Monday 31 March 2014

Dẫn nhập lý thuyết về hoà bình.

Bất cứ khi nào mà ta tìm hiểu về mối quan hệ giữa X và Y, một ý tưởng thú vị là ta suy nghĩ trước về X, rồi sau đó có ý kiến về Y, cuối cùng xem mối quan hệ là có phù hợp hay xung đột, hoà ái hay bất ổn hoặc là không quan hệ nhau. Tôi sẽ trình bày theo khuôn mẫu này, nhưng với một trình tự đối nghịch với tựa đề, vì tôi khởi đầu bằng đề tài hoà bình, rồi sau đó thảo luận về Phật giáo. Và bây giờ tôi đi vào một lĩnh vực khá trừu tượng thuộc về một phạm vi của triết học xã hội hơn là các vấn đề cụ thể trong chính trị học đương đại.  

Chính vì thế mà tôi không có ý định thảo luận các lý thuyết về quân bình quyền lực đang đặc biệt chiếm ưu thế tại phương Tây hay các lý thuyết trọng tâm quyền lực đang gây ảnh hưởng mạnh tại phương Đông. Trong một mức độ quy mô hơn, cả hai lý thuyết hoà bình này thuộc về tầng lớp lãnh đạo, phản ảnh mối quan tâm của họ đang độc quyền nắm giữ và sử dụng quyền lực. Những lý thuyết này không phản ảnh tất yếu những lý thuyết về hoà bình. Đúng hơn, tôi sẽ trình bày một nhận thức thật đơn giản để làm khởi điểm: hoà bình là một cái gì đó liên hệ đến một chiều hướng chuyển biến, mà ở đây hiểu theo ý nghĩa hỗn loạn.
Tuy nhiên, hỗn loạn là một cái gì đó thiếu trật tự và hoàn toàn không phù hợp để ám chỉ cho ý tưởng hoà bình. Nhưng điểm chính của hỗn loạn không có ý xấu, nhưng là do sự cực kỳ phức tạp của hệ thống và trong đó có một vài thành tố dị biệt và nối kết gây cho các thành tố này tương tác nhau. Ý tưởng chính là có một thời điểm mà hệ thống có khuynh hướng kết tụ và tạo nên ổn định hơn, từ đó mà một số khuôn mẫu xã hội (thí dụ như các quốc gia, khối liên kết và liên minh) trở nên nhỏ hơn. Khi tập trung vào một chủ điểm của khuôn mẫu, các tương tác này không mang lại được một phạm vi toàn diện hay tạo khả năng, nhưng chỉ có khuynh hướng kết hợp theo khuôn mẫu nào đó và thường là theo một cách đối nghịch và tiêu cực. Về điểm này, hệ thống mới nhìn qua có vẻ ổn định, nhưng thực ra gây nên một cuộc chiến hủy diệt. 
 
Trong lý thuyết xung đột, sự thể này được biết đến như một tình trạng bị phân hoá, khi mà hai đồng minh ra sức chống nhau. Hầu hết mọi tác động xãy ra giữa các siêu cường và thực ra là giữa các nhà lãnh đạo tối cao của các siêu cường. Phiên họp thượng đỉnh là một thí dụ điển hình về kết quả của một cách nhìn sai lạc về xã hội, ngay cả khi cuộc họp này đem đến một thoả ước về giải giới. Cấu trúc đem đến thoả ước có sai lầm đến độ làm cho chúng ta có lý do nghi ngờ về kết quả - dù chiều hướng chuyển biến có ở một mức độ thấp –  Có phải chăng thoả ước giải giới là một màn che đậy, một loại mộng tưởng hão huyền cho một thoả ước về vũ trang?       

Trước một hình ảnh bất ổn này tôi muốn phác hoạ một hình ảnh khác tương tự. Hình ảnh này đề ra một ý muốn là chúng ta cần đem vấn đề hoà bình ra để thảo luận và tìm hiểu, mà đây không phải là hoà bình giữa các quốc gia, mà còn giữa các xã hội, con người và thiên nhiên. Chúng ta phải hiểu là có bốn phạm vi: thiên nhiên, con người, xã hội và thế giới. Trong bốn phạm vi vừa kể, có hai yếu tố là điều kiện tất yếu cho hoà bình: dị biệt (giữa các bộ phận, các khuôn mẫu và các tác nhân) và cộng sinh (giữa các những liên kết tương tác). 

Trong thiên nhiên, dị biệt và cộng sinh sẽ đưa tới sự quân bình về sinh thái. Đối với con người, dị biệt và cộng sinh sẽ làm cuộc sống phong phú và trưởng thành, con người sẽ có khả năng phát huy nhiều đức tính và làm cho các năng khiếu này tương tác nhau. Trong phạm vi xã hội, dị biệt và cộng sinh sẽ đưa tới đa nguyên, tạo cho xã hội thu hút hơn, không làm xã hội phân hoá thành những bộ phận dị biệt, mà tương tác nhau trong phát triển liên tục. Trong toàn cảnh thế giới, dị biệt và cộng sinh đưa tới sống chung hoà bình giữa nhiều hệ thống theo nghĩa tích cực, không phải chỉ có hai hệ thống như lý thuyết Xô Viết đề cập. 

Hơn nữa, cả hai không làm theo cách là đem lại một thứ lý thuyết tuyệt hảo cho riêng xã hội của mình, chỉ thử nghiệm trong một khuôn mẫu xã hội như Xã hội chủ nghĩa, ngay cả khi ta nhìn chủ nghĩa này có khía cạnh năng động trong thời kỳ đổi mới. Hãy để các đặc điểm này kết hợp nhau mà ta mặc định là cộng sinh hay tương thuộc nhau trong mức độ quân bình, tác động nhau theo chiều ngang, không bộ phận nào là có vai trò khống chế hay bóc lột. Điều này không luôn luôn là đúng hẳn trong trường hợp của thiên nhiên, vì cũng có mối quan hệ lợi lộc và mạnh yếu là cộng hưởng, nhưng không nhất thiết là bình đẳng. Do đó, không có một khuôn mẫu nào là lý tưởng cho phạm vi con người, xã hội và thế giới.   

Hình ảnh của hoà bình trong thực tế hiện nay có nhiều dị biệt, điểm này thật dễ nhận ra. Ngay cả trên bình diện lý thuyết, cả phương Đông lẫn phương Tây hiện tại đều có suy nghĩ chung về hoà bình như là một cuộc chiến chống thiên nhiên, hủy hoại sự quân bình sinh thái, mà dị biệt và cộng sinh là điểm cơ bản; nhưng cùng lúc mang laị con người những suy nghĩ đơn thuần, thường là hướng về giáo điều hoặc chỉ theo vật chất, cố tạo ra một hệ thống cho riêng mình để khống chế thế giới. 

Vì thế ta không có hạnh phúc khi thấy tha nhân có nhiều dị biệt, không ca ngợi giá trị của dị biệt, ít cảm nhận được dị biệt là thiết yếu, mà còn tác hại, nếu đó là một khuôn mẫu thống trị xã hội và thế giới. Xã hội và thế giới sẽ phát triển tốt đẹp hơn thông qua cộng sinh giữa các dị biệt, thí dụ như chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Tư Bản hợp tác và cộng sinh nhau, nhưng cũng không nên giả đoán rằng một trong hai chủ nghĩa này sẽ toàn thắng trong trường kỳ. Nhưng vì đây không phải là một ý thức hệ chủ đạo thịnh thời, không thuộc phương Đông mà cũng không thuộc phương Tây.     

Vì dị biệt càng nổi bật và cộng sinh còn nhiều khiếm khuyết mà thế giới chúng ta trở thành một hệ thống giống như đang có chiến tranh, từ đó mà có những nỗ lực kiểm soát bạo lực thông qua việc quân bình các chính sách độc quyền bạo lực. Tuy nhiên, khi một sách lược như thế dựa trên các loại vũ khí tấn công (vũ khí không chỉ dùng để bảo vệ đất nước mà có thể chiến đấu chống và tiêu diệt đối phương). Hậu quả là có chạy đua vũ trang, vì đối phương không tin sự bảo đảm sử dụng vũ khí là cho mục tiêu bảo vệ đất nước. Chạy đua vũ trang chỉ dẫn đến chiến tranh, nếu không trực tiếp giữa hai đối thủ thì cũng gián tiếp khi dùng phía trung gian thứ ba hay thứ tư.

Và đó chính là tình hình của chúng ta - nói một cách ngắn gọn - đúng là một tình huống khó xử. Tất cả chúng ta đều biết rằng chiến tranh với vũ khí hủy diệt hàng loạt, dù sử dụng trong bất kỳ một tỷ lệ nào, không nên xảy ra, điều đơn giản. Vì thế mà triển vọng của chúng ta không quá sáng sủa, nếu nói một cách nhẹ nhàng. Chúng ta đang xây dựng những cấu trúc cho chiến tranh, không cho hoà bình, mức độ dị biệt và cộng sinh quá thấp, mức độ chuyển hướng cho chuyển biến còn quá thấp. Đó chính là khuynh hướng chung hiện nay.

20 Ưu điểm của Phật giáo trong việc góp phần kiến tạo hòa bình

Bây giờ tôi xin bước sang phần hai là Phật giáo. Theo suy nghĩ của cá nhân tôi, nếu nhìn thế giới toàn diện thì Phật giáo là một tín ngưỡng quan trọng, có một thế giới quan gần nhất với một mô hình lý thuyết năng động và cực kỳ phức tạp về hoà bình. Tôi thử phân tích điểm này bằng cách chia làm hai phần: Phật giáo có 20 điểm mạnh hoàn toàn phù hợp với việc theo đuổi hoà bình và có 6 điểm yếu ngăn trở mà tôi sẽ trình bày ở phần sau. Để đúc kết, tôi sẽ đối chiếu mối quan hệ hỗ tương giữa những hình ảnh được trình bày về Hoà bình và Phật giáo.

1. Vô ngã

Điểm cơ bản nhất theo Phật giáo là thuyết Vô Ngã, một tinh thần không chấp ngã nhưng thường hằng. Tôi xem quan điểm này không có nghĩa là phải loại trừ những đặc điểm bất thường, luôn đổi thay, có thể nếu nói một cách ẩn dụ, thì đây là phù hợp với quan điểm tâm linh ở phương Tây trong tinh thần tập thể: đồng cảm với những sinh vật hữu tình khác trong mọi phạm vi. Nhưng điểm cần loại trừ là chủ nghĩa cá nhân, một trọng điểm của phương Tây, khi cá nhân tự kỷ coi mình là độc đáo, cá biệt, không ràng buộc, bảo đảm cho một cuộc sống riêng bất tử theo nghĩa thường hằng.

Điều chắc chắn là thuyết Vô Ngã không loại trừ ý nghĩa về một tinh thần liên đới giữa con người, theo ý nghĩa kết hợp thành nhất thể cuả tất cả mọi con người với những sinh vật hữu tình khác, bất kỳ họ đang ở đâu, không thể kể đến biên giới, tuổi tác, giới tính, chủng loại, quốc gia, giai cấp, hay trong môi trường thiên nhiên, không nhất thiết phải là trong cùng môi trường sống, và cũng không biệt với thú vật. 

Ta có thể nói theo Thiên Chúa giáo thì sự tìm kiếm nhất thể có tính hướng thượng, bắt nguồn từ những cá nhân hiện đang sống ở đây thông qua Chuá Jesus để rồi tiến đến Thượng Đế, (nhưng không ít nhiều cũng phải qua trung gian của Giáo hội, và điểm này cũng còn tùy thuộc vào loại Giáo hội nào).

Theo Phật giáo, sự tìm kiếm kết hợp nhất thể mở rộng trong không gian cho từng cá nhân xuống cho đến các chủng loại khác không thuộc con người (nếu ta có thể diễn đạt lối „hướng hạ“ chung như vậy) vừa thoái bộ và tiến bộ qua thời gian theo những nguyên tắc nghiệp báo và tái sinh. Đây là khái niệm đặc sắc của Ấn Độ giáo về sự chuyển hoá tâm linh cá thể trong thường tại. 

Chính vì thế mà thuyết Vô Ngã với một mức độ cao cả tạo ra được đồng cảm cho tất cả mọi chủng loại từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, ngay cả khi sự kết hợp nhất thể này được coi như là một cái gì đó mang tính nội tại. Đó là đặc điểm mà tôi có ở trong tha nhân và tha nhân có ở trong tôi. Tôi là một tiến trình, cùng liên tiến với những tiến trình khác trong tâm trí, thể xác và cùng chung vấn đề dù bất cứ nơi nào trong quá khứ, hiện tại và tương lai; tùy theo điều kiện mà đã gây hay đang gây vấn đề cho tha nhân.

Thuyết Vô Ngã loại bỏ mọi biên giới, chống lại mọi phân hoá, kết hợp cá nhân, nếu không, thì họ đọ sức nhau trong cuộc đấu tranh để dành sự quan tâm và ân sủng của Thượng Đế khi tìm đến Ngài, nhưng có những đòi hỏi phàm tục hơn nếu khi thấy Ngài bắt đầu suy yếu, một hiện tượng chỉ quen thuộc trong thế giới của người theo đạo Thiên Chúa.

