Thursday 31 January 2013

Ý Nghĩa Chân Chính của Quy Y
Lão Hòa Thượng Tuyên Hóa Thuyết Giảng
Mục Lục:
Quy y Tam Bảo: Việc lớn nhất trên đời
Quy y Tam Bảo: Quay đầu lại đến được bờ
Quy y Tam Bảo phải giữ giới
Quy y Tam Bảo không phải để hùa theo đám đông
Cấp tốc lên đường Phật đạo
 
Quy y Tam Bảo:
Việc Lớn Nhất Trên Ðời
Lão Hòa Thượng Thuyết Giảng tại
Chùa Long Beach ngày 28/03/93
 
Việc lớn nhất trên đời là quy y Tam Bảo, cho nên cần phải cẩn trọng, không được coi thường hay bốc đồng mà làm. Trước tiên phải chọn một vị minh sư đức độ để quy y. Như vậy có điều gì không thông suốt thì được vị Thiện-tri-thức ấy khai thị và hướng dẫn cho, hầu ngộ nhập Phật tri kiến, chứ đừng nghe theo ngoại đạo tà thuyết.
Không phải chỉ có bây giờ mới xuất hiện những pháp sư tà đạo, mà chính lúc Phật còn tại thế cũng đầy dẫy. Lúc bấy giờ có đến 96 ngoại đạo và 72 bàng môn, còn bành trướng mạnh mẽ hơn cả Chánh-pháp. Dân chúng cả tin vì không am hiểu chân lý. Các thứ tà đạo ấy thật tai hại vì có thể dẫn dắt chúng ta đi lạc đường. Ban đầu thì cầu mong được ít nhiều lợi ích, nhưng đã lạc đường rồi thì chỉ bị thiệt thòi thôi. Thật là nguy hiểm!
Nếu quý vị muốn quy y Tam Bảo, đạt được chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết-bàn, hãy tìm cầu Thiện-tri-thức. Tuy nhiên trong số các vị xuất gia vẫn lẫn lộn thật và giả, không phải tất cả đều như nhau. Nếu lầm lỡ mà theo ngoại đạo thì gặp tai hại lớn, nhưng cả tin nơi tà thuyết của pháp sư lại càng tai hại hơn nữa.
Bởi vậy quý vị đang nghiên cứu Phật-pháp hãy tránh lỗi lầm đó, thay vì mưu cầu thượng đạo thì lại bị sa đọa địa ngục, thay vì mưu cầu hạnh phúc thì lại chuốc lấy khổ não vô biên. Ðó là lý do vì sao tôi nói quy y là một lựa chọn cao nhất, không có việc gì quan trọng hơn nữa.
Khi quý vị quy y với tôi, hãy suy nghĩ cho kỹ và nhận rõ con đường mình muốn tiến tới.
Trước chư Phật, mỗi người hãy phát lộ thành tâm sám hối tất cả tội lỗi trong quá khứ. Ðược vậy tội lỗi sẽ được tiêu trừ, thiện căn sẽ tăng trưởng. Nếu không thành tâm, tội nghiệp vẫn còn nguyên, thiện căn khó nẩy mầm. Tất cả đều tùy thuộc ở lòng thành và quyết tâm, tránh vọng tưởng tà niệm. Khi quy y Tam Bảo, quý vị phải thành tâm, bằng không sẽ không được cảm ứng.
Sau khi thực sự quy y Tam Bảo cho đến ngày thành Phật, nếu quý vị có niềm tin vững chãi và đạo đức thanh lương thì sẽ không gặp trở ngại gì. Bằng không thì hãy quên việc thành Phật đi, mà cũng không dễ trở thành một con người được. Nếu không tu hành thì chẳng những cư sĩ mà người xuất gia cũng vẫn sẽ phải đọa vào địa ngục.
Vì vậy quý vị cư sĩ hãy chuyên tâm gắng sức tu học Phật-pháp. Hãy cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, tin tưởng và suốt đời phụng sự Tam Bảo, thì sẽ được sự cảm ứng. Bằng không thì cũng như là chưa hề quy y và cũng chẳng có sự cảm ứng gì cả.
Buổi sáng khi thức dậy, trước chư Phật hãy phát bốn nguyện lớn như chư Bồ Tát đã làm. Sớm tối hãy tự hỏi mình: "Chúng sinh vô biên, có nguyện độ không? Phiền não vô tận có nguyện đoạn không? Phải nguyện độ chúng sinh, nguyện đoạn hết phiền não. Pháp môn vô lượng, có nguyện học không? Dù có bận việc thì cũng phải dành thì giờ để tụng kinh, và tu tập vô lượng pháp môn. Phật đạo vô thượng, có nguyện thành không? Mình chưa thành Phật, vẫn còn là kẻ phàm phu. Vậy mình phải cấp tốc tu hành để đạt thành Phật quả."
Mỗi ngày thức dậy các bạn hãy phát bốn nguyện lớn và tối đến hãy tự kiểm điểm xem mình đã có thực hành lời nguyện hay không?
***


Quy Y Tam Bảo:
Quay Ðầu Lại Ðến Ðược Bờ
Lão Hòa Thượng Giảng tại Ðài Bắc/Ðài Loan ngày 17/01/93

"Biển khổ mênh mông, nếu quay đầu trở lại sẽ đến được bến bờ."
Quy y là bước chân đầu tiên và phải dũng mãnh bước tới, không được lùi bước thối lui. Ðó là con đường tiến đến Phật quả.
Nếu quý vị xoay lưng thối lui thì sẽ sa vào ba ác đạo và lạc vào tám khổ nạn. Cho nên có câu rằng:
Sư phụ dắt đến cửa
Chính mình phải chuyên tu
Có ăn thì mới no
Tự mình đoạn sanh tử.
Ðừng nghĩ rằng: "Tôi đã quy y nên tôi có thể nương nhờ Phật Pháp Tăng." Dầu cho Phật Pháp Tăng có đủ thần thông kỳ diệu cũng không giúp mình đạt thành Phật quả được, cũng không thể giúp mình để thông suốt Phật-pháp và thực hành đạo nghiệp tu trì. Nhờ có Tăng-già mà Phật-pháp mới được hoằng dương tại thế gian.
Mặc dù quý vị đã quy y Tam Bảo thì vẫn phải gắng công để thăng tiến. Nếu giữ được không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa là quý vị đã thực sự thọ năm giới. Nếu vẫn sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa thì chưa thực sự thọ năm giới.
Nếu đã thọ rồi mà không giữ năm giới, nghiệp tội lại càng nặng hơn bởi vì như thế quý vị đã cố ý phạm giới, và sẽ bị đọa lạc.
Không thể nói rằng: "Tôi đã quy y Tam Bảo và thọ năm giới, thì tôi được hộ trì. Tôi có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối hay say sưa cũng không sao."
Có người nghĩ rằng: "Nếu người tại gia không giữ năm giới mà phải lãnh nghiệp nặng như vậy, còn người xuất gia không giữ giới thì sao? Họ có bị lãnh nghiệp nặng hơn không?" Quý vị hãy nhớ điều này:
"Bồ Tát không biết đến người khác
Phật A Di Ðà tự quán chiếu."
Ngày đêm phải tự xem xét mình, kiểm soát hành vi và hồi quang phản chiếu. "Mình có giữ giới không, có phạm giới nào không? Từ khi quy y đến nay, mình có là một Phật tử thuần thành không, hay là mình đã hướng về đạo Chúa, đạo Hồi hay đạo nào khác? Mình có học tập ngoại đạo tà pháp không?"
Sau khi đã quy y phải có thái độ dứt khoát. "Dầu cho có ai dọa giết nếu mình tin Phật, hay cho mình sống nếu mình bỏ Phật, thì mình vẫn không tin theo ngoại đạo."
Ngoại đạo gồm tất cả thiên ma ở các cõi trời, có đủ thần thông, thiên biến vạn hóa, kỳ bí khôn lường. Chúng ma luôn luôn khai triển thần thông. Trái lại đệ tử của Phật không thể hiện thần thông. Nếu có thì họ cũng không nói cho ai biết. Kẻ nào khoe mình có thần thông, thiên nhĩ thiên nhãn v.v... đều là thuộc loại tà ma được nói đến trong chương "Cảnh giới 50 ấm ma" của Kinh Lăng Nghiêm, hoặc giả họ là đồ đệ của thiên ma, hay là đồ đệ của ngoại đạo.
Bởi vậy Phật tử chúng ta phải có Trạch-pháp-nhãn. Trong khi tìm thầy học đạo, đừng khởi tham tâm, đừng ham cảm ứng, hôm nay nghe nói hiển tông tốt thì theo hiển tông, ngày mai nghe khen mật tông hay thì lại theo mật tông. Như thế dù quý vị tu cho hết chọn đời, mà không giữ tâm chuyên nhất một lòng một dạ thì rốt cuộc chỉ uổng phí thời gian mà thôi.
Quy y rồi quý vị hãy tránh vi phạm giới luật. Hãy nghiêm chỉnh tinh tấn chấp hành Tam-quy Ngũ-giới. Ngũ-giới là căn bản để đạt thành Phật quả. Cư sĩ có năm giới, Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới, quý vị không được vi phạm một giới nào, vì mục đích của giới luật là để tự kềm chế mình. Quý vị hãy gắng công hành trì giới luật. Nếu không thì quý vị vẫn còn là kẻ phàm phu.
Phật Pháp Tăng rất công bằng, ai có tu thì có đắc, không tu thì không đắc. Quý vị hãy noi gương những vị tướng quân không bao giờ xuống ngựa, luôn luôn thẳng tiến không lùi.
Công đức xuất gia tu đạo và hành trì giới luật sẽ hỗ trợ quý vị vãng sanh Cực-Lạc. Nhưng xin đừng quên chúng sanh, hãy trở về cứu độ họ. Bởi vậy cho nên quý vị hãy quyết tâm chứng quả Bồ đề để cứu độ tất cả chúng sanh.
Có kẻ nói họ muốn cứu độ chúng sanh ngay trong kiếp này. Làm thế nào cứu độ chúng sanh được, trong khi họ chưa độ được chính họ? Cũng như Bồ Tát bằng đất sét, qua biển tan chìm, còn cứu được ai? Nếu quý vị muốn cứu chúng sanh trong khi chưa cứu được chính mình thì cũng như bỏ gốc theo ngọn, quên cái ở gần bên mình mà tìm kiếm chuyện xa xôi. Mình giúp cày ruộng của người khác mà không lo ruộng của mình, đó là làm một việc sai lầm lớn.
Vì vậy mọi người phải gắng công tu tập, đừng có tính ỷ lại, nghĩ rằng: "Sư phụ tôi là bậc đại trí huệ." Dầu cho đã đắc rồi Sư phụ của quý vị cũng không thể chia xẻ trí huệ cho quý vị. Quý vị vẫn phải tự mình tu tập, nếu không thì Phật có đứng trước mặt cũng không chắc sẽ có thể giúp ích cho quý vị được.
***


