theo tên tuổi, ý nghĩa thứ lớp khác nhau mà diễn thuyết vậy. Cũng tùy theo lý do, có nhơn có duyên. Hãy vì nghĩa tốt, ý hay mà vì người rộng nói vậy.
Phật nói kinh rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỷ lãnh thọ phụng hành.
Nầy A-Nan! Các ngươi hãy kết tập pháp nhãn như thế. Cứ như thế mà phân biệt, giảng nói giảng bày. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri nói lời như vậy. Khi nghe những lời ấy rồi đại địa cực ác sáu loại chấn động, làm cho nhiều người sợ hãi, khiến tóc dựng lên. Lúc bấy giờ cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu loại chấn động hiện ra 18 tướng. Đông nhảy Tây chìm; Tây nhảy Đông chìm; Nam nhảy Bắc chìm; Bắc nhảy Nam chìm. Trung nhảy cạnh chìm. Cạnh nhảy giữa chìm cả 18 tướng như vậy. Thay đổi nhảy múa, nhảy múa biến đổi. Lên và xuống, chấn động chỗ nầy, chỗ kia. Có tiếng kêu lớn chỗ nầy chỗ kia. Chỗ nầy đột biến chỗ kia xuất hiện. Chỗ nầy có chỗ kia không. Lúc bấy giờ có vô lượng chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Ma Hầu La Đà, Thích Phạm, hộ thế người và không phải người. Tất cả đều sầu khổ khóc thương và nói như thế nầy :
Đức Bà Già Bà nhập Niết Bàn quá sớm ! Đức Tu Già Đà nhập Niết Bàn quá sơm! Cặp mắt của thế gian bị mù lòa quá sớm. Thế gian có mắt cũng như không, quá sớm. Ngài Huệ Mệnh A-Nan sầu bi khóc lóc lại nói rằng :
Đức Bà Già Bà Niết Bàn quá sớm. Đức Tu Già Đà Niết Bàn quá sớm. Cặp mắt của thê 1giam mất đi quá sớm. Thế gian bị mù lòa, không có mắt quá sớm. Thầy của thế gian mất đi quá sớm.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo A-Nan rằng : Nầy A-Nan! Hãy đừng sầu bi nữa. Tất cả các pháp hữu vi có sanh ra có tồn tại thì phải biết rằng có phân biệt, có biết. Vì di nhân duyên sanh nên phải hoại diệt; Nếu mà không hoại, thật không đúng vậy. Nầy A-Nan! Từ đêm dài nầy thân, miệng, ý của ta đã an lạc vô lượng không có hai, không sân không hận, không có giận buồn. Nầy A-Nan! Hãy biết đây là đại thần thông, đại công đức. Rộng sâu vô lượng dụ như Cam Lồ số một trong tận cùng Cam Lồ vậy. Cho nên A-Nan! Hãy nên vì phạm hạnh cho đến thân khẩu ý mà cung kính cúng dường. Hãy nên học theo những gì ta chỉ dạy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ, ở đời vị lai. Sau khi chánh pháp hết rồi ở 500 năm phần trì giới và giữ gìn chánh pháp bị hoại diệt. Phá giới phi pháp băng đẳng xuất hiện thạnh hành, phỉ báng chánh pháp, thọ mạng không dài lâu. Khi chúng sanh hoại thì pháp cũng hoại theo, lúc ấy Tỳ Kheo Tăng cũng bị hoại. Nầy A-Nan! Lúc ấy thật đáng sợ, có những Tỳ Kheo không tu thân, không tu thân, chẳng tu giới, chẳng tu huệ. Họ là những người chẳng lo tu giới, thân, tâm, huệ, mà chỉ lo tham trước sáu nơi. Thế nào là sáu? Một làm tham đắm nơi bình bát.Hai là tham đắm nơi y phục. Ba là tham đắm nơi đồ ăn, Bốn là tham đắm nơi chỗ ngồi. Năm là tham đắm nơi phòng ốc. Sáu là vì bị bịnh nên tham đắm nơi thuốc men. Họ là những người chỉ biết tham cầu nơi y bát cho đến các loại thuốc men tốt đẹp. Lại hay đấu tranh, tướng mạo sỗ sàng, lời nói thô tháo. Cho đến nơi công quyền miệng như đao kiếm. Cùng nhau phỉ báng, sỗ sàng cũng như ghen ghét. Tất cả chỉ vì áo quần, bình bát, đồ ăn thức uống, chỗ ngồi, nơi nằm và thuốc men vậy. Cùng với việc ghen ghét, tâm không thuần thục, tâm tánh dơ bẩn. Như gậy đó A-Nan! Hãy nên phạm hạnh, thân miệng ý nên từ bi. Những kẻ như thế nên cúng dường đầy đủ. Nói về phạm hạnh có nghĩa là khi thấy, khi nghe, khi thô, khi tế, khi tin, khi làm, hãy từ nơi họ khoan khởi não loạn, hãy học như vậy. Vì sao thế? Nầy A-Nan! Khi mà sợ hãi gia tăng chính là lúc mệnh trược, kiếp trược, chúng sanh trược, kiến trược và phiền não trược. Người thế tục lúc bấy giờ thọ nhận những sự khổ sở. Chính trong sự khổ sở đó họ bị phiền não. Vì khi quá nghèo đói thì sẽ sinh ra bịnh dịch. Vì cướp phá nên sanh ra phiền não với nạn nước lửa. Vì các trùng độc nên nhiều loại bị não hại. Nầy A-Nan! Lúc ấy các vị Bà La Mân, Trưởng Giả, Cư Sĩ vì những khổ não như vậy cho nên đã có tín tâm tôn trọng cung kính Phật Pháp Tăng cho nên khiến cho nhiều người phát tâm tin sâu, tu hành bố thí làm các công đức. Thọ trì cầm giới, đọc tụng kinh điển. Vì người giải nói, có nghe có làm; sau khi nghe rồi sanh tâm ái kính hoan hỷ reo mừng. Như pháp tu hành gồm nhiều căn lành. Do căn lành nầy mà khi thân hoại mạng chung sanh vào đường lành như chư Thiên hoặc loài người.
Nầy A-Nan! Hãy xem các ác Tỳ Kheo ấy, họ cũng vì tín tâm mà bỏ nhà đi tu. Sau khi xuất gia được rồi lại tham lam y bát. Sáu loại nhân duyên để làm đọa lạc nơi 3 đường dữ. Người tại gia do khổ não mà sinh tín tâm và do lòng tin nầy nên sanh vào được đường lành. Cho nên A-Nan! Hãy làm đúng luật về thân, luật về miệng, luật về ý và nên nhớ nghĩ rằng: Với sự kính tin nầy sẽ mau đầy đủ. Nguyện cho lòng tin của con được đầy đủ. Nguyện cho thân tâm của con có suy nghĩ đầy đủ. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Thân khẩu ý nghiệp không thiện khi suy nghĩ thì có 5 loại mất mát. Thế nào là năm?
Một là vọng ngữ.
Hai là lưỡng thiệt.
Ba là ỷ ngữ.
Bốn là tham dục, và
Năm là thân hoại.
Khi chết bị đọa vào 3 đường ác, sanh vào địa ngục. Nầy A-Nan! Hãy tư duy sẽ được 5 loại công đức lợi ích. Thế nào là năm?
Một là không vọng ngữ.
Hai là không lưỡng thiệt.
Ba là không ỷ ngữ.
Bốn là không tham dục, và
Năm là khi thân mệnh chung được sanh vào đường lành như chư Thiên hoặc loài người.
Lại nữa A-Nan! Nếu có kẻ đấu tranh, lời nói thô tháo, cạnh tranh nhau, tâm không nhu hòa. Ấy là kẻ có tâm ô trược, biến hoại vậy. Năm điều mất mát là:
1/ Kẻ nói vọng ngữ.
2/ Kẻ nói hai chiều.
3/ Kẻ giữ giới không sanh kính tín.
4/ Kẻ ngày đêm lo buồn khổ ác ý mà ở đó.
5/ Kẻ thân hoại mạng chung phải đọa vào 3 đường ác sanh vào địa ngục.
Nầy A-Nan! Nếu lại có người tâm luôn luôn có niệm lành, hay được 11 loại công đức vậy. Thế nào là 11?
Một là lúc ngủ được an ổn, tâm thường vui vẻ.
Hai là không thấy ác mộng.
Ba là người hay không phải người hay yêu quí.
Bốn là chư Thiên hay bảo hộ.
Năm là chất độc không thể hại được.
Sáu là không bị thương bởi dao tên.
Bảy là không bị lửa cháy.
Tám là không bị nước ngập.
Chín là thường được áo quần tốt đẹp và đồ ăn, chỗ ngồi, nằm, thuốc thang luôn luôn đầy đủ.
Mười là hay được pháp cao cả.
Mười một là khi thân hoại mệnh chung được sanh lêm Phạm Thiên.
Nầy A-Nan! Tâm ở từ thiện được 11 công đức lợi ích như thế đó. Như ta còn ở đời hay sau khi ta diệt độ đi nữa thì tự nhiên đèn pháp sẽ soi đường cho mọi người về. Không nên cầu nơi ánh sáng khác, mà cũng chẳng cầu cạnh người ta phải về với mình.
Nầy A-Nan! Tại sao Tỳ Kheo là ánh đèn tự nhiên, là quy tắc tự tại, không cầu ánh sáng khác, không cầu kẻ khác về là nghĩa gì? Nầy A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo khi quán nội thân, luôn luôn tinh tấn, một lòng vì đời, không lo ăn mặc. Nếu quán như vậy thì sẽ nhận được sự thọ nhận bên trong, tâm bên trong và pháp bên trong. Tinh tấn siêng năng một lòng vì đời, không lo chuyện ăn mặc. Nầy A-Nan! Đây gọi là các Tỳ Kheo tự nhiên pháp đăng và tự tác pháp quy vậy. Không cầu đèn của kẻ khác, không cầu trở về với kẻ khác. Cho nên A-Nan! Ta là Đạo Sư của các Thanh Văn. Nên làm những gì như ta đã làm. Các ngươi nên thực hành như vậy. Đây là giáo pháp của ta. A-Nan nên biết dưới bóng cây là nhà, ở nơi đường trống đi chăng nữa cũng nên một lòng tu chỉ quán. Hãy tự diệt khổ não, đừng có buông lung.
Nếu kẻ nào buông lung, sau nầy tất hối hận. Lúc ấy Đức Phật nói lời kệ rằng :
Ta đã nói chánh đạo
Ta với mũi (tên) vô trí
Vì người nên khuyên tu
Chư Phật đã thuyết pháp
Vì tịnh và thấy rồi
Trừ diệt các đường ác
Kẻ tu được giải thoát
Hay dứt các lưới ma
Nếu hay tu hạnh nầy
Giống như Phậ đã nói
Hay độ tất cả khổ
Tức mãn nguyện chư Phật
Lúc bấy giờ sau khi Đức Thế Tôn nói kinh nầy rồi, Ngài Huệ Mệnh A-Nan cùng với chư vị Tỳ Kheo, các Đại Chúng cũng như trời người, A Tu La, Càn Thác Bà, tất cả thế gian, nghe Phật nói xong đều tùy thuận buồn vui, chắp tay ngay ngực cúi đầu mặc niệm, buồn thảm khóc thương, đảnh lễ rồi lui. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).30/4/2012.

Đại Bi Kinh

Cao Tề Thiên Trúc tam tạng Na Liên Đề Na Xá dịch từ Phạn ra Hán văn.
Kinh Đại Bi - Quyển Thứ Tư
Các Thí Dụ phụ thuộc phẩm Chánh Pháp thứ 12
Lúc bấy giờ Đức Thích Tôn lại bảo Ngài Huệ Mệnh A-Nan rằng : Ta khi chứng được Bồ Đề thì công đức lợi ích cũng như khi ta hành Bồ Tát hạnh vậy. Công đức lợi ích, Duyên Giác khó sánh hà huống Thanh Văn và các chúng sanh. Nầy A-Nan! Khi ta còn là Bồ Tát chuyên tu khổ hạnh, đã bỏ ngôi vua, vợ con, thể nữ cho đến thân mạng tay chân, đầu mắt tai mũi, máu thịt, xương cốt cho đến gặp không biết bao nhiêu bịnh khổ. Tất cả việc ấy cũng chỉ vì cầu chứng được A Nậu Đa La Ta Miệu Tam Bồ Đề.
Nầy A-Nan! Tất cả những gì khó bỏ, ta đã bỏ. Tất cả những khổ nhọc nầy cũng chỉ vì chúng sanh. Nầy A-Nan! Với công đức nầy. Nếu ta nói mãi cũng không cùng tận. Như có người nghe, tâm sẽ mê loạn huống gì nói đến. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào khởi một niệm từ bi. Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri tự ngàn xưa tu hành Bồ Tát hạnh cực khổ mà nói rằng : Vì ta mà thọ lãnh vô lượng các loại bịnh khổ khó khăn. Nầy A-Nan! Ta nói họ là những kẻ đã phát tâm; tức nhiên cuối cùng sẽ chứng quả Niết Bàn, hà huống những kẻ đã trồng căn lành nơi ta.
