THÍCH NGUYÊN
SIÊU
Sinh năm 1951 tại Nha Trang.
Sơ phát tâm xuất gia với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Chí Tín, Trụ
trì Chùa Long Sơn, Tỉnh Hội Nha Trang, năm 1961.
1966 học chương trình Phổ thông Trường Bồ Đề, Nha Trang
1968 học chương trình Phổ thông tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm,
Sài Gòn.
1969 học chương trình Phổ thông tại Tu Viện Nguyên Thiều, Qui
Nhơn, Bình Định.
1970 học chương trình Phổ thông tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha
Trang.
1971 học Nội Điển Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, Phật Học Viện
Hải Đức, Nha Trang.
1973 thọ Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Hải
Đức, Nha Trang.
1974 tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học tại Phật Học
Viện Hải Đức, Nha Trang.
1975 học Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, Viện Cao Đẳng Phật Học
Hải Đức, Nha Trang.
1980 học Cao Cấp Phật Học, Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài
Gòn.
1988 vượt biên đến trại Palawan, Phi Luật Tân.
1990 định cư tại Hoa Kỳ.
1996 khai sơn Chùa Phật Đà, San Diego, California, Hoa Kỳ
1999 khai sơn Tu Viện Pháp Vương, San Diego, Hoa Kỳ.
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTNHNHK.
2004 Chủ nhiệm tập san Phật Việt.
Đã có bài đăng trên nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải
ngoại như Chân Nguyên, Phật Giáo Hải Ngoại, Phật Việt, Phương Trời Cao Rộng,
Người Việt, Saigon Times, Thế Kỷ 21, Việt Báo, Việt Tide, Chánh Pháp, v.v...
Có bài đăng trên các trang nhà điện toán toàn cầu như Thư Viện
Hoa Sen, Quảng Đức, Buddhahome, Thân Hữu Già Lam, Pháp Vân, Hải Triều Âm,
v.v…
Tác phẩm đã xuất bản:
-
Tư Tưởng Xã Hội Trong Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy – 1994
-
Ưu Đàm Lướt Bão – 1998
-
Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập I – 2001, 2006
-
Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập II - 2006
Những bài viết khác:
-
Trần Trung Đạo, tuổi thơ, mẹ, quê hương và
dân tộc
-
Chữ hiếu trong tục ngữ ca dao Việt
Nam
-
Giới thiệu tổng quát các công trình nghiên
cứu sử học của sử gia Lê Mạnh Thát
-
Tuệ Sỹ thơ và con đường trung
đạo
-
Tuệ Sỹ, thái độ của nhà sư nhập
thế
-
Tuệ Sỹ, thơ và tư tưởng triết
học
-
Quan điểm về nghiệp
-
Văn hóa dân tộc và dòng sinh mệnh Phật Giáo
Việt Nam
-
Vô trụ bất thủ hay sử mệnh độ sinh của chư
đại Bồ tát
-
Bài tựa Kinh Đại Phẩm của Tăng
Duệ
-
Thượng Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu những người tù
tri thức
-
Lý duyên sinh hay tinh thần vô
ngã
-
Đại cương Kinh Pháp Hoa
-
Sơ tâm
-
Không sầu chẳng vui
-
Niệm Phật
-
Mẹ đóa hồng yêu thương
-
Thi kệ Thiền và phong thái của người đạt
đạo
-
Một vài nét biểu trưng của người cư sĩ Phật
tử nơi hải ngoại
-
Biển cả
-
Bồ tát và trú xứ độ sinh
-
Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải
ngoại
-
Trí tuệ và lòng từ bi
Phần dịch thuật:
-
Bài tựa Kinh An Ban Thủ Ý
-
Sự quan hệ giữa Khương Tăng Hội, An Thế Cao
và Tam Hiền
-
Ý nghiã An Ban Thủ Ý
-
Bài tựa Kinh Đại Phẩm
-
Quan hệ ba phương diện của Bát
Nhã
-
Quan điểm của Tăng Duệ về tư tưởng Bát
Nhã
-
Bài tựa Thành Duy Thức Thuật Ký
-
Đại lược về Duy Thức Học
-
Căn nguyên Pháp Tướng Tông
-
Một triết lý phong phú
-
Nhận xét văn chương và tư tưởng của ngài
Khuy Cơ
Thơ:
-
Bước chân Phật, thơ
-
Mẹ là chân thân, thơ
-
Tìm người trong cõi hà sa, thơ
-
Dáng từ đồi Trại Thủy, thơ
-
Vu lan nhớ cha, thơ
-
Trăng nước giai không, thơ
a
MẸ LÀ CHÂN THÂN
Hôm nay Rằm tháng
Bảy
Mẹ dẫn con đi
chùa
Dâng hương lên cúng
Phật
Lay tay Mẹ xin
thưa:
Con cúi đầu lạy
Phật
Mẹ thấy con ngoan
không?
Mai kia con chóng
lớn
Làm cho Mẹ vừa
lòng
Công đức ân sinh
trưởng
Cao tợ núi Thái
Sơn
Dưỡng dục nghĩa mang
nặng
Suối nguồn thật mông
mênh
Mẹ ơi ! Con trả
hiếu
Cho Mẹ và cho
Cha
Hai vị Phật còn
sống
Chung ở cả một
nhà
Con biết ! Con biết
rồi
Khi xưa Phật có
dạy
Muốn đền đáp ơn
sâu
Hiện đời luôn phải
thấy
Cha như ánh trăng sao
Mẹ là giải sông
Đào
Luôn phụng dưỡng hôm
sớm
Là phước đức từ
bao...
