Friday 18 May 2012

THÍCH NGUYÊN SIÊU




Sinh năm 1951 tại Nha Trang.

Sơ phát tâm xuất gia với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Chí Tín, Trụ trì Chùa Long Sơn, Tỉnh Hội Nha Trang, năm 1961.

1966 học chương trình Phổ thông Trường Bồ Đề, Nha Trang

1968 học chương trình Phổ thông tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Sài Gòn.

1969 học chương trình Phổ thông tại Tu Viện Nguyên Thiều, Qui Nhơn, Bình Định.

1970 học chương trình Phổ thông tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang.

1971 học Nội Điển Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang.

1973 thọ Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang.

1974 tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang.

1975 học Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, Nha Trang.

1980 học Cao Cấp Phật Học, Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn.

1988 vượt biên đến trại Palawan, Phi Luật Tân.

1990 định cư tại Hoa Kỳ.

1996 khai sơn Chùa Phật Đà, San Diego, California, Hoa Kỳ

1999 khai sơn Tu Viện Pháp Vương, San Diego, Hoa Kỳ.

Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTNHNHK.

2004 Chủ nhiệm tập san Phật Việt.

Đã có bài đăng trên nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại như Chân Nguyên, Phật Giáo Hải Ngoại, Phật Việt, Phương Trời Cao Rộng, Người Việt, Saigon Times, Thế Kỷ 21, Việt Báo, Việt Tide, Chánh Pháp, v.v...

Có bài đăng trên các trang nhà điện toán toàn cầu như Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức, Buddhahome, Thân Hữu Già Lam, Pháp Vân, Hải Triều Âm, v.v…


Tác phẩm đã xuất bản:

- Tư Tưởng Xã Hội Trong Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy – 1994

- Ưu Đàm Lướt Bão – 1998

- Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập I – 2001, 2006

- Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập II - 2006


Những bài viết khác:

- Trần Trung Đạo, tuổi thơ, mẹ, quê hương và dân tộc

- Chữ hiếu trong tục ngữ ca dao Việt Nam

- Giới thiệu tổng quát các công trình nghiên cứu sử học của sử gia Lê Mạnh Thát

- Tuệ Sỹ thơ và con đường trung đạo

- Tuệ Sỹ, thái độ của nhà sư nhập thế

- Tuệ Sỹ, thơ và tư tưởng triết học

- Quan điểm về nghiệp

- Văn hóa dân tộc và dòng sinh mệnh Phật Giáo Việt Nam

- Vô trụ bất thủ hay sử mệnh độ sinh của chư đại Bồ tát

- Bài tựa Kinh Đại Phẩm của Tăng Duệ

- Thượng Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu những người tù tri thức

- Lý duyên sinh hay tinh thần vô ngã

- Đại cương Kinh Pháp Hoa

- Sơ tâm

- Không sầu chẳng vui

- Niệm Phật

- Mẹ đóa hồng yêu thương

- Thi kệ Thiền và phong thái của người đạt đạo

- Một vài nét biểu trưng của người cư sĩ Phật tử nơi hải ngoại

- Biển cả

- Bồ tát và trú xứ độ sinh

- Chùa Từ Đàm từ quốc nội đến hải ngoại

- Trí tuệ và lòng từ bi


Phần dịch thuật:

- Bài tựa Kinh An Ban Thủ Ý

- Sự quan hệ giữa Khương Tăng Hội, An Thế Cao và Tam Hiền

- Ý nghiã An Ban Thủ Ý

- Bài tựa Kinh Đại Phẩm

- Quan hệ ba phương diện của Bát Nhã

- Quan điểm của Tăng Duệ về tư tưởng Bát Nhã

- Bài tựa Thành Duy Thức Thuật Ký

- Đại lược về Duy Thức Học

- Căn nguyên Pháp Tướng Tông

- Một triết lý phong phú

- Nhận xét văn chương và tư tưởng của ngài Khuy Cơ


Thơ:

- Bước chân Phật, thơ

- Mẹ là chân thân, thơ

- Tìm người trong cõi hà sa, thơ

- Dáng từ đồi Trại Thủy, thơ

- Vu lan nhớ cha, thơ

- Trăng nước giai không, thơ


a



MẸ LÀ CHÂN THÂN




Hôm nay Rằm tháng Bảy

Mẹ dẫn con đi chùa

Dâng hương lên cúng Phật

Lay tay Mẹ xin thưa:


Con cúi đầu lạy Phật

Mẹ thấy con ngoan không?

Mai kia con chóng lớn

Làm cho Mẹ vừa lòng


Công đức ân sinh trưởng

Cao tợ núi Thái Sơn

Dưỡng dục nghĩa mang nặng

Suối nguồn thật mông mênh


Mẹ ơi ! Con trả hiếu

Cho Mẹ và cho Cha

Hai vị Phật còn sống

Chung ở cả một nhà


Con biết ! Con biết rồi

Khi xưa Phật có dạy

Muốn đền đáp ơn sâu

Hiện đời luôn phải thấy


Cha như ánh trăng sao

Mẹ là giải sông Đào

Luôn phụng dưỡng hôm sớm

Là phước đức từ bao...


Còn nữa, Phật dạy rằng:

Như thế này, Mẹ nhé !