Quy Y Tam Bảo Phải Giữ Giới
Lão Hòa Thượng Thyết Giảng Tại Trung Tâm Phật Giáo Kuala Lumpur, Mã Lai á, 18/11/88

Hôm nay quý vị đã thọ Tam-quy và Ngũ-giới.
Khởi thủy thuở xưa, Phật tử quy y Tam Bảo mà không quy y giới. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, chúng sanh phải lấy giới làm thầy. Do đó, trong lễ quy y gồm có quy y giới. Giới là gì? Là tránh điều ác, làm việc thiện, đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, điều ác nhỏ mà cứ làm.
Nhiều Phật tử đã lỗi lầm khi còn theo Phật thì khen đạo của mình, đến khi bỏ đạo lại chê bai. Có kẻ chuyên môn đi đến nơi này nơi nọ, hôm nay tin đạo giáo này, ngày mai tin đạo giáo khác, ngày sau đó theo đạo giáo khác nữa. Tin vào những giáo phái đó có ngày họ sẽ bị đọa địa ngục mà không hay! Bởi vì họ không có một tôn chỉ nhất quán, chỉ mưu tìm lợi lộc, thích chuyện mới lạ, học tập mật tông, hoặc gia nhập các giáo phái lén lút không sinh hoạt công khai. Cuối cùng trở thành ma đói bị đọa địa ngục hoặc súc sanh để gánh chịu quả báo. Thật đáng thương xót!
Trong buổi lễ quy y hôm nay, trước hết chúng ta quy y Phật, thì thà xả bỏ sanh mạng chớ không quy y với tà giáo hay thiên ma ngoại đạo, ví dụ như là với Tự tại thiên ma. Hai chữ Tự tại để chỉ sự khoái lạc tại thiên đàng, hoặc có thể tại địa đàng nào đó mà quý vị chỉ nghe nói chứ chưa hề thấy, nên tò mò muốn đi tới mà không biết đi về hướng nào. Rồi cứ quanh quẩn trong sáu nẽo luân hồi, vào bụng ngựa ra bụng lừa, gặp mãi vua Diêm-la, không thoát khỏi địa ngục mà vẫn cứ làm loài súc sanh. Bởi vậy thà chết chớ không quy y với Tự tại thiên ma. Ðệ tử của thiên ma ngoại đạo luôn luôn khoác lác và tự thần thánh hóa mà nói rằng: "Nếu các ngươi tin lời ta thì sẽ lập tức khai ngộ. Các ngươi có thể thành Phật trong kiếp này. Các ngươi không cần phải giữ giới, ăn chay hoặc xa lánh người khác phái."
Họ thuyết đủ thứ pháp làm cho quý vị hoang mang lầm tưởng là vi diệu, rồi lạc vào đường tà khó mà thối lui được.
Vì vậy đừng tham tiện nghi, đừng tham khoái lạc, đừng tham hưởng thụ. Ðã quy y Tam Bảo thì phải có cuộc sống hợp với thiên lý, không lợi dụng lường gạt hay tâng bốc kẻ khác. Không quy y với Tự tại thiên ma, mà chỉ cung kính quy y Phật, bậc Như Lai Thế Tôn toàn giác và đại trí huệ mà thôi.
Ðã quy y Pháp thì thà xả bỏ thân mạng chớ không quy y với tà thư ngoại đạo, hoặc theo những lý thuyết, thư tịch, tài liệu do đệ tử ngoại đạo ấn tống và phát hành. Không quy y với tà thư nghĩa là không đọc, không nghiên cứu học tập những loại đó sau khi đã quy y Phật Pháp chính thống.
Mọi người hãy ý thức điều này: Sau khi đã quy y Tam Bảo, mà quý vị vẫn si mê, thấy phân bò cũng cúi đầu, gặp phân cẩu (chó) cũng chắp tay thì thật đáng thương xót vậy!
Nhất định không nên đọc bất cứ ấn phẩm nào của ngoại đạo lưu hành.
Quy y Tăng là quy y với chư vị Thánh Tăng mười phương, chứ không phải với các đệ tử của những giáo phái lạc đường. Theo họ thì quý vị sẽ cùng họ rớt xuống địa ngục, cho nên đừng quy y với họ. Vậy thì phải quy y Tăng nào? Hãy quy y với thanh tịnh phước điền Tăng, cũng ví như mình gieo mạ cấy lúa ở ruộng phước vậy. Tại sao phải quy y Tăng? Bởi vì chánh pháp được Tăng già hoằng dương. Nếu quy y Tăng, quý vị sẽ có cơ hội am tường Phật-pháp, và khi đã thông suốt Phật-pháp quý vị có thể thành Phật. Cho nên quý vị phải quy y với Tăng già chứ không phải với tà ma ngoại đạo hoang truyền tà tri tà kiến. Ðừng nghe lời họ khoác lác rằng con mắt họ phát quang, lổ mũi họ nói được, tai họ ăn uống được. Chính loài ma quỷ cũng không làm được như thế huống gì là họ. Họ ba hoa nói dốc để lừa gạt thiên hạ.
Ðã quy y Tam Bảo rồi, quý vị phải có chánh tri chánh kiến, hãy dứt bỏ tà tri tà kiến đi!
Tại sao lại ví Tăng già thanh tịnh với ruộng phước? Thanh tịnh có nghĩa là không cấu nhiễm. Người không cấu nhiễm sẽ khuyên quý vị không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỷ và không nói dối. Người nào giữ được giới không tham tiền, chính là một vị Tăng thanh tịnh, là một ruộng phước báu. Nếu một người nào đó tỏ ra rất vui sướng khi nhận được một ít tiền thì không phải mà một phước điền tăng. Ðược cúng dường hay không được cúng dường cũng không động tâm, không nịnh hót người giàu, cũng không khinh dễ người nghèo, như vậy mới là thanh tịnh phước điền Tăng. Quý vị phải biết phân biệt hai hạng người đó. Bằng không thì quý vị luôn luôn vẫn còn hồ đồ không tinh tế.
Tiếp theo là quy y Giới, nghĩa là không làm điều ác mà chỉ làm việc thiện, dầu cho một mảy may ý tưởng ác cũng không có trong tâm.
Có người sẽ nói: "Nhưng ý nghĩ xấu cứ thường thường khởi lên, như vậy phải làm sao?"
Khởi ác niệm ư? Hãy từ từ làm cho ác niệm nguôi dần đi, đừng để cho nó lôi kéo mình theo nó. Ví dụ như: "A! Mình muốn giết người đó." Tiếp theo lại nghĩ: "O.K. Mình hãy đi giết nó ngay lập tức." Ðó là mình bị ác niệm giết người lôi cuốn. Nhưng nếu người đó lại nghĩ: "A! Anh ta có một hột kim cương rất quý rất hiếm, mình phải tìm cách ăn cắp mới được." Ðó tuy là một niệm ác nhưng anh ta không bị lôi cuốn theo, và ác niệm giết người cũng biến mất.
Thông thường mà nói nếu quý vị không khởi ý tưởng xấu như mơ tưởng chuyện nam nữ, đó là chánh niệm. Trái lại là tà niệm. Bởi vậy hãy tinh tấn tu tập giới định huệ, dập tắt tham sân si. Lại có câu rằng: "Ðừng làm một việc ác dù nhỏ, cũng đừng bỏ qua một việc thiện dù nhỏ." Thực hành đạo lý đó chính là quy y giới.
Quy y giới, với thời gian dần dần chúng ta sẽ tích tụ được công đức, khai mở đại trí huệ, viên mãn phúc căn, cuối cùng chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đạt quả a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Ðắc quả Bồ-đề rồi, hãy quay con thuyền từ bi trở về phổ độ chúng sanh. Ðó là điều căn bản mà tất cả Phật tử đã quy y Tam Bảo cần phải tâm niệm. Chúng ta không được tạo nghiệp tội, lợi dụng Phật-giáo để mưu đồ lợi lộc cho mình. Nếu làm như vậy thật là sai lầm rất lớn. Quý vị có hiểu tôi nói gì không? (Cử toạ đồng thanh trả lời: Dạ hiểu)
Chúng ta phải thực hành bốn nguyện lớn:
1. "Chúng sanh vô biên thề nguyện độ." Hãy tự hỏi mình đã độ được chúng sanh nào chưa? Nếu chưa thì mình có tự độ không? Tự độ là gì? Mình có xứng đáng là một Phật tử thuần thành đã quy y Phật không? Hay là mình chỉ đến với Phật giáo để mưu cơm áo? Mình có lợi dụng tôn giáo để lừa dối người đời lấy tiền không? Nếu đã làm như vậy thì chẳng những không độ được chúng sanh mà còn bị đọa địa ngục nữa. Ðó là điều mình phải ý thức trước tiên. Mình phải làm gương tốt cho người đời khởi tâm Bồ-đề, chỉ độ cho một người cũng không sao. Dần dà sẽ có hai người, ba người, bốn người, trước ít sau nhiều với thời gian. Cứu độ chúng sanh là như vậy.
2. "Phiền não vô tận thề nguyện đoạn." Hãy tự hỏi mình đã đoạn trừ phiền não chưa, dứt bỏ tính nóng giận, và các thứ tính khác chưa? Mình là người hay là súc sanh? Mình có muốn chấm dứt phiền não không? Trước tiên hãy cắt đứt phiền não, tận diệt nóng giận si mê. Như vậy mới là chân chánh Phật tử.
3. "Pháp môn vô lượng thề nguyện học." Hãy tự hỏi mình có học pháp môn nào không, hay suốt ngày chỉ đọc dâm thư? Hay đọc tiểu thuyết lãng mạn? Hay chỉ tư tưởng những chuyện bất chính, và mất thời giờ với những chuyện không bổ ích? Mình có học tập kinh điển không? Hãy trả lời các câu hỏi đó. Và chúng ta phải tu tập các pháp môn. Vì sao vậy? Vì chúng ta thề nguyện đạt thành Phật đạo Vô thượng Bồ đề.
4. "Phật đạo vô thượng, thề nguyện thành." Hãy tự hỏi mình đã đạt thành đạo quả Bồ đề chưa? Muốn vậy, mình phải dũng mãnh khởi Bồ đề tâm, luôn luôn tinh tấn không bao giờ thối chuyển. Có như thế thì sức mạnh của bốn nguyện lớn sẽ hỗ trợ chúng ta tu hành để đắc quả Bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu quý vị không thực hành các điều trên đây thì dầu cho đã quy y Tam Bảo, quý vị cũng chẳng hiểu ý nghĩa chân chính của Tam Bảo là gì.
***