Nầy A-Nan! Hoặc có kẻ ngu si kiêu mạng không tin, khi nghe ta tu hành khổ hạnh cho đến không sanh một niệm buồn khổ, không nói Như Lai có lợi ích lớn, cũng lại chẳng tin, mà kẻ nầy làm việc thù thắng thì cũng có thể chứng Niết Bàn. Nầy A-Nan! Những công đức lợi ích thù thắng như thế Duyên Giác không có hà huống tất cả Thanh Văn phàm phu mà có thể có được. Nầy A-Nan! Các việc tu Bồ Tát hạnh phải được lòng thương lớn, lại cũng không phải Duyên Giác mà có được. Nầy A-Nan! Như ta tu bồ tát hạnh được đại bi, mà khi đã được đại bi rồi thì sẽ chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đây gọi là pháp đại từ đại bi nhiếp hộ vậy. Đây là nhơn duyên mà Duyên Giác không có, là nghĩa như vậy. Người ấy không thể làm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biên Tri. Không đầy đủ 10 lực, 4 vô sở úy, Đại Từ Đại Bi. Nầy A-Nan! Ta biết từ xưa tu hành khổ hạnh chỉ cầu pháp lành mà trong sanh tử, tâm thường lo sợ; nên vì chúng sanh mà tu tâm đại bi, như trong giấc mộng thấy Đại Thiết Vi có băng giá vậy. Trong các thế giới ấy lại có các chúng sanh đang ở trong địa ngục. Trong ngục ấy bị giam cầm, thân thể bại hoại, chung quanh có lửa cháy vây quanh, thọ nhận nhiều sự khổ sở như mất mạng đi, ta đến nơi đó. Họ đều chắp tay lễ bái mà thưa rằng :
Nhơn giả! Ngài đang sung sướng còn chúng tôi thì thọ quả địa ngục, khổ não độc hại, khó nhẫn như bị chết đi. Không ai cứu, không ai giúp, không chỗ trở về, không nơi nương tựa. Bậc đại trượng phu! Nếu ta cứu được những kẻ khổ như vậy, quả là điều không ít. Nầy A-Nan! Ta lúc bấy giờ khởi lòng từ bi nơi những chúng sanh ở địa ngục, trong mộng ấy nước mắt chúng sanh trào dâng như nước sông Hằng. Ta an ủi chúng sanh và nói rằng :
Nầy các ngươi! Hãy đừng sợ hãi! Ta sẽ làm cho các ngươi thoát khỏi sự khổ. Nầy A-Nan! Lúc ấy ta bảo các chúng sanh ở địa ngục ở vào một nơi. Ta giơ tay trái lên làm hiệu và nói rằng : Nầy các ngươi! Hãy đừng sợ hãi! Ta nay sẽ cứu độ tất cả các ngươi. Sau khi nói lời ấy rồi, lửa ở địa ngục lúc ấy tắt mất, các chúng sanh tại nơi đó chỉ trong giây lát đã được an lạc. Nầy A-Nan! Ta lúc ấy từ nơi mộng mà ngộ cầm áo thâu nước mắt vào bình. Nầy A-Nan! Ta đã thực hành lòng từ bi khi tu bồ tát hạnh như vậy, hà huống bây giờ đã chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nầy A-Nan! Hãy nên biết các pháp hoặc không phải Duyên Giác cũng có thể có vậy, hà huống Thanh Văn, phàm phù v.v... Nầy A-Nan! Nếu người nào có pháp nầy, tức kẻ hành hạnh Bồ Tát. A-Nan, hãy xem trong quá khứ khi Như Lai tu Bồ Tát hạnh thì các chúng sanh đều đầy đủ lân mẫn lợi ích tâm đại bi. Những công đức như vậy nếu chính do từ miệng ta nói ra mãi mãi cũng không cùng tận. Nầy A-Nan! Trong đời quá khứ có 3 vị Thương Chủ vì tìm của quý đã cùng với các người lái buôn đi vào biển lớn. Nơi thuyền của họ có của quý đã đầy, đến giữa biển thì thuyền bị hư, lúc ấy tâm trạng của vị Thương Chủ sợ hãi và sanh phiền não. Trong thuyền nầy có người thì níu ván thuyền. Có người thì chết nổi lên mặt nước. Nầy A-Nan! Ta lúc bấy giờ đã làm cho Thương Chủ trong biển kia được an ổn nổi lên thì lúc ấy có 5 người gọi Thương Chủ mà rằng :
Đại Sĩ Thương Chủ! Mong Ngài làm cho chúng tôi đừng sợ. Nói lời ấy rồi. Lúc ấy Thương Chủ liền bảo rằng :
Các Trượng Phu! Đừng sanh sợ hãi! Ta từ trong biển lớn nầy đã qua được sợ hãi và được an ổn. Nầy A-Nan! Lúc ấy Thương Chủ mang kiếm nơi mình và nói rằng :
Trong biển lớn không dung chứa xác chết, cho nên ta tự bỏ thân mệnh để cho những người thương nhơn nầy được qua nạn khổ. Sau khi suy nghĩ như thế các thương nhơn liền được đưa vào nơi yên ổn. Những thương nhơn nầy có người cỡi lên vai, có người bao quanh chân. Lúc ấy Thương Chủvì muốn thí cho họ sự không sợ hãi nên đã dùng tâm đại bi một cách dõng mãnh và tạo ra tâm lực và dùng kiếm ấy để dứt mạng căn và sau đó mạng chung. Sau đó xác chết bị trôi đến bờ của biển lớn. Lúc ấy 5 người thương nhơn liền được qua biển một cách an ổn sung sướng, tốt đẹp không nạn, trở lại Diêm Phù Đề.
Nầy A-Nan! Vị Thương Chủ lúc ấy đâu phải người nào khác! Chính là thân ta. Năm người lái buôn ấy, chính là 5 vị Tỳ Kheo, mà 5 vị Tỳ Kheo ấy, ngày xưa nơi đại hải đã được độ thoát. Bây giờ lại trong sanh tử biển lớn đã được qua khỏi, an ổn, không sợ, đến bên kia bờ Niết Bàn. Nầy A-Nan! Ta nay đang xem tu khổ hạnh nào mà đầy đủ! Có bao nhiêu công đức mà thành Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy. Nầy A-Nan! Các công đức như thế phải lần lượt biết đến. Lại cũng chẳng phải Duyên Giác mà có thể thành tựu. Nầy A-Nan! Như các công đức của Bồ Tát là vậy. Các vị Bích Chi Phật cũng không có pháp nầy. Không làm nên Như Lai Ứng Cúng Chánh Biên Tri, không thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nầy A-Nan! Như thế đó ta đã lần lượt tu hành khổ hạnh, được gọi là Bồ Tát có lòng thương tưởng đến tất cả chúng sanh. Nầy A-Nan! Lại cũng có người ngu dại từ nơi chỗ Phật mà không sanh tín tâm. Do nhơn duyên nầy mà không chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề để làm hạt giống căn bản, lại cũng chẳng có thể vô thượng Niết Bàn. Nếu họ từ nơi ta mà sanh tâm kính tín thì liền được hạt giống Bồ Đề để chứng quả Niết Bàn. Nầy A-Nan! Tu phần ít thì được công đức ít. Tu đầy đủ thì sẽ được công đức đầy đủ. Nầy A-Nan! Ta nay đang nói việc làm là quyết định. Nếu có chúng sanh cho đến việc phát ra một lời kính tín thì với căn lành nầy sẽ là chủng tử, hà huống phải trồng thượng thiện căn. Nầy A-Nan! Nếu từ nơi Phật có kẻ trồng căn lành, cho đến phát tâm một niệm, niệm Phật thì ta nói rằng người ấy dụ như Cam Lồ tốt nhất trong Cam Lồ. A-Nan! Các hành giả nên một lòng trồng các công đức nhớ nghĩ nơi Như Lai và niệm những gì Như Lai niệm, như nhớ đến căn lành của Như Lai, nhớ đến tánh cách của Như Lai. Tánh nầy không giống loại ngọt bùi mà phát sanh tánh vậy. Tánh nầy là lìa các tối tăm, làm việc sáng suốt.
Nầy A-Nan! Ta sanh ra từ dòng họ Thích là tánh thanh tịnh. Nầy A-Nan! Hãy biết Như Lai sanh, nhớ nghĩ đến dòng dõi của Như Lai, nhớ đến họ của Như Lai, nhớ đến việc cất chứa tài sản của Như Lai đầy đủ, nhớ đến sự đoan chánh của Như Lai. Nhớ đến nơi sanh của Như Lai và tướng của Như Lai, nhớ đến tướng đẹp của Như Lai, nhớ đến mười lực của Như Lai, nhớ đến bốn đức không sợ của Như Lai, nhớ đến 18 pháp bất cộng của Như Lai, nhớ đến nơi sanh đầy đủ của Như Lai, nhớ đến sự đẹp đẽ của Như Lai, nhớ đến sự không ngu si của Như Lai, nhớ đến bổn hạnh đầy đủ của Như Lai, nhớ đến lời nguyện đầy đủ của Như Lai, nhớ đến giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đầy đủ của Như Lai, nhớ đến lòng từ bi hỷ xả đầy đủ của Như Lai, nhớ đến oai nghi đầy đủ của Như Lai.
Nầy A-Nan! Nếu có người tùy nơi niệm Phật mà được công đức và đại thần thông, lợi ích rộng lớn thì điều nầy dụ như Cam Lồ đệ nhứt trong Cam Lồ sau cùng. Nầy A-Nan! Ta từ xưa kia khi thực hành Bồ Tát hạnh đã thí Ba La Mật. Ta quán xem công đức tri kiến Phật không có bờ mé hà huống còn Tu giới Ba La Mật, Nhẫn nhục Ba La Mật, Tinh Tấn Ba La Mật, Thiền Ba La Mật và Bát Nhã Ba La Mật, tất cả như thế đều sanh công đức. Nếu có vị Bồ Tát chưa được thọ ký nơi công đức thì Phật quan sát không có chỗ dừng, hà huống là thọ ký thì công đức cho đến thành Phật có tất cả mọi công đức. Cho đến trăm ngàn ức Na Do Tha kiếp quán sát, chỉ bày không có giới hạn. Vì sao vậy ? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri công đức vô lượng như vậy. Nầy A-Nan! Ta nay thấy việc lợi ích nầy mà nói như vậy. Nếu có kẻ nhớ nghĩ đến lúc ta tu Bồ Tát hạnh mà phát sanh tín tâm thì được công đức lợi ích. Với căn lành nầy đương nhiên sẽ được vào Niết Bàn. Lại nữa A-Nan! Hãy đừng sầu bi! Ta đã vì chư thần, loài người làm việc lợi ích và đã nhiếp thọ nên mới dạy đạo cho. Làm cho mọi người chứng được vô thượng an ổn và ngày sau sẽ vào Niết Bàn. Các ngươi hãy khuyến tu phương tiện, không nên buông lung.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các Thầy Tỳ Kheo rằng :
Sau đêm nay ta sẽ vào Niết Bàn! Các người bây giờ thấy ta lần cuối, thọ hóa lần cuối, gặp gỡ lần cuối. Các người từ bây giờ sẽ chẳng thấy ta, ta lại cũng chẳng thấy các ngươi. Nầy các Tỳ Kheo! Hãy đừng ưu bi! Tất cả những lời từ ái xưng tán đều phải chia lìa. Nầy các Tỳ Kheo! Pháp sanh ra là pháp được sanh. Phải biết phân biệt các pháp. Có nhơn duyên sanh ra tất phải có hoại. Nếu không hoại đi, tức không có đâu như vậy cả. Nầy chư Tỳ Kheo! Nếu sống lâu thì cũng phải ra đi thôi. Nầy chư Tỳ Kheo! Phàm có sanh thì không thể không chết. Tất cả các hành đều không có thường, cứu cánh không đổi. Nầy chư Tỳ Kheo! Hãy nên cố gắng tu hành, đừng có buông lung. Vì chư Phật Thế Tôn không có buông lung. Chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cùng tất cả trợ đạo pháp lành là các ngươi đang lãnh thọ sự giáo hóa của ta vậy.
Lúc ấy đại chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Thích Thiên, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương v.v... khi nghe lời dạy cuối cùng như thế sầu khổ không vui, liền lo nghĩ nhớ buồn và khóc lóc thảm thiết, la lớn lên và thưa rằng :
Bà Già Bà nhập Niết Bàn! Làm sao chịu được. Tu Già Đà nhập Niết Bàn, làm sao chịu được. Thế gian không có mắt, thế gian đui mù. Khổ sở lắm. Con và tất các chúng sanh làm sao mà chia lìa sớm quá như vậy ?
Lúc bấy giờ Ngài A-Nan nghe lời ấy rồi, mắt hướng đến Đức Như Lai không rời, suy nghĩ buồn rầu, khóc lóc, gieo mình xuống đất, lấy đá bổ vào thân cây.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo A-Nan rằng : Hãy dừng sầu khổ nữa. Ta hướng đến Niết Bàn như lời đã nói. Tất cả những sự trìu mến, thương yêu rồi cũng phải đi đến chỗ biệt ly. Pháp sanh ra, pháp tồn tại là pháp hữu vi. Phải biết pháp sai biệt và phải hiểu pháp. Các pháp do nhân duyên sanh thì phải tan rã. Nếu không mất đi, tức không đúng vậy.
Ngài Huệ Mệnh A-Nan sau khi nghe lời Phật dạy rồi liền bạch Phật rằng :
Bà Già Bà! Con làm sao không buồn được. Tu Già Đà! Con làm sao không thương được. Ngài là quý giá nhất của con và chúng sanh. Ngài đã cùng chúng sanh sống, đã là Thầy của chúng sanh. Nơi giúp đỡ cho thế gian. Nơi thế gian quay về. Đại Sư của Trời Người mà phải xa rời. Cho nên Bà Già Bà! Làm sao con không buồn được. Tu Già Đà! Làm sao con không thương được. Con làm sao không cảm được. Thế Tôn đã cùng vối tất cả chúng sanh có tâm đại bi thương xót thế gian như thân thuộc. Làm đuốc sáng soi đường cho thế gian mà nay biệt ly, con tự thấy tâm mình bị khủng hoảng trăm phần. Thế Tôn! Con chẳng muốn thấy Ngài mệnh chung nơi nầy. Thế Tôn! Con tự thấy thân thể của Ngài không thể hoại được. Thế Tôn! Con lại suy nghĩ, việc không vào Niết Bàn đều do thần lực của Như Lai vậy. Bà Già Bà! Con làm sao không sầu được. Tu Già Đà! Con làm sao chẳng buồn được! Ngài là vị Thầy của thế gian, đã thương tưởng thế gian, mai đây sẽ không còn nữa, không thấy được nữa.