"Người nào theo thường pháp

Nuôi dưỡng Mẹ và Cha

Chính do công hạnh này

Đối với Cha và Mẹ

Nhờ vậy, bậc Hiền Thánh

Trong đời này tán thán

Sau khi chết được sinh

Hưởng an lạc Chư Thiên."


Mẹ hiền con thờ kính

Cha quý con xin vâng

Đảnh lễ tự song thân

Nam Mô Phụ Mẫu Từ.






VU LAN NHỚ CHA



Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng

Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà

Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng

Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa


Ngọn gió mùa đông phủ tràn khắp lối

Lạnh thân con Cha đắp tấm chăn êm

Liếp cửa buồng ngăn ấm lòng chất ngất

Lời ru hời nghe ngọt tận trong con

Vu Lan về con nhớ Cha nhiều lắm

Nhớ thủa sinh tiền đều đặn nén hương

Niệm Phật thắp nhang qua làn khói quyện

Bằng tâm thành Cha kính lễ mười phương


Và như thế dòng đời trôi chảy mãi

Cho đến khi tan vỡ cuộc vô thường

Đường Cha đi ngàn vạn dặm sầu thương

Con ở lại sống đời tương dưa muối


Con học nơi Cha sức người cặm cụi

Bằng đôi tay xây dựng những yêu thương

Từng bước đi trong kiếp sống tha hương

Tưởng nhớ lại đoạn đường thời gian khổ


Vu Lan về lá vàng rơi lỗ đỗ

Như giọt mưa thấm mộ quê hương Cha

Lời ru xưa vang động bóng chiều tà

Con lạy Phật Cha ơi! Về Tịnh Độ


Giấc mộng đời thế gian nhiều giông tố

Bóng Cha già thăm thẳm chốn u linh

Đêm nay đây con khẽ tụng thời kinh

Cầu nguyện khắp nhân sinh nhiều an lạc


Cha ơi! Cha, bóng Cha như cánh hạc

Bay trên cao mãi mãi ở trên cao

Là cội tùng là vách đá trăng sao

Là bầu trời rộng rạt rào vô tận.




TÂM HIỆN THÀNH NGƯỜI



Chiều nay ngắm áng mây trôi

Nghe từng nhịp thở trong tôi

Băng qua sinh tử luân hồi

Tự thuở nằm nôi đơn côi

Dòng đời đi về muôn lối

Lang thang từ cõi xa xôi

Kiếp người như vầng mây bạc

Đầu nguồn tự thuở tinh khôi


Ai có nghe hôm nào tôi đến

Ai có nghe hôm nào tôi đi

Đi vào cát bụi

Đi vào núi đồi

Đi vào sương gió

Khỏa lấp thân tôi


Người nằm đó

Để lắng nghe

Lời ru câu hát

Hát cho người

Tự thuở vô minh

Giờ cúi xuống

Ngắm đôi chân mình

Viên đá cuội nghìn năm nằm trơ trọi

Bọt biển xanh vỡ nát đầu ghềnh

Hiện thành kiếp sống

Kiếp người mong manh


Tâm thức tôi

Hiện thành thân tôi

Tâm thức anh

Hiện thành thân anh

Tâm thức người

Một chuỗi loanh quanh


Kéo nhau đi

Về cõi hư vô

Cùng nhau về

Về miền vô tận

Phù sinh lẽ sống

Tạm dung kiếp người

Vượt thoát tử sinh.


ĐẾN TỪ TIỀN KIẾP



Ta có mặt hôm nay

Là có từ vạn kiếp

Suối nguồn xưa trôi chảy

Kết lại thành đài mây


Mây tan trên bầu trời

Gió lan trên mặt đất

Kiếp sống tự hôm nay

Tiền thân dài chất ngất


Ai hay mang thân này

Trôi lăn dòng sinh tử

Như viên sỏi đầu nguồn

Trầm luân từ độ ấy


Tiền kiếp ta là chim

Chim bay vào các miền

Nghe lời Kinh Bát Nhã

Siêu sinh được an nhiên


Kiếp này ta là người

Nhặt từng viên đá cuội

Góp bàn tay yếu đuối

Xây dựng đời bình yên


Một bông hoa dâng đời

Một Bồ Tát hóa thân

Làm đẹp cho thế nhân

Cúng dường vô lượng Phật


Lời kinh độ hữu tình

Như giọt nắng lung linh

Nuôi lớn hồn thảo mộc

Cho vạn loài chúng sinh


Hiện hữu ta là đây

Cưu mang nghiệp lưu đầy

Qua ba nghìn thế giới

Thoáng chốc trong phút giây


Tâm thường lạc ngã tịnh

Thực tướng luôn hiện bày

Vượt dòng sông sinh tử

Giác ngộ chơn tâm này


Tiền kiếp hay hôm nay

Chỉ là phương tiện thuyết

Các pháp chẳng sinh diệt

Bình đẳng trong phút giây.