Quy Y Tam Bảo: Không Phải Ðể Hùa Theo Ðám Ðông
Lão Hòa Thượng Thuyết Giảng tại Rochester, NY ngày 7/11/93
 
 
Những ai đã quy y trước đây rồi thì đừng quy y nữa. Vì sao vậy?
1. Ðể tránh tình trạng tranh giành đệ tử và chống báng lẫn nhau trong nội bộ Phật giáo đồ. Vì họ tranh đua quyền lợi nên sinh ra hiềm khích lẫn nhau như nước xung khắc với lửa vậy.
2. Bởi vì nếu những ai đến quy y hôm nay mà đã có quy y trước đây rồi thì Phật giáo không có thêm được đệ tử mới. Phật tử nhảy từ chùa này qua chùa khác không phải là đệ tử chân chính của Phật.
3. Tôi thật chưa đủ công đức để có thể thâu nhận những ai mới quy y Tam Bảo lần đầu tiên làm đệ tử, huống chi là những người đã quy y trước đây rồi. Tuy nhiên, người nào đã được vị bổn sư của họ cho phép, hoặc bổn sư đã viên tịch, hoặc bị biệt tích, hoặc đã hoàn tục thì tôi sẽ thâu nhận.
Quý vị phải là những Phật tử chân chính, không được si mê hồ đồ. Nếu quý vị không tin tưởng bổn sư của quý vị thì việc quy y đâu có nghĩa gì? Hãy dùng Trạch-pháp-nhãn, chứ đừng mù quáng hùa theo người khác. Người Phật tử không nên mưu lợi riêng, mà phải chịu phần thiệt thòi. Thế giới ngày càng tệ hại xấu xa do bởi người đời chỉ biết tự tư tự lợi, giết hại lẫn nhau vì tham lợi lộc.
Riêng tôi chỉ biết nhận chịu phần thiệt thòi, cho nên tôi không bao giờ nhận cúng dường cho cá nhân tôi. Tuy nhiên nếu ai muốn cúng dường đạo tràng cho cộng đồng thì tôi hoan nghênh. Tôi muốn hỗ trợ cho cộng đồng, chứ không mưu cầu riêng tư cho tôi. Tôi đã nguyện:
Dù Lạnh chết, không phan duyên
Dù đói chết, không van nài
Dù nghèo chết, không cầu cạnh
Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Ba Ðại Tông Chỉ ta luôn giữ gìn.
Trên đây là phần đầu của bài kệ.
Khi chúng tôi tạo mãi cơ sở Vạn Phật Thánh Thành, ai ai nhìn thấy địa thế rộng lớn của khu tùng lâm ấy cũng đều rút lui vì sợ tôi sẽ yêu cầu họ cúng dường. Nhưng tôi không kêu gọi ai giúp đỡ cả, tự tôi làm lấy, và tôi cũng không ước mong sự đền bù nào cả.
Sau đây là phần tiếp theo của bài kệ:
Xả thân vì Phật sự
Tạo mạng là bổn sự
Chánh mạng làm Tăng sự
Tức sự minh lý, minh lý tức sự.
Gắng hành mạch Pháp Tổ sư đã truyền.
Vì Phật-giáo, chúng ta phải đem tất cả tâm huyết để phụng sự, có thể hy sinh cả sanh mạng mà không bao giờ ngừng nghỉ, đúng theo triết lý "tạo mạng" sau đây:
Mạng do ta dựng, phúc do ta cầu
Họa phúc chiêu cảm, tự ta tác động.
"Chánh mạng vì Tăng sự" nghĩa là các vị tu sĩ phải nghiêm trì giới luật của Phật. Ví dụ như Tăng già phải đặc biệt đắp giới y. Nếu không đắp giới y thì là đã thực sự hoàn tục. Phật cũng đặt để chỉ ăn một bữa mỗi ngày trước giờ ngọ. Hạn chế việc ăn uống như vậy để xua đuổi ma quỷ và chế ngự ham muốn (bản thân chúng ta có ba thân ma. Nếu ăn quá nhiều thân ma sẽ nổi loạn).
Ít ham muốn thì sẽ dễ tu đạo. Cho nên không nên dùng các thức ăn quá bổ dưỡng. Ðó là quy củ của Vạn Phật Thánh Thành.
Dù rằng không có ai là hoàn hảo cả, nhưng tôi hy vọng rằng mỗi người chúng ta sẽ gắng công sửa mình để tiến tu trên con đường đạo.
*** 


Cấp Tốc Lên Ðường Phật Ðạo
Lão Hòa Thượng Giảng tại Pháp Giới Thánh Thành (*) ngày 28/12/93

Hôm nay là ngày mà căn lành và hạt giống Bồ-đề của quý vị được nở nhạ nẩy mầm.
Quy y Tam Bảo cũng như sinh ra đời với đôi mắt mở, chứ đừng có đi lạc đường. Ra đời với đôi mắt mở có ý nghĩa gì? Có nghĩa là quý vị bắt đầu cuộc sống mới với đôi mắt mở để đi cho đúng đường. Quý vị phải ý thức rõ ràng hai điều này. Tại sao tôi quy y? Tại sao tôi muốn quy y Tam Bảo? Ðây là chuyện quan trọng. Ðừng có quy y chỉ vì những người khác cũng quy y, hay là bắt chước thiên hạ lạy Phật thì mình cũng lạy Phật!
Quy y Tam Bảo là gì? Tôi không biết!
Ðảnh lễ Phật là sao? Tôi không biết!
Quý vị đến quy y mà không biết vì sao! Như vậy có phải là nhắm mắt mà tu, nhắm mắt làm theo kẻ khác không? Quý vị hãy mở mắt ra, nhận diện rõ ràng con đường trước mặt, rồi dũng mãnh bước lên, không thối chuyển.
Thời nay là thời mạt pháp. Mạt pháp là gì? Nghĩa là Phật-pháp đang trên con đường suy tàn. Chúng ta đang sống vào mùa thu của Phật-pháp. Mặt trời đang xế bóng, mà con đường trước mặt thì hãy còn mờ mịt. Hy vọng rất nhỏ nhoi. Tuy nhiên, cũng chính là lúc này chúng ta cần phải dũng mãnh tinh tấn lên đường để đi tới đích. Ðó là đại ý của việc quy y Tam Bảo.
Hôm nay có những người thiện căn thâm sâu đến quy y Tam Bảo, có hóa thân Bồ Tát đến quy y, hóa thân trời rồng bát bộ đến quy y, có loài người đến quy y, lại còn có cả quỷ thần đến quy y nữa. Có thể nói đây là lễ quy y đầu tiên được tổ chức đại quy mô tại Pháp Giới Thánh Thành (*). Các thần hộ pháp, trời rồng bát bộ đầy khắp hư không đến đạo tràng này để hộ pháp. Những lời phát nguyện cầu xin của quý vị cho tương lai sẽ được các Ngài thiện thần Hộ-pháp chứng tri. Riêng tôi có một lời nguyện khiêm tốn: Ai đã quy y với tôi hay chưa quy y, ai đã tin Phật hay còn tin ở các đạo giáo khác, tất cả nếu chưa thành Phật thì tôi sẽ chờ cho đến khi nào họ thành Phật thì tôi mới thành Phật.
Quý vị hãy dũng mãnh tiến tới, đừng giãi đãi lười biếng, hãy chuyển hóa tập quán xấu thành tốt, tránh điều ác làm điều lành, ngày ngày tự mình đổi mới. Hãy dũng mãnh tinh tấn hướng tới Bồ-đề. Ðừng để tôi phải chờ đợi quá lâu! Có thể tôi sẽ không còn sức để chờ đợi được nữa.
Mỗi người hãy bắt chước như một vị tướng quân ra trận không bao giờ xuống ngựa, quyết tâm tiến tới mà thôi!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.1/2/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT
 Quy y Phật, Pháp và Tăng 
Lama Zopa Rinpoche 
Lozang Ngodrub dịch, Tâm Ưu Đàm hiệu đính
Lời khuyên tổng quát
Chung qui, có bốn điểm trong việc tu tập Pháp.
 Nên nương tựa vào các bậc thánh giả, lắng nghe Pháp và sau khi đã hiểu Pháp một cách đúng đắn, hãy tu tập theo Pháp.
     Không nên để cho các giác quan bị kích thích (kềm chế giác quan khi có nguy cơ tạo nghiệp tiêu cực), nhận càng nhiều giới càng tốt, miễn là có thể giữ gìn những giới này nghiêm nhặt.
       Có lòng bi mẫn đối với chúng sanh.
         Khi ăn hay uống, hãy cúng dường những Đấng Cao Cả Quý Hiếm, và tu tập các giới quy y một cách tốt đẹp, kể cả việc cố công cúng dường Tam Bảo.

          Lời khuyên về quy y: Những điều nên tránh
          1. Một khi đã quy y Phật, không nên hết lòng quy y những chư thiên thế gian  như Brahma v.v..., và không nên lễ lạy những vị này.
                   Không nên hết lòng phó thác đời mình cho những bạn bè thiếu đức hạnh,    hay các vị thầy ngoại đạo không có các giai tầng hỗ trợ.
                   Một khi đã quy y Pháp, nên tránh phương hại bất cứ chúng sanh nào, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp nhờ người khác thực hiện cho mình.
                        Một khi đã uy Tăng, không nên tin tưởng và kết bạn với những người tiêu cực và những ai tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc.
               
              Những gì nên thực hành
              1. Một khi đã quy y Phật với lòng kính trọng, nên xem các pho tượng như những vị Phật thật sự, hãy lễ lạy và tỏ lòng tôn kính các tượng Phật.
                                 Nên tránh việc bất kính bằng cách, thí dụ như, đặt tượng Phật dưới đất,                     
                                 đánh giá trị của tượng qua vật liệu tạo ra pho tượng, hay phát tâm phân biệt,            
                                 nói rằng có tượng tốt và tượng xấu.