Còn nữa, Phật dạy
rằng:
Như thế này, Mẹ nhé
!
"Người nào theo thường
pháp
Nuôi dưỡng Mẹ và
Cha
Chính do công hạnh
này
Đối với Cha và
Mẹ
Nhờ vậy, bậc Hiền
Thánh
Trong đời này tán
thán
Sau khi chết được
sinh
Hưởng an lạc Chư
Thiên."
Mẹ hiền con thờ
kính
Cha quý con xin
vâng
Đảnh lễ tự song
thân
Nam Mô Phụ Mẫu
Từ.
VU LAN NHỚ CHA
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng
Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà
Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng
Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
Ngọn gió mùa đông phủ tràn khắp lối
Lạnh thân con Cha đắp tấm chăn êm
Liếp cửa buồng ngăn ấm lòng chất ngất
Lời ru hời nghe ngọt tận trong con
Vu Lan về con nhớ Cha nhiều lắm
Nhớ thủa sinh tiền đều đặn nén hương
Niệm Phật thắp nhang qua làn khói quyện
Bằng tâm thành Cha kính lễ mười phương
Và như thế dòng đời trôi chảy mãi
Cho đến khi tan vỡ cuộc vô thường
Đường Cha đi ngàn vạn dặm sầu thương
Con ở lại sống đời tương dưa muối
Con học nơi Cha sức người cặm cụi
Bằng đôi tay xây dựng những yêu thương
Từng bước đi trong kiếp sống tha hương
Tưởng nhớ lại đoạn đường thời gian khổ
Vu Lan về lá vàng rơi lỗ đỗ
Như giọt mưa thấm mộ quê hương Cha
Lời ru xưa vang động bóng chiều tà
Con lạy Phật Cha ơi! Về Tịnh Độ
Giấc mộng đời thế gian nhiều giông tố
Bóng Cha già thăm thẳm chốn u linh
Đêm nay đây con khẽ tụng thời kinh
Cầu nguyện khắp nhân sinh nhiều an lạc
Cha ơi! Cha, bóng Cha như cánh hạc
Bay trên cao mãi mãi ở trên cao
Là cội tùng là vách đá trăng sao
Là bầu trời rộng rạt rào vô tận.
TÂM HIỆN THÀNH NGƯỜI
Chiều nay ngắm áng mây trôi
Nghe từng nhịp thở trong tôi
Băng qua sinh tử luân hồi
Tự thuở nằm nôi đơn côi
Dòng đời đi về muôn lối
Lang thang từ cõi xa xôi
Kiếp người như vầng mây bạc
Đầu nguồn tự thuở tinh khôi
Ai có nghe hôm nào tôi đến
Ai có nghe hôm nào tôi đi
Đi vào cát bụi
Đi vào núi đồi
Đi vào sương gió
Khỏa lấp thân tôi
Người nằm đó
Để lắng nghe
Lời ru câu hát
Hát cho người
Tự thuở vô minh
Giờ cúi xuống
Ngắm đôi chân mình
Viên đá cuội nghìn năm nằm trơ trọi
Bọt biển xanh vỡ nát đầu ghềnh
Hiện thành kiếp sống
Kiếp người mong manh
Tâm thức tôi
Hiện thành thân tôi
Tâm thức anh
Hiện thành thân anh
Tâm thức người
Một chuỗi loanh quanh
Kéo nhau đi
Về cõi hư vô
Cùng nhau về
Về miền vô tận
Phù sinh lẽ sống
Tạm dung kiếp người
Vượt thoát tử sinh.
ĐẾN TỪ TIỀN KIẾP
Ta có mặt hôm nay
Là có từ vạn kiếp
Suối nguồn xưa trôi chảy
Kết lại thành đài mây
Mây tan trên bầu trời
Gió lan trên mặt đất
Kiếp sống tự hôm nay
Tiền thân dài chất ngất
Ai hay mang thân này
Trôi lăn dòng sinh tử
Như viên sỏi đầu nguồn
Trầm luân từ độ ấy
Tiền kiếp ta là chim
Chim bay vào các miền
Nghe lời Kinh Bát Nhã
Siêu sinh được an nhiên
Kiếp này ta là người
Nhặt từng viên đá cuội
Góp bàn tay yếu đuối
Xây dựng đời bình yên
Một bông hoa dâng đời
Một Bồ Tát hóa thân
Làm đẹp cho thế nhân
Cúng dường vô lượng Phật
Lời kinh độ hữu tình
Như giọt nắng lung linh
Nuôi lớn hồn thảo mộc
Cho vạn loài chúng sinh
Hiện hữu ta là đây
Cưu mang nghiệp lưu đầy
Qua ba nghìn thế giới
Thoáng chốc trong phút giây
Tâm thường lạc ngã tịnh
Thực tướng luôn hiện bày
Vượt dòng sông sinh tử
Giác ngộ chơn tâm này
Tiền kiếp hay hôm nay
Chỉ là phương tiện thuyết
Các pháp chẳng sinh diệt
Bình đẳng trong phút giây.