TRĂNG NƯỚC GIAI KHÔNG


Một đôi nước xôn xao

Lung linh ánh trăng tỏ

Nước chao ánh trăng mờ

Trăng gẫy nát đường tơ


Gánh nước dưới đêm trăng

Qua các tàng cây rậm

Kẽo kẹt đôi vai gầy

Trăng tan làn nước sậm


Trăng rọi qua cành cây

Trăng đầy đôi gánh nước

Nước động trăng lung lay

Đường dây nghe sựt đứt


Đôi tay hờ hững không

Nước tràn trăng tan mất

Hương mùa thu thơm nồng

Qua các nẻo hư không


Thẫn thờ đôi gánh thùng trông

Trăng tan nước mất nghe lòng thảnh thơi.




oOo



GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU SỬ HỌC

của SỬ GIA LÊ MẠNH THÁT


Thích Nguyên Siêu




Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sĩ Sử gia Lê Mạnh Thát là một công trình liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.

Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc và Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá mà suốt một dòng thời gian hơn 2000 năm qua bị tản thất, vùi dập trong sự lãng quên. Thầy đã khám phá những chứng tích lịch sử mà từ trước đến nay chưa được thấy trên diễn đàn văn học nước nhà. Từ đó, Thầy đã cống hiến những tác phẩm dày công sưu khảo, đầy giá trị sử học vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam ngày thêm phong phú và đa dạng. Chúng tôi kính giới thiệu đến quý vị một số tác phẩm tiêu biểu như sau:

1. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam - 3 tập.

2. Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam - 3 tập.

3. Toàn Tập Minh Châu Hương Hải.

4. Toàn Tập Trần Thái Tông.

5. Toàn Tập Trần Nhân Tông.

6. Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài.

7. Nghiên Cứu Về Mâu Tử - 2 tập.

8. Chân Đạo Chánh Thống.

9. Lịch Sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam.

10. Tự Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam - 2 tập.

11. The Philosophy of Vasubandhu.

12. Ngữ Pháp Tiếng Phạn ...


Từ những tác phẩm trên, và qua lời tựa của tác phẩm Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam, đã tạo nên những cảm xúc thâm trầm cho thấy Phật giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã hòa quyện với nhau kể từ khi Phật giáo được truyền vào quê hương Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Suốt một dòng lịch sử hơn 2000 năm qua, Phật giáo đã hòa mình theo vận nước, đã thăng trầm theo thời cuộc. Chưa có một thời gian nào, một triều đại nào mà Phật giáo tách khỏi dân tộc, không cùng chung vai gánh vác sơn hà xã tắc qua những cơn nguy biến.

Trong chiều dài lịch sử đó, chư vị Thiền Sư, quý Phật tử đã thực sự đem tài ba lỗi lạc của mình, đem trí não tâm linh để tài bồi xây dựng cho kho tàng văn hóa nước nhà có được những tư liệu đồ sộ, giá trị quý báu.

Tuy nhiên, cho đến ngày hôm nay, công trình khảo cứu vẫn chưa hoàn tất trong nguồn tư liệu có được. Chúng ta phải dày công nghiên cứu và đóng góp nhiều hơn nữa để khai triển và hệ thống hóa một cách nghiêm túc trên nền tảng các chứng tích, tư liệu đó. Chúng ta cần gia công bảo trì và phát triển nền văn hóa dân tộc ngày thêm lớn mạnh, nhằm góp phần xây dựng đời sống văn minh tiến bộ và thánh thiện cho con người hôm nay và mai sau.

Qua lời đầu sách đã cho chúng ta một ý thức rằng kho tàng tri thức của các Thiền sư và Phật tử còn tàng trữ quá nhiều ở các ngôi cổ tự, đại tòng lâm. Dưới những mái chùa mà thời gian đã hóa thành rêu phong phủ kín đã lưu xuất những bông hoa trí tuệ để cống hiến cho nền văn hóa đặc thù của dân tộc quê hương.

Nội dung của Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển I khảo cứu về Mâu Tử, Lý Hoặc Luận và Khương Tăng Hội.

Lời dẫn về Lý Hoặc Luận:

"... Trong cuộc đấu tranh và phát triển đầy cam go gian khổ, nhưng cũng đầy hào hùng hoành tráng của dân tộc, mỗi khi lịch sử bước vào những giây phút thử thách gay gắt quyết liệt, sống mái với kẻ thù, những khuôn mặt anh tài luôn luôn xuất hiện đứng ra gánh vác trách nhiệm, góp sức đưa con thuyền dân tộc đến bến vinh quang. Vào cuối thế kỷ thứ II, sau dương lịch, dân tộc ta đang đối đầu với viễn ảnh có thể bị đồng hóa vào nền văn hóa Trung Quốc, thì một khuôn mặt anh tài đã ra đời, đó là Mâu Tử cùng tác phẩm Lý Hoặc Luận nổi tiếng của ông."

Qua phần II, tác giả trình bày về Khương Tăng Hội - Cuộc Đời và Sự Nghiệp:

"... Kể từ ngày Trần Văn Giáp giới thiệu Khương Tăng Hội như một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Phật ở nước ta, những người viết sử về sau đã tiếp tục đánh giá vị trí, vai trò cũng như những đóng góp của Khương Tăng Hội đối với lịch sử dân tộc Việt, không hơn không kém là một nhà truyền giáo đầu tiên. Việc giới thiệu sai lầm này dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng, mà một trong những số đó là việc nghiên cứu Khương Tăng Hội đã không được tiến hành nghiêm túc để khám phá những đóng góp của Khương Tăng Hội không những đối với lĩnh vực lịch sử Phật Giáo Việt Nam, mà còn với nhiều lãnh vực khác nữa, đặc biệt là lĩnh vực lịch sử với truyền thuyết trăm trứng và lịch sử ngôn ngữ tư tưởng và văn học Việt Nam. Ngày nay, với những thành quả nghiên cứu có được, chúng ta có thể khẳng định Khương Tăng Hội không phải một nhà truyền giáo đầu tiên của Phật Giáo ở Việt Nam, mà là một thành tựu đầu tiên của nền Phật Giáo ấy, để cùng với Mâu Tử hình thành một mặt trận văn hóa phản công lại những trận tiến công như vũ bão của nền văn hóa nô dịch Trung Quốc đang xảy ra vào thời đó, và khẳng định sức sống ưu việt của nền văn hóa Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam."