              1. Một khi đã quy y Pháp, nên có lòng tôn sùng và kính trọng Pháp bằng cách phát tâm thừa nhận mọi kinh điển hay chỉ một vần của giáo pháp là hiện thân của Giáo Pháp Cao Cả Quý Hiếm.
                                 Nên tránh đặt kinh điển, giáo pháp trên mặt đất, xem sách vở giáo lý những              
                                 món hàng vật chất, dùng để thế chân mượn nợ, hay cầm sách vở giáo lý                     
                                 chung với giày dép.
                   2. Một khi đã quy y Tăng, nên xem mỗi một thành viên như cả một Tăng Thân thật sự vậy. Nên tránh tâm phân biệt trong Tăng Thân và có sự tôn trọng đồng đều đối với tất cả mọi người.
                                   Nên tu tập đúng đắn những lời khuyên liên quan đến những gì nên thực   hành, như không nên dẫm lên y áo của tăng ni, hay để chúng ở những nơi  dơ bẩn, mà nên đặt ở nơi sạch sẽ.
                Động cơ của cuộc đời
                          Mục tiêu của cuộc đời tôi là giúp cho tất cả chúng sanh thoát khổ, và dẫn dắt họ đến hạnh phúc, đặt biệt là niềm hỷ lạc cao cả vô song của trí toàn giác.
                          Vì những sự thụ hưởng trong đời sống hàng ngày của tôi – tất cả hạnh phúc trong quá khứ, hiện tại và vị lai, ngay cả trí giác ngộ – đều có được là nhờ chúng sanh, vì vậy hạnh phúc của vô lượng chúng sanh cũng tùy thuộc vào tôi.
                          Nếu tôi phát tâm từ ái với chúng sanh, thì tôi sẽ không làm hại một hữu tình nào và vì vậy, họ sẽ có được hòa bình và thành công trong đời sống. Do đó, tôi chịu trách nhiệm đối với hạnh phúc và sự an bình của tất cả chúng sanh. Tôi phải phục vụ họ mà không sanh tâm phân biệt giữa kẻ đã hại tôi và người đã giúp tôi. Để hoàn thành mục đích này, tôi phải thành tựu giác ngộ viên mãn. Vì thế, tôi sẽ giữ gìn đức hạnh trong mọi hành vi của thân, khẩu, ý của mình: mong rằng mọi hành vi này sẽ không tạo ra tổn hại nào cho chúng sanh và chỉ mang lại những lợi lạc to lớn nhất cho họ, để họ có thể đạt được giác ngộ càng sớm càng tốt.

                Các giới của Phật tử tại gia
                          Năm giới luật mà một thiện nam/tín nữ [ge-nyen, “khởi đầu đời sống đức hạnh”] phải giữ gìn là tránh:
                1. giết hại;
                2. lấy những gì không ai cho;
                3. tà dâm;
                4. nói láo;
                5. uống rượu
                     Trong những giới này, hai giới rất dễ hiểu là lấy những gì không ai cho và uống rượu hay xử dụng chất kích thích.
                Mất giới gốc
                     Một người có thể mất giới từ gốc, thế thì nên nhận lại giới, nếu đã phạm giới bằng cách:
                1. giết một mạng người;
                2. ăn cắp một vật gì có giá trị đối với người khác;
                3. thông dâm, nghĩa là có quan hệ tình dục với chồng, vợ hay bạn tình của một người khác
                4. nói dối về những điều trọng đại, chẳng hạn như giả vờ mình đã đạt được thực chứng của các Bồ Tát Địa và những Con Đường tu tập, mặc dù thật sự chưa có thành tựu nào cả.
                Giới bị suy giảm
                      Ta có thể không bị mất giới từ gốc, nhưng hiệu lực của giới có thể bị suy giảm. Trong trường hợp này, phải thú nhận lỗi lầm, nếu đã phạm giới bằng cách:
                1. giết một chúng sanh không phải là người, thí dụ như một con thú;
                2. ăn cắp một vật không có giá trị;
                3. có hành vi tình dục ở nơi thánh địa, vào những thời điểm đặc biệt (như ngày trước đêm rằm, mùng tám âm lịch, những ngày thánh lễ của đức Phật v.v...), hay có hành vi tình dục trong khi đang thọ bát quan trai giới [nyen-ne, “tiến đến đời sống đức hạnh bằng cách trì giới trong một ngày”]
                4. nói những lời dối trá thông thường;
                5. uống rượu (hay xử dụng các chất kích thích)
                      Phương pháp tịnh hóa nghiệp là nên thú nhận lỗi lầm và nhất thiết tránh tái phạm những thói xấu này.
                      Nên giữ tâm mình không phạm vào 6 hành vi bất thiện còn lại, có phần giống như những nghiệp tiêu cực nói trên (nghĩa là gần với những nghiệp tiêu cực nặng nề này): tránh nói lời vu khống; nặng lời; đàm tiếu; tránh tham lam; có ác ý và tà kiến.
                 Lợi ích của việc giữ giới
                          Các lợi ích của việc giữ giới là: bạn sẽ không bị đọa vào những ác đạo (các tầng địa ngục, súc sanh và quỷ đói); tạm thời, bạn sẽ tiếp tục được tái sinh vào thân của thần thánh hay thân người, và rốt ráo thì bạn sẽ dễ đạt được giải thoát. Hơn nữa, đức hạnh của việc giữ năm giới này sẽ tăng trưởng không ngừng, ngay cả trong lúc đương sự đang ngủ hay bị bất tỉnh, bị ngộ độc và v.v...

                          Ngoài những ích lợi này, vị Khai Sáng đạo (Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật) sẽ luôn luôn nghĩ đến bạn; các chư thiên (hộ pháp đã thoát khỏi luân hồi, hộ pháp thế gian và thần thánh) sẽ tán thán và che chở cho bạn; những chúng sanh không phải loài người không thể làm hại bạn; các phẩm hạnh của bạn sẽ tăng trưởng vô hạn định; và đến lúc lâm chung, bạn sẽ không có sự hối tiếc nào. Hơn nữa, khi tránh giết hại chúng sanh, bạn sẽ được trường thọ trong những kiếp sống tương lai.
                          Khi tránh lấy những gì không ai cho, bạn sẽ được giàu có (trong những kiếp tương lai).
                          Khi tránh tà dâm, bạn sẽ có được vợ/chồng hay bạn bè tuyệt hảo (hòa thuận với nhau như ý bạn mong muốn) (trong những kiếp tương lai).
                          Khi tránh nói dối, bạn sẽ có một trí nhớ tốt và tinh thần trách nhiệm cao (trong những kiếp tương lai). Kinh Ngọn Đèn của Mặt Trăng có viết rằng: “Nếu một người có tín tâm, cúng dường táng lọng, cờ quạt, các dãy đèn, thức ăn và thức uống cho hàng trăm tỷ chư Phật nhiều như cát sông Hằng, trong muôn ức triệu a tăng kỳ kiếp, công đức này cũng không thể sánh bằng công đức của một người chỉ thọ trì một giới trong một ngày mà thôi, vào thời kỳ mà Chánh Pháp của Như Lai đã suy tàn.”HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.(3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.1/2/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
                PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG
                Dzigar Kongtrul Rinpoche .