TRĂNG NƯỚC GIAI
KHÔNG
Một đôi nước xôn xao
Lung linh ánh trăng tỏ
Nước chao ánh trăng mờ
Trăng gẫy nát đường tơ
Gánh nước dưới đêm trăng
Qua các tàng cây rậm
Kẽo kẹt đôi vai gầy
Trăng tan làn nước sậm
Trăng rọi qua cành cây
Trăng đầy đôi gánh nước
Nước động trăng lung lay
Đường dây nghe sựt đứt
Đôi tay hờ hững không
Nước tràn trăng tan mất
Hương mùa thu thơm nồng
Qua các nẻo hư không
Thẫn thờ đôi gánh thùng trông
Trăng tan nước mất nghe lòng thảnh thơi.
oOo
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU SỬ HỌC
của SỬ GIA LÊ MẠNH THÁT
Thích Nguyên Siêu
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài
liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm
Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sĩ Sử gia Lê Mạnh Thát là một công trình
liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được,
để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử
mệnh quê hương.
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc và Phật Giáo Việt Nam, sử
gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá mà suốt một
dòng thời gian hơn 2000 năm qua bị tản thất, vùi dập trong sự lãng quên. Thầy đã
khám phá những chứng tích lịch sử mà từ trước đến nay chưa được thấy trên diễn
đàn văn học nước nhà. Từ đó, Thầy đã cống hiến những tác phẩm dày công sưu khảo,
đầy giá trị sử học vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam ngày thêm phong phú
và đa dạng. Chúng tôi kính giới thiệu đến quý vị một số tác phẩm tiêu biểu như
sau:
1.
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - 3
tập.
2.
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam - 3 tập.
3.
Toàn Tập Minh Châu Hương
Hải.
4.
Toàn Tập Trần Thái Tông.
5.
Toàn Tập Trần Nhân Tông.
6.
Toàn Tập Toàn Nhật Quang
Đài.
7.
Nghiên Cứu Về Mâu Tử - 2 tập.
8.
Chân Đạo Chánh Thống.
9.
Lịch Sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt
Nam.
10.
Tự Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
- 2 tập.
11.
The Philosophy of
Vasubandhu.
12.
Ngữ Pháp Tiếng Phạn ...
Từ những tác phẩm trên, và qua lời tựa của tác phẩm Tổng Tập
Văn Học Phật Giáo Việt Nam, đã tạo nên những cảm xúc thâm trầm cho thấy Phật
giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã hòa quyện với nhau kể từ khi Phật giáo được
truyền vào quê hương Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Suốt một dòng lịch sử hơn
2000 năm qua, Phật giáo đã hòa mình theo vận nước, đã thăng trầm theo thời cuộc.
Chưa có một thời gian nào, một triều đại nào mà Phật giáo tách khỏi dân tộc,
không cùng chung vai gánh vác sơn hà xã tắc qua những cơn nguy biến.
Trong chiều dài lịch sử đó, chư vị Thiền Sư, quý Phật tử đã thực
sự đem tài ba lỗi lạc của mình, đem trí não tâm linh để tài bồi xây dựng cho kho
tàng văn hóa nước nhà có được những tư liệu đồ sộ, giá trị quý báu.
Tuy nhiên, cho đến ngày hôm nay, công trình khảo cứu vẫn chưa
hoàn tất trong nguồn tư liệu có được. Chúng ta phải dày công nghiên cứu và đóng
góp nhiều hơn nữa để khai triển và hệ thống hóa một cách nghiêm túc trên nền
tảng các chứng tích, tư liệu đó. Chúng ta cần gia công bảo trì và phát triển nền
văn hóa dân tộc ngày thêm lớn mạnh, nhằm góp phần xây dựng đời sống văn minh
tiến bộ và thánh thiện cho con người hôm nay và mai sau.
Qua lời đầu sách đã cho chúng ta một ý thức rằng kho tàng tri
thức của các Thiền sư và Phật tử còn tàng trữ quá nhiều ở các ngôi cổ tự, đại
tòng lâm. Dưới những mái chùa mà thời gian đã hóa thành rêu phong phủ kín đã lưu
xuất những bông hoa trí tuệ để cống hiến cho nền văn hóa đặc thù của dân tộc quê
hương.
Nội dung của Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển I
khảo cứu về Mâu Tử, Lý Hoặc Luận và Khương Tăng Hội.
Lời dẫn về Lý Hoặc Luận:
"... Trong cuộc đấu tranh và phát triển đầy cam go gian khổ,
nhưng cũng đầy hào hùng hoành tráng của dân tộc, mỗi khi lịch sử bước vào những
giây phút thử thách gay gắt quyết liệt, sống mái với kẻ thù, những khuôn mặt anh
tài luôn luôn xuất hiện đứng ra gánh vác trách nhiệm, góp sức đưa con thuyền dân
tộc đến bến vinh quang. Vào cuối thế kỷ thứ II, sau dương lịch, dân tộc ta đang
đối đầu với viễn ảnh có thể bị đồng hóa vào nền văn hóa Trung Quốc, thì một
khuôn mặt anh tài đã ra đời, đó là Mâu Tử cùng tác phẩm Lý Hoặc Luận nổi tiếng
của ông."