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài Huệ Mệnh A-Nan rằng : Ngươi có lòng thương ta ư ?
A-Nan thưa : Thật nhiều Đức Bà Già Bà. Thật nhiều Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Thương ta là thương cái gì ?
An-Nan thưa : Con thương Thế Tôn không thể dùng lời nói có thể diễn tả cùng tận được. Cũng chẳng có thể giải bày được làm sao rốt ráo Đức Bà Già Bà. Con thương Ngài như thế! Tu Già Đà! Con thương Ngài như vậy. Thế Tôn! Con vì Như Lai mà bỏ thân mệnh nầy cũng không hối tiếc. Bà Già Bà! Con thương Ngài như thế. Tu Già Đà! Con thương như vậy đó. Thế Tôn! Con thương Phật chỉ có Phật chứng tri thôi. Bà Già Bà! Con thương như vậy. Tu Già Đà! Con thương như vậy đó.
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo A-Nan rằng : Nếu mà thương ta như vậy thì hãy đưa tay phải đây.
Lúc ấy Ngài A-Nan đưa tay phải ra. Lúc đó Đức Thế Tôn dùng tay phải của mình phóng quang màu hồng kim vi diệu từ tốn bảo A-Nan rằng :
Nếu ngươi thương ta thì hãy nên thương mọi vật, cũng giống như ngươi thương ta vậy. Ta đã từ trong vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp đã đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nay thì pháp bảo phụ thuộc nơi ngươi. Hãy tùy thuận như ta đã chuyển mà chuyển như vậy, hãy phát triển rộng mãi đừng cho đứt đoạn. Đừng làm cho thế gian pháp nầy bị mất. Nầy A-Nan! Ta nay vì ngươi mà sẽ giữ gìn. Hãy giữ chánh pháp Tỳ Ni như ta đã nói càng ngày càng tăng trưởng, đừng cho hoại diệt, đừng cho mất đi. Nay ta dụ rằng : Tất cả những người trí đều sẽ được hiểu, cũng giống như có nhà quý tộc kia của cải giàu có, tài sản có nhiều kho báu mà vẫn thấy vật ấy chưa đủ. Như vậy của quý kia sẽ không cùng ông ta mà có, tánh cách đầy đủ vẫn còn ở xa. Do nhân duyên sanh thì không thể nào đầy đủ cả. Như vậy đó, kẻ Trưởng Giả kia muốn sanh một người con. Con kia khôn lớn, không cho học hành, toán số, thư văn, cùng với nhiều loại nghề nghiệp và trí tuệ sâu xa. Đứa con học rồi, sau đó Trưởng Giả bảo đứa trẻ rằng : Ta nay đã vì ngươi mà làm xong rồi, như đã trải qua toán số, lịch sử, thư văn, nghề nghiệp và trí tuệ. Hôm nay ta dạy ngươi lời cuối cùng rằng tất cả của cải quý báu kia đã thuộc về ta, ta nay đương nhiên sẽ phó thác cho ngươi. Ngươi từ ngày hôm nay nên học ba việc có thể bảo tồn được gia tộc sự nghiệp. Thế nào gọi là ba. Một là ham muốn, hai là siêng năng và bà là không buông lung. Như vậy mới xứng đáng là một bậc Trưởng Giả giàu sang. Như vậy phương tiện mà dạy cho người con, tuy nhiên người con không tin và buông lung. Tài sản của cha mẹ phung phí đến tận cùng. Nầy A-Nan! Hãy xem như thế người con kia có nghe lời dạy dỗ của người cha không ?
A-Nan thưa : Thưa không! Đức Bà Già Bà. Thưa không! Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Như vị Trưởng Giả kia có thể thay thế người cha dạy con làm việc ấy chăng ?
Thưa đúng! Đức Bà Già Bà! Thưa đúng! Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Như Lai tức là cha của thế gian! Ngươi giống như người con. Ngày hôm nay lời giáo huấn nầy phụ thuộc vào ngươi đó. Ta đã từ trăm ngàn ức Na Do Tha, A Tăng Kỳ Kiếp đã huân tập vô thượng pháp bảo như những kho báu! Các ngươi phải học ba việc. Thế nào là ba ? Một là ham muốn, hai là siêng năng và ba là không buông lung. Như thế đó nếu các ngươi vẫn giữ 3 việc nầy thì từ trong A Tăng Kỳ Kiếp việc ta huân tập vô thượng pháp bảo trong kho báu các ngươi sẽ gìn giữ lâu dài. Kẻ nào chưa được thuận pháp thì sẽ thông đạt. Khi đã thông đạt rồi thì đừng cho thối thất, chính là các ngươi vậy. Hãy nên kiên trì giữ gìn kho báu giáo pháp mà ta đã huân tập từ trong A Tăng Kỳ Kiếp để chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chưa ở nơi 3 việc ấy thì nay sẽ ở. Chưa đạt được thuận pháp thì nay sẽ thông đạt. Người đã thông đạt rồi làm cho không còn thối hư nữa. Vì sao vậy ? Bởi lẽ ta đã vì lòng thương chiếu cố, lợi ích cho tất cả thế gian vậy. Vì làm cho họ được an lạc. Nầy A-Nan! Ta cùng thế gian nầy đã làm công việc như người cha đã làm cho con vậy. Ta đã vì các ngươi làm những gì đã làm. Lại nữa A-Nan! Ta đã từ nơi A Tăng Kỳ Kiếp huân tập để được pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ba việc nhân duyên phải chìm xuống. Thế nào là ba ?
Một là không có lòng tin, hai là làm việc không có tính cách quyết định và ba là không biết sám hối. Cho nên A-Nan! Hãy nên gìn giữ chánh pháp bảo tạng. Vì ở trong lòng tin sâu, quyết định và sám hối. Hãy làm cho tăng trưởng đừng có buông lung để tạo phương tiện cho ba việc trên. Như vậy đó các ngươi, mà ta được tôn xưng là cha lành của thế gian.
Như vì con trẻ muốn làm đã làm. Nầy A-Nan! Đây là nghĩa ấy. Ta cũng nói thêm rằng: Hãy làm cho chánh pháp bảo tạng nầy được thành tựu và lớn mạnh lên. Đó là ví dụ vậy. Tất cả những người trí khi nghe xong liền được rõ ràng. Lại được tăng trưởng lòng kính tin và liền nói rằng :
Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì chúng con mà vào Niết Bàn, đoạn lấy tay mặt cầm tay A Nan mà phó chúc cho trong A Tăng Kỳ Kiếp nầy phải huân tập để thành pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cũng giống như Thương Chủ đi xa trên con đường, đã làm những gì phải làm xong. Nầy A-Nan! Vì sao vậy ? Vị Thương Chủ kia phải trở lại nhà hay ở giữa đường ?
A-Nan thưa : Thế Tôn! Người ấy về nhà chứ không ở đường.
Nầy A-nan! Cũng như thế đó ta là cha của thế gian, là bạn của thế gian, là Thầy của thế gian, tức như vị Thương Chủ cũng vì giác ngộ cho muôn loài mà ta đã làm xong việc ấy, không có việc Phật nào là không làm và tất cả những chúng sanh nào đáng độ ta đã độ xong. Những người đã được độ thì không có ai khiếu nại nữa. Nầy A-Nan! Có đến 3 việc không đủ và không được mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sẽ không vào Niết Bàn. Thế nào là ba ?
Nghĩa là các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chưa trụ ngôi bất thối chuyển. Nếu giáo pháp của Như Lai bị diệt đi rồi hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, trăm ngàn úc Na Do Tha kiếp mà vẫn chưa giác ngộ được. Tuy chư Phật Thế Tôn đến thời Niết Bàn; nhưng thấy thiện căn nơi Bồ Tát chưa thành thục thì phải làm cho thành thục để được bất thoái. Vì lực thần thông nơi thân được gia trì nên vẫn ở đời, không tịch diệt, chờ cho Bồ Tát chứng được bất thối rồi, tức thời lúc ấy mới bổ xứ, thọ ký cho ai chứng đạo và thành Phật. Lúc ấy Như Lai mới nhập vào Vô Dư Niết Bàn. Cho nên ta và Di Lặc tự vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha Bồ Tát Ma Ha Tát đã được thọ ký thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, làm cho ở mãi cho đến A Tỳ Bạt. Đây là điều chư Phật đã thương chúng sanh và đã làm rồi. Lại nữa A-Nan! Nếu các chúng sanh muốn cho Như Lai được giải thoát mà có kẻ chưa độ thì Như Lai sẽ không vào Niết Bàn. Nếu có Phật Thế Tôn biết từ vô lượng trăm ngàn ức kiếp, trừ khi Phật chưa xuất thế ở thế giới nầy hay thế giới kia. Tại 5 đường nơi có chúng sanh, hoặc qua một tuổi hoặc trăm tuổi, ngàn tuổi, trăm ngàn tuổi hoặc trăm ngàn ức Na Do Tha tuổi cho đến một kiếp hoặc hơn một kiếp; những người như thế đã được độ thoát. Không phải chỉ có tất cả Thanh Văn, Duyên Giác được độ thoát vì trí tuệ Phật, hãy biết như vậy. Vị Phật kia tuy Niết Bàn đã đến nhưng vẫn còn thương họ, dùng thần lực của mình làm cho thân mệnh kéo dài không mất, cho đến khi họ được thành thục rồi sau đó mới nhập diệt. Nầy A-Nan! Đây là điều thứ hai mà chư Phật Thế Tôn muốn làm, đã làm rồi. Cho nên mới vào Vô Dư Niết Bàn.
Lại nữa A-Nan! Ta đã nói rằng : Nếu là Kinh, là Luật là Luận phải hiểu nghĩa sâu nơi ấy; không học, không tu mà Thanh Văn và Đại Chúng hãy cùng nhau nghị luận. Nếu trong chúng hội có vị Tỳ Kheo sanh nghi hỏi lại. Vì kính trọng Phật mà khủng bố não loạn không trả lời phải vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Phật Tri Kiến vậy. Có vị hóa thành một vị Tỳ Kheo đến cạnh Như Lai và hỏi rằng:
Thế Tôn! Nơi đây làm việc gì phải làm ?
Phật bảo vị hóa Tỳ Kheo ấy rằng : Nầy Tỳ Kheo! Nơi đây làm việc nên làm.
Nầy A-Nan! Đây là 3 việc mà chư Phật Thế Tôn tất định phải làm. Nếu việc chưa xong, chưa vào Niết Bàn. So ra ta đã làm tất cả những gì đã làm xong, không có việc gì là ta chưa nói. Nầy A-Nan! Ta nay đã vì các Thanh Văn mà nói hay gìn giữ tu học giới đức, cho đến cuối cùng vẫn là con đường chơn chánh. Nói và làm phải đúng với nhau. Cho nên A-Nan và các ông phải biết từ đây ta không nói nữa! Hãy cẩn thận. Việc nói năng bây giờ ta đoạn tuyệt. Nầy A-Nan! Những gì ta đã nói thì hãy nên học hỏi và làm theo. Hãy đừng buông lung quá độ! Nếu không buông lung, tức chứng đạo quả. Đây là nghĩa vậy. Ta dạy cho các ngươi đừng lo, đừng buồn.
Nầy A-Nan! Ta sau đêm nay sẽ vào Niết Bàn. Ta nay đang từ giã quốc độ và cảnh giới và không trở lại thế giới nầy nữa. Lại cũng chẳng đi đến thế giới khác. (Nơi thế giới kia, có người đời sau sanh vào, thì các người ấy từ bây giờ không thấy được ta và ta cũng không thấy họ nữa). Nầy A-Nan! Ta nay sẽ nhập vào Vô Dư Niết Bàn. Với Niết Bàn nầy yên lặng thanh lương, không bụi bặm, lìa dơ bẩn; tất cả khổ đều bỏ lại; không sanh, không già, không bệnh, không chết; không lo, không buồn, không khổ, không não. Không có gì không bằng lòng cũng chẳng có gì là hối hận; không ghét gặp nhau, không yêu lìa nhau giống như hằng hà sa Thế Tôn vậy. Lại cùng với tất cả ac1c Thanh Văn Duyên Giác đã qua, đương qua và sẽ qua. Nầy A-Nan! Nay ta đương xem và thích vào Vô Dư Niết Bàn. Nếu có kẻ ngu si phàm phu mà không thích ta vào chốn an lạc Niết Bàn nầy lại cũng chẳng có thể phát tâm tùy thuận giải thoát thì người đó cũng nên phát tâm. Đây là nhân duyên, là hạt giống để tương lai sẽ vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Tất cả phàm phu có được lực gì ? Thật ra chẳng có gì cả. Nầy A-Nan! Ta xem tất cả những kẻ phàm phu giống như lúa mạch. Cho nên An-Nan! Kẻ ngu si làm sao có lực, làm sao an ổn, cho nên đã chẳng có thể phát tâm thì đây là chủng tử có thể quyết định sẽ vào được Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Tất cả những người ngu si phàm phu không có giới lực, định lực và huệ lực. Nầy A-Nan! Ta đã đầy đủ vô lượng Phật lực, đã đầy đủ trong vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp không thể nghĩ bàn và không thể so sánh được, gồm có giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến lực; lực hổ, lực thẹn, khó chứa tập lực; tri 1lực, xả lực, phước lực, huệ lực, căn lực, gia lực đầy đủ 10 lực, cho nên yêu thích Vô Dư Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Có những người phàm phu ngu muội không trí nên đắm trước dục lạc sanh tử nơi ngục tối lưu chuyển cho đến không thể phát tâm nhớ nghĩ tùy thuận giải thoát. Thì nay họ cũng sẽ có chủng tử căn bản để vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Như Lai đã nói và đã tán thán như vậy. Tất cả những kinh điển lưu lại ở tương lai; nếu sau khi Phật diệt độ, ở trong đời sau có người được nghe, nghe rồi phát tâm, tức nhiên sẽ được chứng nhập vào cảnh giới chánh pháp bảo tạng Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Ta đương nói thí dụ làm cho tăng trưởng thêm sâu tín tâm.