Những người theo đạo Thiên Chúa và hữu thần tìm kiếm sự liên kết hướng thượng với Thượng Đế. Ngược lại, Phật tử mở rộng liên kết với mọi chúng sinh, tha nhân đang sống trong mọi không gian và thời gian. Thiên Chúa giáo có thể phân cách, trong khi Phật giáo, với tinh thần Vô Ngã, chỉ kết hợp.  

2. Bất bạo động

Hậu quả của thuyết Vô Ngã là bất bạo động hướng về mọi chúng sinh, chắc chắn một điều là kể cả thú vật, (đó là lý do tại sao phật tử có khuynh hướng ăn chay). Bất bạo động cũng không nên hiểu theo ý nghĩ vị kỷ hay vị tha. Hai khái niệm này đề ra rằng ích kỷ chỉ cố tối đa hoa lợi lộc của mình, ngay cả khi người khác phải chịu phí tổn, trong khi người vị tha lại cố làm tối đa hoá lợi lộc cho người khác hưởng, ngay cả khi mình phải chịu phí tổn.

Trong phạm vi của thuyết Vô Ngã, bất bạo động phải được hiểu là một quy luật không làm thương tổn tha nhân bởi vì làm thương tổn tha nhân cũng là làm thương tổn chính mình, tất cả chúng ta cùng một chủng loại, cùng là một phần trong tiến tình tương tác nhau, tất cả liên hệ với tôi trong cùng một thời gian và không gian. 

Theo Ghandi, tư tưởng này cực kỳ quan trọng, sự kết hợp nhất thể trong con người và trong cuộc đời trở thành lý thuyết chính mà ông dựa vào đó để làm nền tảng. Hiển nhiên, tinh thần bất bạo động có ảnh hưởng quan trọng trong việc kiến tạo hoà bình, nhưng vấn đề là có một vài nơi trên thế giới có tinh thần bất bạo đông, còn có nơi khác thì không. Chính vì thế có một lập luận cho là ít nhất phải có một chiến lược trung gian hướng về một thế giới cần được khai sáng nhiều hơn: đó là khái niệm phòng thủ tự vệ. 

3. Từ bi

Bất bạo động là lối diễn đạt tiêu cực. Thực ra, trong ngôn ngữ Sankrit bất bạo động có nội dung ít tiêu cực hơn. Lối diễn đạt này xuất phát từ Ngũ giới mà hầu hết là không được phép làm (không được tự tử, sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và dùng rượu). Ngũ giới phải được hiểu chung với Ngũ pháp, năm hành động theo ý nghĩa tích cực. Một trong năm Ngũ Pháp này là Từ Bi, mà ta có thể diễn dịch là lòng thương cảm. Nói khác đi, ta không những chỉ từ bỏ bạo lực mà còn mở rộng lòng thương cảm đối với mọi chủng loài bất cư nơi đâu. Bốn hành động khác là hướng thiện gồm có việc không buôn bán vũ khí và ruợu, kiểm soát dục tính và đam mê, nói sự thật và tỉnh thức - trong ý nghĩa là từ bỏ mọi bất cẩn và vô tâm. 

Theo quan điểm lý thuyết hoà bình, điểm này quan trọng. Theo trọng tâm của Phật giáo thì điểm cơ bản không phải là hoà bình theo nghĩa tiêu cực mà tích cực, không phải chỉ có sự vắng mặt của chiến tranh mà có mối quan hệ tốt đẹp, không phải chỉ có Ngũ giới mà còn có Ngũ pháp.

4. Cộng sinh. 

Tư tưởng chính của Phật giáo là chúng ta có một tài sản đạo đức chung. Phật tính là một đặc điểm chung mà chúng ta có thể cùng nhau đạt được. Mục tiêu của chúng ta không là tự thực hiện trong tinh thần cá nhân thường hằng, mà tự thực hiện cuả tất cả, bởi vì chúng ta gắn bó nhau trong mối quan hệ nhân quả có điều kiện. 

Lối suy nghĩ này không thể áp dụng cho phạm vi toàn thế giới. Phúc lợi, tăng trưởng và an ninh của các nước khác cũng chính là phúc lợi, tăng trưởng và an ninh cho đất nước của tôi. Nếu tôi làm tổn hại cho cá nhân hay tập thể khác, thì chúng ta không thể nào cùng nhau phát triển chung, kể cả việc gặp gỡ nhau. Tôi có thể chiến thắng đơn độc, nhưng đó cũng là cho tất cả.

Trên nguyên tắc, loại suy nghĩ này sẽ dẫn lối tới chuyện mua bán mà tôi cố xây dựng với người khác qua những thoả thuận để hợp tác, thay vì cố gắng tối đa hoá lợi lộc của riêng mình trong ngắn hạn. Kế toán quốc gia hiểu theo nghĩa thặng dư hay thâm thủng mậu dịch và lợi tức tính theo đầu người dựa trên tổng sản luợng quốc gia trở thành vô nghĩa, khi ta không quan tâm tới sự tương thuộc thế gian. Đây chỉ là lối diễn đạt về tinh thần vị kỷ trong thế giới, chỉ coi đất nước mình là trọng và vĩnh cữu. Một tài sản đạo đức tập thể sẽ hướng chúng ta tới tinh thần cộng sinh và bình đẳng. 

Hậu quả khác là lý thuyết không những hướng về an ninh chung (thí dụ như Uỷ ban Palme) nhưng còn về hợp tác an ninh. Ý kiến này có thể định hình cho những thể chế quốc tế thí dụ như Lực lượng Duy trì Hoà bình Liên Hiệp Quốc. Hiện nay, quan trọng hơn có lẽ là những nỗ lực nhằm xây dựng an ninh riêng mà không giảm bớt an ninh của nước khác, thí dụ như thông qua hệ thống với vũ khí phòng thủ hơn là tấn công.

Tóm lại, trong lý thuyết hoà bình, lối suy nghĩ tập thể định hình cho một hình thức "an ninh của tôi là an ninh của anh và ngược lại", suy nghĩ này đưa tới một khái niệm kết hợp hơn là loại trừ. Quan điểm này cho thấy phải vượt qua mục tiêu quá giản lược là chỉ lo về giải giới như là con đường dẫn tới hoà bình.

5. Dị biệt

Cơ bản của Phật giáo là lòng bao dung, một phương châm nổi tiếng trong 84 ngàn pháp môn. Lịch sử cho thấy là không có một nơi nào gọi là một trung tâm chính thức để bảo vệ giáo lý Phật giáo, cũng không có toà án dị giáo và chiến tranh liên tôn. Nhưng Phật giáo có lòng bao dung đối với các tín ngưỡng khác, tạo cho tôn giáo khác có điều kiện kết hợp với Phật giáo trong một tầm mức rộng lớn hơn, hoặc ít nhứt cũng có thể sống chung với Phật giáo. Phật giáo theo thuyết đa nguyên hơn là đơn thuần, ngay cả khi có ý tưởng giúp các tôn giáo bạn. 

Đó là ý nghĩ hợp nhất trong đa dạng; nhưng cũng có đa dạng trong hợp nhất được giả định. Có sự cộng sinh trong dị biệt như người ta chứng kiến khả năng phật tử có thể kết hợp các loại suy nghĩ khác trong cách tư duy của mình. Trước tình trạng dị biệt của những hình thái xã hội và thái độ con người thì lý thuyết hoà bình muốn nó đặt thành những điều kiện kiên định trong hệ thống. Nếu lý thuyết áp dụng được trong mối quan hệ cộng sinh, thì nó sẽ không những phù hợp cao độ với tư tưởng Phật giáo mà còn trong tu tập, nhất là tránh được những đường lối đối nghịch cực đoan. Đó là việc mưu tìm hợp nhất cho phù hợp với lý thuyết và hành động.

6. Lý thuyết trung đạo

Thuyết Trung Đạo là một phương hướng cụ thể cho cuộc sống. Điểm chính của thuyết này là không quá nhiều hay quá ít, một cách giúp cho Phật tử có khuynh hướng không cực đoan. Trong phạm vi thái độ và tín ngưỡng, phương cách này bao gồm một khuynh hướng xa rời mọi thái độ cực đoan, rất hữu ích giúp cho phật tử cũng như tín hữu Quakers trở thành những người làm nhịp cầu nối kết. Phật tử dễ làm người trung gian để tiếp xúc cho các phần tử cực đoan, đưa những phần tử này hướng về một quan điểm Phật giáo thực dụng hơn, giúp họ cảm nhận là quan điểm cực đoan chỉ là những nhận thức phiến diện.   

7. Thực tành trung đạo 

Thực hành là một biểu hiện cụ thể điểm trung đạo vừa nêu. Trong cuộc sống vật chất, thực hành điểm này có nghĩa là không thể có quá it khi chưa đủ để thoả mản cho những nhu cầu cơ bản, mà cũng không thể tích lũy quá nhiều nhằm sang giàu, điều nên tránh. Trong đời sống tâm linh, điều này có nghĩa là không nên làm tự hành hạ làm khổ mình mà cũng không nên tự bung lung cẩu thả. Ảnh hưởng cuả lối sống này tạo cho xã hội tương đối công bình, ít quan tâm đến lý tưởng làm giàu vật chất do bóc lột hay thụ đắc, cẩn trọng hơn đến sinh hoạt kinh tế, không làm cho tha nhân bị mất cơ hội đạt được một cuộc sống trung dung.

Để giữ nguyên tắc kết hợp nhất thể, con người sẽ đóng một vai trò cơ bản trong mối quan hệ. Dù chúng ta thấy đây là một lý thuyết xã hội, nhưng cũng có thể là một lý thuyết áp dụng cho các quốc gia trên thế giới: không một quốc gia nào phải chiụ tiêu thụ quá ít, mà không quốc gia nào được tiêu thụ quá mức. Nói một cách cụ thể hơn, không quốc gia phải tiêu thụ quá ít, vì bị quốc gia khác tiêu thụ nhiều đến độ không còn gì.

Một lần nữa, theo lý thuyết hoà bình, quan điểm này đem lại một cơ sở vững chắc cho những chính sách hoà bình tích cực dựa trên công bình, và hình thức bình đẳng trong mọi trao đổi làm cho nguyên tắc bình đẳng không bị thương tổn, vì dựa trên thái độ hợp tác cộng sinh. Vì dựa theo triết lý Phật giáo mà có người còn cho là lý thuyết công bình cần mở rộng định nghĩa cho trộm cắp, phù hợp hơn với khái niệm bóc lột, nhưng thật ra đây là điểm còn cần tranh luận.    

8. Hiệu năng với quy mô nhỏ    

Nếu chúng ta chấp nhận cần có một khuôn mẫu hợp tác để hướng về Phật tính, để nhân sinh tương tác trong thường hằng, cùng tương trợ nhau, điều này chỉ có ý nghĩa trong những đơn vị có quy mô nhỏ. Ngay cả một phong trào Phật tử đại chúng như Soka Gakkai, với những cuộc biểu tình rầm rộ, dường như cũng cho thấy là họ chỉ thành công nhất trong những nhóm nhỏ có quen biết. Nói chung, lối suy nghĩ này là tiêu biểu trong phái Tiểu Thừa hơn là Đại Thừa, mà phong trào Soka Gakkai là một thí dụ. 

Theo lý thuyết hoà bình, những đơn vị xã hội có quy mô nhỏ trong bốn phạm vi (thiên nhiên, con người. xã hội và thế giới) dường như được nhiều an hoà hơn, vì trong đó có một cơ chế điều hướng mà người ta có thể nói cho nhau nghe điều sai lầm, chịu đựng chung hậu quả của tranh chấp và hưởng chung những lợi lộc do hợp tác đem lại. Trong những xã hội đại chúng mà cá nhân bị phân tán trầm trọng, giữ khoảng cách với giới có quyền thế, khó có một cơ chế điều hướng như vậy. 

Nói chung, Phật giáo có khuynh hướng quan tâm đến những đơn vị có quy mô nhỏ trong tổ chức xã hội, và những đơn vị nhỏ này ít có chống đối nhau hơn các tổ chức lớn, nếu không kể đến có những lý do khác thì đơn vị nhỏ có ít phương tiện sinh ra những hoạt động phá hoại. Nhóm nhỏ tạo cơ sở tốt hơn cho việc phát huy tình huynh đệ như là những điều kiện cho nhân tính - con đường dẫn đến Phật tính, mẫu mực tốt đẹp cho sự kết hợp lý thuyết hoà bình và tu tập theo Phật giáo.  

9. Tính tổng thể 
 
Phật giáo không có khó khăn trong suy nghĩ cũng như hành động cho phù hợp theo bốn phạm vi vừa kể, không chấp nhận phân hoá, nhân tạo, giả tạo của sự kết hợp rộng lớn thành nhất thể của sinh hoạt hữu tình. Tuy nhiên, trong bốn phạm vi này, tôi thấy cần giải thích một lần nữa là Phật giáo trong giáo lý cũng như trong tu tập có sức thuyết phục nhất trong hai phạm vi con người và thiên nhiên, và ít được triển khai như là một loại sách cẩm nang về tư tưởng và thực hành cho phạm vi xã hội và thế giới.