                1. PHẬT
                Đức Phật – bậc dẫn đường chân chính
                Trong các Kinh điển, Đức Phật nói rằng chúng ta cần xem bản thân là người bệnh, và Đức Phật là bác sĩ, và giáo lý là thuốc. Quan hệ của chúng ta với Đức Phật giống như một người bệnh với bác sĩ. Như khi chúng ta theo một chế độ ăn kiêng và uống thuốc theo đơn của bác sĩ, chúng ta nên theo những chỉ dẫn của Phật và áp dụng các giáo lý này. Bằng cách uống thuốc, chúng ta sẽ thu được cả những lợi ích tạm thời và dài hạn.
                Căn bệnh mà chúng ta mắc phải là sự ngu dốt, những cảm xúc phiền não, nhận thức sai lệch và khổ đau. Bởi vì Đức Phật đã thoát khỏi mọi căn bệnh như thế, ngài thực sự là người chỉ dẫn đáng tin cậy.
                Như trong các Kinh điển có nói, làm sao người ta, những kẻ trong hoàn cảnh khó khăn như chúng ta có thể giúp chúng ta thoát khỏi bãi cát lún? Giống như vậy, những người, không thể tự thoát khỏi vòng luân hồi không thể giải thoát chúng ta khỏi vòng luân hồi. Bởi thế, Đức Phật là người dẫn đường chân chính, và giáo lý là thứ thuốc hữu hiệu.
                Sự giác ngộ của Phật
                Quan điểm Tiểu thừa
                Theo quan điểm Tiểu thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh giác ở Bồ Đề Đạo Tràng bằng cách chinh phục mọi che chướng cảm xúc và nhận thức. Trong tiếng Tạng, một bậc giác ngộ là sangye. Sang nghĩa là tịnh hóa các cảm xúc phiền não (nyondrip) và che chướng nhận thức (shedrip). Gye nghĩa là sự tỉnh thức của trạng thái tràn đầy những phẩm tánh hoàn hảo của giác ngộ. Trạng thái tỉnh thức của Phật thoát khỏi mọi che chướng và sở hữu các phẩm tánh hoàn hảo của kiến thức, tâm từ, lòng bi mẫn và trí tuệ.
                Quan điểm Tiểu thừa nhìn nhận Phật Thích Ca Mâu Ni là một chúng sinh bình thường. Dĩ nhiên, phải công nhận rằng chúng sinh bình thường này rất phi thường, nhưng từ quan điểm này, ngài sở hữu những uẩn bình phàm.
                Quan điểm Đại thừa
                Theo Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ trong cõi Akanishtha, cõi trời cao nhất – một cõi Phật, không thể nhìn thấy bởi người thường.
                Với lòng từ bi, vì lợi ích của người khác, ngài tái sinh trong cõi người và “giả vờ” trải qua toàn bộ quá trình của “mười hai hành động[1],” bao gồm cả hành động giác ngộ dưới tán Bồ đề. Bởi Phật đã hoàn toàn giác ngộ, ngài thoát khỏi mọi trải nghiệm của luân hồi bởi vì ngài không bị trói buộc bởi các uẩn thông thường. Ngài chỉ hiển bày các uẩn này để chúng sinh bình phàm có thể nhận thấy và đưa ra một tấm gương về con đường giác ngộ.
                Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục. Ngài đang kéo chiếc xe bò với một người khác, và cả hai đều bị tra tấn dữ dội. Phật nghĩ rằng, “Tại sao tôi không nhận lấy tất cả nghiệp này, tại sao không trở thành đối tượng dày vò và giải thoát cho người kia?” Ngài bảo các vị yama[2], những kẻ đang tra tấm ngài, hãy để điều này xảy ra. Nhưng họ nói, “Mọi người đều có nghiệp riêng! Ông không thể giải thoát bất kỳ ai khỏi nghiệp riêng của họ,” và đánh vào đầu ngài bằng cái búa sắt. Phật chết, nhưng bởi vì nghiệp quả tốt lành mà ước nguyện của ngài tạo ra, ngài ngay lập tức được giải phóng khỏi cõi địa ngục đó.
                Ngài đã giác ngộ ở Akanishtha; sau đó ngài ở Tushita, một cõi Phật nơi mà Phật Vị lai, ngài Di Lặc hiện tại an trụ. Khi thời gian chín muồi, và mọi người thích hợp để một vị Phật tái sinh trong thế giới này, ngài được thụ thai trong tử cung người mẹ.
                Sự xuất hiện của Phật trong thế giới này
                Nếu chư Phật đã làm cạn kiệt mọi nguyên nhân và điều kiện của luân hồi và sự xuất hiện trong luân hồi cũng như hoàn toàn chứng ngộ chân lý tuyệt đối của tánh không, làm sao và tại sao các ngài thị hiện trong thế giới này?
                Điều này xảy ra nhờ hai khẩn nguyện; khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh có kết nối với chư Phật và đánh thức khỏi trạng thái ngu dốt như mơ của tâm, và khẩn nguyện của chư Phật làm lợi lạc chúng sinh và đánh thức họ khỏi trạng thái huyễn hoặc như mơ đó. Khi khẩn nguyện của hữu tình chúng sinh và của chư Phật gặp nhau, chư Phật xuất hiện trên thế giới.
                Sự xuất hiện của các ngài giống như trăng trên trời, được phản chiếu rõ ràng và tự nhiên trên nhiều ao hồ bên dưới. Nhưng điều này không ám chỉ rằng Đức Phật tự mình “hạ xuống” từ hư không, hay có một vị Phật “xuống đây” và một vị khác “ở trên kia,” cũng không phải có nhiều vị Phật khắp mọi nơi.
                Một nghìn vị Phật
                Trong thời đại đặc biệt này, một nghìn vị Phật sẽ xuất hiện. Theo các miêu tả truyền thống, tất cả những gì chúng ta thấy từng là chân không hay hư không. Sau đó gió và mưa bão nổi lên, tạo thành yếu tố đất. Mưa tiếp tục, và một nghìn bông sen nở. Các vị trời nam và nữ thấy sự kiện này và tự hỏi nó tượng trưng cho điều gì. Các vị trời tuổi cao, uyên bác có thể nhìn thấy tương lai nhờ sức mạnh của thiền định, đã nói rằng đó là dấu hiệu trong thời đại này sẽ có một nghìn vị Phật. Bởi thế, nó được gọi là kalpa zangpo, “thời đại xuất sắc.”
                Cho đến nay, chúng ta đã có bốn vị Phật. Trong mỗi thời của bốn vị Phật này, rất nhiều vị Phật khác đã xuất hiện và làm lợi lạc chúng sinh. Nhưng có một vị tối cao trong mỗi thời, bậc đảm bảo rằng mọi giáo lý của thời đại đặc biệt đó sẽ hòa hợp với lời dạy của vị Phật đó. Vị Phật tối cao của hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni, tuy nhiên có rất nhiều các vị Phật khác đã đến thế giới này và làm lợi lạc chúng sinh. Ví dụ, Đức Văn Thù, Đức Quan Âm và Đức Kim Cương Thủ đều là các vị Phật, nhưng các ngài thị hiện dưới hình tướng chư Bồ Tát. Guru Rinpoche cũng là một hóa thân của Đức Phật.
                Các vị Phật tối cao này đều đến với mười hai hành động của một vị Phật, đạt giác ngộ và thuyết Pháp. Trong trường hợp của Phật Thích Ca, ngài sinh ra là một vị hoàng tử, nhưng các vị Phật không nhất thiết phải sinh ra làm hoàng tử như vậy.
                Hai trí tuệ
                Điều quan trọng là biết rằng Phật có hai kiểu trí tuệ [jnana]: trí tuệ nhìn thấy bản chất của mọi thứ như chúng là, và trí tuệ nhìn thấy tính đa dạng của mọi hiện tượng.
                Thứ mà Phật nhìn thấy từ quan điểm hay trải nghiệm giác ngộ của ngài được gọi là rang nang trong tiếng Tạng. Nhận thức của chúng sinh khác được gọi là shyen nang. Bởi thời gian là trống rỗng, rang nangshyen nang có thể xuất hiện cùng lúc. Trí tuệ của việc nhận thấy mọi thứ bao gồm của nhận thức giác ngộ về mọi thứ rang nang, và nhận thức của chúng sinh, shyen nang. Nếu không phải như vậy, thì chư Phật sẽ không thể thuyết giảng.
                Chư Phật thuyết giảng ra sao
                Một hình ảnh có thể giúp chúng ta hiểu cách thức mà chư Phật thuyết giảng là hãy tưởng tượng hai người trong một căn phòng: một người thức và người kia thì ngủ, và gặp phải ác mộng. Người thức – Phật – có thể nhận ra rằng người kia đang gặp ác mộng. Điều này không chỉ được hiểu qua sự suy luận mà còn qua nhận thức trực tiếp về cơn ác mộng của người đó.
                Mặc dù người thức có thể nhận thấy cơn ác mộng của người kia một cách trực tiếp, trải nghiệm của người mơ đó không trở thành sự thật của người thức. Bởi vậy người đang thức có thể chậm rãi đánh thức người kia khỏi giấc mộng. Nhờ đó, anh ta có thể kéo người kia khỏi giấc mơ và trở về thực tại, đó là sự không tồn tại của mọi cơn ác mộng. Đó là cách mà chư Phật dạy hữu tình chúng sinh.
                Khi bạn tỉnh dậy trong một giấc mơ, giấc mơ có thể tiếp tục, nhưng mối quan hệ của bạn với nó đã thay đổi. Đó là con đường của chư Bồ Tát, đặc biệt là trong giai đoạn sau thiền định. Khi bạn hoàn toàn tỉnh dậy khỏi giấc mơ, đó là Phật quả. Bạn tỉnh thức với các trải nghiệm hoàn toàn về sự thực và sự xuất hiện; nó không đúng khi nói rằng mọi hình tướng đơn giản biến mất ở điểm này.
                Ba thân của chư Phật
                Bản chất của sự thật được gọi là Pháp thân, và các hình tướng là Sắc thân. Một vị Phật hòa hợp với Pháp thân trong khi xuất hiện như là Sắc thân.
                Pháp thân
                Trong trạng thái tuyệt đối của niết bàn, trong Pháp thân, không có nhận thức và không có hình tướng. Nhưng điều này không có nghĩa là Pháp thân là rắn chắc và cách biệt, hay một hư không hoàn toàn tách biệt khỏi các hoạt động của chư Phật hay các hình tướng của Phật quả, tức là hai hình tướng của Sắc thân – Báo thân và Hóa thân.
                Báo thân
                Các hình tướng Báo thân khởi lên từ Pháp thân, thứ như hư không tràn khắp, xuất hiện chủ yếu với chư Bồ Tát, những bậc trên con đường giác ngộ. Các Báo thân khởi lên thông qua duyên khởi như là kết quả của nghiệp và sự rộng mở của chư Bồ Tát, và sức mạnh của chư Phật hiển bày từ Pháp thân. Các hình tướng Báo thân không thể tiếp cận bởi chúng sinh bình phàm.
                Báo thân Phật làm lợi lạc cho chư Bồ Tát, những bậc ít nhất đạt đến địa thứ nhất. Những vị Bồ Tát này có thể nhìn thấy và thọ nhận giáo lý từ Báo thân Phật. Cách thức các ngài thọ nhận giáo lý không giống như cách chúng ta nhận, thường là khẩu truyền. Ví dụ, các vị Bồ Tát đơn giản có thể nhìn vào thân của Báo thân Phật và nhận ra các che chướng của bản thân và cách để tịnh hóa chúng một cách rõ ràng.
                Hóa thân
                Từ quan điểm Tiểu thừa, Phật được nhìn nhận như một chúng sinh bình thường, và chúng sinh bình thường coi Phật là Hóa thân Phật. Từ quan điểm Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni là Hóa thân Phật, người, như là cái bóng của Báo thân Phật, giáng sinh như một bậc toàn giác từ cõi trời Tushita. Hóa thân Phật giống như những cái bóng của Báo thân Phật, như mặt trăng phản chiếu hình bóng xuống ao.
                Mặc dù chư Phật xuất hiện, sự xuất hiện của các ngài không phải sự xuất hiện của chân lý tương đối bình thường, ảo mộng, sản phẩm của tâm quan niệm và các lỗi lầm. Các ngài xuất hiện một cách độc lập, nhưng sự xuất hiện này thanh tịnh chứ không có lỗi lầm. Bởi thế, những phẩm tánh vô song của chư Phật được gọi là zakme kyi cho trong tiếng Tạng, nghĩa là “các phẩm tánh không lỗi lầm.”
                Pháp thân có sức mạnh làm khởi lên vô số các phẩm tánh không lỗi lầm. Mặc dù Hóa thân Phật Thích Ca Mâu Ni trải qua đủ mười hai hành động của một vị Phật, từ cõi trời Tushita đến khi nhập Niết Bàn, từ quan điểm Pháp thân của chư Phật, không hề có sự di chuyển hay thay đổi nào.
                Mục đích đằng sau việc chư Phật đến thế giới này là để chỉ ra con đường giác ngộ. Đức Phật trải qua, theo cách hoàn hảo nhất, đủ mọi giai đoạn của con đường mà chúng ta phải đi. Để chỉ ra sự từ bỏ, Phật rời bỏ cung điện và từ bỏ mọi hài lòng như thể chúng bị nhổ vào bụi. Ngài đi vào rừng, điều này giải thích tầm quan trọng của sự từ bỏ các mối bận tâm, thứ thực ra tạo nên khổ đau và trói buộc.
                Những phẩm tánh của Phật như một vị thầy[3]
                Các phẩm tánh như một vị thầy của Phật là rất rõ ràng. Ngài sở hữu cả hai kiểu trí tuệ, mười sức mạnh, bốn trạng thái vô úy[4], mười tám đặc điểm phân biệt của trạng thái tâm của Phât, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
                Tám phẩm tánh của giác ngộ
                Như trong Uttaratantra shastra có nói, trong tất cả, Phật là tối thượng. Trạng thái Phật quả, hay giác ngộ hoàn toàn vô song, thoát khỏi mọi lỗi lầm, và hoàn toàn đáng tin cậy.
                Tâm giác ngộ có ba phẩm tánh, làm lợi lạc chính bậc giác ngộ. Nó không giả tạo, tự nhiên và tự tỉnh thức, nghĩa là tâm của Phật không chứng ngộ do kết quả của các điều kiện bên ngoài.
                Ba phẩm tánh của chư Phật làm lợi lạc người khác là trí tuệ vĩ đại; tâm từ lớn lao, sự chu đáo và từ bi và sức mạnh làm lợi lạc vĩ đại.
                Phẩm tánh làm lợi lạc bản thân và phẩm tánh làm lợi lạc người khác, khi được thêm vào ba phẩm tánh được kiệt kê trong hai loại trên, tạo thành cái đôi khi được gọi là tám khía cạnh của giác ngộ.
                2. PHÁP
                Các ý nghĩa của từ “Dharma
                Từ “Dharma” trong tiếng Phạn có rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, nó có thể liên quan đến kiến thức, con đường, niết bàn, hiện tượng, đối tượng của việc suy nghĩ, công đức, cuộc đời và tương lai. Ở đây Pháp liên quan đến Chánh Pháp [hay Pháp cao quý], những giáo lý của chư Phật.
                Vậy Pháp cao quý là gì? Nó là điều mà các bậc giác ngộ nhìn nhận trực tiếp, là bản tánh chân thực của sự thật, và là điều mà chư Phật giảng cho người khác cho người khác như là con đường. Bởi thế, Pháp là con đường chân chính dẫn chúng ta thoát khỏi khổ đau của luân hồi và vòng sinh tử.
                Pháp như là con đường
                Một vài giáo lý chỉ thích hợp cho một vùng hay thời điểm đặc biệt, và khi thời điểm đặc biệt đó trôi qua, sẽ không còn hữu ích nữa. Nhưng giáo lý của chư Phật phục vụ con người liên tục xuyên suốt lịch sử và sẽ tiếp tục như vậy. Nguyên nhân của điều này là bởi chúng đề cập đến tâm bên trong của chúng ta.
                Ở Lerab Gar, tháng 9 năm 2000, Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói rằng mọi phát triển khoa học và công nghệ với ý định tạo ra một thế giới tốt hơn chỉ đóng góp cho các nhận thức về giác quan, trong khi điều duy nhất giúp đỡ thức nội tại là trí tuệ. Nếu nó không cung cấp cách thức đối phó với các vô minh che lấp trí tuệ bẩm sinh, thì dù khoa học và công nghê có phát triển thế nào, nó cũng không tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Dĩ nhiên, khoa học và công nghệ sẽ tạo ra vài ảnh hưởng tích cực, nhưng chúng sinh vẫn chịu nhiều khổ đau.
                Đặc biệt trong thế kỷ 20 và 21, người ta nhận thấy điều này rõ ràng hơn bất kỳ thời đại nào khác trong lịch sử loài người. Khi bạn xem tivi, những người nổi tiếng hay các ngôi sao dường như hài lòng về vật chất, nhưng họ vẫn thất vọng; họ vẫn rất tệ.
                Bởi vậy món quà lớn lao là được thọ nhận giáo lý Phật Đà trong cuộc đời này, cơ hội lớn lao khi có phương tiện để giải quyết vấn đề tâm, và đặc biệt là cái tôi và các vấn đề đi kèm. Thật tuyệt vời khi trí tuệ và phương tiện thiện xảo được trao truyền không gián đoạn từ thời Đức Phật, khoảng 2500 năm trước. Bởi thế, rất nhiều người đã chứng ngộ nhờ trí tuệ và phương tiện thiện xảo. Giác ngộ không phải khả năng giả thuyết; trí tuệ và phương tiện thiện xảo này đã và đang được sử dụng với thành công lớn lao.
                Dòng truyền thừa phương tiện thiện xảo và trí tuệ vẫn còn cho đến nay, và chúng ta có cơ hội là một phần của nó. Chính chúng ta có thể thực hành trong dòng truyền thừa này và trải qua những lợi lạc từ đó. Nếu nó từng bị gián đoạn, sẽ thật khó để tái tạo một dòng như thế.
                Thành ngữ Tây Tạng có câu:
                “Pháp không phải sở hữu của ai cả; nó là tài sản của bất kỳ ai thực hành nó.”
                Nó không phải tài sản cá nhân của bất kỳ vị thầy nào hay nhóm người đặc biệt nào. Nếu vị thầy không thực hành, nó không thuộc về vị thầy, bởi vì Pháp không phải là một nghi lễ trống rỗng. Giống như vậy, nó không phải là tài sản của nhóm người nào, bởi nó không giống như triết học Cộng sản hay tương tự. Nó thuộc về bất kỳ ai thực hành. Bất kỳ cá nhân nào thực hành Pháp sẽ được cải thiện bởi Pháp. Chính bạn có thể là người tận dụng tối đa Pháp.
                Pháp như là [đối tượng] Quy y
                Mọi giáo lý Phật Đà có hai đặc điểm. Đầu tiên chúng phải là một phương thuốc, hay cách đối trị với các cảm xúc phiền não gây ra khổ đau cho chúng sinh. Chúng cần làm giảm những cảm xúc phiền não mà chúng sinh trải qua, và một cách tuyệt đối tiêu diệt mọi nguyên nhân. Giáo lý Phật Đà cũng cần cung cấp các bước nhờ đó hữu tình chúng sinh tiến lên các cõi cao hơn, và một cách tuyệt đối giải thoát khỏi khổ đau luân hồi và vòng sinh tử.
                Các giáo lý cần cung cấp nơi nương tựa theo cả hai cách. Bất kỳ điều gì hòa hợp với hai đặc điểm này là giáo lý Phật Đà. Người ta cũng nói rằng ngoài giáo lý của Phật, những giáo lý như vậy không thể được tìm thấy.
                Pháp của Kinh điển và Chứng ngộ
                Như ngài Vasubandhu nói trong Abhidharmakosha, giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành hai loại: Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng ngộ.
                Khía cạnh Kinh điển của Phật Pháp được duy trì bởi sự nghiên cứu, bao gồm việc giảng dạy, lắng nghe, biên soạn và tranh luận. Điều này liên quan đến cả che, trong tiếng Tạng nghĩa là giải thích Pháp và nyen nghĩa là lắng nghe Pháp.
                Khía cạnh Chứng ngộ của Pháp bao gồm thiền định và thực sự chứng ngộ. Khái cạnh này xuất phát từ khía cạnh đầu tiên.
                Bằng cách tham gia vào các hoạt động này, chúng ta bảo tồn Pháp không chỉ trong các cuốn sách mà còn trong sự chứng ngộ của chúng sinh. Chúng ta duy trì truyền thống Pháp kinh điển và bảo tồn Pháp chứng ngộ. Nếu chúng ta đánh mất một trong hai, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến điều còn lại; Pháp sẽ không trọn vẹn. Giống như việc điều này rất quan trọng với chúng ta, với thế hệ tương lai, điều quan trọng là có cơ hội tham gia và trở nên uyên bác cả về Pháp của Kinh điển và Pháp của Chứng ngộ.
                Giáo lý và Luận giải
                Nói chung có hai kiểu Kinh điển Phật giáo. Ka trong tiếng Tạng là những lời dạy của chính Đức Phật và tencho là các luận giải của các đại học giả xứ Ấn Độ và Tây Tạng.
                Ka
                Các giáo lý của Đức Phật gọi là ka. Nhưng ka không chỉ gồm những lời mà Đức Phật nói ra. Ví dụ, Bát nhã tâm kinh là ka, nhưng chính ngài Quan Âm đã giảng về Bát nhã tâm kinh, khi trả lời câu hỏi của ngài Xá Lợi Phất. Nguyên nhân nó được xếp vào ka là sự gia trì của Đức Phật được chuyển đến ngài Quan Âm, người trở thành phát ngôn viên của Đức Phật. Vì thế, Bát nhã tâm kinh là “ka khởi lên từ sự gia trì.”
                Có rất nhiều dịp khác mà Đức Phật không nói, nhưng âm thanh đến từ nhiều phần khác của thân ngài. Các giáo lý này được gọi là chotrul gyi ka, tức ka kỳ diệu.
                Chính Đức Phật gợi ý rằng khi các giáo lý của ngài được kết tập, chúng cần được bắt đầu bằng câu, “Tôi nghe như vầy …” Mọi giáo lý bắt đầu như thế đều là ka.
                Những lời dạy của Phật là thanh tịnh, hoàn hảo và an bình. Chúng hòa hợp với sự thật tương đối và tuyệt đối, chân thật, đúng đắn và là phương thuốc cho mọi căn bệnh. Chúng vượt khỏi mọi so sánh.
                Tencho
                Nghĩa đen của từ tencho trong tiếng Tạng [tiếng Phạn là shastra] là “chỉ ra và chuyển hóa.” Khi bạn được chỉ ra rõ ràng cách thức mọi thứ thực sự là, tâm bạn được chuyển hóa. Sự ngu dốt chuyển hóa thành giác tánh, tiêu cực thành tích cực. Vì thế, mục đích của tencho là chuyển hóa tinh tế tâm của đệ tử, và kết quả của tencho là bạn được bảo vệ khỏi những cõi thấp hơn.
                Tencho được viết bởi các học giả. Về Luận, người ta nói rằng bảy bậc trưởng lão chứng ngộ từ truyền thống Tiểu thừa gặp nhau và biên soạn bản shastra đầu tiên, Chedrak Shedzo Chenmo. Để được phép biên soạn một shastra, học giả, ít nhất cần phải hiểu năm ngành khoa học chính và năm ngành phụ.
                Năm ngành chính gồm nghệ thuật, y học, ngôn ngữ, logic và triết học nội tâm.
                Năm ngành phụ gồm đồng nghĩa, toán học, biểu diễn, thơ ca và biên soạn.
                Chỉ người hiểu những ngành này mới có thể biên soạn luận giải về giáo lý Phật Đà. Bên cạnh đó, để có thể biên soạn một bản shastra, họ ít nhất phải chứng ngộ địa thứ nhất hay có thể giao tiếp với Bổn tôn, chẳng hạn Đức Văn Thù. Một cách lý tưởng, tác giả cần trực tiếp trải nghiệm dharmata, chân lý.
                Có khoảng một trăm bản ka (Kangyur) bằng tiếng Tạng và khoảng hai trăm bản tencho (Tengyur). Tất cả các bản tencho được viết bởi các đại học giả, những bậc uyên bác mọi ngành khoa học chính và phụ.