Mỗi khi đề cập đến Khương Tăng Hội thì chúng ta không thể không nói đến Lục Độ Tập Kinh. Đây là tác phẩm nổi tiếng của Ngài. Qua công trình sưu khảo và nghiên cứu Lục Độ Tập Kinh, Thầy viết:

"... Nếu lịch sử văn học và văn hóa thành văn thời Hùng Vương còn để lại cho đến nay qua một bài Việt Ca duy nhất còn đang bàn cãi thì lịch sử văn học và văn hóa Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và trước Lý Nam Đế có thể được nghiên cứu qua một loạt những tác giả lớn như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Đạo Hinh, Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu, trong đó nổi bật nhất là Khương Tăng Hội với Lục Độ Tập Kinh.

Lục Độ Tập Kinh là văn bản đầu tiên và xưa nhất ghi lại tình tiết 100 trứng của truyền thuyết khởi dân tộc tính. Lục Độ Tập Kinh cũng là tác phẩm đầu tiên và xưa nhất ngoài bài Việt Ca, còn bảo lưu được một số trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt và cung cấp một số lượng đáng kể các tá âm cho việc nghiên cứu tiếng Việt cổ và phục chế lại diện mạo tiếng nói ấy cách đây 2000 năm. Lục Độ Tập Kinh còn là nơi tập đại thành những chủ đề tư tưởng lớn của dân tộc như nhân nghĩa, trung hiếu, đất nước, mất nước v.v... làm cột sống cho chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam và truyền thống văn hóa Việt Nam. Lục Độ Tập Kinh còn là văn bản thiết định những chủ đề tư tưởng lớn của Phật Giáo Việt Nam, làm tiền đề cho những phát triển tư duy Phật Giáo Việt Nam, mà thành quả đầu tiên phát hiện cho đến nay là sáu lá thư trao đổi giữa Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh vào khoảng những năm 450.

Lục Độ Tập Kinh vì thế là một tác phẩm văn học lớn không chỉ của lịch sử Phật Giáo Việt Nam mà còn là lịch sử văn học tư tưởng và văn hóa dân tộc."

Để thấy rõ hơn về nội dung tư tưởng Lục Độ Tập Kinh, đủ nguồn cảm hứng và khả năng truyền tải giá trị cao thượng, xây dựng đời sống dân sinh thăng hoa trên giai tầng tâm linh mà còn là bản kinh lòng, lời kinh ruột của Bồ Tát Đạo, Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Nguyện:

"... Lục Độ Tập Kinh như nhan đề chỉ ra, là một tập kinh trình bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ Tát, tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Lý tưởng Bồ Tát trong thời kỳ đầu của Phật Giáo ở nước ta, do thế, đã được xiển dương mạnh mẽ, đề cao những con người có lòng thương rộng lớn đối với tất cả người vật (bố thí), tự mình kiểm soát lấy mình (trì giới), kiên trì chịu đựng gian khổ, khó khăn (nhẫn nhục), năng động phấn đấu hoàn thành mục tiêu đã định (tinh tấn), bình tĩnh (thiền định) và sáng suốt (trí tuệ). Mẫu người lý tưởng của Phật Giáo, mẫu người có lòng thương, có kỷ luật, kiên trì, năng động, bình tĩnh và sáng suốt, được định hình và kế hoạch thể hiện mẫu người này trong cuộc sống được vạch ra thông qua khuôn khổ các câu chuyện tiền thân của Đức Phật, cho các Phật tử Việt Nam thời Khương Tăng Hội và trước đó."

Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển II, Thầy giới thiệu một số tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội như: Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp Kính Kinh Tự, An Ban Thủ Ý Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh và sáu lá thư, Lý Miễu, Đạo Cao và Pháp Minh.

Ngang qua các bản dịch của Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, Pháp Kính Kinh Tự và An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải... chúng ta thấy nội dung là những truyện cổ tích dân gian hướng con người trên việc hành thiện, trong nhân nghĩa thuần hậu và ý thức tôn vinh phẩm hạnh con người nhằm xây dựng một đời sống chân hạnh phúc trong cuộc đời này. Chính những truyện cổ tích này đã mang một nội dung giáo pháp nhân quả, nghiệp báo...:

"... Truyện một sự tích dưa hấu thực chất là một thuyết giảng về giáo lý nhân quả "ở hiền gặp lành" của Phật giáo dân gian. Nó gồm hai đoạn. Đoạn 1 kể An Tiêm gốc là một nô tỳ, lấy được người con gái nuôi của Vua Hùng, ăn mặc sung sướng, của cải giàu có. Có người khen, An Tiêm nói đó là "vật tiền thân" của An Tiêm. Vua Hùng nổi giận, đày An Tiêm ra đảo. Đoạn 2 kể, Tiêm ở đảo, nhờ chim đem hạt dưa hấu đến, trở nên giàu có và được gọi về..."