Dù trong Phật giáo có thiếu một cách tương đối về mặt lý thuyết cho thế giới và xã hội, nhưng khó khăn này được vượt qua dễ dàng nhờ sự đóng góp của các phật tử hiện nay và kể cả của các triết gia. Dù điều kiện cơ bản đã đạt được, nhưng chuyển hướng về sự kết hợp nhất thể không đưa ra một giới hạn nào trong nguyên tắc giữa các phạm vi để nói rằng: "Đây không phải là mối quan tâm của tôi". 

Thực vậy, Phật giáo không có đặc điểm siêu hình mà là một triết lý đạo đức được chứng nghiệm, không có một phạm vi cho mặc khải thần thánh để phân biệt với con người. Đức Phật đạt được một sự tĩnh thức sâu xa, nhưng Ngài cũng là một con người. Khi các tôn giáo phương Tây triển khai thần học như là một khoa học thần thánh, thì triết lý Phật giáo (nếu gọi tương phản là Thần học Phật giáo) được tự do hơn khi đặt trọng tâm vào thế giới này trong quan điểm nhất thể.

Trong lĩnh vực triết học, tâm lý học, y khoa và dinh dưỡng, nguyên tắc này mạnh nhất, trong khi trong lĩnh vực xã hội học, kinh tế học và quan hệ quốc tế thì nguyên tắc này yếu hơn. Nhưng không có gì cản trở cho các nhà tư tưởng Phật giáo tiến bước trong các lĩnh vực trên theo nguyên tắc này.
 
10. Đại chúng

Về phương diện lịch sử, Phật giáo có khuynh hướng trở thành một tôn giáo của đại chúng, hoặc là một hệ thống tín ngưỡng của toàn dân, một phong trào cho đám đông, không là tôn giáo cho giới thượng lưu hay quyền thế. Thực vậy, Phật giáo bị đưa ra khỏi Ấn Độ vì không thích hợp với khía cạnh giai cấp của Ấn Độ Bà La Môn giáo.

Ở Nhật Bản, giới lãnh đạo đã thích nghi với Thần Đạo, một quốc giáo mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc và đối kháng, xem như là một chuyển hướng cơ bản, cộng thêm với Thiên Chúa giáo. Tại Đại Hàn, và cũng có một phần tại Trung Quốc, giới lãnh đạo bám chặt lấy Thiên Chúa giáo, giới trẻ sau này cũng tiếp thu các quan điểm Tự do, Bảo thủ và Mác Xít. 

Tại Đại Hàn ngày nay, người ta còn thấy trong giới lãnh đạo có người theo Thiên Chúa giáo quá khích tại miền Nam và Mác xít cực đoan tại miền Bắc, và Phật giáo có ảnh hưởng lan rộng trong dân chúng - cũng có thể có ở miền Bắc.

Điều này biểu hiện một tiềm năng to lớn cho chính sách hoà bình nếu những nhà lãnh đạo chịu nhường bước hoặc tự hoà giải trước sự thôi thúc chung của người Đại Hàn về việc thống nhất. Lấy Phật giáo làm kim chỉ nam, một chính sách hoà bình liên hợp của hai phiá dựa trên giáo lý Phật giáo tạo được một nền tảng vững chắc theo điều kiện có sự tham gia của đại chúng. 

Nhưng Phật giáo tại Đại Hàn suy yếu, cũng có thể là vì quá tham nhũng và chống lại sự chinh phục của Thần đạo Nhật. Đó có thể là lý do tại sao giới lãnh đạo đáp ứng lại tình hình bằng cách bám chặt theo lối suy nghĩ cứng rắn của phương Tây.

Tư duy của phương Tây thường có khuynh hướng ít nhiều dựa trên cơ sở cá nhân, tự khằng định mình theo niềm tin của người tín hữu Thiên Chúa giáo, theo thuyết Tự Do hoặc theo thuyết giai cấp của Mác Xít.   

11. Đấng sáng thế và hoà bình

Theo Phật giáo không có sự phân biệt giữa Đấng Sáng Thế và người được thụ tạo - một điểm chính trong Phật giáo là sự thống nhất giữa cá thể trong tất cả (và không chỉ có hình ảnh một con người đơn nhất của thế giới). Từ quan điểm lý thuyết về hoà bình, điều này có nghĩa là chúng ta phải dựa vào chính chúng ta mà thôi. Phật tử không hy vọng đạt được sự an hoà bằng cách đổi lại phải vâng lời Đấng Tối Cao, xem đây như là một phần ân huệ do Ngài ban phát.

Khi nỗ lực cho lý tưởng, phật tử cũng không bị ngăn trở giống như: 'Nếu Đấng Sáng thế muốn có bình an, Ngài sẽ ban cho sự bình an'. Hoà bình phải là những hành động của chính chúng ta, như là một phần trong tiến trình sáng tạo thế gian được tao ra do các sinh vật hữu tình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hoà bình không phải là quà tặng, mà là kết quả khả dĩ của một hành động tập thể có ý thức sâu xa.

12. Mối quan hệ gắn bó

Trong Phật giáo, ít có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Không phải chỉ có chúng ta quan sát thế giới mà còn có thế giới quan sát chúng ta. Chúng ta nằm trong thế giới mà còn thuộc về một thành phần của thế giới. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là có một quan hệ biện chứng đang xãy ra khi chúng ta ảnh hưởng thế giới và thế giới ảnh hưởng chúng ta. Hoà bình không phải là một cái gì đó mà chúng ta tạo ra bằng cách định hình cho thế giới, hoà bình cũng là một cái gì đó mà thế giới định hình trong chúng ta trong tiến trình.

Nhiệm vụ của chúng ta là sử dụng biện chứng này một cách tích cực nhất. Và điều này không thực hiện bằng cách như phương Tây đề ra các câu hỏi thí dụ như: "Chúng ta bắt đầu từ đâu để thay đổi thế giới hoặc là để thay đổi chính chúng ta?" Phật tử không làm như vậy, nhưng bằng cách cổ vũ cho tất cả mọi tiến trình thay đổi trong cả bốn phạm vi thiên nhiên, con người xã hội và thế giới cùng chuyển động.
 
13. Vô thường
Theo tư duy Phật giáo, có tính vô thường trong vạn vật. Thế giới và vạn vật tăng và giảm mức độ, không luôn ở một dạng cứng ngắc của một cấu trúc tổng thể - nhưng đúng hơn là giống như một tiến trình dựa trên dị biệt trong mối tương tác để cộng sinh. Khi cố làm cô động lại thế giới trong một hình thái độc nhất và vĩnh cửu, nỗ lực này vô nghĩa.

Dù theo bất cứ một kế hoạch nào để kiến tạo hoà bình, kế hoạch này phải là một tiến trình, không thể là một kế hoạch thuộc về cơ cấu. Theo quan điểm về lý thuyết hoà bình, kế hoạch theo tiến trình thực tế hơn là theo cấu trúc, vì đề ra chuyện lâu dài mà hoà bình có thể hình dung ra được, không chỉ cứ xét đến các đặc điểm của bốn phạm vi trong tổng quát và còn trong sự tương tác trong từng phạm vi chuyên biệt.

14. Tương tác

Theo tư tưởng của Phật giáo, sự tương tác luôn đến từ hai chiều. Ý thức của tôi đang hướng về thế giới và thế giới đang định hình ý thức của tôi. Muốn thành đạt bất cứ điều gì, chúng ta không bao giờ cố tiến hành trên một con đường thẳng, đẩy mạnh đòn bẩy, mà quên rằng mọi tác động luôn có phản ứng.

Chúng ta cũng không nên cố dùng một đòn bẩy để làm chuyển động phần còn lại của toàn hệ thống, mà đúng hơn là nên làm chuyển động từ mọi các góc cạnh trong cùng một lúc. Thay vì chỉ đẩy mạnh một chiều, tốt hơn cần phối hợp nhiều nỗ lực nhỏ, nhưng theo nhiều chiều hướng trong cùng một lúc, khởi đầu từ mọi góc cạnh của thực tại từ vật chất đến tinh thần, nhưng luôn nhớ rằng hệ thống sẽ phản ứng trong một mạng lưới phức tạp. Hoà bình không phải chỉ là bất khả phân; hoà bình, phát triển, và quân bình kinh tế là bất khả phân. Toàn bộ lý luận của hệ thống phải thay đổi theo theo tiến trình tác động và phản ứng để kiến tạo hòa bình có kết quả hơn.  

15. Mâu thuẫn

Theo Phật giáo, thế giới có nhiều tương phản, phương cách tiếp cận có nhiều nghịch lý. Vì thế mà suy nghĩ của người Trung Quốc hiện nay có đặt ra 'một quốc gia, hai hệ thống', - có nghiã là vừa có Xã Hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghiã trong cùng một quốc gia. Cộng Hoà Nhận Dân Trung Quốc về cơ bản là một quốc gia theo Phật giáo và có nhiều tôn giáo, nhưng chắc chắn là không phải là quốc gia theo Mác xít, với một hệ thống giáo điều thẳng tấp một chiều như phương Tây. 

Theo quan điểm lý thuyết về hoà bình, không nên chống lại tất cả mọi tương phản, cố tạo thành một hệ thống thuần túy, việc này sẽ gây ảnh hưởng. Đa dạng với mọi loại tương phản là chuyện có thể, ngay cả còn là điều mơ ước. Điểm này cực kỳ quan trọng, vì chúng ta sẽ luôn luôn sống trong một hỗn hợp của các hệ thống với những cách lý luận khác biệt. Hướng về một thực tại không có mâu thuẫn sẽ là vô nghĩa theo triết lý Phật giáo, vì Phật giáo thấy sức tác động của nguyên nhân đến từ muôn hướng.

16. Pháp luân

Tư tưởng của Phật giáo kết hợp như một pháp luân. Nó không theo mô hình kim tự tháp và suy diễn từ những nguyên tác đầu tiên. Từ những tư tưởng dị biệt như tôi đã đề cập ở trên, thì không có một nguyên tắc nào được coi như là nền tảng hơn các nguyên tắc khác. Đứng hơn, những nguyên tắc này được kết cấu xoay quanh như một bánh xe, mà chúng ta cần tìm hiểu là mọi đường lối có thể tạo được những điểm nối kết chung (có điều nguy hiểm là dễ đưa chúng ta tới tình trạng song phương, chỉ luôn nhìn hai điểm trong cùng lúc, mà đúng ra có thể là ba, hay bốn hoặc nhiều hơn).

Không có điểm nào là nền tảng hay chung quyết tạo niềm tin, mà đúng ra toàn bộ hệ thống mở ra những điểm mới, có nghĩa là ta cần những phương cách tiếp cận mới. Khi bánh xe pháp luân Phật giáo xoay chuyển qua thời gian, những điểm nối kết mới sẽ mở ra những mạng lưới mới chặt chẽ hơn về tư tưởng và hành động. 

Chung cục, tổng thể cuả pháp luân chính là vấn đề, một phương cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc nhất thể và năng động - đối nghịch với phương cách suy diễn theo mô hình kim tự tháp nhằm kết hợp với những nhận thức rời rạc hay những phát minh.
17. Lạc quan

Tư tưởng của Phật giáo cực kỳ lạc quan. Có Phật tính trong tất cả chúng ta, nếu chúng ta thực hiện Phật tính và tự thân nỗ lực. Không có ai ở bên ngoài khác hơn. Nhưng có sự dị biệt giữa Đại Thừa khi nhấn mạnh diệt khổ và Tiểu Thừa khi nhấn mạnh hạnh phúc.

Vì thế, có lập luận cho rằng Tiểu Thừa hướng nhiều hơn về hoà bình tiêu cực, trong khi Đại Thừa chú trọng hơn về hoà bình tích cực.

Vì cả hai là những thành tố của khái niệm hoà bình năng động, sự dâng hiến của Phật giáo cho thế gian phải là sự kết hợp giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, xem cả hai phương cách tu tập như là những khuôn mẫu cho sự dị biệt, và hãy để cả hai tương tác nhau theo cách cộng sinh nhau. Đúng đây là một thách thức cho Phật giáo.

18. Tuần hoàn.

Quan điểm Phật giáo về tiến trình có tính tuần hoàn hơn là theo một tuyến tính. Không có một bảo đảm chính xác nào rằng mọi sự thể sẽ tốt đẹp hay sẽ diễn biến tồi tệ. Có sự thăng trầm trong bốn phạm vi, sự tình có khi thăng, có khi giảm, và ngược lại, (hoàn toàn đối nghịch với Thiên đường và Điạ ngục theo thần học Thiên Chúa giáo, khi xem cả hai là điểm chung cục trong sự tiến hoá của con người, một điểm mà người ta không còn chổ thoái lui).

Từ trên quan điểm lý thuyết về hoà bình, thuyết tuần hoàn có thể giúp cho Phật tử ngăn ngừa mọi lạc quan thái quá khi sự thể tốt đẹp hay bi quan cùng cực khi khi tình huống xấu đi, mở ra một vị thế trung dung trong quan điểm này. Mặt khác, đặc biệt trong Đại Thừa, có một sự lạc quan chừng mực thúc đẩy cho quan điểm tuần hoàn có yếu tố thăng tiến theo tuyến tính, như một cách chuyển động theo hình vòng xoắn.  