Qua phần II, tác giả trình bày về Khương Tăng Hội - Cuộc Đời và
Sự Nghiệp:
"... Kể từ ngày Trần Văn Giáp giới thiệu Khương Tăng Hội như
một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Phật ở nước ta, những người
viết sử về sau đã tiếp tục đánh giá vị trí, vai trò cũng như những đóng góp của
Khương Tăng Hội đối với lịch sử dân tộc Việt, không hơn không kém là một nhà
truyền giáo đầu tiên. Việc giới thiệu sai lầm này dẫn tới những hậu quả nghiêm
trọng, mà một trong những số đó là việc nghiên cứu Khương Tăng Hội đã không được
tiến hành nghiêm túc để khám phá những đóng góp của Khương Tăng Hội không những
đối với lĩnh vực lịch sử Phật Giáo Việt Nam, mà còn với nhiều lãnh vực khác nữa,
đặc biệt là lĩnh vực lịch sử với truyền thuyết trăm trứng và lịch sử ngôn ngữ tư
tưởng và văn học Việt Nam. Ngày nay, với những thành quả nghiên cứu có được,
chúng ta có thể khẳng định Khương Tăng Hội không phải một nhà truyền giáo đầu
tiên của Phật Giáo ở Việt Nam, mà là một thành tựu đầu tiên của nền Phật Giáo
ấy, để cùng với Mâu Tử hình thành một mặt trận văn hóa phản công lại những trận
tiến công như vũ bão của nền văn hóa nô dịch Trung Quốc đang xảy ra vào thời đó,
và khẳng định sức sống ưu việt của nền văn hóa Việt Nam và Phật Giáo Việt
Nam."
Mỗi khi đề cập đến Khương Tăng Hội thì chúng ta không thể không
nói đến Lục Độ Tập Kinh. Đây là tác phẩm nổi tiếng của Ngài. Qua công
trình sưu khảo và nghiên cứu Lục Độ Tập Kinh, Thầy viết:
"... Nếu lịch sử văn học và văn hóa thành văn thời Hùng Vương
còn để lại cho đến nay qua một bài Việt Ca duy nhất còn đang bàn cãi thì lịch sử
văn học và văn hóa Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và trước Lý Nam Đế có thể được
nghiên cứu qua một loạt những tác giả lớn như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Đạo Hinh,
Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu, trong đó nổi bật nhất là Khương Tăng Hội với Lục
Độ Tập Kinh.
Lục Độ Tập Kinh là văn bản đầu tiên và xưa nhất ghi lại tình
tiết 100 trứng của truyền thuyết khởi dân tộc tính. Lục Độ Tập Kinh cũng là tác
phẩm đầu tiên và xưa nhất ngoài bài Việt Ca, còn bảo lưu được một số trên 15
trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt và cung cấp một số
lượng đáng kể các tá âm cho việc nghiên cứu tiếng Việt cổ và phục chế lại diện
mạo tiếng nói ấy cách đây 2000 năm. Lục Độ Tập Kinh còn là nơi tập đại thành
những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất
nước v.v... làm cột sống cho chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam và truyền thống văn hóa
Việt Nam. Lục Độ Tập Kinh còn là văn bản thiết định những chủ đề tư tưởng lớn
của Phật Giáo Việt Nam, làm tiền đề cho những phát triển tư duy Phật Giáo Việt
Nam, mà thành quả đầu tiên phát hiện cho đến nay là sáu lá thư trao đổi giữa Lý
Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh vào khoảng những năm 450.
Lục Độ Tập Kinh vì thế là một tác phẩm văn học lớn không chỉ
của lịch sử Phật Giáo Việt Nam mà còn là lịch sử văn học tư tưởng và văn hóa dân
tộc."
Để thấy rõ hơn về nội dung tư tưởng Lục Độ Tập Kinh, đủ
nguồn cảm hứng và khả năng truyền tải giá trị cao thượng, xây dựng đời sống dân
sinh thăng hoa trên giai tầng tâm linh mà còn là bản kinh lòng, lời kinh ruột
của Bồ Tát Đạo, Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Nguyện:
"... Lục Độ Tập Kinh như nhan đề chỉ ra, là một tập kinh
trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ Tát, tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ. Lý tưởng Bồ Tát trong thời kỳ đầu của Phật Giáo ở
nước ta, do thế, đã được xiển dương mạnh mẽ, đề cao những con người có lòng
thương rộng lớn đối với tất cả người vật (bố thí), tự mình kiểm soát lấy mình
(trì giới), kiên trì chịu đựng gian khổ, khó khăn (nhẫn nhục), năng động phấn
đấu hoàn thành mục tiêu đã định (tinh tấn), bình tĩnh (thiền định) và sáng suốt
(trí tuệ). Mẫu người lý tưởng của Phật Giáo, mẫu người có lòng thương, có kỷ
luật, kiên trì, năng động, bình tĩnh và sáng suốt, được định hình và kế hoạch
thể hiện mẫu người này trong cuộc sống được vạch ra thông qua khuôn khổ các câu
chuyện tiền thân của Đức Phật, cho các Phật tử Việt Nam thời Khương Tăng Hội và
trước đó."
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển II, Thầy giới
thiệu một số tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội như: Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp
Kính Kinh Tự, An Ban Thủ Ý Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh và sáu lá thư, Lý Miễu, Đạo Cao
và Pháp Minh.