Nầy A-Nan! Cũng giống như Thương Chủ và các thương nhơn đã qua được các nơi nguy hiểm, trừ khỏi được các nạn khó, đến nơi thành vô úy; nơi ấy có người bị mất tích lúc nửa đêm; lo lắng vô cùng đi tìm dấu tích. Các thương nhơn đều buồn khổ, sau đó được qua sự hiểm trở thấy lại bạn mình. Nầy A-Nan! Như vậy Như Lai thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề rồi, diễn thuyết các kinh điển lưu lại đời sau. Sau khi Phật diệt độ có các thiện nam tử và thiện nữ nhơn nếu được nghe qua, nghe rồi phát tâm sẽ đến được nơi ta lưu lại chánh pháp bảo thành, cảnh giới Vô Dư Niết Bàn. Sau khi đến thành chánh pháp rồi liền suy nghĩ và hộ trì nói rộng chánh pháp của ta. Nầy A-Nan! Ta chỉ có một người phò trì chánh pháp mà còn được như vậy huống gì vô lượng trăm ngàn chúng sanh, nơi mà ta đã tu tập hằng ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp để được chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề và chánh pháp bảo tạng. Các ngươi hãy nên đọc tụng thọ trì. Vì các thiện tín và 4 bộ đại chúng mà khai thị phân biệt. Đừng làm người hủy diệt Phật Pháp trong đời vậy.
Nầy A-Nan! Thời vị lai trong đời có các chúng sanh không nghe nghĩa lý của kinh điển nên sanh thoái tâm. Cho nên A-Nan! Ta sẽ nói thí dụ đây. Cũng giống như một vị Trưởng Giả giàu có, có nhiều kho báu chứa cất tràn đầy. Đồ đạc đầy đủ không thiếu thứ gì. Sau đó Trưởng Giả có một người con; nhưng phải đi xa. Lúc Trưởng Giả gặp bịnh nặng khổ cực vô cùng. Lúc lâm chung còn hiều vật quý như Ma Nị, Chơn Châu, Lưu Ly, Xa cừ, vàng bạc, tiền nong phải gởi lại và Trưởng Giả liền nói rằng: Con ta đã đi xa nơi đây, nay ta thân phải mang bịnh nặng, phải mất nay mai. Ta vì con ta mà cũngcho nó vô lượng của báu tài sản nầy. Nếu như con ta trở lại, hãy vì ta mà bảo rằng đừng có buông lung! Hãy kiên nhẫn ở yên đừng có buônglung, sau đó mới giao cho những kho 1báu nầy. Lúc giao khi báu nên nói như thế nầy :
Hãy nên nhận lấy, đừng có buông lung! Hãy giữ gìn đồ vật đừng cho tổn thất. Sau khi nói lời nầy của ta rồi, thì đem tất cả những vật quý giá giao cho nó, và người kia đã lãnh thọ những đồ vật của Trưởng Giả. Thọ rồi chẳng bao lâu thì người con của Trưởng Giả từ xa về lại. Kẻ kia đã nhậm dùm của nơi Trưởng Giả không giao lại cho người con của Trưởng Giả. Nầy A-Nan! Vì sao vậy ? Ai đã làm chuyện ây ?
Ngài Huệ Mệnh A-Nan thưa Phậ : Kính bạch Thế Tôn! Người nhận lãnh dùm đã sai; không phải là người vậy. Tại sao ? Vì người nhận dùm nầy, chính hắn đãi trực tiếp nhận lãnh những đồ quý giá từ Trưởng Giả mà không hoàn lại cho người con.
Phật bảo A-Nan! Hào quý Trưởng Giả dụ cho Như Lai. Khi mạng chung dụ cho Như Lai sắp vào Niết Bàn. Đứa con dụ cho đời sau có các tịnh tín thiện nam tín nữ. Người đi xa dụ như lưu chuyển trong 5 đường. Của quý báu dụ cho tạng pháp quý báu mà Như Lai đã tu trong ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp để được vô thượng. Thọ nhận nơi Trưởng Giả dụ cho các ngươi và các Đại Thanh Văn Bồ Tát Ma Ha Tát phần giữ gìn giáo pháp của ta. Vì đời sau mà các thiện nam tử thiện nữ nhơn hãy trao lại cho Ngài Đại Ca Diếp và Di Lặc cũng như chư Đại Bồ Tát. Nếu các ngươi hay theo lời dạy của ta thì trong đời vị lai đã nhận lãnh sự giáo hóa nầy thì các Phật Tử phải giữ gìn pháp bảo. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Vì lẽ trong các chúng sanh sau khi ta mất đi rồi sẽ thành thục mà thực hành Bồ Tát hạnh. Nếu có kẻ nghiệp ác bị đọa vào nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và những chúng sanh nầy sau khi Như Lai diệt độ cũng được ra khỏi đường dữ trở lại làm người và tu học cho các căn tăng trưởng thành thục vậy. Từ nơi pháp của ta có một ít nhân duyên để hay kính tin. Trong nầy cũng có người được xuất gia, khi nghe ta giảng kinh liền được thắng hạnh. Hoặc nơi Thanh Văn thừa hoặc nơi Duyên Giác thừa hoặc nơi Đại Thừa thì vào Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Ta vì đời sai cho các thiện nam tử thiện nữ nhơn nầy, phụ thuộc nơi ta để tu trăm ngàn ức Do Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp, huân tập tu học vô thượng đại pháp bảo tạng. Làm cho họ được nghe. Vì sao vậy ? Vì những chúng sanh kia! Nếu không nghe về chánh pháp nầy thì sẽ thoái tâm. Cho nên ta nay vì người đời sau phó thác cho họ Đại Bảo Tạng nầy. Nếu hay nghe được thì không thoái tâm. Vì nhân duyên nầy mà ta lại phải nói thí dụ.
Nầy A-Nan! Ví như Vua Chuyển Luân sẽ mở kho báu, ra lệnh cho triều thần rằng : Ta nay sẽ bố thí cho tấtcả các Sa Môn, Bà La Môn cho đến những người bần cùng hành khất nơi đường sá. Theo ý nguyện mà được. Muốn ăn có thức ăn; muốn uống có thức uống. Muốn xe có xe cho đếnhương hoa và đồ trang sức. Cũng như quần áo, giường nằm, phòng ốc thanh tịnh và các đồ lặt vặt đầy đủ. Các vị cai quản kho báu được lệnh ấy rồi liền chẳng bố thí. Nầy A-Nan! Vì sao vậy ? Ai là người sai ?
A-Nan thưa: Đại Đức Bà Già Bà. Những người giữ kho sai.
Sau khi biết điều ấy rồi thì hãy làm cho tăng trưởng vì trời người mà khai thị diễn nói vậy cho đến vì ngươi mà ta khai thị vậy. Phải vì sự kính tin của Sa Môn, Bà La Môn và tất cả phàm phu cầu nghĩa của pháp tất phải được nghe. Cho nên A-Nan! Ta nay giao phó tạng pháp bảo nầy cho người và phải triển khai rộng ra. Nếu ngươi không vì các kẻ tin thanh tịnh như Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ và các phàm phu mà vui vẻ tuyên dương quảng bá phân biệt ý nghĩa rộng rãi, tức là ngươi đã không làm đúng lời dạy của Như Lai. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Vì ta là Vô Thượng Pháp Chuyển Luân Vương có nhiều khi báu giáo pháp quý giá. Có các trợ đạo bảy phần giác ngộ, mười lực và vô úy đầy đủ. Từ trong pháp nầy mà được tự tại nên có tên al2 Pháp Vương. Ngươi hãy nên gìn giữ 84.000 chánh pháp tạng nầy, vì các tịnh tín Sa Môn, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tịnh tín phàm phu, các Pháp sư v.v.. để cầu ý nghĩa của pháp mà phải diễn thuyết đầy đủ, không sanh phân biệt. Nếu không làm như vậy, tức pháp bị diệt. Cho nên A-Nan! Ngươi hãy nhớ đến việc tu tập của ta trong ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp, để chứng được vô thượng pháp bảo A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà hay hiển bày rộng rãi cho 4 chúng, tức là không làm sai lời dạy của Như Lai vậy. Nếu không nói rộng ra, tức làm sai lời của ta vậy.
Lại nữa A-Nan! Hoặc lậu hết A La Hán Tỳ Kheo đã chứng vô vi mà không thể vì kẻ khác phân biệt giải nói thì người nầy làm Thầy chẳng ích lợi gì cho giáo pháp của Như Lai cả. Lại cũng chẳng phải kẻ giữ gìn chánh pháp của ta. Cho nên ta nay phó chúc pháp nầy cho ngươi. Tại sao vậy ? Nầy A-Nan! Dụ như có người trong đem tối mang đuốc bằng cỏ trở lại nhà mình. Lại có nhiều người muốn chỉ cho người mang đuốc đó, nương vào đuốc cỏ nầy mà độ cho qua khỏi chỗ tối tăm kia. Đến rồi rời nhà; nhưng trừ hắn ra. Nầy A-Nan! Vì sao vậy ? Người nầy phải biết rằng đuốc cỏ cháy không thôi. Cũng biết rằng nhiều người muốn giúp mình, tự dùng đuốc nầy; nhưng không dùng được; nên gọi việc làm nầy không tốt vậy.
A-Nan thưa : Không phải thế Bà Già Bà. Không phải thế Tu Già Đà.
Phật bảo : Đúng vậy, đúng vậy. Nầy A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo chứng A La Hán quả. Sau khi chứng pháp vô vi rồi, cũng biết việc độ cho chúng sanh qua khỏi sanh tử; nhưng không vì họ mà phân biệt chỉ bày. Ta đã vì tu tập mà làm cho pháp nầy rộng rãi lưu truyền trong A Tăng Kỳ Kiếp. Cho nên người nầy gọi là kẻ không làm lợi ích cho chúng sanh. Cũng là kẻ không nhiếp thọ giữ gìn chánh pháp của ta. Cho nên A-Nan! Ta nay phó chúc pháp nầy cho ông, mà ta đã tu tập trong Ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp, cho đến việc giữ gìn, tuyên thuyết rộng rãi ra. Đừng cho mất đi, đó là chánh đạo. Hãy đừng làm cho pháp nầy mất đi vậy.
A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà từ nơi pháp nầy an trụ thì phải vì họ mà phân biệt giải bày làm cho pháp bảo của ta tu tập trong Ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp lãnh hội được từng phần. Cho nên A-Nan! Việc tu pháp lành của ta trong Ức Na Do Tha, A Tăng Kỳ Kiếp và lần thứ hai phó chúc nầy là vì chúng sanh đời sau vậy. Phải làm cho những chúng sanh không được nghe pháp nầy cũng đừng thối tâm.
Lại nữa A-Nan! Dụ như vị Trưởng Giả giàu có nhiều kho báu kia có Ma Ni, Chơn Châu, San Hô, Xà Cừ, tất cả các vật đều đầy đủ, lúc ấy có người tức giận thiêu đốt kho nầy. Trưởng Giả cũng rất giận dữ và nơi Trưởng Giả kia tâm thường vui vẻ trở nên không lợi ích. Kẻ không vui thì được vui. Kẻ không vui thì được an ổn. Như vậy sự giận dữ lúc thấy lửa đốt kho báu mặc nhiên xả bỏ không màn đến lửa; nhưng sau Trưởng Giả lại có tâm thương tưởng thân thiện làm lợi ích, làm cho mọi người an ổn trở lại, thấy lửa nầy rồi xả bỏ, mặc nhiên ở đãy, không muốn tắt đi. Nầy A-Nan! Điều ấy có nghĩa gì ? Thân hữu nầy có thể gọi là chánh phát tùy thuận không ?
A-Nan thưa! Thưa không! Đức Bà Già Bà. Thưa không! Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Họ là thân thích với nhau khi thấy lửa đốt cháy kho báu, hy sinh không cầu cạnh, lại gia tăng ý thức, làm cho thiêu hết tất cả các kho báu, phải không ?
A-Nan thưa : Như vậy đó, Đức Bà Già Bà. Như vậy đó, Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Như vậy đó, như vậy đó. Nầy A-Nan! Ta đã tu tập Ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp vô thượng căn lành và khi pháp bảo hoại diệt rồi thì có các Tỳ Kheo tâm không kính tin, thường phá tịnh giới, tập làm các pháp ác như nơi ca múa thường hay tới lui, không vui tu theo thiền định, tâm không tán loạn, giãi đãi, đọa lạc; ít nghe giảng pháp, không vui tụng kinh, làm sao có thể vì người khác mà hay phân biệt giải bày, làm cho người nghe có thể giữ gìn pháp bảo được.
Lại nữa A-Nan! Quán Đảnh Sát Lợi Đại Vương chỉ có một con đi xa không hiện diện. Khi đó Sát Lợi Đại Vương thân gặp bịnh nặng. Biết bịnh nặng rồi liền giao kho báu các loại cho các vị Đại Thần giữ gìn và nói thế nầy : Nếu con ta trở lại, ngươi hãy nên phong vương cho con ta và nên giao tất cả kho báu cho nó. Các vị Đại Thần liền nhận chịu các việc vua giao. Sau khi nhận rồi, vua mất. Sau khi vua mất, người con về lên ngôi vua. Sau khi đăng quang rồi thì được tự tại; nhưng các vị Đại Thần không giao lại của báu cho ông ta và nói như thế nầy :
Tốt lắm Đại Vương! Phương pháp chính trị là bảo vật để cai trị cho chúng tôi.
A-Nan hiểu ý nầy không ? Những vị Đại Thần thọ nhận của gởi của Trưởng Giả mà không giao lại cho con vua có đúng không ?
A-Nan thưa : Bạch Đức Bà Già Bà, Đức Tu Già Đà. Họ là những người sai trái.