19. Nỗ lực liên tục

Điểm chủ yếu trong triết học Phật giáo là nỗ lực tiếp nối, tự cải thiện, và tinh thần cầu tiến không ngừng, đó là những điểm tất yếu mà còn khả thi, và - trong trường kỳ -, đầy đủ. Người ta không kỳ vọng từ một hành vi thuộc về đức tin, hay do sự thuần phục hoặc ân sủng do nơi cao cả hoặc các hành vi này là hữu ích theo ý  nghĩa nào đó (nhưng có một ngoại lệ trong Phật giáo A Di Đà).

Nhiều nỗ lực siêng năng là cần thiết, - một lối suy nghĩ hoàn toàn phù hợp với lý thuyết hoà bình. Hơn thế, hoà bình không phải là tình trạng tối hậu ở cuối con đường, ổn định và tự tin khi đạt được, nhưng chỉ là một nỗ lục còn tiếp nối, nếu có thể. 

20. Niết bàn

Và cuối cùng, mục tiêu tối hậu của Phật giáo cho con người là Niết Bàn, một nơi được coi như một khuôn mẫu để chuyển hướng trong mọi chuyển động. Khái niệm này không thể diễn dịch như tình trạng hủy diệt hay dập tắt hay các hình ảnh ẩn dụ tương tự khác trong các lối trình bày của phương Tây.

Đúng hơn, nên coi Niết Bàn là một loại thực hiện lý thuyết kết hợp nhất thể trong tất cả, một loại tự thực hiện khi đạt được tinh thần Vô Ngã với tâm trạng hạnh phúc hằng cữu. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý tuởng về hoà bình như tôi đã trình bày ở trên trong phần giới thiệu khái quát về lý thuyết hoà bình. Niết Bàn là một chuyển hướng trong chuyển động, hoà bình cũng là một chuyển hướng trong chuyển động. 

Do đó, trong một ý nghĩ nào đó, hoà bình là thiên đàng và thiên đàng là hoà bình. Biên giới được loại bỏ, khi sự kết hợp nhất thể đã đạt được. Và 19 điểm vừa nêu trên được cụ thể hoá ở điểm 20.   

Sáu khuyết điểm của Phật giáo làm ngăn trở hoà bình

Nhưng Phật giáo cũng có những khuyết điểm mà ta giải thích được tại sao không có đóng vai trò quan trọng như là một yếu tố kiến tạo hoà bình, một điểm chắc chắn Phật giáo có tiềm năng thực hiện.

Sáu điểm sau đây sẽ minh chứng cho vấn đề. Những ai sống trong các nước theo Phật giáo có thể thấy được nhiều hơn.
1. Khoan dung với quân phiệt  

Khoan dung là điều tốt, nhưng khoan dung Phật giáo đưa tới chỗ quá mức độ, thí dụ như trong những chế độ quân phiệt dùng cực kỳ bạo lực - như trong trường hợp Nhật Bản nơi mà phật tử cũng bám chặt dễ dàng Thần Đạo và kết hợp với Khổng giáo một cách cực kỳ nguy hiểm và trợ lực cho giới quân phiệt của Nhật (lối tự tử kamikaze của cảm tử quân là một thí dụ rõ nhất). Một truờng hợp khác mà chúng ta nhớ tới là sự hỗ trợ của phật tử cho chế độ quân nhân tại Thái.

2. Bất động trước bất công

Khoan dung là điều tốt, nhưng Phật giáo lại khoan dung quá mức cho những hệ thống sử dụng bạo lực thành một cấu trúc, thí dụ như trong các chính sách kinh tế, làm cho thuyết Trung Đạo không thể thực hiện được. Kết quả là có một mặt có tầng lớp tận cùng nghèo đói, mặt khác có tầng lớp cực kỳ giàu sang mà phật tử không tranh đấu chống lại hệ thống, điểm tất yếu, vì đó có thể là nỗ lực để thực hành thuyết Trung Đạo. Một lần nữa cho thấy Nhật Bản là một tấm gương cho cho chính sách kinh tế này. 

Nếu xét về phương diện quốc tế, Nhật tự tích luỹ giàu sang trong khi các nước quanh Nhật chiụ cảnh nghèo, kể cả tận cùng khổ cực. Nhưng cùng lúc cũng nên đề cập thêm rằng sự phân phối lợi tức tại Nhật lại là một trong những nước công bình nhất trên thế giới. Chỉ số về công bình biến đổi rất ít qua thời gian - điều này có nghịã là thăng trầm trong lợi tức đối với tầng lớp lãnh đạo và dân chúng đến từ những cách sống nhiều hơn. Trong một chừng mực nào đó, có thể quy cho việc cả hai yếu tố này ảnh hưởng về tư tưởng và tu tập của Phật giáo trong nước. 

Điểm này có thể cho thấy rằng, nếu theo ý nghĩa này, Phật giáo là một lý thuyết xã hội nhiều hơn là thế giới, trong khi các lý thuyết quan trọng đề ra những khuôn mẫu thái độ trong thiên nhiên và cho con người, thì Phật giáo có tác động ít hơn, vì cho phạm vi cá nhân hơn là vĩ mô. Như tôi đã đề cập ở trên, Phật giáo có nhiều ưu điểm khi đề ra có nhiều phạm vi liên hệ nhau. 

Điểm này dễ đưa đến sự mù quáng gây ra bao dung quá mức trước những hành vi đầy bạo lực trong các phạm vi khác. Một sĩ quan cùng chia sẽ hiểm nguy và đối xử tốt đẹp với binh sĩ trong khi lại nỗ lực tàn bạo để dẹp tan quân thù, giám đốc doanh nghiệp cùng chia lương, quyền lực và ưu quyền với nhân viên nhưng lại bóc lột những doanh nghiệp đối tác qua hợp đồng và thị trường hải ngoại không thương xót, đó là thí dụ.

3. Cách biệt xã hội

Ý tưởng cho là làm việc trong những đơn vị nhỏ gần chùa, bên giếng nước, trong thôn làng dưới sự hướng dẫn của sư tăng là điều tốt đẹp. Trong Tam Bảo thì Phật và Pháp luôn luôn có trong lòng đại chúng, nhưng Tăng bị đặt ra bên lề xã hội. Sư tăng, có điều kiện sinh hoạt hoành tráng nhưng còn là các đơn vị nhỏ, tách biệt với xã hội, điều này có nghiã là cả hai đặc điểm vừa huy hoàng vừa cách biệt chính là tạo cho sư tăng thực hành từ bi và bất bạo động với chính các sư tăng, (không đến giữa lòng xã hội). 

Phật giáo trở thành phạm vi riêng biệt, dù không theo ý nghịã cá nhân hoá, nhưng theo ý nghĩa chỉ thuộc về sinh hoạt chung cho một nhóm nhỏ, một cách khởi động hợp tác chung để tu tập hướng về Phật tính. Ảnh hưởng của một xã hội vĩ mô bị xao lãng, có tác dụng tiêu cực khi đem cá nhân xa rời con đường tiến tới Phật tính thoát khỏi sinh hoạt tuần hoàn trong xã hội.

4. Thoả hiệp để tu tập 

Phật giáo dễ dàng chấp nhận là giới lãnh đạo đất nước áp dụng đường lối đối nghịch với Phật giáo mà chỉ cần cho Phật giaó có đủ tự do hành đạo. Nói một cách khác, phật tử giống như những người khác, quá dễ chấp nhận sự thoả thuận với bạo quyền và dĩ nhiên không tránh khỏi bị cám dỗ bởi những phúc lợi phụ thuộc, những thu nhập tạo nên ý thức là cần phải có thỏa thuận.

Khi Phật giáo trở thành quốc giáo, nguy hiểm trở thành hiển nhiên; Thái là trường hợp này và Sri Lanka có thể cũng là một trường hợp khác.

5. Thịnh suy

Thuyết thịnh suy được xem như đối nghịch với một tiến trình theo tuyến tính, điểm này phù hợp với thuyết định mệnh, chấp nhận bị đánh bại dễ dàng, ngay cả khi trong thâm tâm không có sự đầu hàng. Theo thuyết thịnh suy, suy tàn là chuyện không thể tránh. Tuy nhiên, tin vào thuyết thịnh suy cũng không phải là quá nguy hiểm vì cũng tin là sẽ có sự hưng thịnh đến đúng lúc. Ý nghĩ làm cho thịnh suy này cũng sẽ tới bằng một cách nào đó, nên không cần có nỗ lực đích thực. Tóm lại, những thành kiến của phương Tây về thuyết đinh mệnh của phương Đông là sự thật, và dĩ nhiên, cũng có thể là ngược lại.   

6. Nghi lễ quá mức

Nếu chấp nhận năm điểm trên, thì Phật giáo có thể dễ trở thành một tôn giáo nhiều nghi thức, huy hoàng, được thêu dệt lộng lẫy giống như vô số các đền chùa taị Đông Nam Á và Đông Á. Nhưng đó có thể cũng là tất cả cho vấn đề. Mục tiêu là hướng về Phật như là một hình tượng được khâm phục quá mức để chấp tay nguyện cầu, nghiêng mình đảnh lễ trước hình ảnh của Đấng Như Lai. 

Sự tôn trọng về Pháp, những lời dạy của Ngài, chỉ là những điều được học thuộc lòng, ngay cả bằng những ngôn ngữ xưa cũ, (thí dụ như tiếng Pali đối người Tích Lan, tiếng Sankrit đối với người Ấn hoặc cổ ngữ Trung Hoa và nhiều ngôn ngữ khác). Và Tăng có thể được ngưỡng mộ, nhưng họ quá cách biệt và không thể bắt chước.

Nói một cách khác, Phật giáo trở thành một đối tượng khách quan hơn là một caí gì đó chủ quan để đi vào cuộc đời của con người như là một nơi tích lũy vô biên về nhận thức của kiếp nhân sinh, một loại triết tâm lý không thể so sánh. Phương cách thực hiện này chỉ làm cho Phật giaó trì trệ - hay nói một cách khác, Phật giáo là một tôn giáo đang suy tàn.

Kết luận

Nhìn xuyên qua 20 điểm tích cực và 6 điểm tiêu cực vừa trình bày, bảng tổng kết sau đây cho thấy một điều hiển nhiên: Phật giáo có một tiềm năng cực kỳ to lớn như là một nguồn lực đóng góp cho một chính sách hiếu hoà năng động; trong một tầm mức qui mô hơn, có thể nói Phật giáo là một tiềm năng chưa được khai thác.

Nhưng Phật giáo phải hồi sinh thoát những ảnh hưởng thâm lạm của một thế giới sử dụng bạo lực trực tiếp và có tính cấu trúc. 

Hiển nhiên, các tiềm năng về hoà bình đều có trong các tôn giáo khác. Nhưng Phật giáo khác với những tôn giáo khác (thí dụ như Do Thái, Thiên Chúa và Hồi giáo). Dù không thể nào tin được, nhưng Phật giáo còn được dùng để biện minh cho những hành vi trực tiếp sử dụng bạo lực và có tổ chức, chiến tranh và bóc lột. 

Nếu khi Thiên Chúa giáo thay các mặt xấu đi, họ gây chiến. Nếu Phật giáo muốn thay các mặt xấu đi, họ thoái lui và che đậy bằng nghi thức. Nhiệm vụ của chúng ta là làm chuyển biến cả hai chiều hướng tốt đẹp của cả hai tôn giaó này và những chiều hướng tốt đẹp này có thể thực sự là phù hợp đem lại những hậu qủa cho hành động.

Không những nhớ đến cách thực hành giáo lý của đức Phật, mà còn nhớ những lời giáo huấn về chính trị và xã hội cho việc hình thành mối tương tác trong xã hội trong thời của Ngài, cả hai là điều bổ ích cho chúng ta.

Điểm mà chúng ta còn thiếu sót có thể là: khi ý thức nhiều hơn những gì Phật giaó mang lại ý nghĩa trong tu tập, thì chúng ta sẽ có  nhiều thực tập hơn để dẫn dắt chúng ta áp dụng những nhận thức này.

Dĩ nhiên, vai trò lãnh đạo của phật tử có nhiều mẫu mực, gây cảm hứng và quan trọng như cố Tổng Thư ký LHQ U Thant, người Miến Điện, Soka Gakkai nhà lãnh đạo thế giới, Ikeda Daikasu, người Nhật, Ariayaratne, nhà lãnh đạo thế giới, Sarvodaya Shramdadama, người Sri Lanka...

Thách thức chắc chắn là ở điểm này. Khắp nơi trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm kiến tạo một cấu trúc hoà bình - nhưng những nỗ lực này thường thiếu đi phần tinh thần đạo đức. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Gương soi .
            

Sống với một chiếc gương soi luôn ở trước mặt, không phải là chuyện dễ; nhưng để hiểu và giải quyết những vấn đề của chúng ta trong cuộc sống, ta cần phải chịu đựng một số khó chịu, bực bội

Dr.Akong Tulku Rinpoche là một thiền sư đạo hạnh của dòng Karma Kagyu, Phật giáo Tây Tạng. Ngài đã đến phương Tây vào năm 1963, và cùng với Chogyam Trungpa Rinpoche, thành lập Trung tâm Thiền Tây Tạng Kagyu Samye Ling ở Ái Nhĩ Lan, một trung tâm Thiền Tây Tạng lâu đời nhất ở phương Tây. Ngài cũng là một bác sì đã được huấn luyện về y học dân tộc Tây Tạng.