Và còn rất nhiều những cốt truyện tương tự như vậy được trình bày trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, một cách khuyến tấn con người phải biết ăn ở hiền lành, có thảo có ngay, sống đời đạo đức.

Về mặt Triết học kinh viện của giai tầng tri thức, của bậc thượng căn, thượng trí chúng ta thấy trong An Ban Thủ Ý Kinh Chú Giải lời văn khúc chiết, rành rõi, âm hưởng trùng điệp vang ngân bất tận, khi định nghĩa về tâm, Khương Tăng Hội đã viết:

"Tâm chi dật đảng, vô vi bất hiệp

hoảng hốt phảng phất, xuất nhập vô gián

thị chi vô hình, thính chi vô thanh

nghênh chi vô tiền, tầm chi vô hậu

thâm vi diệu tế, hình vô ty phát

Phạm Thích Tiên Thánh, bất năng chiếu minh

mặc chủng vu thử, hóa sinh hồ bỉ

phi phàm sở đổ, vi chi ấm giả..."

Dịch nghĩa:


Tâm tư mở rộng thì không một vật vi tế nào mà không thể vào,

rỗng nhiên thấu suốt, ra vô không gián đoạn,

nhìn chẳng thấy hình, nghe không thấy tiếng,

đoán chẳng ở trước, tìm chẳng có sau,

sâu xa mầu nhiệm, chẳng có bóng dáng hình ảnh,

bậc Phạm Thiên Đế Thích hay Tiên Thánh cũng không thể thấy rõ;

âm thầm linh hoạt nơi này, hóa sinh nơi kia,

hàng phàm phu cũng không thể biết được.

như vậy gọi là “ấm”.


Đây là bản kinh cốt lõi, làm chuẩn đích cho ai có lòng nghiên tầm, khảo cứu để hướng tâm trên con đường đạo. Nhưng đồng thời cũng chú trọng đến các lãnh vực như nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo, chính trị, tư tưởng....

Qua bộ môn âm nhạc, Thầy viết:

".... Về vấn đề âm nhạc, những đóng góp của sáu lá thư ấy lại càng đặc sắc và quý giá hơn. Quý giá, bởi vì chúng là những văn kiện xưa nhất và duy nhất nói đến sự hiện diện một các không chối cãi ở nước ta những "ca tán tụng vịnh".

Từ đó, cho thấy tối thiểu vào đầu thế kỷ thứ V, âm nhạc Việt Nam và âm nhạc Phật giáo Việt Nam gồm những thứ gì. Đặc sắc, bởi vì nếu phối hợp báo cáo âm nhạc vừa nói với những hình ảnh nhạc cụ trên những bệ đá của nền nghệ thuật Tiên Sơn, chúng ta có thể rút ra những kết luận rất lôi cuốn về lịch sử âm nhạc Việt Nam và lịch sử âm nhạc Phật giáo Việt Nam, đồng thời giải thích cho thấy, tại sao trên những bệ đá ấy chúng ta chỉ có mười nhạc thần và chín thứ nhạc cụ tấu nhạc, để ca ngợi cúng dường người giác ngộ."

Từ những tư liệu có được của thời gian phôi thai, thuở ban sơ, trên dòng lịch sử của dân tộc, qua các tác phẩm đã xuất bản, Tiến sĩ Sử gia Lê Mạnh Thát đã công bố một cách minh nhiên và sẽ tiếp tục cống hiến những sưu khảo nhiều hơn nữa để hoàn thành sứ mạng của một Sử gia thời đại.

Công trình khảo cứu ấy, qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam quyển III, Thầy đã dành trọn quyển để in lại tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh, chứng tỏ tác phẩm này đã nói lên vai trò vô cùng quan trọng trên lãnh vực văn học nước nhà và còn mang nhiều sắc thái độc đáo của lịch sử Phật Giáo đời Trần:

"... Thiền Uyển Tập Anh có một cống hiến thật đặc sắc, bởi vì nó là một tác phẩm đời Trần duy nhất còn lại, chứa đựng nhiều tên ấp, tên làng, tên quận, tên phủ và tên châu của đời Lý cũng như đời Trần hơn bất cứ một tác phẩm nào khác, nếu hoàn thành, có thể nói ta đã vẽ lại được một phần bản đồ địa lý chi tiết của nước ta vào thời Lý một cách cụ thể nhờ vào tên các ngôi chùa gắn liền với các tên đất ấy."

Đó là trên bình diện địa lý, còn trên lãnh vực văn học, Thiền Uyển Tập Anh đã đóng một phận vị có tầm vóc ách yếu trên nền học thuật và thiền học ngang qua tinh thần tu chứng của chư vị thiền sư tổ đức:

"... Rõ ràng, đối với lịch sử dân tộc ta, Thiền Uyển Tập Anh đóng một vai trò hết sức quan trọng và thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm lịch sử văn học dân tộc phai mờ thất tán đi không phải ít... và vai trò ấy, thực tế, có một tầm quan trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất là một bộ sử chuyên môn về Phật giáo Thiền Tông Việt Nam. Mà Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam vào mấy trăm năm ấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chiếm ưu thế trong giai đoạn lịch sử đó."