                3. TĂNG
                Những bậc với ý định thiện lành
                Những bậc nghiên cứu, quán chiếu và thiền định về giáo lý của Đức Phật, và ý định được đặt trên con đường Pháp và giác ngộ được gọi là Tăng [tiếng Tạng là gendun, tiếng Phạn là Sangha]. Từ Sangha nghĩa đen là “những bậc với ý định thiện lành.”
                Có hai kiểu đức hạnh: đức hạnh hướng về các hành động trong thế giới này, và đức hạnh tuyệt đối của việc thành tựu Chánh giác.
                Quy y Tam Bảo
                Những người bình thường bị lạc trong sự chăm sóc và bảo vệ cái tôi và trong các cảm xúc phiền não. Dù đau đớn nào được gây ra bởi việc chăm sóc và bảo vệ cái tôi, đó là cách mà họ sống. Dù họ cố gắng nhiều lần, thái độ này không thể làm họ hạnh phúc hơn, và không giải thoát họ khỏi khổ đau.
                Gần như không thể với người thường để hiểu được rằng khả năng của việc buông bỏ cái tôi và làm giảm khổ đau, căng thẳng và hận thù mà chúng ta cảm thấy bên trong, có thể xuất hiện. Nó như thể bạn chắc hẳn rất điên rồ khi đề xuất như vậy. Tuy nhiên, mặt khác, rất rõ ràng là việc nuôi dưỡng và bảo vệ cái tôi là nguồn gốc của mọi khổ đau.
                Bởi vậy, con đường của bạn và con đường của chúng sinh thông thường trở nên khá khác biệt. Mặc dù bạn sống như một thành viên trong gia đình và chăm sóc từng thành viên, bạn vẫn nhận thấy bạn đang trở nên khác biệt với phần còn lại. Mặc dù bạn có thể kết hôn và đã thề sống với vợ/chồng, và mặc dù yêu thương và chăm sóc vẫn còn, bởi bạn làm việc với tâm, bạn sẽ nhận ra khoảng cách giữa bạn với vợ/chồng ngày càng lớn.
                Sự tách biệt này không dựa trên kiểu thành kiến vào với bạn đời. Nó là kết quả của sự thấu suốt tăng lên mà bạn sở hữu như là kết quả của việc giải quyết vấn đề tâm. Trí tuệ bạn đang vun bồi nhìn ra không chỉ vấn đề của người khác mà còn cả vấn đề của bạn. Điều này liên quan đến việc nhìn ra cái khổ trong cuộc đời, và đâm thủng nguyên nhân của nó, thứ đang bám chấp vào cái tôi.
                Chúng ta mong muốn làm việc với các vấn đề tâm lý và cảm xúc bằng cách áp dụng chánh Pháp. Vì thế, chúng ta nhận Đức Phật là người chỉ dẫn và Pháp là con đường, và chúng ta trở thành một phần của Tăng đoàn cao quý.
                Mặc dù tình yêu thương, sự chăm sóc và từ bi giành cho người khác tăng lên, và chúng ta vẫn muốn có ích với người khác hơn nữa, con đường của ta trở nên rõ ràng hơn. Vì thế, chúng ta quy y Tam Bảo một cách đúng đắn hơn. Đây là mục đích của việc nghiên cứu và thực hành của chúng ta; quy y một cách đúng đắn, không phải chỉ là nghi lễ. Chúng ta không quy y chỉ để đi theo người khác, mà để phát triển mối quan hệ cá nhân với các đối tượng quy y. Một cách tương đối, chúng ta quy Phật là người chỉ đường, Pháp là con đường và Tăng là những người đồng hành. Một cách tuyệt đối, chỉ có một sự quy y duy nhất, đó là giác ngộ.