-o0o-

Khi chúng ta đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài, đó là một sai lầm. Ta có thể tìm đến bao điều mới lạ để làm giàu thêm kinh nghiệm sống của mình, ngay cả đi du lịch khắp nơi trên quả địa cầu, nhưng rồi ta vẫn nhìn mọi việc bằng con mắt "cũ" của mình. Chính những tư duy và cảm thọ của chúng ta tạo nên cái nhìn về thế giới ta đang sống.

Khi ta cố gắng thay đổi thế giới theo cái nhìn hay sự mong mỏi của riêng mình, chắc chắn là ta sẽ thất bại. Nếu trời đang mưa, ta không thể bắt trời nắng chỉ bằng ao ước; nhưng điều ta có thể làm được là nhìn lại mình để xem cái gì trong ta làm ta thấy khó chịu vì mưa. Ðiều đó không có nghĩa là ta phải thay đổi cá tính của mình - chúng ta đã có cá tính rồi. Nói một cách thực tế, cái chúng ta cần là một tấm gương soi cho ta biết ta thực là ai, và ta có thể sửa đổi như thế nào để được tốt hơn.

Từ bấy lâu nay chúng ta có khuynh hướng tạo cho mình nhiều khuôn mặt (mặt nạ). Mỗi khuôn mặt cho một hoàn cảnh khác nhau, nhưng chúng ta chưa bao giờ tự soi gương mặt thật của mình, có thể vì chúng ta quá cận ảnh thì khó nhìn cho rõ. Ngược lại chúng ta hay nhìn người chung quanh, và khi nhìn thấy một gương mặt đẹp đẽ nào đó, ta hình dung ra mình cũng như thế.

Tuy nhiên, "mặt nạ" của ta cũng có lúc bị rơi xuống, hay ta quên không mang nó lên, lúc đó ta mới thoáng thấy hình dáng thực sự của nó ra sao. Thường thì sự thật quá đau lòng đến nỗi ta không chịu đựng được. Ta vội vã che đậy nó lại. Vì chúng ta đã quen thay đổi mọi thứ đến nỗi ta không thể chấp nhận chính chúng ta. Trong lúc đó, dưới tấm mặt nạ, gương mặt thật của ta đang thối rữa vì thiếu không khí, ánh sáng, vì chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc lau chùi nó cho sạch sẽ.

Bề ngoài ta có vẻ như là một người tốt, nhưng chính con người bên dưới chiếc mặt nạ mới cần được thanh tịnh hóa. Nếu thật sự tâm ta trong sáng, thì ta rất hữu ích cho người ở chung quanh ta. Tuy nhiên, giả bộ tốt bên ngoài, mà bên trong xấu xa, thì không ích lợi gì cho chính ta và kẻ khác.
 Ảnh minh họa
Ðàng sau tấm mặt nạ là cái Ngã ta cần phải hiểu và tu sửa. Tất cả chúng ta đều mang một tên gọi là "Tôi" nhưng thật ra ta không hiểu mình là ai. Khi ta ban cho ai một thứ gì, dầu là một miếng bánh mì nhỏ, là ta đã nghĩ mình quá tốt, quá hữu ích, đến nỗi ta cứ nhớ mãi đến hành động đó một thời gian dài. Ngược lại, nếu ta làm điều gì xấu, ích kỷ, ta cố gắng quên ngay lập tức. Chúng ta có khuynh hướng tạo nên một hình ảnh giả tạo về con người mình để tự an ủi bản thân. Hành động tự lừa dối mình rất khó để kiểm soát - đó là lý do tại sao ta cần cái gương soi.

Ở Tây Tạng, có một vị Ðại sư rất nỗi tiếng, ngài Lodro Thaye Jamgon Kongtrul Ripoche, đã nói về vấn đề này như sau: "Khi tôi nhìn các vị truyền giáo, tôi thấy bên ngoài họ có thể ăn mặc lịch sự, nói năng hoạt bát, nhưng khi tôi nhìn vào tâm họ, họ giống như những con rắn độc. Mỗi khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn, hay trở ngại, lúc đó tâm thực sự của họ mới hiện ra. Giống như các con rắn độc sẽ cắn, dầu bên ngoài thấy nó điềm tĩnh; họ cũng sẽ hành động nếu có điều gì đó cản trở, đe dọa họ".

Ðiều đó, dĩ nhiên không có nghĩa hễ rắn là xấu; rắn có khả năng để trở thành xấu hay tốt, nhưng vì lòng sợ hãi, ghen ghét hay u mê, nó có thể trở nên nguy hiểm khi nó cảm thấy bị đe dọa. Cũng thế, khi chúng ta nhìn thấy cái xấu trong ta, do u minh tạo nên, chúng ta có thể sửa đổi nó thành trí tuệ. Khi chúng ta có thể quay vào bên trong để tự soi tâm mình, và thanh tịnh hóa tâm, là ta đã tìm được con đường đạo, và tất cả mọi hoàn cảnh bên ngoài tự nhiên dễ dàng để ta ứng phó bằng những phương cách tích cực và hữu hiệu.

Ðiều quan trọng là ta phải có thái độ công bằng đối với những gì ta nhìn thấy trong gương. Chỉ nhìn thấy những mặt xấu thì cũng tai hại và vô ích như chỉ nhìn thấy những mặt tốt đẹp của chúng ta. Chỉ nghiêng về những mặt tiêu cực của cá tính có thể dẫn đến sự trầm cảm nặng nề và tuyệt vọng. Chúng ta có thể quan sát mình trong gương soi mà không kết án những gì ta thấy, hay muốn đập vỡ cả gương. Ngược lại, ngó lơ hay che giấu những mặt xấu của chúng ta, chỉ làm cho chúng thêm sức mạnh, dẫn đến những dồn nén bên trong, để rồi một ngày nào đó nó vỡ tung.

Ngày nay phần lớn nhân loại đều phẫn nộ trước vũ khí hạt nhân, trong khi đó có một loại vũ khí hạt nhân khác lúc nào cũng hiện hữu trong tâm ta. Mỗi ngày, cái Ngã tạo nên tự ái, ganh tỵ, sân hận, ham muốn và căm thù, dẫn đến sự sợ hãi và xung đột ở mọi mặt, làm hại cho chính chúng ta và cả tha nhân. Ðể vô hiệu hóa vũ khí hạt nhân hay các phản ứng của nó, không thể chỉ có việc đem chôn giấu nó và ước muốn nó sẽ biến mất đi. Cũng thế, để dập tắt những động lực xấu xa trong ta, ta phải tháo gỡ, làm tiêu chúng với sự cẩn trọng và khéo léo, bằng những phương tiện của lòng từ và tình thương. Công việc khó khăn này cần được làm với lòng kiên nhẫn và thái độ không bám víu.

Những gì chúng ta đã học được bằng cách nhìn vào "gương" có thể rất hữu ích trên con đường tu đạo, nhưng trước hết chúng ta phải biến chúng thành một phần của kinh nghiệm đời sống của ta, chứ không phải là một cái gì riêng rẽ. Vì nếu ta không thực sự hòa tan vào trí tuệ tình thương vừa được khơi dậy, thì cũng giống như chúng ta vừa mang một chiếc mặt nạ mới.

Và tất cả những khám phá của chúng ta phải được áp dụng vào thực tế. Không ích lợi chi nếu ta bỏ ra một tiếng đồng hồ ngồi suy gẫm về việc buông bỏ lòng ghen ghét, và khi hết giờ ngồi thiền, ta lại để bị lôi kéo vào những tình cảm ghen ghét thì thật hoài công. Những gì ta đã suy gẫm phải được áp dụng vào đời sống hàng ngày, vào những hoàn cảnh ta phải đối mặt trong cuộc đời.

Thêm nữa, cho dầu ta có thể học hỏi, sư tầm rất nhiều pháp, với tất cả lòng chân thành; nhưng nếu chúng không liên hệ hay có thể được ứng dụng trong hoàn cảnh của riêng ta thì cũng vô ích. Giáo dục trường lớp và các khả năng tri thức có thể phần nào giúp ta hiểu và đương đầu với nhiều hoàn cảnh trong đời; nhưng có được một tâm rộng mở thì quan trọng hơn.

Dầu trong mỗi chúng ta ai cũng đều có khả năng thông cảm và yêu thương, nhưng nếu ta không phát triển những đức tính này cũng như không đem chúng áp dụng vào cuộc đời, thì cũng bằng như không có. Một kẻ giàu mà không biết sử dụng đồng tiền của mình, cũng không bằng người nghèo mà biết cách dùng tiền một cách hữu ích.

Vì thế ta cần có chánh niệm, sử dụng những gì ta có một cách hữu hiệu. Thí dụ, chỉ biết đến tình cảm ghen ghét bên trong ta, chưa đủ. Ta còn cần phải có sự cố gắng và khéo léo để điều phục và hoán chuyển nó. Bằng cách đó lòng tự tin và sức mạnh của ta được tăng trưởng, cảm tưởng nghèo nàn và vô ích sẽ biến mất, nhường chỗ cho sự giàu sang của tâm hồn và lòng tự trọng. Nếu ta sử dụng chiếc gương soi, dần dần ta sẽ nhận rõ được những sự tiến bộ của mình, chứng tỏ có sự phát triển tâm linh, và sự đau khổ chúng ta phải chịu đựng trước đó sẽ dần dần biến mất.

Từng bước, từng bước một, ta sẽ có thể xác định và làm vô hiệu hóa những chất độc nội tâm, những trạng thái tiêu cực của tâm đã khiến cho cuộc đời càng thêm khó sống. Không có ai có thể làm chủ được thế giới bên ngoài, nhưng chúng ta có thể đánh bại sân hận, tự ái, ham muốn, lòng căm ghét và ganh tỵ... Những kẻ đã khiến chúng ta thêm cách xa cuộc đời. Lúc đó ta sẽ không còn cảm thấy cuộc sống đối nghịch với ta. Chúng ta sẽ thấy dễ chịu với chính mình, với thế giới quanh ta, và ta sẽ có thể giúp đỡ những người sống quanh ta. Tất cả mọi người, mọi việc đều trở nên thuận lợi, hữu ích đối với chúng ta, cũng như ngược lại.

Sống với một chiếc gương soi luôn ở trước mặt, không phải là chuyện dễ; nhưng để hiểu và giải quyết những vấn đề của chúng ta trong cuộc sống, ta cần phải chịu đựng một số khó chịu, bực bội. Sức mạnh của thói quen khiến chúng ta dễ phán đoán và cố sửa đổi người khác; vì thế phải đối mặt với chính lỗi của mình và sửa đổi chúng có thể làm cho chúng ta cảm thấy e sợ. Cũng là một điều tự nhiên khi ta sợ điều ta chưa biết; hướng giải quyết là phải tìm hiểu và làm bạn với chính mình, giống như người luyện tập thú, trước hết phải lấy được lòng tin của con vật.

Phương pháp để tu sửa bản thân này không phải là những lời nói dễ dãi đầu môi, nó phải được xuất phát từ trong lòng một cách chân thành, quyết liệt. Vậy chúng ta hãy bắt tay vào việc phân loại những vấn đề của mình. Chúng ta phải chế ngự tâm và rèn luyện chính mình. Nếu không ta sẽ tiếp tục thấy cuộc đời khó sống, đổ lỗi cho người và hoàn cảnh khi có việc làm chúng ta phiền hà, bực bội. Lúc đó ta lại phải phân loại hàng triệu người để đối phó, không phải một. Vì thế thay vì cố gắng thay đổi người khác, ta hãy "nhìn vào gương soi", và sửa đổi chính mình.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31.3.2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Nghiệp dẫn đi trong luân hồi lục đạo.
            

Giáo lý của nhà Phật cốt yếu dạy cho con người tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Tuy nhiên, tùy theo sức huân tu cao thấp mà giải thoát cũng có nhiều từng bậc. Ðại lược chúng ta có thể chia làm hai bậc là: Từng phần giải thoát và toàn phần giải thoát.

Từng phần giải thoát là bậc thứ nhất, tu mà còn luân hồi sinh tử, nhưng biết chọn lựa phước lành để đi trong đường tốt hưởng phước báo. Những loại chúng sinh đi trong các đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, A tu la đều không biết chọn nghiệp lành nên đi vào con đường ác chịu qủa báo khổ đau. Và ngay như loài người có biết chọn nghiệp thiện, lại cũng có ngườì không biết chọn nên tạo lắm nghiệp ác, vì vậy mà chịu không biết bao nhiêu thứ khổ đau.

Thế nên khi còn ở trong lục đạo luân hồi, sau khi bỏ thân này, muốn cho đời sống cuả thân sau được an vui hạnh phúc thì ngay hiện tại phải biết chọn lựa nghiệp lành để làm và để tránh ba nghiệp ác, đó là gốc của sự tu hành. Nghiệp là động lực dẫn chúng ta đi trong luân hồi sinh tử, nên rất hệ trọng đối với sự tu hành.