Vạn Hạnh Thiền Sư đã hộ quốc an dân, xây dựng một triều đại vàng son cho dân cho nước, mà tinh thần tu chứng đã thể hiện qua bài kệ:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Tùy vận thạnh suy hưu bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

Dịch nghĩa:


“Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời

Thịnh suy suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành”


Người đọc các văn kiện lịch sử, các chứng tích văn học, các nền văn hóa dân tộc và Phật Giáo Việt Nam qua Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam 3 quyển sẽ thấy được sự lịch lãm uyên bác đầy thực nghiệm của một sử gia đương đại, chỉ thu mình trong 3 quyển văn học ấy không thôi cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy đâu là tri thức không chướng ngại, đâu là tài năng tập thành xuyên suốt thời gian không ngằn mé, và đâu là vượt thắng mọi chướng duyên để kiện toàn nguồn tư tưởng hãn hữu.

Qua bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, bằng cái nhìn tổng thể của một sử gia, Thầy đã phân chia các chặng đường lịch sử không giống các nhà nghiên cứu khác. Trước tiên bằng nhận định xác thực thế nào là lịch sử? Và cấu trúc lịch sử được vận hành như thế nào qua mỗi thời đại, qua từng lớp người của bối cảnh lịch sử đó:

"... Đối với chúng tôi, lịch sử là một vận động có ý thức của con người. Riêng đối với các tư trào văn hóa như Phật Giáo thì lịch sử như một cuộc vận động có ý thức lại càng rõ nét hơn. Lịch sử vận động trên căn bản tương tác của nhiều cấu trúc khác nhau. Có cấu trúc hạ tầng, có cấu trúc thượng tầng và những cấu trúc hàng ngang, hàng dọc đan xen lẫn nhau, trong đó cấu trúc hạ tầng tất nhiên giữ vai trò chủ chốt, nhưng không phải là tuyệt đối. Xuất phát từ một cái nhìn như thế, quan điểm của chúng tôi là nhìn lịch sử Phật Giáo như một bộ phận của cuộc vận động chung của dân tộc."

Từ nhận định và lập trường trên, Thầy đã chia dòng lịch sử Phật Giáo Việt Nam 2000 năm thành 5 thời kỳ:

"Đó là thời kỳ Phật Giáo quyền năng, thời kỳ Phật Giáo vận động độc lập, thời kỳ Phật Giáo thế sự, thời kỳ Phật Giáo cư trần lạc đạo và thời kỳ Phật Giáo quần chúng... Mỗi thời kỳ này có một nét đặc trưng nổi bật của nó, mà ngay cả sự đổi thay của các triều đại và sự tồn tại những dòng Thiền khác nhau không có một ảnh hưởng to lớn nào. Lịch sử tuy là một vận động có ý thức của con người, nhưng đồng thời cũng có quy luật của nó. Mà đã nói đến quy luật tức là nói đến tính tất yếu, mà mỗi ý chí của cá nhân không thể cưỡng lại được."

Đọc qua lịch sử Phật Giáo Việt Nam 3 tập dày khoảng 2500 trang, chúng ta thấy hệ thống tư liệu từng niên đại, từng nhân vật, từng cốt truyện được thẩm định rõ nét, chính xác để định vị trí chứng nhân của dòng lịch sử. Điều này chúng ta thấy trong phần Pháp Thuận và bài thơ Thần Nước Nam Sông Núi. Từ trước đến giờ theo tính truyền khẩu được luân lưu qua từng thế hệ, chúng ta cho rằng bài thơ Thần Nước Nam là của Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến chống ngoại xâm năm 1076. Nhưng qua các tư liệu chứng minh thời bấy giờ, bài thơ Thần Nước Nam đó được coi là hiện hữu dưới thời Vua Lê Đại hành, trong cuộc chiến tranh năm 981:

Bài thơ Thần Sông Núi

1. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư

Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.


2. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhử đẳng hành khan thủ bại hư.


3. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư

Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư

Như Kim Bắc lỗ lai xâm phạm

Hội kiến hải trần tận tảo trừ.


4. Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư

Hoàng Thiên dĩ định tại thiên thư

Như Hà Bắc lỗ cảm xâm phạm

Hội kiến phong trần tận tảo trừ.

Dịch nghĩa:


Sông núi của nước Nam người dân Nam ở,

Đó là sự minh định từ nơi sách Trời.

Nếu như ai trái nghịch xâm phạm,

Chắc hẳn phải chuốc lấy sự thất bại tiêu vong.


Qua các luận cứ được thẩm định, để thấy được bài thơ Thần phát xuất từ đâu:

"... Theo chúng tôi, ta nên trả bài thơ Thần trên về cho cuộc chiến tranh 981 và chúng ta có đủ dữ kiện để làm như thế. Đây không phải là một kết luận mới. Hai bộ sử viết bằng tiếng Việt vào thế kỷ thứ 16 và 17, là Việt Sử Diễn ÂmThiên Nam Ngữ Lục đều thống nhất có cùng một kết luận. Việt Sử Diễn Âm đã dành một đoạn dài nói về lai lịch của bài thơ này."