Phật bảo A-Nan! Sự việc ra đi xa nầy dụ cho 5 đường của chúng sanh. Bịnh dụ cho Phật sắp nhập Niết Bàn. Đa Bảo tạng dụ cho 37 phẩm trợ đạo. Đại Thần Trưởng Giả dụ cho các vị A La Hán. Bảo vật khác dụ cho ta đã phó chúc cho ngươi những pháp bảo mà ta đã tu tập trong Ức Na Do Tha A Tăng Kỳ Kiếp, cho đến vì đời sau cho các đệ tử vậy. Nầy A-Nan! Về đời sau trong đời có các chúng sanh, mà nơi ta từ xưa đã thành thục, nhưng vì ác nghiệp nên sanh vào địa ngục súc sanh ngạ quỷ. Sau khi ta diệt độ và họ sẽ được sanh trở lại làm người, sau đó các căn được tăng trưởng thành thục và vì trong pháp của ta mà phát sanh tín tâm, cho nên có kẻ được xuất gia. Còn kẻ tại gia thì chứng Tu Đà Hoàn cho đến có kẻ chứng A La Hán. Tại học đîa nầy sau khi mệnh chung lại phát tâm sâu rộng sanh nơi đất Phật. Có nhiều căn lành với Trời Người, cho nên sẽ được đầy đủ lợi ích. Cũng đã phát tâm tin tưởng. Liền nói lời rằng :
Thế gian kia là cha lành của ta đã giúp ta, khi sanh ra lại có lòng kính tin rộng rãi. Nầy A-Nan! Ta đã vì họ mà nay thì tất cả pháp bảo nầy phó chúc cho ngươi đó. Cho đến làm cho họ nghe pháp tạng nầy. Cho nên A-Nan! Ta nay vì Đại Pháp tạng mà làm cho họ có tín tâm như các thiện nam tử thiện nữ nhơn đã được nghe vậy.
A-Nan! Những thiện nam tử và thiện nữ nhơn kia khi nghe Đại Pháp tạng nầy hoặc chứng thành thù thắng, hoặc được sanh đại ái lạc tâm, hoặc nghe rồi khóc lóc, lông dựng lên. Nầy A-Nan! Hoặc có kẻ nghe pháp môn nầy rồi. Niệm Phật công đức khóc lóc, lông dựng lên thì ta thọ ký cho họ rằng với tất cả những căn lành nầy sẽ được Biết Bàn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).30/4/2012. 

Đại Bi Kinh

Cao Tề Thiên Trúc tam tạng Na Liên Đề Na Xá dịch từ Phạn ra Hán văn.
Kinh Đại Bi - Quyển Thứ Ba
Lễ Bái - Phẩm Thứ Tám
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng : Nếu có người nào nghe được danh hiệu Phật, ta nói rằng người nầy chắc chắn sẽ được vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu có kẻ chỉ xưng Nam Mô Phật, thì nghĩa nầy là gì ?
A-Nan bạch rằng : Phật là cội nguồn của tất cả pháp. Phật là tai mắt hay tiếp dẫn chúng sanh. Phật là bậc diễn thuyết tất cả pháp. Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì Tỳ Kheo giải thích nghĩa nầy, con nay được dịp nghe đến và thọ trì.
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo A-Nan rằng : Hãy lắng nghe cho kỹ, lắng nghe cho kỹ và h4y suy nghĩ cho kỹ. Ta nay vì các ngươi mà phân biệt giải nói.
Lúc ấy Ngài A-Nan nghe Phật nói xong rồi, liền bạch Phật rằng : Nguyện vui muốn nghe.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Được gọi là Nam Mô Phật, vì điều nầy quyết định chư Phật Thế Tôn khi nghe được danh hiệu của Phật. Nầy A-Nan! Đây là ý nghĩa quyết định khi nghe danh hiệu của chư Phật vậy. Xưng rằng Nam Mô chư Phật. Nầy A-Nan! Ta nay vì ý nghĩa nầy mà nói ví dụ đây. Làm cho chúng sanh pháp nầy, làm cho họ tăng tín tâm, lại làm cho tất cả kẻ thiện nam và người thiện nữ khi nghe âm thanh về danh hiệu của chư Phật Thế Tôn thì snah tín tâm thâm hậu. Nầy A-Nan! Từ nơi quá khứ có vị Đại Thương Chủ cùng với các thương nhơn mà vào biển lớn. Đến biển kia rồi, chiếc thuyền bị con cá Ma Kiệt rất lớn nuốt chửng đi. Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ Thương Chủ cùng các thương nhơn sợ hãi tóc dựng lên, lo sầu khổ não không vui. Sợ rằng thân mệnh không toàn. Không thể cứu được, không thể giúp được, không thể về được, không thể đi đến chỗ định được. Tất cả đều khóc lóc lo buồn hối hận. Mọi tiếng lo toan đều thổ lộ ra và sanh bịnh. Tại Diêm Phù Đề như vậy là không vui, như vậy là không bao giờ có. Vì làm thân người ở thế gian nầy cũng khó được. Ta nay cũng đang xa lìa cha mẹ, huynh đệ, chị em, vợ con thân thuộc bằng hữu, ta cũng chưa hề gặp lại, cũng chẳng hề thấy được Phật, Pháp và chúng Tăng. Thật là buồn thương, sầu thảm chẳng vui. Các vị ấy cầu thỉnh các vị thần ở trên trời đến cứu hộ.
Nầy A-Nan! Lúc bây giờ vị Thương Chủ thấy biết xa rộng nên nơi tâm được yên tịnh vì nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng, lại cũng chẳng có lòng tin nơi thiên thần. Lúc bấy giờ vị Thương Chủ bảo các thương nhơn rằng : Quý Ngài nên biết! Nếu muốn tồn tại miễn trừ nguy nan và được giải thoát thì tất cả nên cùng một lúc niệm thành tiếng với tôi. Giả thử mạng nầy có mất nếu không giải thoát cũng sanh vào đường tốt. Các vị thương nhơn sau khi nghe lời ấy rồi và nói với vị Thương Chủ rằng : Chúng tôi sẽ nghe theo. Hãy nói mau đi.
Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ vị Thương Chủ cởi áo bày vai mặt quỳ xuống trước thuyền một lòng chắp tay niệm Phật lễ bái. Cao tiếng xướng rằng : Nam Mô Chư Phật! Bậc không sợ hãi, bậc đại từ bi, bậc lân mẫn tát cả chúng sanh. Xưng như vậy 3 lần. Lúc ấy các thương nhơn đồng thời cũng chắp tay lễ bái, khác miệng cùng tiếng xướng lên rằng : Nam Mô Chư Phật, hay trừ sự sợ hãi, bậc đại từ bi, bậc lân mẫn tất cả chúng sanh, như vậy 3 lần.
Lúc bấy giờ cá Ma Kiệt khi nghe lễ bái âm thanh của chư Phật liền sanh đại ái kính, không sanh tâm sát hại. Lúc bấy giờ cá Ma Kiệt tức thời hả miệng ra.
Nầy A-Nan! Lúc bấy giờ Thương Chủ và các thương nhơn tất cả đều được an ổn, không bị nạn cá nữa. Thuyền và thương nhơn được tự tại, an ổn trở lại cõi Diêm Phù Đề.
Lúc nghe âm thanh niệm Phật, cá Ma Kiệt liền sanh tâm hoan hỷ và nguyện không ăn thịt của các chúng sanh nữa. Nhơn điều nầy khi lâm chung được sanh làm thân người. Sau khi được làm thân người lại có cơ duyên nghe pháp Tỳ Ni của Phật, liền được tin sâu và sau đó lìa bỏ gia đình xuất gia. Sau khi xuất gia rồi liền gần gũi bậc thiện tri thức, luôn luôn cúng dường và chứng được A La Hán. Đầy đủ 6 phép thần thông và nhập vào Vô Dư Niết Bàn tức Bát Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Hãy biết rằng dầu cho sanh vào đường súc sanh nhưng khi nghe danh hiệu Phật rồi liền được làm người. Khi đã làm người rồi mà còn được xuất gia nữa. Sau khi xuất gia rồi lại chứng được A La Hán quả. Sau khi chứng A La Hán lại vào Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Hãy quán sát về thần lực của chư Phật, như vậy đó; con cá kia nghe mà còn chứng được thần thông, chắc chắn khi xưng danh hiệu Phật sẽ lợi ích vô cùng. Hà huống là có người được nghe danh hiệu và thính pháp nơi Phật. Tất cả đều trồng thiện căn nơi Phật vậy. Luôn luôn được lợi ích.
Nầy A-Nan! Như ta nói vậy, kẻ nào làm ít thì sẽ được quả báo ít, kẻ nào trồng thiện căn nhiều, kẻ ấy sẽ có quả báo đầy đủ. Nầy A-Nan! Kẻ mà trồng thiện căn ít, có nghĩa là người đó muốn thành Thanh Văn thừa. Khi thiện căn được mãn quả Thanh Văn thì làm nhân cho quả Duyên Giác và quả nầy sẽ chứng vào quả vị Duyên Giác vậy.
Nầy A-Nan! Đây là nhân duyên ta nói về việc nhỏ. Nầy A-Nan! Nói về phần hành lớn thì người ấy từ vô thỉ đến nay đã trồng chủng tử nơi Phật thừa và tất cả các thiện căn đều tu hành rốt ráo và vì thiện căn nầy nên là nhơn duyên được ngay vào quả Phật. Khi được quả Phật rồi còn muốn tích tụ đầy đủ thiện căn giác ngộ nữa. Sau khi đầy đủ thiện căn giác ngộ rồi, tức có tên là phần hành lớn.
Nầy A-Nan! Phần hành đầy đủ nầy như ta từ xưa đến nay đã nói trong các kinh, như thế theo thứ lớp mà hiểu biết. Như phần hành nhỏ được quả nhỏ. Nếu phần hành lớn thì được quả vị lớn.
Nầy A-Nan! Như trong kinh của ta đã nói, cho đến thọ trì 4 câu kệ, kẻ ấy có căn lành rất mỏng và kẻ ít trí trong chúng sanh, hãy tùy nghi mà nói. Nầy A-Nan! Ta đã vì tất cả chúng sanh chưa trở về làm cho trở về. Chưa xả bỏ làm cho xả bỏ, không hộ chúng sanh làm cho cứu hộ. Vô minh chúng sanh làm cho sáng rõ. Kẻ đui mù làm cho sáng mắt. Nầy ẠNan! Tất cả ngoại đạo ngu si vô trí không thể tự cứu, làm sao cứu được người khác, làm cho họ trở về được. Nầy A-Nan! Ta đã vì tất cả Trời Người mà dạy họ, lân mẫn tất cả chúng sanh và sau khi giáo pháp trong tương lai bị diệt thì có các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vì pháp của ta mà xuất gia nhưng trong tay có trẻ con và cùng chơi với chúng, từ tiệm rượu đến tiệm rượu. Ở trong pháp ta mà làm sai phạm hạnh. Họ là những người tuy chỉ say sưa; nên trong hiền kiếp nầy tất cả đều được vào Niết Bàn. Vì sao gọi là Hiền Kiếp ? Nầy A-Nan! Trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy khi kiếp dục nầy thành rồi tận chỉ còn một giọt nước, lúc ấy sanh Tịnh Cư Thiên. Lấy Thiên nhân để xem thế giới nầy chỉ toàn là nước và nơi đó có hàng ngàn hoa sen. Mỗi hoa sen đều có hàng ngàn cánh. Màu vàng thì phát ra ánh sáng vàng chiếu lớn. Mùi thơm của hoa thật là dễ mến. Từ cõi trời Tịnh Cư nầy mà nhìn rồi thì tâm sanh hoan hỷ vô cùng và đã tán thán lời rằng : Kỳ diệu thay! kỳ diệu thay! Hy hữu thay! hy hữu thay! giống như trong kiếp nầy có một ngàn vị Phật xuất hiện. Do nhân duyên nầy mà kiếp nầy có tên là Hiền.
Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ, ở nơi Hiền Kiếp nầy có 996 Đức Phật xuất thế. Ngài Câu Lưu Tôn Như Lai đứng đầu. Ta thuộc về thứ tư. Kế đến là Ngài Di Lặc sắp bổ xứ làm Phật, cho đến cuối cùng là Đức Lô Giá Như Lai. Như vậy thứ lớp nên biết.
Nầy A-Nam! Nöi pháp của ta các vị Sa Môn đã làm nhiễm hạnh Sa Môn, tự xưng Sa Môn, hình thức giống Sa Môn vì có mặc áo Cà-Sa. Ở Hiền Kiếp nầy, Ngài Di Lặc đứng đầu và cho đến cuối cùng là Ngài Lô Giá Như Lai. Các vị Sa Môn nầy từ chỗ Phật kia sẽ được từ cảnh giới Niết Bàn chứng đắc vào Niết Bàn, không ai là không được. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Như vậy tất cả trong các vị Sa Môn cho đến một lần xưng danh hiệu Phật và phát sanh tín tâm. Vì làm những công đức ấy nên khi lâm chung không hư hoại.