Vậy nghiệp là gì? Nghiệp được dịch từ chữ Phạn "Karma" nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Thói quen đó gọi là nghiệp. Ví dụ giáo viên dạy học, dạy từ năm này qua năm khác, được gọi là nghề giáo và những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm của chính mình, mình làm chủ và tạo tác thành thói quen rồi cũng chính mình thừa nhận hậu quả do nó đưa tới.

Kinh Phật dạy: "Chúng sinh làm chủ tạo nghiệp và thừa kế cái nghiệp do chính mình đã tạo". Không do ai khác ngoài mình. Chúng ta từ thuở sơ sinh cho tới chín mười tuổi đâu có ai mắc bệnh ghiền rượu, ghiền trầu hay ghiền thuốc... Thế mà từ 15, 16 tuổi cho tới già do sự tập tành thành thói quen, người thì ghiền rượu, người thì ghiền thuốc, kẻ thì ghiền á phiện...

Ðứa trẻ 15, 16 tuổi thấy người lớn cầm thuốc hút nhả khói phì phà tưởng đó là oai là sang, nên bắt chước hút, thành thói quen rồi ghiền thuốc. Lúc mới tập hút thì mình làm chủ, thích hút thì hút không thích hút thì thôi, nhưng hút nhiều lần dần dần thành thói quen, thiếu thuốc thì khó chịu, ngáp, buồn, phải đi mua về hút. Vậy khi đã ghiền rồi thì không còn làm chủ nữa mà nó làm chủ ngược lại mình, sai sử mình làm theo thói quen ưa thích đó.

Vậy, nghiệp là cái chúng ta tự tạo, chúng ta làm chủ tạo thành thói quen, khi thói quen thuần thục thì nó làm chủ dẩn dắt sai sử chúng ta. Nếu ta tập thói quen là việc thiện thì được dẫn dắt tiếp tục làm việc thiện, nếu chúng ta tập thói quen làm việc bất thiện thì bị dẫn dắt tiếp tục làm việc bất thiện.

Chẳng hạn, người mỗi chiều đi chùa, tụng kinh lâu ngày thành thói quen, một hôm tới giờ tụng kinh không đi cảm thấy thiếu, thấy buồn, có một động lực thôi thúc bắt phải đi chùa tụng kinh. Còn người khác, mỗi chiều đi quán uống rượu, lâu ngày thành thói quen nên ghiền, tới cữ đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bức rức khó chịu, ngáp dài, có một ma lực thôi thúc sai khiến tới quán rượu để uống rượu.

Người đi chùa tụng kinh tập thành thói quen đó là nghiệp thiện, đưa tới sự an vui lợi ích cho bản thân mình. Người đi quán uống rượu tập thành thói quen là nghiệp ác, đưa tới nghèo thiếu, bệnh hoạn kém trí tuệ.

Vậy, nghiệp phát xuất từ đâu? Nếu thân tạo tác thiện đó là nghiệp thiện của thân, thân tạo tác ác đó là nghiệp ác của thân. Miệng nói điều lành là nghiệp thiện của miệng, miệng nói lời hung dữ là nghiệp ác của miệng. Ý nghĩ tốt là nghiệp thiện của ý, ý nghĩ xấu là nghiệp ác của ý. Ðó là nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý.

Như vậy, tạo nghiệp chủ động là mình, nếu muốn luân hồi chỗ tốt cho thân lành mạnh tốt đẹp được sống an vui hạnh phúc thì hiện tại phải biết tạo nghiệp thiện, nếu ngược lại tạo nghiệp ác thì luân hồi đến cõi xấu, thọ thân xấu sống đời đầy đau khổ do mình chủ động trọn vẹn, chớ không do ai khác, ngay Phật trời cũng không dự phần trong đó.

Như vậy, chúng ta là chủ chọn lấy hướng đi cho chúng ta mai sau, nếu khôn ngoan đã chọn cho mình một hướng đi tốt đẹp thì cứ theo hướng đó mà đi, chớ có thay đổi. Cũng như các học sinh sau khi đã chọn nghề và tốt nghiệp ra trường, phải theo cái nghề mình đã chọn mà sống, sướng hay khổ tùy theo cái nghề của mình chọn.

Vậy, chúng ta tu là phải làm sao? Có nhiều phật tử than vì bệnh tật vì nghèo khổ không thể tu. Người than như vậy là chưa biết tu, vì họ tưởng phải đi chùa nhiều, tụng kinh giỏi mới là tu. Như đã nói, tu là chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, mà nghiệp thì phát xuất từ thân, khẩu, ý.

Giả sử như người buôn bán, nếu tráo hàng thật ra hàng giả, hoặc cân đo thiếu, hoặc bán người trả giá không đúng, nổi giận la chửi, đó là thân miệng tạo nghiệp ác, không biết tu.

Nếu buôn bán với mức lời vừa phải, hàng thật nói là hàng thật, hàng giả nói là hàng giả, cân đo đúng, khách trả đúng giá thì vui vẻ bán, khách trả không đúng giá tuy không bán vẫn vui cười không tức giận mắng chửi. Hoặc đi đường gặp người già yếu nhường lối đi, nhường chỗ ngồi, đưa qua đưòng, đưa qua cầu, bưng xách nặng dùm người... đó là thân khẩu thiện, biết tu, tu trong công ăn việc làm, tu ngoài đường, tu ngoài chợ.

Á trong nhà, đối với người thân cũng phải giữ thân miệng luôn lành, làm cha mẹ giữ đúng tư cách của cha mẹ, con cái có lỗi lầm phải từ tốn răn dạy, hướng dẫn phù hợp với đạo lý cho con nên người, đó là tu. Nếu ỷ quyền cha mẹ, khi con làm không vừa ý, tay đánh đập, miệng la hét, chửi rủa, đó là không biết tu. Phận làm con đối với cha mẹ phải biết thương kính, chăm lo việc ăn mặc thuốc thang cho cha mẹ, đừng để cha mẹ buồn tủi lúc ruổi già. Nếu cha mẹ có sanh tật khó khăn thì nên an ủi khuyên lơn hơn là hờn trách chế diễu. Ðó là chuyển nghiệp thân nghiệp khẩu luôn lành.
 Ảnh minh họa
Về ý nghiệp có phần vi tế hơn, với người biết tu cũng chuyển được nghiệp ác thành nghiệp thiện. Nếu đang ngồi chơi hay đi, hoặc làm việc, khởi nghĩ buồn giận người, biết đó là ác ý liền dừng không nghĩ, mà khởi nghĩ thương người nghèo khó, quý kính bậc hiền đức, tìm cách giúp đỡ người khốn khổ... Ðó là chuyển nghiệp ý ác thành ý thiện.

Nếu cho rằng đi chùa hay tụng kinh mới là tu, thì tu quá ít. Rồi bệnh nào tật ấy vẫn còn nguyên, tham sân si ích kỷ vẫn không chừa, tu như thế hiện tại tự mình không lợi ích và cũng không đem được an hòa cho mọi người chung quanh, mai sau bị nghiệp lôi vào đường ác là địa ngục ngạ quỉ súc sanh.

Thế nên Phật dạy trong tất cả ngày giờ của mọi sinh hoạt đều phải tu mới chuyển được ba nghiệp trọn lành. Ba nghiệp lành rồi, ngay đời hiện tại tự mình không phiền não, lúc nào cũng nhẹ nhàng an vui.

Trong gia đình mọi người không thắc mắc rày rà, trên thuận dưới hòa, đầm ấm hạnh phúc. Ngoài xã hội được an bình không loạn ly. Tu như thế mới thật là tu. Ðừng vì muốn được đi chùa thường xuyên, muốn được tụng kinh nhiều mà phế bỏ cả việc nhà, thân miệng ý không chuyển cho lành, về nhà thì thắc mắc, gây cãi hết người này tới người nọ làm cho gia đình xào xáo. Ðối với người ngoài xã hội thì không nhịn một lời không nhượng một bước. Ði chùa tụng kinh như thế là chưa thật tu.

Có một bà cụ Nhật Bổn lần chuỗi niệm Phật rất giỏi. Khi lần chuỗi niệm Phật thì rất chăm chỉ, nhưng khi dừng niệm Phật thì rầy rà con cháu inh ỏi. Con trai bà thấy bà tu như thế nên buồn và nói:
-Má à, má tu, má cứ lo niệm Phật đi, sao má cứ rầy rà hoài khiến xao lãng làm sao Phật chứng cho má?

Bà nói:
-Khi nào tao niệm Phật thì Phật thông cảm cho tao, còn khi nào tao rầy tụi bây thì tụi bây biết cho tao.

Bà chia làm hai phần, phần niệm Phật thì tu với Phật, phần rầy la thì dành cho con cháu! Người thật tu là vừa tu với Phật cũng vừa tu với thế gian, tu như thế mới trọn vẹn.

Có người ngoại đạo đến hỏi Phật:
-Thưa ngài Cồ Ðàm (họ Gautama, tên Siddhartha, dòng Shakya, của đức Phật Thích Ca), cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yểu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu dốt người thì thông minh?

Phật trả lời:

- Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có người ưu kẻ liệt.

- Do tạo nghiệp gì khiến cho con người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yểu?
- Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh nên thọ mạng yểu.

- Do tạo nghiệp gì thân người được khoẻ mạnh và do tạo nghiệp gì mà thân hay yếu đau bệnh tật?
- Do nghiệp ác làm cho người đau khổ nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do nghiệp lành an ủi giúp đỡ người qua những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi.

- Do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình giàu sang sung sướng và do tạo nghiệp gì mà sinh thân trong gia đình nghèo khó khốn khổ?
- Do đời trước biết làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo khó bệnh tật, nên đời này được sinh ra trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đỡ người nghèo khó, lại còn tham lam rút riả của người nên đời này sanh thân trong cảnh ngèo đói thiếu thốn.

- Do nghiệp gì người sanh ra được thông minh sáng suốt và do nghiệp gì người sanh ra lại ngu dốt tối tăm?
- Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người được học hỏi hiểu biết nên đời này được thông minh. Người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìn hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người nên đời này bị tối tăm mê mờ.

Vậy, tất cả quả tốt hay xấu mà chúng ta đang thọ hiện nay, gốc là từ cái nhân chúng ta gây thuở trước, chứ không phải bỗng dưng mà có, khi đã biết như thế, chúng ta muốn ngày mai được tốt đẹp an vui hay bị đau khổ, thì ngay bây giờ chúng ta phải chuẩn bị. Nếu chuẩn bị bằng nghiệp lành thì sẽ được đến cõi lành và được an vui hạnh phúc, nếu chuẩn bị bằng nghiệp ác thì sẽ đi vào đường dữ và bị khổ đau.

Có người nêu nghi vấn: Hiện tại thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, mai kia thân hoại rồi hành động cũng mất, vậy nghiệp còn hay mất? Ða số người không tin nhân qủa, họ nghĩ rằng sau khi thân hoại hành động cũng không còn thì nghiệp cũng mất. Trong kinh Phật thường nói nghiệp theo mình như bóng với hình vậy.

Ðời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai có sự liên hệ tuá theo nghiệp của mỗi người, Ví dụ có hai người khách qua sông, một người chuyên nghề giáo, một người chuyên nghề thương mãi. Khi đi đường người thương mãi đem theo nhiều vàng bạc của cải, nhà giáo chỉ mang theo một cặp sách vở và chút ít tiền lộ phí, thuyền qua giữa sông bất thần gặp sóng làm chìm.

Khi thuyền chìm, mạnh ai nấy lo lội vào bờ để thoát chết, lên đến bờ thì tất cả của cải tiền bạc của nhà thương mãi không còn, cặp giấy tờ tiền lộ phí của nhà giáo cũng mất. Cả hai đều trắng tay, nhưng kiến thức giáo dục của nhà giáo không mất, kiến thức mua bán của nhà thương mãi cũng không mất.

Kiến thức là cái chuyên môn, sở trường của con người không mất tức là nghề nghiệp không mất. Như vậy, để thấy, qua những cuộc biến đổi tất cả những cái có hình tướng ngoài mình thì mất, nên khi thân này có hoại đi, nghiệp thức không ngoài mình nên không mất. Của cải tài sản thế gian, chúng ta tạo sắm nhiều thế mấy, khi chết rồi tất cả đều phải để lại không đem theo được một món nào, chỉ có mang theo nghiệp mà thôi. Ðó là một lẽ thật. Thế mà, có nhiều người không hiểu không tin, rồi mê tín dán nhà lầu xe hơi, mua gấy tiền vàng bạc đốt để đem theo cho cha mẹ chồng con chết xài.

Có người vội hỏi:
- Con cháu vì thương cha mẹ, sau khi cha mẹ chết họ dán nhà, xe, mua giấy tiền vàng thật nhiều đem đốt và cầu nguyện cho cha mẹ được hưởng. Như vậy, cha mẹ có được hưởng không?