                Trích: Nghiên cứu Phật học 1, Dzigar Kongtrul Rinpoche
                Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.










                (CÙNG DỊCH GỈA)


                [1] Mười hai hành động gồm: an trú trong Tushita, giáng sinh và nhập vào tử cung, chào đời, tinh thông nghệ thuật, tận hưởng phối ngẫu, từ bỏ thế giới, thực hành khổ hạnh, đạt đến điểm quan trọng của giác ngộ, chinh phục Ma vương, giác ngộ hoàn hảo, chuyển bánh xe giáo Pháp và thị hiện Niết Bàn cuối cùng. Xem Truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, quyển II, trang 169, Dudjom Rinpoche.
                [2] Các thế lực ma quỷ trong cõi địa ngục.
                [3] Xem Kho tàng các phẩm tánh quý giá, Phụ lục 5.
                [4] Bốn sự vô úy là (1) Vô úy trong kiến thức của tất thảy mọi vật; (2) Vô úy trong kiến thức của sự ngừng mọi lỗi lầm; (3) Vô úy để tuyên bố dứt khoát rằng các hiện tượng ngăn cản con đường không trở thành thứ gì khác; (4) Vô úy rằng con đường từ bỏ nhờ đó mọi đặc tính hoàn hảo sẽ đạt được, vừa được chứng ngộ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.1/2/2O13.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

                Bài Thứ 10: Ðạo Ðế (Nirodha Gamadukkha)
                (Tiếp Theo)

                E. Bát Chánh Ðạo

                A. Mở Ðề

                Trong 37 món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một.

                Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đeù áp dụng pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.

                B. Chánh Ðề

                I. Ðịnh Nghĩa Bát Chánh Ðạo

                Bát Chánh đạo là tám con đường ngay thangẻ hay tám phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu.

                Người ta cũng có thể dịch nghĩa "Bát Chánh đạo" là con đường chánh có tám ngánh, để đưa chính sinh đến địa vị Thánh.

                Cũng có khi người ta gọi Bát Chánh đạo là "Bát Thánh đạo" vì cái diệu dụng của nó sau đây:

                a) Những kẻ phàm phu học đạo, noi theo pháp môn nầy mà tu, thì khỏi lầm lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi sẽ chứng được quả Hiền Thánh.

                b) Những bậc Hiền, Thánh nương theo tám phương tiện nầy thì sẽ đi đến cảnh Niết Bàn.

                Bát Chánh đạo gồm có:

                1. Chánh kiến
                2. Chánh tư duy
                3. Chánh ngữ
                4. Chánh nghiệp
                5. Chánh mạng
                6. Chánh tinh tấn
                7. Chánh niệm
                8. Chánh định

                II. Nội Dung Và Giá Trị Mỗi Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo

                1. Chánh kiến: Chánh là nagy thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhậ biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay, hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì chuyên tâm vào sự lý chân thật làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.

                2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.

                Người tu theo phép Chánh tư duy, thường xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.

                3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.

                Người tu theo chánh ngữ, không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời nói.

                Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi:

                Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhièu sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu?

                Phật dạy:

                Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.

                Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp lẽ, có lợi ích cho toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta phải tin theo và tập nói cho đúng như thế.

                4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.

                Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích co người lẫn vật.

                Người theo đúng "chánh nghiệp" là người luôn luôn thận trọng , giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghền ghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.

                Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp, khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân, khẩu, ý ba nghiệp cho thanh tịnh.

                5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người, xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác.

                Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường, nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.

                6. Chánh tinh tấn: Chữu tinh tấn ở đây cũng cùng nghĩa như tinh tấn đã nói trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.

                Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ Chánh cần). Người theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).

                Nói tóm lại, người theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuấ thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước tự độ, sau hóa đôĩ chúng sanh.

                7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước). Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.

                Chánh niệm có hai phần:

                a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.

                b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.

                Người theo đúng Chánh niệm, thường quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niêĩm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số kiếp cũng không thối tâm xao lãng.

                8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây cũng đồng nghĩa như chữ định trong các bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người.

                Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:

                Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái (xem lại đoạn: "quán thân bất tịnh" trong bài Tứ niệm xứ).

                Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.

                Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.

                Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp chấp.

                Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.

                C. Kết Luận:

                Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp môn rất được thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba điểm sau đây:

                1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, thì sửa đổi được tất cả mọi sự bất chính, mọi tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm me mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những điều trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.

                2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương lai tươi sáng, gieo trồng cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày say gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

                Vì những lợi ích quý báu như thế, chúng tôi xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo Bát Chánh đạo.

                Tổng Kết Về Ðạo Ðế

                Chúng ta vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay 37 món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà đức Phật muốn dành cho phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ chúng sinh không đều, nên đức Phật cần chế ra nhiều pháp môn, để mỗi người có thể tùy theo căn cơ mính mà lựa pháp môn thích hợp để tu hành. Tất nhiên một người có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn cũng được. Khi tu thành một pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau.

                Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng ta tùân tự tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ, cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế nào cũng phải đến đích.

                Hỡi quí vị Phật tử ! Mười phương các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp môn nầy mà dần dần được viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong ba thừa, đeù nương vào đây để tu hành cho đến ngày đạt đích. Chúng ta, đạn con Phật , những người đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong lúc đức Phật đã vì lòng từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi phương tiện , mọi hành lý để tiến lên đường giải thoát, chúng ta lại do dự, chần chờ hay thối thác !

                Vậy chúng ta hãy mau mau cất bước lên đường giải thoát. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/1/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
                Đôi bàn tay Mẹ

                Đôi bàn tay chai sần những vết nám đen, bên dưới là lớp da với những cụm cứng ngắc. Đôi bàn tay mẹ không còn mịn màng như thời con gái nữa. Vậy mà mẹ không oán trách hay than phiền. Mẹ hay nói “tay mẹ chai để đổi lấy tay con mịn”!
                Mẹ là tất cả, lòng mẹ luôn bao dung như những lời hát thiết tha về mẹ mà những người nhạc sĩ hay viết. Mát dịu và êm đềm. Chỉ vì cuộc sống khó khăn, mẹ không muốn con nối tiếp con đường kham khổ với ruộng vườn nên con xa mẹ từ rất sớm.
                Con ở nhà dì Tư để đi học. Chính ý nghĩ về đôi bàn tay của mẹ đã giúp con cố gắng trên mọi bước đường khó khăn. Con sợ con không xứng đáng với những cơ cực mà mẹ chịu đựng để cho con nên người. Con lớn theo năm tháng, con lại đi xa hơn, những ngày cuối tuần về thăm mẹ thưa dần. Nhưng mỗi lần về, bàn tay mẹ lại nâng niu chăm sóc con như một đứa trẻ nhỏ. Tay mẹ run run cầm chặt túm gạo, bịch cam gọn gàng cho vào balô để con đem về nhà trọ làm quà cùng các bạn. Tay mẹ lại vẫy chào tạm biệt, ngồi trên xe nhưng con thấy rõ vết chai sần trên tay mẹ như nhiều thêm... Con lại cố gắng hơn để không phụ lòng mẹ.
                Con hằng mơ ước mẹ của con có một đôi tay mịn màng như đôi tay của những bà mẹ thành thị với ngón tay áp út sẽ là chiếc nhẫn hột màu xanh ngọc bích. Hoặc sẽ như bàn tay của cô chủ nhà với ngón tay dài, thon, không mịn nhưng cũng không cháy đen như tay mẹ. Những lúc như thế con lại yêu mẹ hơn biết bao nhiêu. Chính con đã cướp đi sự mềm mại ấy của mẹ. Tay con không chai sần, không nám đen bởi vì con không có những ngày phải làm cỏ thuê, những buổi trời mưa đứng khom lưng nhét từng cây lúa vào đất ruộng, những buổi tối gánh từng thùng nước…
                Đôi tay mẹ không đẹp nhưng với con không đôi tay nào sánh bằng. Đôi tay đã đưa con vào đời bằng những tấm gương trong sáng và bình dị. Chính những vết chai sần kia đã làm con cố gắng và cố gắng biết bao lần.
                Ngày của mẹ đã đến, rất nhiều người con sẽ tặng hoa cho mẹ của mình. Nhưng con không tặng mẹ những bông hoa tươi thắm vì mẹ từng bảo “tay mẹ không dành để cầm hoa”. Con sẽ tặng mẹ đoá hoa “thành công” và một chiếc nhẫn màu xanh ngọc bích. Con yêu mẹ thật nhiều.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/1/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
                Vài lời giới thiệu về hoa Sen.