Nầy A-Nan! Ta biết chư Phật đo lường biết được pháp giới nhưng không hiểu hết được sự đo lường. Nầy A-Nan! Cho nên có nghiệp sạch thì được báo sạch, nghiệp đen thì bị quả báo đen. Nếu có những chúng sanh có tâm thanh tịnh và làm việc xưng danh hiệu Nam Mô Phật. Nầy A-Nan! Người kia căn lành tức đã định và Niết Bàn sẽ gần Niết Bàn. Luôn luôn thông suốt và vào Niết Bàn, hà huống được gần Phật tại thế, siêng năng cung kính, cung kính tôn trông, hoan hỷ cúng dường cho đến việc sau khi Phật nhập Niết Bàn còn cúng dường Xá Lợi nữa. Nầy A-Nan! Các vị Sa Môn tính tình ô nhiễm như thế tìm đến các vị Sa Môn cũngcó hình tướng như vậy cho đến xưng một danh hiệu Phật mà còn được như vậy huống gì những người có tâm cung kính trồng chư thiện căn. Nầy A-Nan! Ta nay vì nghĩa nầy mà nói kệ như vầy :
Chư Phật như vậy khó nghĩ bàn
Phật của chánh pháp đều trở lại
Nếu hay kính tin không nghĩ bàn
Tất nhiên sẽ được bất tư báo
Quá khứ tất cả chư Như Lai
Hay tạo ánh sáng và lân mẫn
Lại cũng cúng dường nhiều Đức Phật
Chứng cảnh giải thoát khó tính được
Ta xưa cùng người thường gần nhau
Bố thí giúp đỡ cho chúng sanh
Tin sâu căn lành khuyên siêng năng
Vì khuyên tinh tấn cho tất cả
Yêu thương chúng sanh như cha mẹ
Anh em thân thiết cùng trí thức
Cùng với thân thuộc không sân hận
Gặp được giải thoát số khó đếm
Lúc ta an ổn nơi giác ngộ
Ủã từ nhiều kiếp làm bố thí
Lòng từ thương xót cả chúng sanh
Bỏ thân đầu mắt cùng máu thịt
Cũng bỏ rất nhiều chức vương quan
Hay thương vợ con cùng nam nữ
Rât1 nhiều voi ngựa rất quý giá
Chỉ cầu tối thắng giác ngộ thôi
Rất nhiều ngàn ức kiếp đã qua
Các các siêng năng mà rong ruổi
Tâm tịnh nhiều đời làm bố thí
Vì cầu cuối cùng việc giác ngộ
Kham nhận rất nhiều các khổ não
Lạnh buốt nắng cháy cùng đói khát
Luôn phải siêng năng chết không bỏ
Vì cầu tối thắng bồ đề vậy
Ta dẫu trăm năm hay một kiếp
Nói đến việc nầy không thể hết
Lòng thương tất cả chúng sanh vậy
Vì cầu an ổn nơi giác ngộ
Luân hồi sanh tử hay gặp gỡ
Trăm ngàn ức vạn các Như Lai
Các Như Lai nầy thế lực lớn
Thường hay cúng hiến hoa sắc vàng
Cơm ngon ăn uống cùng y phục
Thoa hương xức dầu cùng rải hoa
Cùng với rất nhiều tràng phan quý
Cúng dường như vậy tất cả Phật
Rất nhiều không kể các chúng sanh
Luân hồi sanh tử không biên giới
Ta thường đến họ để an ổn
Lợi lạc rộng rãi cho mọi người
Giới đức chuyên cần hay khuyên răn
Thiền định tam muội huệ phương tiện
Thân cùng niệm xứ bốn chánh cần
Hay tu tập hạnh bốn thần túc
Lại tu ngũ căn và ngũ lực
Thất Bồ Đề phần bát chánh đạo
Tất cả trợ đạo ta tu tập
Chỉ cầu rốt ráo đến Bồ Đề
Ta vì chánh trí tu các nghiệp
Không có cái gì là không thiện
Từ không phóng dật tu các hạnh
Không có niện ác tăng bao giờ.
- Phẩm căn lành thứ 9
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng :
Nếu có chúng sanh ở vào nước Phật nào một lòng phát tín tâm, với căn lành nầy không bao giờ mất mát. Hà huống lại tạo những căn lành như thế. Nầy A-Nan! Ta vì chúng sanh biết rõ như thế nên cho thí dụ. Vì người trí mà dẫn giải dụ nầy.
Nầy A-Nan! Dụ như có người chẻ chia một sợi lông làm 100 phần. Cứ mỗi phần lông nhuộm một giọt nước, trì chí mang đến nơi ta và nói rằng : Cồ Đàm! Tôi nay mang nước nầy để biếu Cô Đàm. Nhìn kỹ nước nầy chẳng thấy tăng giảm. Lại nữa nhân ngày có gió cũng không thấy nước nầy khô, cũng không làm chi chim chóc uống được. Sau đó hòa nước nầy với các nước khác, dùng bình để đựng và lúc ấy Như Lai đã thọ nhận vật cúng nầy. Sau khi thọ nhận ta đã cho vào sông Hằng. Cũng không trở lại, cũng chẳng dư ra, hòa tan như thế vào sông lớn rồi trôi chảy đi. Việc không hồi phục là vô quái ngại. Chim muông côn trùng lại chẳng uống hết. Như nước nầy đây không tăng không giảm vậy. Cùng với nước hòa lẫn vào biển lớn. Nếu giọt nước ấy do gió khởi động, khi thế giới nầy hoại, giả sử có người ở đời một kiếp thì ta cũng được sống một kiếp. Người ấy khi đến kiếp cuối, lại đến nơi ta nói lời rằng : Cồ Đàm! Tôi đã cúng nước. Nay không còn nữa.
Nầy A-Nan! Như Lai lúc ấy biết rằng giọt nước kia đã hòa vào trong biển lớn. Trong nước ấy không dư, mà đã hòa lẫn rồi, không tăng không giảm, bình đẳng như vậy, mang trả người kia. Nầy A-Nan! Như vậy đó! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, có thần thông và thế lực lớn, có nhiều công năng thanh tịnh trí tuệ, không thể lường về tri kiến vô ngại. Những việc như vậy luôn không chướng ngại. Ở trong người nhận là bậc tối thắng. Từ nơi chỗ Phật cúng rồi trải qua nhiều giọt nước nhỏ như thế gian rất lâu vẫn không hao tổn. Nghĩa nầy nên biết. Nầy A-Nan! Người chẻ lông tượng trưng cho ý thức và tâm. Sông Hằng là dụ cho sanh tử lưu chuyển. Một giọt nước dụ cho người mới phát tâm có căn lành. Đại hải dụ cho Phật Như Lai Chánh Biến Tri. Người cúng dường dụ cho các tịnh tín Bà La Môn và các Trưởng Giả Cư Sĩ. Trụ một kiếp dụ cho Phật Như Lai thọ dụng nhưng không tổn hoại cũng giống như người biếu nước kia trải qua thời gian lâu dài, như vậy đó A-Nan! Nếu từ nơi Phật mà phát tâm thì căn lành không mất. Hà huống các loại căn lành vi diệu khác. Ta nói rằng người nầy tất nhiên được vào Niết Bàn, cho đến nhập Đại Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu lại có người đến chỗ Như Lai, có sự phát tâm suốt đời cung kính, trừ người có nghiệp chướng ác, đọa tại địa ngục súc sanh ngạ quỷ, do vì nghiệp nầy tự tạo tự lãnh. Nếu vì tình thương chư Phật xuất hiện nơi đời, làm cho không có chướng ngại. Phải biết rằng chúng sanh nầy đã trồng căn lành, chỉ trừ kẻ bất thiện làm nghiệp ác bị đọa tại địa ngục. Biết được Phật rồi, từ địa ngục kia sẽ được thoát ra. Ở nơi yên ổn, không sợ hãi chi. Sau khi an trí trên bờ rồi, làm cho chuáng sanh nhớ nghĩ lại các nghiệp thiện đời xưa và dạy lời rằng : Nầy các ngươi! Ta nay đang nhớ về các căn lành đời trước, như căn lành nầy ở tại nơi đó, thế giới đó, nơi Đức Phật đó tu hành, trồng các căn lành. Các người như vậy dùng uy lực Phật tức nhớ nghĩ lại. Sau khi nhớ rồi liền nói lời rằng : Như vầy Bà Già Bà! Như thế Tu Già Đà!
Phật lại bảo rằng : Nầy gã thiện nam! Ta từ vô thỉ nơi các Như Lai đã trồng căn lành, không hao không tổn liền được lợi lạc. Cho nên rời tất cả khổ, được tất cả vui. Nầy thiện nam tử! Nay ta được đến cảnh giới nầy; nhưng ta suốt đêm cũng không ở cảnh giới. Từ vô thỉ cho đến ngày nay biết bao lưu chuyển sanh tử. Cũng do trồng các thiện căn nơi Phật không hao tổn, ví như Vương Tử và Đại Thần dùng quyền uy để đóng cửa ngục, nói việc nầy để cải hối và cho tù nhân ra. Như vậy đó An-Nan! Những chúng sanh nầy đã có gốc gác trồng các căn lành với Như Lai, tạo các ác nghiệp hoặc thiện nghiệp, dẫu cho bị đọa vào địa ngục súc sanh ngạ quỷ và các đường ác; nhưng vì tâm từ bi mà chư Phật ra đời và vì sự phát tâm đó là căn lành nhơn duyên gia trì vậy. Phật đều thấy biết nơi địa ngục mà phá địa ngục ra, an trí chúng sanh nơi Niết Bàn cao sạch thanh tịnh, không sợ hãi. Sau khi để nơi không sợ hãi rồi, làm cho nhớ nghĩ mà dạy lời rằng :
Nầy Thiện Nam tử! Hãy nên nhớ nghĩ, nhờ vào căn bản tạo tác căn lành nhơn duyên, nên mới được quả báo như vậy.
Các chúng sanh nói lời như thế nầy : Như vậy Bà Già Bà! Như vậy Tu Già Đà! Chúng con nhờ uy thần của Phật gia trì mà có thể nhớ nghĩ lại được.
- Phẩm Bố Thí Phước Đức thứ 10
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bải Ngài An-Nan rằng :
Hãy nên biết rằng, những việc như thế ấy từ trồng các căn lành nhỏ nhặt mà khi mất không hư hoại cho đến phát tâm sanh một lòng tin, ta đã nói rằng những người nầy trước sau cũng sẽ chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn tịch diệt. Nghĩa ấy là vậy. Lại cũng có thể thí dụ rằng : Làm cho nam tử nữ nhơn có tâm thanh tịnh tinh sâu nguyện thiết, chuyển việc cung kính sanh ra tâm từ ái vui vẻ hoan hỷ, mừng rỡ. Nầy A-Nan! Giống như người câu cá được cá tại ao nước, ngồi bỏ lưỡi câu cho cá ăn nhằm. Tuy ở trong ao không chạy đâu được. Vì sao vậy ? Vì những cá nầy bị dây ràng buộc. Tuy ở trong nước nhưng phải biết rằng cá kia phải lên bờ. Vì sao vậy ? Vì cần câu nầy đều buộc vào gốc cây. Lúc ấy người câu mới chạy đến nơi, liền biết được cá. Dùng cá câu được bắt bỏ lên bờ, tùy ý xử dụng.
Như vậy đó A-Nan! Tất cả chúng sanh từ nơi Phật và phát sanh tâm kính tín, trồng các thiện căn tu hành bố thí, cho đến phát tâm được một niềm tin. Tuy có lúc lám ác, không phải nghiệp thiện phải đọa địa ngục ngạ quỷ súc sanh và các nơi khổ sở. Nhưng nếu có Phật ra đời, Phật dùng tuệ nhãn thấy các chúng sanh, hành Bồ Tát thừa, hoặc Duyên Giác thừa, hoặc Thanh Văn thừa. Vì các chúng sanh nầy đã trồng các căn lành và những chúng sanh nầy cũng đã đoạn những căn lành. Tuy những chúng sanh nầy đọa vào nơi thoái phần, các chúng sanh nầy ở tại Thắng Tiến phần. Các chúng sanh nầy đã trồng các chủng tử nên được an trí vào nơi hiền thánh. Do nơi phước điền của Phật cho đến sự phát tâm, một lòng kính tin tu hành bố thí. Vì thiện căn nầy mà chư Phật Thế Tôn dùng Phật nhãn để quán sát chúng sanh nầy đã phát tâm rồi. Cho nên từ nơi địa ngục được ra khỏi. Ra khỏi ngục rồi liền đến bờ giải thoát. Sau khi giải thoát rồi, nhớ lại việc xưa tại nơi Phật đó đã trồng căn lành. Sau khi nhớ nghĩ nói lời thế nầy :
Như vậy đó! Bà Già Bà. Như vậy đó! Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy Thiện Nam tử! Vì căn lành nầy mà được quả báo lớn và lợi ích vô cùng. Từ nơi Đức Phật tu hành bố thí trồng các căn lành. Nầy Thiện Nam tử! Người cúng dường ấy sau khi lâm chung, không bị tổn hoại., Giả sử xa xôi cho đến trăm ngàn ức Na Do Tha kiếp, chỉ cần mộtcăn lành kia mà được Niết Bàn cho đến chứng quả Vô Du Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nói về người câu cá, dụ như kẻ phàm phu, ao nước dụ cho biển sanh tử. Lưỡi câu dụ cho nơi Phật mà trồng căn lành. Dây cột dụ cho 4 nhiếp pháp. Người câu cá dụ cho Phật Như Lai. Tùy ý dùng cá dụ cho Như Lai an trí chúng sanh nơi Niết Bàn quả.