- Nếu con cháu đốt giấy tiền vàng bạc rồi cầu nguyện cho cha mẹ lãnh, tôi e rằng ở tù chớ chẳng được hưởng. Tại sao? Vì mang bạc giả xuống Diêm vương xài là bất hợp pháp. Nếu đốt nhà lầu xe hơi giấy, cầu cho thân nhân mình lãnh về ở và đi, tôi cho rằng nếu ai làm như vậy là hại thân nhân của mình.

Vì nếu họ nhận được thì họ có nhà lầu để ở, có xe hơi để đi, có tiền bạc để xài, đủ tiện nghi quá thì họ sẽ ở mãi cõi âm, không đi đầu thai. Ðó là trường hợp thân nhân của mình trong sanh tiền có chút phước lành. Còn nếu là kẻ có tội thì chết đọa địa ngục bị giam nhốt hành hạ làm sao mà nhận lãnh tiền bạc nhà xe để xài?

Ðó là chưa nói đến nhà xe tiền bạc bị đốt thành tro thì dùng làm sao được? Thật là vô lý! Như vậy, để thấy chính nghiệp lành hay dữ mà mình tạo ra nó dẫn mình đi thọ thân trong cảnh giới sướng hay khổ. Tất cả việc làm bên ngoài của người thân vì thương muốn giúp mình khó mà giúp được, mình làm mình phải chịu, người khác không thể thế được.

Lại có người nêu câu hỏi:
- Tại sao có nhiều người làm ác mà họ sống phây phây? Có nhiều người rất hiền lành, làm phước làm nghĩa mà lại gặp nhiều hoạn nạn. Như vậy là luật nhân quả bất công sao? Lại có nhiều người không làm ác, vừa làm ác thọ quả báo liền; hoặc vừa làm thiện thì thọ quả báo lành liền. Như vậy là sao?

Trong kinh Phật có dạy: Nếu tạo nghiệp thiện được phước báo lành, tạo nghiệp ác bị quả báo khổ thì Phật chấp nhận. Nếu nói rằng làm nghiệp thiện sau khi chết sẽ sanh về cõi Trời, làm nghiệp ác sau khi chết sẽ đọa xuống địa ngục liền, điều đó Phật không chấp nhận. Tại sao nói làm ác chịu chịu quả báo ác, làm thiện được quả báo thiện, thì Phật chấp nhận, mà nói tạo nghiệp ác sau khi chết đọa địa ngục, làm lành sau khi chết về cõi Trời thì Phật không chấp nhận?

Về thuyết nghiệp, Phật có nói cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp. Tích lũy nghiệp chứa nhóm nhiều kiếp đến giờ. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác lúc sắp chết. Cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp có ảnh hưởng chi phối nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ. Ví dụ có người tích lũy nghiệp lành từ xưa đến nay, bất thần họ mê muội có người xúi dục họ làm điều ác; làm điều ác này đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng vì tích lũy nghiệp lành họ còn nhiều nên chưa đọa địa ngục liền. Lại cũng có người làm nhiều điều ác, đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng gần chết họ làm lành, tâm họ luôn nghĩ tưởng đến điều lành. nên không đọa địa ngục.

Thế nên nói làm ác khi chết nhất định đọa địa ngục, làm thiện lên thiên đàng, thì không đúng hẳn. Vì tuy họ có làm ác nhưng lúc gần chết cận tử nghiệp thiện họ quá mạnh có thể đưa họ đến cõi thiện. Còn người tuy làm nhiều điều thiện, nhưng khi gần chết họ nổi sân quá hung dữ, lúc đó cận tử nghiệp ác có thể đưa họ đến các đường xấu, Thế nên không phải chỉ tu khi sắp chết, hoặc chỉ tu ở giai đoạn thân còn mạnh khỏe mà phải luôn luôn giữ thân, khẩu, ý lành, từ lúc còn trẻ trung mạnh khỏe cho đến chung cuộc của kiếp người.

Xưa có Maha Nam, con của Cam Lộ Phạm Vương, em nhà chú của đức Phật. Maha Nam tu cư sĩ giữ năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai...

Một hôm hỏi Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, bình thường con tu giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện, giả sử con chết bất đắc ká tử bởi một tai nạn xảy ra, sau khi chết con sẽ đi về đâu?

Phật trả lời bằng một ví dụ:
- Có một cây mọc từ đất lên, thân và cành cây nghiêng về một bên. Vậy khi cưa, thân ngã về bên nào?

Maha Nam đáp:
- Cây ngã về phía mà nó đang nghiêng.

Phật dạy tiếp:

- Cũng vậy, bình thường ông hay làm điều lành, khi chết tuy bị khủng hoảng, nhưng
nghiệp thiện tích lũy nhiều sẽ hướng ông đến chỗ lành, không sao, đừng sợ.

Vậy, chủ yếu của việc tu hành, chẳng những tạo nghiệp lành trong lúc còn mạnh khỏe mà lúc gần chết tâm niệm cũng phải lành thì mới bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường tạo nghiệp lành mà lúc gần chết tạo nghiệp dữ thì chưa bảo đảm đi đến cõi lành. Và bình thường nếu lỡ làm ác, lúc gần chết tâm niệm lành thì cũng chuyển được phần nào nghiệp dữ, vì nghiệp không cố định.

Ðể kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi nhắc lại câu chuyện Lý Bạch đời Ðường ở Trung Hoa. Ông là một nhà thơ nổi tiếng nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc đạo mới tìm tới tham vấn. Tới nơi thấy Thiền Sư Ô Sào ngồi trên cháng ba của một cây cổ thụ. Chỗ ngài ở giống như một ổ quạ nên người đời gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào. Ông đứng dưới đất nhìn lên hỏi:
- Bạch Hòa Thượng, Xin Hòa Thượng dạy cho tôi một phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được.

Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống:
-- Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật giáo. Ông hãy về tu đi!

Lý Bạch nghe qua, cười và nói:
- Hòa Thượng nói bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì?

Thiền Sư Ô Sào nói:
- Phải, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong.

"Chư ác mạc tác" là tất cả nghiệp ác chớ có làm. "Chúng thiện phụng hành" là vâng làm tất cả các nghiệp lành. "Tự tịnh kỳ ý" là khéo lóng lặng tâm cho thanh tịnh. "Thị chư Phật giáo" đó là lời dạy của chư Phật.

Tu cốt là bỏ nghiệp ác của thân khẩu ý và chuyển thành nghiệp lành. Bài kệ trên vừa nghe qua là dễ nhớ và dường như thấy dễ làm. Song, đi vào kinh nghiệm tu hành thì không đơn giản và dễ dàng vì tình thức mênh mang, chủng tử tập khí sâu dày, vừa bỏ được thói xấu này để phát huy điều tốt nọ, thì lại có dư tập dở khác đang ngủ ngầm hội đủ duyên nó trổi dậy lại phải điều phục nữa, và cứ thế làm mãi cho đến chung cuộc của kiếp người, có khi chưa xong, tâm vẫn còn lao xao lộn xộn.

Thế nên người biết hướng thiện luôn luôn phải xoay lại mình để lo tu tập, ở trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trường hợp, người rỗi rảnh hay bận rộn, giàu sang hay nghèo hèn ai cũng tu được.

Ðiều tiên quyết là dừng nghiệp ác, rồi tùy theo hoàn cảnh: người nghèo thì ra công sức giúp đỡ, kẻ giàu thì ra tiền của bố thí. Ai ai cũng biết tu thì tự mình được an vui, gia đình được hạnh phúc, xã hội được an bình. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng cuộc đời hiện tại được tươi đẹp và tạo cơ hội cho đời sau càng được an vui sáng suốt hơn.

Vậy, từ đây về sau trọn đời quí phật tử cố gắng tránh tất cả các điều ác, làm tất cả các nghiệp lành. Làm đó là làm cho chính mình chớ không phải làm cho ai khác. Ðạo Phật được coi là đạo cứu khổ ban vui, mà cứu khổ ban vui là chỉ cho mọi người con đường nào đi đến khổ đau và con đường nào đi đến an lạc.

Khi biết con đường đưa tới an lạc thì cố gắng đi, đó là đạo Phật cứu khổ ban vui cho quý vị. Còn nếu quý vị biết con đường thiện đưa tới an lạc, con đường ác đưa tới khổ đau mà cứ đi con đường đau khổ thì đó là tại quý vị không biết chọn đường đi, khổ là do mình chớ không do ai khác. Vì Phật đã vạch lối chỉ đường rất rõ ràng, nếu chọn và thực hành đúng lời Phật dạy thì được an vui, lợi ích, ngược lại thì khổ đau.

Ðó là then chốt mà quý vị phải biết rõ và nắm vững để tu hành.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Thay đổi số mệnh .
            

Thời đức Phật, Angulimàla là một tên cướp khét tiếng đã giết 999 người và lấy ngón tay của những nạn nhân xâu lại thành chuỗi rồi đeo ở cổ để thị uy

Trong Phật giáo không có khái niệm số mệnh, tuy nhiên, kết quả của nghiệp (ý niệm, hành động, tập quán, thói quen) đã tạo nên con người và hoàn cảnh sống, kết quả của nghiệp có tính quyết định hình thành nên cái mà con người ngộ nhận là số mệnh, định số hay định mệnh.

Số mệnh là cái mà con người cho là thiên định (trời định), không một ai có thể thay đổi trừ phi ý trời thay đổi khi con người làm điều gì đó cảm động lòng trời. Nhưng nghiệp thì khác, nghiệp do con người tạo ra, và phản ứng của nghiệp (nghiệp quả, hậu quả của nghiệp) trở lại tác động, chi phối con người. Tính chất của nghiệp là duyên sinh, bất định, cho nên có thể thay đổi.
Con người có thể thay đổi số mệnh (nói đúng hơn là thay đổi nghiệp, là chuyển nghiệp nếu như nghiệp quả chưa hình thành, nhân chưa trổ quả) bằng cách thay đổi nhận thức, tư duy, hành động, tập quán, thói quen (chuyển đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý).
Thời đức Phật, Angulimàla là một tên cướp khét tiếng đã giết 999 người và lấy ngón tay của những nạn nhân xâu lại thành chuỗi rồi đeo ở cổ để thị uy.

Nhưng từ khi gặp đức Phật, được đức Phật giáo hóa, Angulimàla đã tỉnh ngộ và quyết tâm hồi đầu hướng thiện. Sau khi Quy y Phật và xin xuất gia, Angulimàla nỗ lực tu tập để chuyển hóa tự thân.

Sau một thời gian tinh tấn tu tập chuyển hóa, dù trải qua nhiều khó khăn thử thách do phải nhận lãnh quả báo của những ác nghiệp mà mình đã tạo, cuối cùng Angulimàla cũng chứng đắc thánh quả A la hán, quả vị giải thoát cao nhất của hàng Thinh văn.
Trong quá trình tu tập, suốt một thời gian dài tinh thần Angulimàla không được yên ổn, ông thường xuyên bị ám ảnh bởi những cảnh tượng giết chóc rùng rợn và những âm thanh kêu la thảm thiết của các nạn nhân trước đây ông giết hại. Nhiều lần trên đường đi khất thực, Angulimàla bị thân nhân của những người đã bị ông sát hại ném đá, dùng gậy gộc đánh đập một cách dã man để trả thù, khiến cho ông bị thương tích máu me đầy mình.

Tuy nhiên Angulimàla vẫn kiên nhẫn chịu đựng, cố gắng điều phục nỗi sân hận trong lòng.

Để hỗ trợ cho sự tu tập của Angulimàla, đức Phật đã giải thích cho ông hiểu rằng những điều không hay xảy đến với ông đều là kết quả của những ác nghiệp mà ông đã tạo. Hiểu được điều đó, Angulimàla càng cố công tu tập và nhẫn chịu mọi sự oán nghịch. Với tâm xả ly và sự tinh tấn hành trì giáo pháp, dần dần Angulimàla đã vượt qua được những bất an mà trước đây ông thường xuyên đối mặt.
 Ảnh minh họa
Một hôm nọ trên đường đi khất thực, Angulimàla gặp một người phụ nữ trở dạ nhưng khó sinh đang đau đớn kêu gào. Angulimàla không biết làm gì để giúp người phụ nữ ấy, ông trở về cầu xin đức Phật chỉ cách giúp người kia. Đức Phật dạy Angulimàla đến nói với người phụ nữ khó sinh kia như sau: “Này chị, từ khi tôi được sinh vào hàng thánh chúng, tôi chưa hề giết hại bất cứ một loài hữu tình nào. Cầu mong lời nói chân thật này giúp cho chị được khỏi đau đớn, con của chị được sinh ra an toàn”. Angulimàla trở lại nơi gặp người phụ nữ khó sinh, ông ngồi cách người phụ nữ kia một bức màn rồi đọc lại lời Phật dạy, người phụ nữ bỗng hết đau tức thì và hạ sinh đứa con dễ dàng.
Sự dừng lại, không tiếp tục tạo tác những nghiệp bất thiện, nỗ lực tinh tấn thực hành điều thiện, tu tập chuyển hóa nội tâm đã giúp Angulimàla thay đổi từ một con người tội lỗi trở thành bậc hiền nhân thánh thiện, và sau cùng là thành tựu quả vị giải thoát, dự vào hàng Thánh chúng (Xem Lịch sử đức Phật Thích Ca, phần Đức Phật và Angulimàla,  HT.Thích  Minh Châu biên sọan,  Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở II ấn hành, 1988).
Trong bài tựa sách Đồng Mông Chỉ Quán, Đại sư Trí Khải có thuật lại một câu chuyện chuyển nghiệp, làm thay đổi nghiệp quả khi nghiệp quả sắp hình thành như sau: có một vị tăng trụ trì ở một chùa nọ đã chứng quả a la hán, ông biết trong vòng bảy ngày nữa đệ tử mình sẽ chết, bèn bảo người đệ tử ấy về thăm nhà.