Đến đây, chúng ta thấy Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đài là một tác phẩm sưu khảo và tác biên về cuộc đời và sự nghiệp của Toàn Nhật. Một cách sơ lược về sự nghiệp văn học chúng ta thấy trong phần Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, Viên Quang tự Sa Môn Toàn Nhật pháp hiệu Quang Đài, Ngài đã thể hiện tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên qua những vần thơ song thất lục bát:

"Thuở trời Xuân say nhuần mầu đạo

Trót nom theo Tam giáo chân tôn

Am mây gởi dấu thong dong

Tu thân ngày tháng sửa lòng hôm mai

Trải xưa định vị tam tài

Là trời, người, đất muôn loài nổi sinh."

Qua phần Tống Vương truyện đã thể hiện một nhân sinh quan vô cùng an nhiên tích cực, cho thấy Toàn Nhật là một trong những nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt.

Tống Vương truyện đã dệt nên một truyện tình thơ mộng của một Thái tử, con vua, với người con gái mộc mạc làng chài lưới miền sông nước:

"... Long phi vân hán,

Phụng nhiễu quang minh

Ứng trinh tường xảy gặp điềm lành

Vừng đẩu tú trổ sanh thụy lạ

Có người Giang hạ

Tánh thật ngư ông

Việc võng la lưới tổ (chài) tôm

Nghề hà hải Giang Tân Sở trú

Kết duyên phu phụ

Hiệp bạn Châu Trần

Vô nam nhi kế tự tôn thân

Sinh nữ tử nối dòng tổ phụ..."

Và cuối cùng cái hậu của cốt truyện là vua cha đi tu, giao ngôi vua lại cho con:

"... Vua đà cao kỷ

Tác lớn trên đầu

Nhượng vị cho con

Sửa sang chính sự

.........

Hồi đầu Phật Tổ

Thế phát tu hành

Con nối ngôi truyền dõi đạo thanh

Muôn đời để lưu danh thiên hạ."

Những vần thơ ấy đã đề cao tinh thần dân chủ, tôn trọng tinh thần bình đẳng giữa loài người, không phân biệt giai cấp, ngôi vị. Giá trị ở đây là tư cách đạo đức nhân luân là nền tảng nhân bản được xây dựng trong tâm tư của mỗi con người. Dù người đó có địa vị, quyền cao, tước trọng nơi triều đình, hay lớp người dân giả bình dị vẫn được tôn trọng trong ý niệm hướng thượng. Từ đó, chúng ta thấy Lục Tổ Truyện Diễn Ca, Toàn Nhật đã hướng dẫn con người trên đường tìm cầu chân lý và cuối cùng thành đạt đạo quả giác ngộ. Đó là hình ảnh của Lục Tổ Huệ Năng, Người mang đá giã gạo suốt bao năm tháng, nhưng ý vị giác ngộ vẫn miên viễn trường tồn:

"... Đêm ngày chuyên niệm Di Đà

Chịu phần giã gạo vậy hòa tám thu

Bảo làm cho thấy công phu

Vai mang khối đá chuyên tu đến ngày

Phật Tổ khổ hạnh lắm thay

Sáu năm tuyết lãnh mới thành Kim thân."

Đó là giá trị của sự tu tập, mà bằng cái nhìn của Toàn Nhật lao tác là một thể thức của Thiền định - gánh nước, bửa củi, giã gạo. Từ tự tướng của chân tay đã thể hiện được tánh giác ngộ, trong sáng nơi tâm thanh tịnh thuần khiết của Phật tánh thường hằng như nhiên bất động.

"... Ca Sa bình bát pháp thiền

Bèn trao phú chúc về miền Thiền Châu

Dặn dò y chánh trước sau

Mấy lời Phật Tổ thẳm cao nhiệm mầu

Huệ Năng lễ tạ khấu đầu

Lạy từ Hòa thượng sẽ hầu lui ra."


Bước sang Toàn Tập Minh Châu Hương Hải được sưu khảo và tác thành qua những tư liệu có được. Thiền Sư là một nhà Văn hóa, Triết gia, Tư tưởng gia của Phật Giáo và dân tộc Việt Nam. Qua tác phẩm này, chúng ta thấy công trình văn học đã được lưu lại qua các tác dịch phẩm, hoặc chú giải như: Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa, Giải Di Đà Kinh Sớ Sao, Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ, Sự Lý Dung Thông, Giải Pháp Hoa Kinh, Giải Sa Di Giới Luật, Soạn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Quốc Ngữ ... tất cả trên 20 tác phẩm, gồm 30 quyển.

Là một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ 17, Thiền Sư đã xây dựng một ngữ pháp để giải và dịch kinh mới mẻ nhất, mà không theo lối cổ dịch của những thế kỷ 15, 16. Lối dịch này được diễn tả, giải thích kinh văn phóng khoáng theo cái nhìn và sự hiểu biết của mình mà không dịch sát chữ, sát nghĩa, cựu dịch. Do cách dịch thuật sáng tạo này mà Thiền Sư đã thật sự đóng góp một gia tài văn học đồ sộ cho nền lịch sử văn học tiếng Việt. Một thí dụ điển hình qua lối dịch giải đó nơi bài Kệ Kinh Kim Cương:

“Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điển

Ứng tác như thị quán”

"Hết thảy pháp hữu vi là trên tự thiên địa tạo hóa, dưới đến nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu có sang hèn, sĩ nông công thương, mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn, thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết thảy thiện ác muôn pháp cũng là hữu vi vậy..."