Ngang qua các bản dịch của Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp Kính Kinh
Tự và An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải... chúng ta thấy nội dung là những truyện cổ
tích dân gian hướng con người trên việc hành thiện, trong nhân nghĩa thuần hậu
và ý thức tôn vinh phẩm hạnh con người nhằm xây dựng một đời sống chân hạnh phúc
trong cuộc đời này. Chính những truyện cổ tích này đã mang một nội dung giáo
pháp nhân quả, nghiệp báo...:
"... Truyện một sự tích dưa hấu thực chất là một thuyết giảng
về giáo lý nhân quả "ở hiền gặp lành" của Phật giáo dân gian. Nó gồm hai
đoạn. Đoạn 1 kể An Tiêm gốc là một nô tỳ, lấy được người con gái nuôi của Vua
Hùng, ăn mặc sung sướng, của cải giàu có. Có người khen, An Tiêm nói đó là "vật
tiền thân" của An Tiêm. Vua Hùng nổi giận, đày An Tiêm ra đảo. Đoạn 2 kể, Tiêm ở
đảo, nhờ chim đem hạt dưa hấu đến, trở nên giàu có và được gọi về..."
Và còn rất nhiều những cốt truyện tương tự như vậy được trình
bày trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, một cách khuyến tấn con người phải biết ăn ở hiền
lành, có thảo có ngay, sống đời đạo đức.
Về mặt Triết học kinh viện của giai tầng tri thức, của bậc
thượng căn, thượng trí chúng ta thấy trong An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải lời văn
khúc chiết, rành rõi, âm hưởng trùng điệp vang ngân bất tận, khi định nghĩa về
tâm, Khương Tăng Hội đã viết:
"Tâm chi dật đảng, vô vi bất hiệp
hoảng hốt phảng phất, xuất nhập vô gián
thị chi vô hình, thính chi vô thanh
nghênh chi vô tiền, tầm chi vô hậu
thâm vi diệu tế, hình vô ty phát
Phạm Thích Tiên Thánh, bất năng chiếu minh
mặc chủng vu thử, hóa sinh hồ bỉ
phi phàm sở đổ, vi chi ấm giả..."
Dịch nghĩa:
Tâm tư mở rộng thì không một vật vi tế nào mà không thể vào,
rỗng nhiên thấu suốt, ra vô không gián đoạn,
nhìn chẳng thấy hình, nghe không thấy tiếng,
đoán chẳng ở trước, tìm chẳng có sau,
sâu xa mầu nhiệm, chẳng có bóng dáng hình ảnh,
bậc Phạm Thiên Đế Thích hay Tiên Thánh cũng không thể thấy
rõ;
âm thầm linh hoạt nơi này, hóa sinh nơi kia,
hàng phàm phu cũng không thể biết được.
như vậy gọi là “ấm”.
Đây là bản kinh cốt lõi, làm chuẩn đích cho ai có lòng nghiên
tầm, khảo cứu để hướng tâm trên con đường đạo. Nhưng đồng thời cũng chú trọng
đến các lãnh vực như nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo, chính trị, tư
tưởng....
Qua bộ môn âm nhạc, Thầy viết:
".... Về vấn đề âm nhạc, những đóng góp của sáu lá thư ấy lại
càng đặc sắc và quý giá hơn. Quý giá, bởi vì chúng là những văn kiện xưa nhất và
duy nhất nói đến sự hiện diện một các không chối cãi ở nước ta những "ca tán
tụng vịnh".
Từ đó, cho thấy tối thiểu vào đầu thế kỷ thứ V, âm nhạc Việt Nam
và âm nhạc Phật giáo Việt Nam gồm những thứ gì. Đặc sắc, bởi vì nếu phối hợp báo
cáo âm nhạc vừa nói với những hình ảnh nhạc cụ trên những bệ đá của nền nghệ
thuật Tiên Sơn, chúng ta có thể rút ra những kết luận rất lôi cuốn về lịch sử âm
nhạc Việt Nam và lịch sử âm nhạc Phật giáo Việt Nam, đồng thời giải thích cho
thấy, tại sao trên những bệ đá ấy chúng ta chỉ có mười nhạc thần và chín thứ
nhạc cụ tấu nhạc, để ca ngợi cúng dường người giác ngộ."
Từ những tư liệu có được của thời gian phôi thai, thuở ban sơ,
trên dòng lịch sử của dân tộc, qua các tác phẩm đã xuất bản, Tiến sĩ Sử gia Lê
Mạnh Thát đã công bố một cách minh nhiên và sẽ tiếp tục cống hiến những sưu khảo
nhiều hơn nữa để hoàn thành sứ mạng của một Sử gia thời đại.
Công trình khảo cứu ấy, qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt
Nam quyển III, Thầy đã dành trọn quyển để in lại tác phẩm Thiền Uyển Tập
Anh, chứng tỏ tác phẩm này đã nói lên vai trò vô cùng quan trọng trên lãnh
vực văn học nước nhà và còn mang nhiều sắc thái độc đáo của lịch sử Phật Giáo
đời Trần:
"... Thiền Uyển Tập Anh có một cống hiến thật đặc sắc,
bởi vì nó là một tác phẩm đời Trần duy nhất còn lại, chứa đựng nhiều tên ấp, tên
làng, tên quận, tên phủ và tên châu của đời Lý cũng như đời Trần hơn bất cứ một
tác phẩm nào khác, nếu hoàn thành, có thể nói ta đã vẽ lại được một phần bản đồ
địa lý chi tiết của nước ta vào thời Lý một cách cụ thể nhờ vào tên các ngôi
chùa gắn liền với các tên đất ấy."