Trên đường về nhà, người đệ tử thấy một ổ kiến trên bờ đê có nguy cơ bị dòng nước xoáy cuốn trôi. Người đệ tử động lòng thương bèn đắp lại chỗ đê sắp bị vỡ để cứu ổ kiến. Sau đó người đệ tử tiếp tục lên đường về thăm nhà.

Qua bảy ngày người đệ tử vẫn bình an trở lại chùa trước sự ngạc nhiên của vị thầy. Thấy người đệ tử chẳng những không chết mà khí sắc còn tốt hơn trước, vị thầy lấy làm lạ bèn hỏi người đệ tử đã làm những việc gì trong thời gian về thăm nhà. Người đệ tử thuật lại cho thầy nghe về việc mình cứu ổ kiến trên đường đi. Nghe xong vị thầy cho người đệ tử biết, chính nhờ phát tâm từ bi cứu mạng lũ kiến mà chuyển được nghiệp, thay vì phải chết trong vòng bảy ngày nhưng lại không chết mà còn tiếp tục sống thêm nhiều năm nữa.
Người đệ tử của vị tăng A la hán đã cứu vô số sinh mạng, tạo thiện nghiệp (phước nghiệp) quá lớn có năng lực làm thay đổi nghiệp quả sắp hình thành cướp đi mạng sống của mình. Nhờ phước nghiệp nên chẳng những không chết mà còn được tăng thọ mạng. Trên là một số trường hợp điển hình về sự thay đổi số mệnh, hay nói cho đúng hơn là sự chuyển nghiệp, làm thay đổi nghiệp quả.

I. Một số vấn đề về nghiệp và sự chuyển nghiệp:
Phải mất thời gian bao lâu mới có thể chuyển được nghiệp, làm thay đổi bản thân, hoàn cảnh sống của chúng ta? nghiệp được chuyển hóa, làm thay đổi như thế nào chủ yếu tùy thuộc vào:
1. Sự chuyển hóa tâm của người đó.
2. Mức độ nặng nhẹ, nhiều ít của nghiệp.
3. Cách thức, phương tiện tu tập, trau dồi, rèn luyện để chuyển hóa tư duy, nhận thức, lời nói, hành động việc làm (ba nghiệp thân, khẩu, ý), tạo nhân duyên lành, công đức, phước báo.
Ví dụ như một người gầy yếu thường hay đau ốm bệnh hoạn, có thể trong quá khứ đời này hay đời trước người đó tạo nghiệp sát sinh nhiều, hoặc làm tổn hại sức khỏe, tánh mạng người khác, trong đời hiện tại sống buông thả, không ý thức bảo vệ sức khỏe (rượu chè, hút sách, sắc dục quá độ, ăn uống ngủ nghỉ không chừng mực v.v..) muốn chuyển hóa cái nghiệp đó để trở thành người khỏe mạnh, sống lâu thì phải nỗ lực thiết lập lại nề nếp sinh hoạt, sửa đổi lối sống, trau dồi phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản thân, biết chăm sóc sức khỏe của mình, ngoài ra còn phải biết phóng sinh, bảo vệ sức khỏe, mạng sống người khác (cho thuốc chữa bệnh, giúp đỡ các phương tiện điều trị bệnh, chăm sóc người bệnh hoạn tật nguyền…) Đó là tạo các nghiệp khỏe mạnh, sống lâu, chuyển đổi các nghiệp bệnh hoạn, đoản mạng.
Người này có thể cải thiện được sức khỏe, làm thay đổi điều kiện cơ thể như thế nào, mất thời gian bao lâu thì thấy được sự đổi khác, tất cả đều tùy thuộc vào ý chí và nghị lực, sự dụng tâm và dụng công của anh ta, tùy thuộc vào phương pháp thực hiện chuyển hóa (chế độ ăn uống, vận động, nghỉ ngơi, tập luyện, nền nếp sinh hoạt, làm việc, quan niệm sống, lối sống…) Điều cần lưu ý là:
1. Cần nhiều điều kiện nhân duyên mới đưa đến  kết quả. Kết quả đến mau hay chậm, có được như mong đợi hay không (chuyển hóa được bao nhiêu phần, nhiều hay ít) đều tùy thuộc vào các điều kiện nhân duyên đó.
2. Người kia cũng không thể đoán trước được rằng sau khi chuyển hóa (chuyển nghiệp) thì sức khỏe mình ở mức độ nào, cũng không thể hình dung được sau khi chuyển hóa mình sẽ ra sao, trông như thế nào (về tướng mạo, dáng dấp).
Một ví dụ khác, như người có hoàn cảnh nghèo khổ khốn khó chẳng hạn. Có thể trong quá khứ đời trước hoặc đời này người đó tạo các nghiệp khinh khi người nghèo, tham lam ích kỷ, lười biếng, hoặc lừa đảo, chiếm đoạt, trộm cắp, hoặc trốn thuế, giật nợ…nên trong hiện tại phải chịu cảnh nghèo khó khốn khổ.

Người này muốn chuyển nghiệp để làm thay đổi thân phận, điều kiện hoàn cảnh sống của mình thì phải nỗ lực thay đổi quan niệm nhận thức, tập quán thói quen của mình, tích cực lao động, học tập, nâng cao trình độ, trau giồi phẩm chất đạo đức (chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý), ngoài ra cần tạo các phước nghiệp như bố thí, giúp đỡ người nghèo khó cơ nhỡ, người đang lâm hoạn nạn, phóng sinh (mở rộng tấm lòng, nuôi dưỡng tâm từ bi, rộng kết duyên lành với các chúng sinh khác), cung kính, cúng dường Tam Bảo, các bậc cao đức, ông bà cha mẹ (vốn là ruộng phước đáng để chúng sinh gieo trồng).

Mất thời gian bao lâu, giảm bớt mức độ nghèo khó được bao nhiêu, hoàn cảnh đời sống người đó thay đổi như thế nào, tất cả đều tùy thuộc vào sự dụng tâm và dụng công, những nỗ lực chuyển hóa của người đó.

Cũng như ví dụ trước, chúng ta không thể xác định được khi nào người đó hết nghèo khó, khi nào người đó bớt khổ, hay khi nào người đó giàu sang sung sướng, hạnh phúc, nhưng có thể biết chắc rằng, hễ có nỗ lực chuyển hóa thì có sự thay đổi, chuyển biến.

Có thể vào thời điểm nào đó trong đời sống hiện tại (nếu như nghiệp nghèo khó của người đó nhẹ và anh ta biết cách chuyển hóa nó), người đó sẽ không còn nghèo khó khốn khổ nữa, nhưng cũng có thể trong đời sống kế tiếp (kiếp sau, nếu như nghiệp nghèo khổ của người đó quá nặng và anh ta không biết cách chuyển hóa nó).

Trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, khi vua Mi lan da (Milinda) hỏi: “Có thể chỉ rõ kết quả của việc lành việc dữ sẽ tựu thành ra sao trong đời sau được không?” Tỳ kheo A la hán Na Tiên (Nagasena) đã trả lời: “Không thể. Ví như trên một thân cây chưa ra trái, không có cách gì biết được trái sẽ kết tụ ở cành nào và tại chỗ nào nhất định trên cây. Cũng như thế, trong vòng sinh tử vô thủy vô chung vô cùng vô tận, người chưa đắc đạo không thể nào đoán biết những việc thiện ác sẽ thành tựu ra sao và ở đâu một cách chính xác”.

Câu trả lời này không khác với lời đức Phật cho biết về nghiệp quả trong Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Bốn pháp: “Có bốn phạm trù không thể tư duy, đó là: Phật giới, thế giới tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thực của nghiệp”. Chúng ta không thể nào tư duy được về quả dị thục của nghiệp (quả đã chín muồi, đổi khác so với nhân ban đầu), bởi vì tất cả nghiệp nhân, nghiệp quả đều là duyên sinh cho nên bất định.

II. Thân thọ nghiệp, tâm thọ nghiệp, thân và  tâm đều thọ nghiệp:
Khi nghiệp tác động, biểu hiện ở thân, đó là thân thọ nghiệp. Khi nghiệp tác động, biểu hiện ở tâm, đó là tâm thọ nghiệp. Khi thân và tâm đều chịu sự tác động của nghiệp, đó là thân và tâm thọ nghiệp. Tuy nhiên giữa thân và tâm có mối quan hệ không thể tách rời nên khó có thể phân biệt một cách rạch ròi đâu là thân thọ nghiệp và đâu là tâm thọ nghiệp, bởi vì khi thân đau thì tâm cũng khổ, mà khi tâm khổ thì thân cũng mệt mỏi, khó chịu, thậm chí phát sinh các bệnh lý. những nỗi khổ về thân xác và những nỗi khổ về tinh thần có mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại với nhau.
Ví dụ như trường hợp tướng cướp Angulimàla phải thọ lãnh nghiệp quả bị người thân của những nạn nhân của ông chửi mắng, đánh đập (thân thọ nghiệp), và tâm ông cũng thường xuyên không an ổn, luôn bị ám ảnh bởi những việc ác ông đã gây ra (tâm bất an là hiện tượng tâm thọ nghiệp).

Do nghiệp nhân như  thế nào, tốt hay xấu, thiện hay ác mà đưa đến nghiệp quả hạnh phúc hay khổ đau, điều kiện, hoàn cảnh bản thân, điều kiện, hoàn cảnh đời sống tốt hay xấu. nếu nghiệp nhân xấu, bất thiện thì nghiệp quả xấu đưa đến sẽ tác động, chi phối làm cho con người phải chịu những cái khổ nơi thân và tâm, khổ vì hoàn cảnh đời sống, tựu trung là tám cái khổ lớn (Bát khổ): sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, khổ vì mong cầu mà không được, khổ vì oán ghét gặp nhau, khổ vì yêu thương mà phải chia lìa (sinh ly, tử biệt), khổ vì thân ngũ uẩn giả hợp luôn thay đổi, biến hoại. Tám cái khổ này, con người thọ lãnh nhiều hay ít, thọ cái khổ nào nhiều, thọ cái khổ nào ít đều tùy thuộc vào nghiệp đã tạo.

III. Thân thọ nghiệp mà tâm không thọ nghiệp:
Do nghiệp quá khứ chiêu cảm quả báo nên nghiệp quả tác động đến người tạo nghiệp. nhưng nếu người ấy có tu tập, có sự rèn luyện tâm, có nỗ lực chuyển hóa thì tuy thân có lãnh chịu nghiệp quả nhưng tâm không thọ khổ hoặc ít thọ khổ (tùy thuộc vào mức độ tu tập).

Ví dụ như trường hợp Angulimàla nhờ hiểu được những chướng duyên trong tu tập (bị người chửi mắng, đánh đập, làm khó dễ; luôn bị ám ảnh bởi những hành vi bất thiện trước đó) đều là nghiệp quả mà mình phải thọ lãnh do quá khứ đã tạo nghiệp nhân, và nhờ nỗ lực tinh tấn hành trì giáo pháp, tu tập thiền định mà ông bớt khổ, cho đến khi tâm an định và trí tuệ soi sáng thì tâm ông hoàn toàn thoát khỏi mọi phiền não khổ đau, chứng thành đạo quả, lúc này dù phải trải qua cảnh máu đổ thịt rơi thì tâm ông cũng không dao động, chỉ có thân thọ nghiệp (dư báo - nghiệp báo còn sót lại) mà tâm vẫn không thọ nghiệp.

Trong kinh Tương Ưng Bộ IV, đức Phật đã khẳng định, nghiệp quả của hành động ác có thể được khắc phục nhờ ăn năn hối cải và tu tập phát triển công đức giới hạnh.
Đối với những ai chứng được vô ngã pháp, không còn chấp thủ, thấy rõ “nghiệp chướng bổn lai không” thì tâm không còn chịu sự tác động, chi phối của nghiệp quả, tuy thân có thọ nghiệp (do còn mang thân tứ đại, nên phải chịu quả báo của nghiệp quá khứ) nhưng tâm không khổ não, tuy thân thọ nghiệp nhưng tâm không thọ nghiệp, ví dụ như trường hợp đức Phật, Tổ Sư Tử, Bồ tát An Thế Cao trả nghiệp.
Tổ Sư Tử khi du hóa đến nước Kế Tân, vua nước này hỏi ngài rằng: “Ngài thấy ngũ uẩn đều Không chăng?” Tổ đáp: “Tôi thấy ngũ uẩn đều Không”. Vua bảo: “Ngài cho tôi cái đầu được chăng?” Tổ nói: “Ngũ uẩn đã là Không, sá gì cái đầu”. Vua liền chém đầu Tổ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/3/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.