Nầy A-Nan! Như thế đó theo thứ lớp mà nên biết. Nếu cúng dường ruộng đất. Giả sử cho đến khi mất đi rồi, phước nầy không mất, cuối cùng không có giới hạn, tất nhiên vào quả Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Ta nay lại tạo thêm thí dụ khác. Nếu cúng dường đất đai được đệ nhất Niết Bàn cho đến Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào tham quả báo của thế gian, làm việc của thế gian, ái nhiễm vui buồn, ưa cầu của thế gian, nhưng nương nơi chư Phật mà tu hành bố thí. Với căn lành nầy hồi hướng thì sẽ sinh vào cõi người cõi trời. Lại có chúng sanh từ nơi Phật mà trồng các căn lành rồi nói lời rằng : Với thiện căn nầy nguyện ta đời đời kiếp kiếp vào chốn Niết Bàn, bất cứ nơi nào. Vì sao vậy ? A-Nan nên biết rằng chư Phật là vô thượng phước điền, không có cỏ úa lại cũng chẳng có gai góc. Lìa xa sự ham muốn nhơ bẩn qua đến nơi thật thanh tịnh. Như thế tronmg các ruộng phước trồng các căn lành phước đức nhỏ và tại ruộng nầy không sanh Trưởng Giả, chỉ có 3 loại Bồ Đề được làm hạt giống. Ủó là Vô Thượng Bồ Đề. Duyên Giác Bồ Đề và Thanh Văn Bồ Đề. Những căn lành nầy cuối cùng chẳng mất. Do sự phát tâm bố thí và kính tín mà làm tăng thượng duyên vậy. Được vào đường lành và các pháp thanh tịnh, có thể chứng nhập vào Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Dụ như Trưởng Giả lúc bán ruộng đất. Tại đất kia không có cỏ úa, không có gai góc và cũng chẳng có ngói sạn, đồ tải dơ bẩn mà chỉ sạch sẽ. Lãy hạt giống mới gieo vào, tất nhiên không hư không hại. Tùy vào thời tiết mà gieo giống xuống ruộng. Tùy theo thời mà tưới tẩm và tất cả lúc đều thường coi sóc gìn giữ. Nầy A-Nan! Khi vị Trưởng Giả làm như thế đó, có lúc đến thăm ruộng kia. Ròi liền nói rằng :
Thật là giống lành! Nếu không gieo xuống, làm sao sanh trưởng. Ta không cầu lợi lại không cầu báo. Nầy A-Nan! Nghĩa nầy thế nào ? Vì sao gọi là ruộng mà hạt giống không sanh, không làm vậy ?
A-Nan thưa : Không phải vậy Bà Già Bà! Không phải vậy Tu Già Đà! Nơi kia có quả; nhưng không là quả thật.
Phật bảo : Đúng như vậy, như vậy đó. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh ưa đắm sanh tử vào nơi 3 cõi mà nơi phước điền của Phật trồng được căn lành như thế thì với thiện căn nầy nguyện ta chưa nên vào Niết Bàn. Nầy A-Nan! Nếu người nầy chưa Niết Bàn, chẳng có nơi nào. Nầy A-Nan! Mà người nầy chẳng vui cầu Niết Bàn; nhưng đã trồng căn lành nơi chư Phật. Do vậy ta nói người nầy tất nhiên vào Niết Bàn và Vô Du Niết Bàn. Nầy A-Nan! Về đến đời sau có vị vua nơi biên đîa, tuy ông ta không thông hiểu công đức Phật Pháp; nhưng khi thấy Tịnh Xá của Phật và hình tượng tâm sanh tin tưởng. Ta từ trong quá khứ nhiều lần đã sanh trong 5 đường, lúc tu tất cả các hạnh Bồ Tát như Tứ Nhiếp Pháp gồm Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự nên đã nhiếp phục vua nơi biên địa kia. Nầy A-Nan! Vua nơi biên địa kia khi xem Tịnh Xá và hình tượng của ta tâm sanh kính tín. Vì căn lành nầy đương nhiên được Niết Bàn và sẽ vào Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Vua ở biên địa kia có các Đại Thần và Vương Tử phò trợ cùng với thân thuộc gần xa và bạn lữ ngay sau khi ta diệt độ đã nhìn thấy Tịnh Xá và hình tượng. Tuy không hiểu rõ về công đức của chư Phật và chánh pháp của Phật; nhưng trồng căn lành nhỏ nầy rồi phát tâm tin tưởng. Ta vốn tu hành Bồ Tát hạnh lại cũng dùng tứ nhiếp pháp mà nhiếp hộ cho ông ta và vì thiện căn nầy mà được gia trì vậy, để vào Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Ta suốt canh thâu có lòng thương tưởng đến chúng sanh, dùng tứ nhiếp pháp suốt đên nhiếp thọ. Vì Phật Pháp mà nuôi dưỡng tâm nầy. Nầy A-Nan! Khi thấy Như Lai trên đường hành đạo hay làm cho xứ cao hạ thấp xuống, người thấp lại cao lên. Cao thấp các nơi lại được quân bình. Sau đó Như Lai trở lại thì tất cả các cây đều hướng về Phật, Thần của cây hiện thân ra đê đầu đảnh lễ Phật. Sau khi Như Lai đi rồi, cây lại hoàn phục. Trên đòi các phía cỏ cây héo úa hư thối, gai góc tòng lâm tất cả đều bị gạch ngói làm hư và tất cả đều được quét dọn. Nghiên trị sửa đổi sạch sẽ không có cỏ rác. Hương thơm, mùi lạ bay đến khắp nơi, các hoa quả làm trang nghiêm đất nầy đẹp đẽ. Bàn chân Như Lai đạp lên đó mà đi. Nầy A-Nan! Hãy biết rằng Như Lai đã tu hành các công đức lành như trên hành trình ấy. Không có chúng sanh nào là không hướng về cúi đầu lễ tạ. Ngay cả các loài vô tình như đất đai, núi rừng, cây cỏ, thuốc men, từ nơi pháp Phật không nơi nào là không hướng về. Vì sao vậy ?
Nầy A-Nam! Ta vốn tu hạnh Bồ Tát và vì các Thầy mình mà hướng về lễ bái, lại như cha mẹ thứ nhứt, tôn trọng hướng về lễ bái. Những bậc Thượng, Trung, Hạ thân hữu cốt nhục không đâu là không hướng về làm chỗ nương tựa nơi Phật là bậc Thiện Trí Thức. Thanh Văn Duyên Giác và cho đến ngoại đạo. Có 5 thần thông như các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, như vậy tất cả đều thọ sự cúng dường. Các Phật Bồ Tát và Thiện Tri Thức. Thanh Văn Duyên Giác, ngoại đạo các Tiên, Sa Môn, Bà La Môn, cha mẹ anh em cùng cốt nhục liên hệ, các bậc Thượng, Trung, Hạ hoặc đồng thầy đồng bạn không ai là không hướng về, khiêm hạ kính lễ.
Nầy A-Nan! Ta đã làm những việc thiện như thế đãy! Cho đến quả vô thượng bồ đề và thành Pah65t. Cho đến các vật hữu tình hay vô tình. Khi Như Lai thực hiện thì không có nơi đâu là không đê đầu lễ bái. Nầy A-Nan! Ta đã từng thanh tịnh vi diệu xưng tán căn bản như thế và tự tay ta đã bố thí cho Sư Trưởng và tất cả chúng sanh. Nầy A-Nan! Đó là những nghiệp báo vậy. Khi Như Lai thực hiện thì đất đai bình đẳng, được quét dọn sạch sẽ trang nghiêm, thanh tịnh không có bùn dơ. Cũng chẳng có gạch ngói. Nầy A-Nan! Ta đã từ nơi vô lượng Đức Như Lai mà thực hành con đường Bồ Tát, Tri Thức, Thanh Văn, Duyên Gaíc, ngoại đạo, các Tiên v.v... Ta từ xưa đã từng quét dọn đường sá, lấy bùn đất để làm nhà, hoặc ở hoặc đi nơi Tịnh Xá Phật, ta đều dùng tâm bình đẳng, tâm không cao ngạo, không nịnh hót, tâm thanh tịnh, tâm tẩy trừ để được thanh tịnh. Ở bất cứ lúc nào cũng cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì tất cả chúng sanh vậy. Cũng vì sự an lạc của tất cả chúng sanh, lại cũng vì lòng thương đối với tất cả chúng sanh, lợi ích an lạc chư thiên nhơn vậy.
Nầy A-Nan! Đây là căn lành. Nếu các Đức Như Lai nơi nơi xứ xứ hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi, nếu có tư duy nhớ nghĩ đến việc làm nầy thì tự nhiên đường sá thanh tịnh, đất đai bằng phẳng. Nầy A-Nan! Như Lai có được những công đức về thân như thế. Thù thắng kho 1biết, không thể lường được. Nầy A-Nan! Ta nay vì muốn đầy đủ nghĩa nầy cho nên làm cho thanh tịnh lòng tin nơi các thiện nam và thiện nữ và từ chỗ Như Lai đã phát sanh tín tâm thâm hậu chưa từng có. Nầy A-Nan! Núi Tu Di cao đến 84.000 do tuần. Trong biển lớn ấy cũng rộng 84.000 do tuần. Nầy A-Nan! Giả sử ta diệt độo rồi, giống như núi Tu Di kiên cố nầy không thể thay đổi được, hà huống các núi đen, cạy cỏ, tòng lâm. Nếu mà không nghiêng, không có nơi như vậy. Nầy A-Nan! Núi Tu Di kiên cố như thế, chung quanh có núi Thiết Di cao 16.8000 do tuần. Núi nầy cũng kiên cố như kim cương. Khi Phật vào Niết Bàn thì không phải không quay về cúi đầu đảnh lễ. Cũng chẳng có người nào dầu xa xôi cũng không phải là không muốn hướng về. Không có nơi nào như vậy. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Lúc ta tu hành hạnh Bồ Tát thì tất cả chúng sanh đều làm xong sự nghiệp, không có biệt ly. Nếu có chúng sanh nào tham si phát triển ta làm cho hòa hợp. Kẻ nào không chịu hòa, có thể làm cho hòa hợp, Kiên cố an trụ đầy đủ không hoại. Tất cả đều sanh tâm từ và tâm thương xót.
Nầy A-Nan! Đây là những căn lành có nguyên nhơn vậy. Như Lai mất đi rồi thì thân thể cũng không thể hoại đi vậy. Cho đếnquyếnthuộc cũng kiên cố không hoại được. Nầy A-Nan! Như Lai cũng hộ trì cho quyến thuộc kiên cố không thể hoại pháp được. Nghĩa là 4 niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý, tóc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Đề phần, Bát Thánh Đạo phần. Nầy A-Nan! 37 phẩm trợ đạo nầy, đây là đại quyến thuộc của Như Lai. Cho nên các chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác an trụ ở trong nầy. Tất cả thế gian, trời người không thể hoại được. Vì sao vậy ?
A-Nan thưa : Phật là Pháp của tất cả thế gian, trời, ma phạm, Sa Môn, Bà La Môn và chư quyến thuộc cùng với Người và A Tu La. Cùng với Tu Di sơn, núi Đại Thiết Vi, đại địa cùng cây cỏ, lúc Phật nhập Niết Bàn, tất cả đều cúi đầu hướng về, làm sao có thể phá hoại được. Nếu có kẻ phá hoại, cũng chẳng có nơi nào. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Thân của Như Lai không thể phá hoại được. Xá Lợi của Phật cũng không thể phá hoại được. Nầy A-Nan! Như Lai thương tất cả chúng sanh cho nên theo bổn nguyện mà lưu lại Xá Lợi nầy giống như hạt giống, để làm cho Phật Pháp được tăng trưởng rộng rãi. Nầy A-Nan! Khi ta tu khổ hạnh, ta phát ra lời nguyện như vậy. Sau khi ta thành Phật rồi và khi vào Niết Bàn ta sẽ để Xá Lợi lại để làm lợi ích rộng rãi vậy. Nầy A-Nan! Theo lời nguyện của ta, sau khi ta diệt độ, hãy đem Xá Lợi mà lưu truyền rộng rãi. Các chúng sanh ấy khi thấy Phật nhập Niết Bàn liền chứng được thánh quả. Phật rất thương những người nầy. Vì thế nên phân Xá Lợi nầy như hạt cải.
Nầy A-Nan! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vào Niết Bàn, lúc ấy cũng vẫn còn thương những chúng sanh ở thế gian. Khi nhập vào Tam Muội, Như Lai cũng định phân Xá Lợi nhỏ ra như hạt cải vậy. Lúc ấy Như Lai không thọ bịnh khổ, tất cả chi tiết phân tán ra thì hay làm cho Xá Lợi giống như hạt cải. Lúc ấy Phật Như Lai chẳng có bịnh khổ gì cả. Cho đến việc thương tưởng nhiếp thọ các chúng sanh ấy. Cho đến nhiếp thọ tương lai cho những chúng sanh nầy. Làm cho họ được an ổn nơi đường lành. Cúng dường Xá Lợi. Tôn trọng nghinh rước, cung kính cúng dường. Mỗi mỗi trang nghiêm, mỗi mỗi hoa hương, xông hương, đốt hương, y phục, tràng phan cho đến các bảo cái, ca vũ âm nhạc. Ta nói rằng họ là những người sẽ chứng quả Niết Bàn cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ 100 năm tại thành Ba Li Phất có vị Quốc Vương tên là A Thâu Ca sanh ra trong dòng dõi Khổng Tước dùng pháp để trị thế. Ông ta đã sinh tâm cung kính giáo pháp của ta. Sau khi kính tin rồi liền đem Xá Lợi của ta quảng bá ra nhiều hơn nữa. Mỗi ngày mỗi giờ đều tạo ra 84.000 tháp để thờ Xá Lợi. Nầy A-Nan! Hãy đừng buồn lo nữa! Xá Lợi của ta đang có mặt khắp nơi trong trời người. Nầy A-Nan! Những người hiện tại đang cúng dường Như Lai av2 sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi nhỏ như hạt cải của ta. Nầy A-Nan! Hoặc trong cơn mơ thấy Tịnh Xá Phật, tâm sanh kính tin. Ta nói người nầy, với căn lành ấy sẽ được vào Niết Bàn. Được đệ nhất Niết Bàn đến tận Vô Dư Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Ở đời vị lai khi có chư Phậ ra đời, không có vị nào là không tán thán công đức tu hành của ta cũng giống như ta hiện nay đang xưng tán công đức của chư Phật trong quá khứ vậy. Chư Phật ở vị lai cũng xưng tán tên ta như vậy. Nầy A-Nan! Khi ta thuyết pháp, nếu có các chúng sanh, đều xa rời dơ bẩn được pháp nhãn thanh tịnh. Nầy A-Nan! Những chúng sanh nầy đã trồng sâu căn lành khi ta tu Bồ Tát hạnh, tất cả đều đã được thành thục. Nầy A-Nan! Nếu có cúng dường công đức cho chư Tăng có hết đi chăng nữa thì cúng dường cho bốn phương Tăng công đức cũng như vậy. Cúng dường Bích Chi Phật công đức không cùng tận thì nơi chư Phật công đức của người ấy cũng không thể cùng tận được.