Đó là trên bình diện địa lý, còn trên lãnh vực văn học, Thiền
Uyển Tập Anh đã đóng một phận vị có tầm vóc ách yếu trên nền học thuật và
thiền học ngang qua tinh thần tu chứng của chư vị thiền sư tổ đức:
"... Rõ ràng, đối với lịch sử dân tộc ta, Thiền Uyển Tập Anh
đóng một vai trò hết sức quan trọng và thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm
lịch sử văn học dân tộc phai mờ thất tán đi không phải ít... và vai trò ấy, thực
tế, có một tầm quan trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất là một bộ sử
chuyên môn về Phật giáo Thiền Tông Việt Nam. Mà Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam
vào mấy trăm năm ấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chiếm ưu thế trong giai đoạn
lịch sử đó."
Vạn Hạnh Thiền Sư đã hộ quốc an dân, xây dựng một triều đại vàng
son cho dân cho nước, mà tinh thần tu chứng đã thể hiện qua bài kệ:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Tùy vận thạnh suy hưu bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
Dịch nghĩa:
“Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Thịnh suy suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành”
Người đọc các văn kiện lịch sử, các chứng tích văn học, các nền
văn hóa dân tộc và Phật Giáo Việt Nam qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt
Nam 3 quyển sẽ thấy được sự lịch lãm uyên bác đầy thực nghiệm của một sử gia
đương đại, chỉ thu mình trong 3 quyển văn học ấy không thôi cũng đủ để chứng
minh cho chúng ta thấy đâu là tri thức không chướng ngại, đâu là tài năng tập
thành xuyên suốt thời gian không ngằn mé, và đâu là vượt thắng mọi chướng duyên
để kiện toàn nguồn tư tưởng hãn hữu.
Qua bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, bằng cái nhìn tổng thể
của một sử gia, Thầy đã phân chia các chặng đường lịch sử không giống các nhà
nghiên cứu khác. Trước tiên bằng nhận định xác thực thế nào là lịch sử? Và cấu
trúc lịch sử được vận hành như thế nào qua mỗi thời đại, qua từng lớp người của
bối cảnh lịch sử đó:
"... Đối với chúng tôi, lịch sử là một vận động có ý thức của
con người. Riêng đối với các tư trào văn hóa như Phật Giáo thì lịch sử như một
cuộc vận động có ý thức lại càng rõ nét hơn. Lịch sử vận động trên căn bản tương
tác của nhiều cấu trúc khác nhau. Có cấu trúc hạ tầng, có cấu trúc thượng tầng
và những cấu trúc hàng ngang, hàng dọc đan xen lẫn nhau, trong đó cấu trúc hạ
tầng tất nhiên giữ vai trò chủ chốt, nhưng không phải là tuyệt đối. Xuất phát từ
một cái nhìn như thế, quan điểm của chúng tôi là nhìn lịch sử Phật Giáo như một
bộ phận của cuộc vận động chung của dân tộc."
Từ nhận định và lập trường trên, Thầy đã chia dòng lịch sử Phật
Giáo Việt Nam 2000 năm thành 5 thời kỳ:
"Đó là thời kỳ Phật Giáo quyền năng, thời kỳ Phật Giáo vận
động độc lập, thời kỳ Phật Giáo thế sự, thời kỳ Phật Giáo cư trần lạc đạo và
thời kỳ Phật Giáo quần chúng... Mỗi thời kỳ này có một nét đặc trưng nổi bật của
nó, mà ngay cả sự đổi thay của các triều đại và sự tồn tại những dòng Thiền khác
nhau không có một ảnh hưởng to lớn nào. Lịch sử tuy là một vận động có ý thức
của con người, nhưng đồng thời cũng có quy luật của nó. Mà đã nói đến quy luật
tức là nói đến tính tất yếu, mà mỗi ý chí của cá nhân không thể cưỡng lại
được."
Đọc qua lịch sử Phật Giáo Việt Nam 3 tập dày khoảng 2500 trang,
chúng ta thấy hệ thống tư liệu từng niên đại, từng nhân vật, từng cốt truyện
được thẩm định rõ nét, chính xác để định vị trí chứng nhân của dòng lịch sử.
Điều này chúng ta thấy trong phần Pháp Thuận và bài thơ Thần Nước Nam Sông Núi.
Từ trước đến giờ theo tính truyền khẩu được luân lưu qua từng thế hệ, chúng ta
cho rằng bài thơ Thần Nước Nam là của Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến chống
ngoại xâm năm 1076. Nhưng qua các tư liệu chứng minh thời bấy giờ, bài thơ Thần
Nước Nam đó được coi là hiện hữu dưới thời Vua Lê Đại hành, trong cuộc chiến
tranh năm 981:
Bài thơ Thần Sông Núi
1. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.
2. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.
3. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư
Như Kim Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến hải trần tận tảo trừ.
4. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư
Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư
Như Hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
Hội kiến phong trần tận tảo trừ.
Dịch nghĩa:
Sông núi của nước Nam người dân Nam ở,
Đó là sự minh định từ nơi sách Trời.
Nếu như ai trái nghịch xâm phạm,
Chắc hẳn phải chuốc lấy sự thất bại tiêu vong.
Qua các luận cứ được thẩm định, để thấy được bài thơ Thần phát
xuất từ đâu:
"... Theo chúng tôi, ta nên trả bài thơ Thần trên về cho cuộc
chiến tranh 981 và chúng ta có đủ dữ kiện để làm như thế. Đây không phải là một
kết luận mới. Hai bộ sử viết bằng tiếng Việt vào thế kỷ thứ 16 và 17, là
Việt Sử Diễn Âm và Thiên Nam Ngữ Lục đều thống nhất có cùng một
kết luận. Việt Sử Diễn Âm đã dành một đoạn dài nói về lai lịch của bài
thơ này."