Tóm lại Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một công trình to lớn trong chốn thiền gia và nhân gian, là một nền văn học, tư tưởng lớn cho thế hệ hậu sinh, để có cái nhìn, suy tư chín chắn trên diễn đàn văn học của chư vị Lịch Đại Tổ Sư còn lưu truyền đến ngày hôm nay và ngàn sau.

Bằng thực chứng giá trị bề dày lịch sử văn học tư tưởng Phật Giáo và dân tộc Việt Nam xuyên suốt qua tác phẩm Toàn Tập Trần Nhân Tông, một tác phẩm toàn bích, trên hai phạm trù thế gian và xuất thế gian của kẻ sĩ.


Nói đến Vua Trần Nhân Tông là nói đến bậc xuất trần vi thượng sỹ; là nói đến vị Bồ Tát hóa thân vào đời, hòa quang đồng trần để độ sinh. Nhà Vua đã đem tài danh thật đức của mình để an bang tế thế, xây dựng nước nhà thanh bình thạnh trị. Dân tộc được ấm no, quốc gia phú cường để từ đó thăng hoa trong cuộc sống tâm linh là chuyển mê khai ngộ, đổi phàm thành thánh.

Toàn Tập Trần Nhân Tông đã phô bày một cách thật rõ nét qua Vương vị và Thánh vị của nhà Vua. Là Vương vị, nhà Vua là anh hùng dân tộc đã viết nên dòng sử oai hùng bảo vệ giang sơn gấm vóc, quét sạch ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, xây dựng một nền hòa bình chân chính cho dân cho nước. Công cuộc bảo vệ giang sơn này, qua chương III và IV, Vua Trần Nhân Tông và cuộc chiến tranh bảo vệ quốc gia dân tộc năm 1285, 1288 qua các trận Nội Bàng, Vạn Kiếp, Bình Than, Thăng Long, Hàm Tử, Chương Dương, Như Nguyệt... chúng ta ngưỡng mộ tài thao lược, anh hùng túc trí của nhà Vua hy sinh vì dân vì nước. Là Thánh vị nhà Vua đã bỏ ngai vàng điện ngọc để đi tu và thành Tổ Đức. Nhà Vua là Sơ Tổ của Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng Thiền thực thụ của Phật Giáo Việt Nam. Nhà Vua đã đề ra tư tưởng Cư Trần Lạc Đạo và được coi là cốt lõi, yếu chỉ dòng Thiền:

“Trần tục mà nên, phú ấy càng yêu hết sức,

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật khá đồ công.”

Hay là:

"Sạch giới lòng, dồi giới tướng,

Nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm.

Ngay thờ Chúa, thảo thờ Cha,

Đi đổ mới trượng phu trung hiếu."


Và cuối cùng là Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam gồm 2 tập. Đây là một công trình khảo cứu tập thể của quý Thầy học tăng trong các Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, Quảng Hương Già Lam. Nhưng phần chủ biên và hoàn thành Từ Điển vẫn là công trình của Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Sử Gia Lê Mạnh Thát đồng tác giả.

Bộ Từ Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam được có mặt ngày hôm nay, dù rằng chỉ có được 2 tập là A Tập I, từ A đến A Di Đà và A Tập II, từ A Di Đà đến A Di Đà Tự, chưa hoàn tất toàn bộ Từ Điển Phật Học. Nhưng, rõ thật là một sự nỗ lực vượt bậc để cống hiến cho sự tìm hiểu tra cứu về từ ngữ Phật pháp và cũng nói lên tâm nguyện chí thành của chư vị Tôn Túc có cái nhìn sâu xa, suốt chặng đường lịch sử văn học Phật Giáo Việt Nam hiện đại.

Bằng việc làm của đàn hậu duệ, bằng khả năng hạn hẹp của người học trò mông muội, giới thiệu các tác phẩm của Thầy, Sử gia Lê Mạnh Thát, chúng tôi có cảm tưởng như làm công việc vốc muối bỏ biển, đội đá vá trời. Tuy nhiên khi nghĩ đến công ơn của bậc giáo thọ sư tài bồi huấn dục qua bao năm tháng, nên mạo muội tự nhủ mình trải tấm lòng thành, ngõ hầu có chút phần nào nghĩ về Thầy trong muôn một. Do vậy, nên chỉ có đôi lời bình dị để nói lên công trình khảo cứu ngàn đời của dòng lịch sử văn học nước nhà mà Thầy là một sử gia trác việt anh tài, đã cấu trúc thành những chuỗi chứng tích, tư liệu dòng lịch sử đó. Trước khung trời kiến văn quảng bác, trí tuệ cao xa của Thầy và những kho tư liệu vô giá của lịch sử văn hóa, chỉ biết mình đang là kẻ dò dẫm lần bước. Ngưỡng mong Thầy từ bi lượng thứ.

Kính mong chư Tôn Đức, chư vị thức giả cao minh, rộng lòng cảm thông, hỷ xả cho những điều thất thố.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.MHDT.18/5/2012.

No comments:

Post a Comment