Lại nữa A-Nan! Như ta đã nói trước, các phước điền tự nó vốn tạo nên công đức, tất cả đều chứng Niết Bàn và vào Vô Dư Niết Bàn. Nầy A-Nan! Những người thân cận cúng dường cho ta, sau khi ta diệt độ cúng dường Xá Lợi của ta. Nầy A-Nan! Nếu có niệm Phật, cho đến có một cành hoa liệng vào trong không trung, ta từ mắt Phật mà nhìn thì kẻ nầy đã có căn lành, không thể so sánh, không thể nói nữa. Nầy A-Nan! Do từ nơi chúng sanh kia đã trồng căn lành và có tâm Phật cho đến cúng dường một cánh hoa, việc ấy cho đến cuối kiếp nầy lưu chuyển mãi trong kiếp sau. Từ đầu đến cuối khó thể biết được. Lúc lưu chuyển như thế vì Như Lai mà phụng tán một cánh hoa, cũng chứng được quả báo khó thể nói, khó thể xưng dương được. Hoặc làm Vua Phạm Thiên, Vua Thích Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh, do căn lành nầy không bao giờ hết vậy, cho đến chứng được Niết Bàn và vào Niết Bàn vậy. Vì sao vậy ? Nầy A-Nan! Vì chư Phật có thần thông lớn từ việc cúng dường một cánh hoa mà chứng được vô lượng phước báo, rộng khắp lợi ích và chứa nhóm nhiều công đức như vậy; khó thể xưng tán, so sánh không thể cùng tận. Tức nhiên sẽ chứng vào cảnh giới Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Nếu có kẻ nào từ chư Phật mà tạo ra công đức như vậy thì phải biết là phước báo ấy. Khó có thể xưng tán, so sánh được. Cho đến việc từ nơi Phật mà phát ra tâm sinh lòng tin, ta nói rằng kẻ nầy rốt ráo là người phạm hạnh, an ổn rốt ráo, cứu cánh rốt ráo vô cùng tận. Nầy nữa A-Nan! Nếu có người con trai hay con gái nào muốn cầu Vua Phạm Thiên, Vua Chuyển Luân Thánh Vương, hộ thế Tứ Thiên Vương, Trời cõi thứ 33, Trời Dạ Ma, Trời Đẩu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại cho đến chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thiết Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và không phải người v.v... Bậc nhứt thiết thế gian chủ, chứng được tự tại, phải nên như vậy mà tôn trọng nghinh đón, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu muốn càu sanh nơi cõi Thanh Văn, cõi Bích Chi Phật, hoặc cầu Vô Thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề, những thiện nam kẻ thiện nữ nầy lại cũng như vậy cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường y phục, ẩm thực, giường nằm, chỗ ngồi, trị bịnh, lầm nhân duyên, cho thuốc. Cho đến lúc đi, đứng, nằm, ngồi lại dùng cành hoa, tẩm hương, thoa hương, hương chiều đàn, nước trầm, tràng phan, bảo cái cúng dường các vị Phật nầy. Sau khi chư Phật diệt độ lại tạo lập tháp miếu các loại trang nghiêm cùng với hương hoa, hương bột, hương thơm, ca vũ, kịch vui cho đến trăm ngàn loại nhạc cung kính tôn trọng khiêm cung cúng dường vì lòng từ bi mà làm cho chúng sanh trong thế gian nầy vậy. Lại cũng làm lợi ích an lạc cho chư Thiên và loài người. Người chưa đắc độ sẽ được đắc độ. Người chưa giải thoát sẽ được giải thoát. Người chưa an ổn sẽ được an ổn. Người chưa Niết Bàn sẽ được Niết Bàn.
Nầy A-Nan! Ta đã dùng năm cọng cây Ưu Ba La hoa để cúng dường Phật Nhiên Đăng, mà từ nơi Ngài, ta đã ngộ được vô sanh pháp nhẫn. Những thiện căn như thế quả báo không phải là nhỏ. Nầy A-Nan! Ta đã từ nơi Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri và cúng năm cành hoa cho đến được những thiện căn phước đức như thế. Các ngươi có muốn biết chăng ?
A-Nan thưa : Chúng con xin hoan hỷ để được nghe. Như vậy Đức Bà Già Bà! Như vậy đó Đức Tu Già Đà! Ngay bây giờ kính xin Đức Thế Tôn phân biệt giải bày. Từ Phật Nhiên Đăng trồng căn lành nầy mà được quả báo. Lúc ấy Đức Thế Tôn thư thả trạch vai phải có màu vàng rồi từ ngón tay nhỏ phóng ra mùi hương của hoa trời Ưu Ba La, bay khắp 3000 đại thiên thế giới chư Phật. Trăm ngàn ức mặt trời, mặt trăng đang chuyển động không thể di chuyển. Lúc ấy Đức Thế Tôn ở trong Trời Người, A Tu La hiện việc kỳ lạ nầy chưa từng có, từ nơi thiện căn ở chư Phật mà được phước báo nên đã thị hiện, không hư dối, không hao tổn. Lúc ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ như vầy :
Chư Phật khó nghĩ bàn
Như Lai pháp cũng vậy
Hay làm cho người tin
Tất được nhiều báo tốt
Loài có tưởng hay không
Tất cả các chúng sanh
Vô lượng trăm ức kiếp
Tất cả nên cúng dường
Từ nơi Bích Chi Phật
Vô Lău A La Hán
Không biết bao nhiêu kiếp
Cúng dường cho tất cả
Chánh Giác đang ở đời
Hoặc Phật Niết Bàn rồi
Cho đến một chắp tay
Phước nầy lớn hơn kia
Giới Phật không phá hoại
Tam Muội được tự tại
Nöi Pháp không nghi hoặc
Mắt Phật không giới hạn.
Nếu kẻ tu hành hạnh từ bi
Trong ngày hoặc đêm thời gian ít
Như vậy cúng dường phước không cùng
Ba cõi không sánh không có được
Trong quá khứ kiếp A Tăng Kỳ
Từ nơi đạo sư của thế gian
Trời người trong ấy làm ánh sáng
Tu các thiện nghiệp không kể hết
A Tăng Kỳ kiếp đang lưu chuyển
Thọ được phước báo không cùng tận
Ta do từ phước ấy lấy làm duyên
Hay được như vậy quả giác ngộ
Ta hay thương xót chúng sanh đây
Từ nơi trăm ngàn ức Đức Phật
Ủời đời thường tu pháp cúng dường
Phật chẳng vì ta thọ ký riêng
Phật kia trong đời người trên hết
Biết ta thiện căn đã thuần thục
Tuy làm việc thiện không ghi lại
Cũng phải cố gắng kiên nhẫn vậy
Ta cũng đã gặp Phật Nhiên Đăng
Cúng dường năm cành Ưu Ba La
Dùng tóc che bùn Phật đạp lên
Tuế ngộ vô sanh chứng pháp nhẫn.
Lúc ấy đạo sư Phậ Nhiên Đăng
Liền thọ ký ta, lên hư không
Nói rằng đời sau kiếp A Tăng
Sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca
Từ đãy sanh tử lưu chuyển lại
Tu hành vô lượng các nghiệp lành
Thương chúng sanh thọ nhiều khổ não
Vì cầu vô thượng ngôi giác ngộ
Ta thấy thế gian quá cô độc.
Thương xót đoái hoài hay bố thí
Phước ấy không hạn, không lường được
Đạo sư giảng nói không cùng tận
Ta vì Bồ Tát hạnh mà làm
Vì các Đức Phật mà thực hiện
Ngày đêm xưng danh và cúng dường
Vô lượng ức kiếp không tính được.
Một hai ba bốn năm đến mười
Hai mươi ba mươi lượt xưng tên
Vì thương chúng sanh mà tu hành
Cuối cùng vì Phật mà cúng dường
Như lúc ta đương tu khổ hạnh
Nhiều khổ vô cùng cũng nhẫn chịu
Ủời đời không bỏ tâm bồ đề
Tất cả các Phật khó sánh được
Ta vì thế gian luôn lưu chuyển
Ủã bỏ trăm ngàn vạn ức đầu
Ủã bỏ đất đai cùng vương vị
Vì cầu nghe pháp nói điều lành
Ta chỉ vì vô thượng chánh pháp thôi
Tâm ta vui cầu khó sánh được
Bố thí, trì giới và nhẫn nhục.
Tinh tấn giác ngộ đến bồ đề
Thế lực chư Phật khó nghĩ bàn
Từ công đức ấy mà thành lập
Hay nói chánh pháp không ngừng nghỉ
Hay làm cho được chứng Bồ Đề.
- Phẩm Trồng Căn Lành thứ 11
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Ngài A-Nan rằng :
Ta từ lúc Phật Nhiên Đăng đến nay, lại cũng đã gặp Đức Phật tên là Liên Hoa Thượng. Ta đã dùng hoa vàng cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu Vô Thượng Bồ Đề vậy. Ta cũng đã gặp Phật tên là Nhứt Thiết Thế Gian Tối Thắng Tự Tại. Ta đã dùng hoa bằng bạc để cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu tất cả chủng trí như vậy. Ta lại cũng đã gặp vị Phật có tên là Cực Cao Hạnh. Ta đã dùng tiền quý để cúng dường Ngài. Vì cầu tất cả bất khả tư nghì trí. Ta cũng đã từng gặp vị Phật tên là Nhựt Thượng Dư. Ta đã dùng các loại trân quý để cúng dường vị Phật nầy. Vì cầu vô chướng ngại trí. Lại nữa ta đã gặp vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ta đã dùng các loại hoa khác nhau để cúng dường vị Phật nầy. Vì để cầu vô thượng Bồ Đề. Lại cũng đã gặp vị Phật t6en là Đế Sa. Ta đã dùng bột chiên đàn để cúng dường Phật. Cũng chỉ để cầu trí không chướng ngại. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Phất Sa. Ta đã có lòng tin sâu cho đến 7 ngày 7 đêm mà mắt chẳng mỏi mòn. Cũng đã có rất nhiều bài kệ để tán thán vị Thế Tôn kia. Lại cũng đã gặp vị Phật khác tên là Tỳ Bà Thi. Ta cũng đã dùng đậu để cúng dường vị Phật ấy. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Thi Khí. Ta đã dùng các y áo giá trị để phụng cúng vị Phật ấy. Lại cũng đã gặp vị Phật tên là Tỳ Xá Phù. Ta đã dùng đồ ăn thức uống để cúng dường vị Thế Tôn kia.
Nầy A-Nan! Tại đầu Hiền Kiếp nầy có Phật tên là Câu Lưu Tôn. Ta từ nơi vị nầy mà tu hạnh thanh tịnh. Vì cầu Tự Nhiên trí. Lại cũng gặp vị Phật tên là Câu Na Hàm Mâu Ni. Ta đã từ nơi vị Phật nầy mà tu hành phạm hạnh. Lại cũng có vị Phật tên là Ca Diếp. Thời ta cũng từ nơi Ngài mà tu hành phạm hạnh. Ta từ nơi chư Phật nầy. Vì cầu A Nậu Đa La Tam Muội Tam Bồ Đề. Vì để độ cho chính mình và độ cho những kẻ chưa được độ, được chứng quả giải thoát. Lại người chưa được giải thoát thì sẽ được giải thoát, chứng được quả vị Niết Bàn. Những người chưa chứng quả Niết Bàn sẽ vào được Niết Bàn. Cho nên ta nay được chư Phật Thế Tôn trong vô lượng A Tăng Kỳ hoan hỷ cúng dường, cung kính tôn trọng, khiêm cung khi tán thán. Đầy đủ vô lượng các công đức lành. Vì cầu chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy A-Nan! Như vậy lần lượt phải nên biết. Tuy trồng nơi chư Phật các thiện căn nhỏ như vậy mà được đại thần thông và lợi ích lớn cùng công đức như vậy. Nầy A-Nan! Ta từ nơi chư Phật mà trồng các cội rễ giác ngộ bất khả tư nghì như thế. Nên nay mới được quả báo bất khả tư nghì như vậy. Không có gì để so sánh được, không địch nổi và cũng không có giới hạn của nó. Hãy nên tin như vậy. Lúc ấy Đức Phật liền tuyên thuyết lại lời kệ rằng :
Ta từ nơi Đức Phật Nhiên Đăng
Gặp gỡ tu hành hạnh giác ngộ
Năm cành hoa xanh dâng cúng Phật
Tức thời thọ ký ta thành Phật
Lại có Phật tên Liên Hoa Thượng
Ta cũng từ đây được giác ngộ
Dùng hoa quý vàng dâng cúng Phật
Vì cầu tối thắng Bồ Đề vậy
Lại cũng gặp Phật Đại Đạo Sư
Vì các thế gian tối tự tại
Cực Cao Thượng Hạnh và Thượng Dự
Thích Ca, Đế Sa, Phất Sa Phật
Tỳ Bà, Thi Khí, Tỳ Xá Phù, Tỳ Xá Phù
Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm
Ca Diếp Phật cùng Phật quá khứ
Ta đều phát tâm việc cúng dường
Lòng thương tất cả chúng sanh vậy.
Vì cầu vô thượng thắng Bồ Đề
Phật kia ngàn ức đều cúng dường
Tích chứa căn lành nầy đầy đủ
Hàng ma thế lực và quyến thuộc
Làm cho không lo, đạo an ổn
Ta chuyển vô thượng bánh xe pháp
Vì chúng sanh chỉ bày chánh pháp
Trời người rồng thảy Khẩn Na La
Vì cầu giác ngộ ta độ cho
Ta đã hiển bày đường an ổn
Vị lai các Phật và Thanh Văn
Nếu muốn cứu độ những người khổ
Hãy nên tu tập việc ta làm. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).30/4/2012.