Đến đây, chúng ta thấy Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài là
một tác phẩm sưu khảo và tác biên về cuộc đời và sự nghiệp của Toàn Nhật. Một
cách sơ lược về sự nghiệp văn học chúng ta thấy trong phần Tam Giáo Nguyên Lưu
Ký, Viên Quang tự Sa Môn Toàn Nhật pháp hiệu Quang Đài, Ngài đã thể hiện tinh
thần Tam Giáo Đồng Nguyên qua những vần thơ song thất lục bát:
"Thuở trời Xuân say nhuần mầu đạo
Trót nom theo Tam giáo chân tôn
Am mây gởi dấu thong dong
Tu thân ngày tháng sửa lòng hôm mai
Trải xưa định vị tam tài
Là trời, người, đất muôn loài nổi sinh."
Qua phần Tống Vương truyện đã thể hiện một nhân sinh quan vô
cùng an nhiên tích cực, cho thấy Toàn Nhật là một trong những nhà thơ, nhà văn,
nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt.
Tống Vương truyện đã dệt nên một truyện tình thơ mộng của một
Thái tử, con vua, với người con gái mộc mạc làng chài lưới miền sông nước:
"... Long phi vân hán,
Phụng nhiễu quang minh
Ứng trinh tường xảy gặp điềm lành
Vừng đẩu tú trổ sanh thụy lạ
Có người Giang hạ
Tánh thật ngư ông
Việc võng la lưới tổ (chài) tôm
Nghề hà hải Giang Tân Sở trú
Kết duyên phu phụ
Hiệp bạn Châu Trần
Vô nam nhi kế tự tôn thân
Sinh nữ tử nối dòng tổ phụ..."
Và cuối cùng cái hậu của cốt truyện là vua cha đi tu, giao ngôi
vua lại cho con:
"... Vua đà cao kỷ
Tác lớn trên đầu
Nhượng vị cho con
Sửa sang chính sự
.........
Hồi đầu Phật Tổ
Thế phát tu hành
Con nối ngôi truyền dõi đạo thanh
Muôn đời để lưu danh thiên hạ."
Những vần thơ ấy đã đề cao tinh thần dân chủ, tôn trọng tinh
thần bình đẳng giữa loài người, không phân biệt giai cấp, ngôi vị. Giá trị ở đây
là tư cách đạo đức nhân luân là nền tảng nhân bản được xây dựng trong tâm tư của
mỗi con người. Dù người đó có địa vị, quyền cao, tước trọng nơi triều đình, hay
lớp người dân giả bình dị vẫn được tôn trọng trong ý niệm hướng thượng. Từ đó,
chúng ta thấy Lục Tổ Truyện Diễn Ca, Toàn Nhật đã hướng dẫn con người trên đường
tìm cầu chân lý và cuối cùng thành đạt đạo quả giác ngộ. Đó là hình ảnh của Lục
Tổ Huệ Năng, Người mang đá giã gạo suốt bao năm tháng, nhưng ý vị giác ngộ vẫn
miên viễn trường tồn:
"... Đêm ngày chuyên niệm Di Đà
Chịu phần giã gạo vậy hòa tám thu
Bảo làm cho thấy công phu
Vai mang khối đá chuyên tu đến ngày
Phật Tổ khổ hạnh lắm thay
Sáu năm tuyết lãnh mới thành Kim thân."
Đó là giá trị của sự tu tập, mà bằng cái nhìn của Toàn Nhật lao
tác là một thể thức của Thiền định - gánh nước, bửa củi, giã gạo. Từ tự tướng
của chân tay đã thể hiện được tánh giác ngộ, trong sáng nơi tâm thanh tịnh thuần
khiết của Phật tánh thường hằng như nhiên bất động.
"... Ca Sa bình bát pháp thiền
Bèn trao phú chúc về miền Thiền Châu
Dặn dò y chánh trước sau
Mấy lời Phật Tổ thẳm cao nhiệm mầu
Huệ Năng lễ tạ khấu đầu
Lạy từ Hòa thượng sẽ hầu lui ra."
Bước sang Toàn Tập Minh Châu Hương Hải được sưu khảo và
tác thành qua những tư liệu có được. Thiền Sư là một nhà Văn hóa, Triết gia, Tư
tưởng gia của Phật Giáo và dân tộc Việt Nam. Qua tác phẩm này, chúng ta thấy
công trình văn học đã được lưu lại qua các tác dịch phẩm, hoặc chú giải như:
Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa, Giải Di Đà Kinh Sớ Sao, Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ, Sự
Lý Dung Thông, Giải Pháp Hoa Kinh, Giải Sa Di Giới Luật, Soạn Quán Vô Lượng Thọ
Kinh Quốc Ngữ ... tất cả trên 20 tác phẩm, gồm 30 quyển.
Là một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 17, Thiền Sư đã xây dựng một
ngữ pháp để giải và dịch kinh mới mẻ nhất, mà không theo lối cổ dịch của những
thế kỷ 15, 16. Lối dịch này được diễn tả, giải thích kinh văn phóng khoáng theo
cái nhìn và sự hiểu biết của mình mà không dịch sát chữ, sát nghĩa, cựu dịch. Do
cách dịch thuật sáng tạo này mà Thiền Sư đã thật sự đóng góp một gia tài văn học
đồ sộ cho nền lịch sử văn học tiếng Việt. Một thí dụ điển hình qua lối dịch giải
đó nơi bài Kệ Kinh Kim Cương:
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ứng tác như thị quán”
"Hết thảy pháp hữu vi là trên tự thiên địa tạo hóa, dưới đến
nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu có sang hèn, sĩ nông công thương,
mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu
không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn, thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết
thảy thiện ác muôn pháp cũng là hữu vi vậy..."
Tóm lại Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một công trình to
lớn trong chốn thiền gia và nhân gian, là một nền văn học, tư tưởng lớn cho thế
hệ hậu sinh, để có cái nhìn, suy tư chín chắn trên diễn đàn văn học của chư vị
Lịch Đại Tổ Sư còn lưu truyền đến ngày hôm nay và ngàn sau.
Bằng thực chứng giá trị bề dày lịch sử văn học tư tưởng Phật
Giáo và dân tộc Việt Nam xuyên suốt qua tác phẩm Toàn Tập Trần Nhân Tông, một
tác phẩm toàn bích, trên hai phạm trù thế gian và xuất thế gian của kẻ sĩ.
Nói đến Vua Trần Nhân Tông là nói đến bậc xuất trần vi thượng
sỹ; là nói đến vị Bồ Tát hóa thân vào đời, hòa quang đồng trần để độ sinh. Nhà
Vua đã đem tài danh thật đức của mình để an bang tế thế, xây dựng nước nhà thanh
bình thạnh trị. Dân tộc được ấm no, quốc gia phú cường để từ đó thăng hoa trong
cuộc sống tâm linh là chuyển mê khai ngộ, đổi phàm thành thánh.
Toàn Tập Trần Nhân Tông đã phô bày một cách thật rõ nét
qua Vương vị và Thánh vị của nhà Vua. Là Vương vị, nhà Vua là anh hùng dân tộc
đã viết nên dòng sử oai hùng bảo vệ giang sơn gấm vóc, quét sạch ngoại xâm ra
khỏi bờ cõi, xây dựng một nền hòa bình chân chính cho dân cho nước. Công cuộc
bảo vệ giang sơn này, qua chương III và IV, Vua Trần Nhân Tông và cuộc chiến
tranh bảo vệ quốc gia dân tộc năm 1285, 1288 qua các trận Nội Bàng, Vạn Kiếp,
Bình Than, Thăng Long, Hàm Tử, Chương Dương, Như Nguyệt... chúng ta ngưỡng mộ
tài thao lược, anh hùng túc trí của nhà Vua hy sinh vì dân vì nước. Là Thánh vị
nhà Vua đã bỏ ngai vàng điện ngọc để đi tu và thành Tổ Đức. Nhà Vua là Sơ Tổ của
Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng Thiền thực thụ của Phật Giáo Việt Nam. Nhà Vua đã
đề ra tư tưởng Cư Trần Lạc Đạo và được coi là cốt lõi, yếu chỉ dòng Thiền:
“Trần tục mà nên, phú ấy càng yêu hết sức,
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật khá đồ công.”
Hay là:
"Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm.
Ngay thờ Chúa, thảo thờ Cha,
Đi đổ mới trượng phu trung hiếu."
Và cuối cùng là Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam
gồm 2 tập. Đây là một công trình khảo cứu tập thể của quý Thầy học tăng
trong các Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, Quảng Hương Già Lam. Nhưng phần chủ
biên và hoàn thành Từ Điển vẫn là công trình của Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Sử Gia Lê
Mạnh Thát đồng tác giả.
Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam được có mặt ngày
hôm nay, dù rằng chỉ có được 2 tập là A Tập I, từ A đến A Di Đà và A Tập II, từ
A Di Đà đến A Di Đà Tự, chưa hoàn tất toàn bộ Từ Điển Phật Học. Nhưng, rõ thật
là một sự nỗ lực vượt bậc để cống hiến cho sự tìm hiểu tra cứu về từ ngữ Phật
pháp và cũng nói lên tâm nguyện chí thành của chư vị Tôn Túc có cái nhìn sâu xa,
suốt chặng đường lịch sử văn học Phật Giáo Việt Nam hiện đại.
Bằng việc làm của đàn hậu duệ, bằng khả năng hạn hẹp của người
học trò mông muội, giới thiệu các tác phẩm của Thầy, Sử gia Lê Mạnh Thát, chúng
tôi có cảm tưởng như làm công việc vốc muối bỏ biển, đội đá vá trời. Tuy nhiên
khi nghĩ đến công ơn của bậc giáo thọ sư tài bồi huấn dục qua bao năm tháng, nên
mạo muội tự nhủ mình trải tấm lòng thành, ngõ hầu có chút phần nào nghĩ về Thầy
trong muôn một. Do vậy, nên chỉ có đôi lời bình dị để nói lên công trình khảo
cứu ngàn đời của dòng lịch sử văn học nước nhà mà Thầy là một sử gia trác việt
anh tài, đã cấu trúc thành những chuỗi chứng tích, tư liệu dòng lịch sử đó.
Trước khung trời kiến văn quảng bác, trí tuệ cao xa của Thầy và những kho tư
liệu vô giá của lịch sử văn hóa, chỉ biết mình đang là kẻ dò dẫm lần bước.
Ngưỡng mong Thầy từ bi lượng thứ.
Kính mong chư Tôn Đức, chư vị thức giả cao minh, rộng lòng cảm
thông, hỷ xả cho những điều thất thố.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.18/5/2012.
No comments:
Post a Comment