                Sen là loại thực vật thủy sinh sống lâu năm, mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở những vùng nước ao đọng, bẩn đục hay sông, hồ. Các lá to với đường kính tới 20 cm - 60 cm, thường nổi trên mặt nước như những chiếc phao và có đặc điểm là không thấm nước.
                Thân sen khi già có nhiều gai nhỏ và có chiều cao khoảng 0,5 -1,5 m. Hoa mọc trên các thân to và nhô cao trên mặt nước và có nhiều màu sắc khác nhau tùy theo loại, màu trắng như tuyết tới màu vàng hay hồng nhạt. Sen có thể trồng bằng hột hay thân rễ như rau muống.
                Theo Theophrastus trong hệ thực vật của sông Nile, thì Sen có nguồn gốc từ các nước Ai cập, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Á, Iran, Azerbaijan…Việt Nam và miền bắc của nước Úc .
                Trong bảng phân loại khoa học, sen thuộc họ Nelumbonaceae (tiếng latin), Nelumbonaceae là một gia đình bao gồm hai loài thuộc chi Nelumbo.
                Nelumbo là một chi của thực vật thủy sinh với các lá to, thân rễ bò, bông có mùi thơm như giống nước hoa huệ thường được gọi chung là hoa sen. Nelumbo là tên xuất phát từ chữ Sinhalese Nelum. Có hai loài Sen thuộc chi này, đó là Nelumbo nucifera và Nelumbo aureavallis.
                - Nelumbo aureavallis là loài được tìm thấy tại Thung lũng Vàng ở miền Bắc Dakota, Hoa Kỳ và loài này đã bị tuyệt chủng.
                - Nelumbo nucifera là tên khoa học của một loài Sen được biết nhiều nhất ở Ấn Độ, Ai Cập, Việt Nam.
                Sen thuộc bộ Proteales là tên các nhà phân loại học thực vật dung để xếp bộ theo thứ tự của các loài thực vật có hoa.
                Sen thuộc giới Plantae
                Hoa nở vươn khỏi mặt nước, lộ bày đài hoa, nhụy, hạt và một hương thơm tinh khiết, nên được mọi người ưa chuộng. Từ xưa, trong truyền thống của các nước châu Á. Hoa sen được dùng làm biểu tượng thiêng liêng, để đại diện cho những người có nhân cách thanh cao, nghị lực vững vàng, không bị ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu xa. Những người thường bị chịu ảnh hưởng khó khăn của xã hội đưa đến trong hoàn cảnh sống, nhưng họ biết cố gắng vươn lên để sống một cách xứng đáng, trong tinh thần, bền tâm, nhẫn nại, chịu đựng, khắc phục vượt qua.
                Khi những cánh hoa của nó mở ra, cũng là một ý nghĩa nói lên sức sống mở rộng của tâm hồn. Một sự xuất hiện của vẻ đẹp tinh khiết không bị ô nhiễm, từ chổ bùn dơ. Hoa sen cũng được trích dẫn nhiều trong các văn bản Puranas và Vệ Đà. "Người thực hiện bổn phận của mình mà không có sự quyến luyến, dâng các kết quả cho Đấng tối cao, sẽ không bị ảnh hưởng bởi các tác động tội lỗi, giống như lá sen không bị nước dính vào". Bhagavad Gita 5.10.
                Theo thuyết Phật học, sau khi Đức Phật được sinh ra, Ngài bước bảy bước và mỗi bước có hoa sen đỡ chân cho Ngài. Hoa sen là hình ảnh, hài hòa, đặc trưng của một chu trình sống trong 8 cánh hoa, sinh ra từ bóng tối, bùn nhơ mà bừng nở ra những tinh nguyên của sự hoàn thiện cần đạt tới. 8 cánh hoa của Sen cũng là 8 đặc tính tiêu biểu, để hiểu được một phần nào về sự chuyển hóa và thành tựu trong việc học Phật qua những cụm từ sau đây :
                Không ô nhiễm: Sống trong bùn lầy đầy dơ bẩn, nhưng hoa sen vẫn tự lực cánh sinh để vươn mình lên khỏi mặt nước cho hoa, dâng hương thơm tặng đời. Bùn thường được xem là hình ảnh xấu xa, dơ nhuế, ô nhiễm. Còn màu trắng hay vàng hoặc đỏ hường của những cánh hoa sen là sự biểu trưng của những đặc tính thuộc về tinh khiết, sang trọng, khoan dung.
                Những hình ảnh trên là những ý nghĩa, để nói lên sự nhẫn nại, rèn luyện của việc tu Phật, cho dù sống trong bất kỳ môi trường khó khăn nào, cũng nên cố gắng khắc phục vượt qua để đạt được sự thành tựu cho chính mình và cho người, mà điều này có thể thấy và kiểm chứng được qua đời sống của Đức Phật.
                Ngài ra đời và sinh hoạt trong dòng đời, nhưng Ngài không bị nhiễm vào những phiền não của xã hội do con người tạo ra. Ngược lại, Ngài còn tìm cách hướng dẫn con người thoát ra biển khổ bằng sự tỉnh thức của chính Ngài.
                Phật tánh là những đóa hoa sen không bị ô nhiễm sẵn có trong mỗi người, chỉ cần biết phát huy nó một cách nghiêm túc, trong việc tu tập cá nhân ở mỗi ngày, thì nó sẽ tặng cho mình cũng như cho những người sống chung quanh những hương thơm, tinh khiết, hoàn hảo, để mở rộng niềm hạnh phúc thật sự.
                Thanh lọc, lắng cặn, tẩy các chất độc: Đây là một chức năng đặc biệt của Sen, bởi vì, dù sống trong bùn sình hôi hám, nhưng lá và hoa của không dính bùn dơ và chỗ nào Sen mọc, thì nước ở đó nước lắng trong.
                Hình ảnh này là ý nghĩa để nói lên sự giáo dục chân thực, bằng việc trau dồi đức hạnh, những phẩm chất tốt, và cung cách cư xử đúng đắn, trong đời sống thực tế hằng ngày cũng rất là lợi ích.
                Nhịp sống ngày nay, do thói quen ăn uống thừa chất, ít vận động và môi trường bị ô nhiễm, mà gây ra nhiều chứng bệnh hiểm nghèo. Nếu thích bảo vệ tấm thân được khỏe mạnh, thì nên thường xuyên thanh lọc cơ thể, bằng những cách loại bỏ đi những gì có hại cho cơ thể.
                Hiện thân của sự sống sinh ra và lớn lên trong chốn sình lầy, mà hoa sen hé nở và mở rộng những cánh hoa của nó, để thoáng lên một làn hương tinh khiết, như lời ca ngợi về sự sống thanh xuân, qua sự biết hòa nhập, thích nghi môi trường, thanh lọc những chất dơ, bằng thân rễ của chính mình. Đây cũng chính là biểu tượng của sự chuyển hóa và thành tựu cho việc học Phật. Một hạnh phúc an lạc có ngay đây và bây giờ, khi tâm và than lắng đọng, trong sạch thanh tịnh.
                Kiên nhẫn, đợi chờ: Sen là loại thực vật có hoa, hạt kín, phôi của hạt gồm có rễ mầm, thân mầm, lá mầm và chồi mầm. Sau quá trình thụ tinh, noãn sẽ biến thành hạt. Trong tác phẩm “Nguyên lý hình thành và nẩy mầm của hạt giống” do Tiến sĩ sinh học K. E. Ovtsarov biên soạn, xuất bản năm 1976 tại Moskva có nói : Ở gần Tokyo người ta đã tìm thấy chiếc thuyền độc mộc nằm ở trong đất 3.000 năm. Các hạt Sen nằm ở trong (thuyền) đó về sau đã nẩy mầm và mọc thành cây.
                Đây cũng là một ý nghĩa của sự kiên nhẫn, đợi chờ, mặc dù không được phát triễn trong những điều kiện thích nghi, nhưng khả năng sống của hạt sen vẫn còn tồn tại trong phôi của hạt, bằng sự hiểu biết quy luật và khả năng tự bảo vệ, tự phục hồi một cách tự nhiên của chính mình, dựa vào những môi trường chung quanh, để tạo ra những điều kiện cơ bản cho quá trình duy trì sự sống và sinh trưởng.
                Qua hình ảnh trên cho thấy: Kiên nhẫn tích cực làm việc để đạt được kết quả như mong muốn là điều tốt đẹp nên làm. Nhưng sự thật của các kết quả như mong muốn, đòi hỏi phải có thời gian, phải trải qua nhiều quá trình tiến triển theo từng giai đoạn, có những lúc phải hành động, nhưng cũng có những thời điểm cần phải biết chờ đợi. Bởi vì sự thành công hoàn thành một cách đúng nghĩa, chỉ đến khi có những quyết định hợp lý, đúng lúc.
                Từ giấc ngủ dài của các hạt sen trong chiếc thuyền bị chôn vùi trong lòng đất, cho đến khi gặp được các điều kiện thuận lợi, để phục hồi tái sinh cũng là một sự chứng minh của Nhân và Duyên trong đạo Phật. Bởi vì, những thành quả tốt đẹp đạt được, không chỉ phụ thuộc vào bản thân hay công sức của chính mình, mà còn cần đến, việc học cách sống hiểu biết và chấp nhận thực tế trong mối quan hệ với những hoàn cảnh chung quanh.
                Sen nẩy mầm trong trong bùn tối, thanh lọc mọi sự nhơ bẩn để nuôi thân, vượt qua tầng nước sâu, vươn lên trên mặt nước, xoè lá, trổ hoa, là một quá trình kiên nhẫn vươn lên tìm sự sống cao đẹp. Hình ảnh của sen qua qua 3 giai đoạn sinh trưởng này rồi cho hoa. Đây cũng là một ý nghĩa giúp cho người học Phật hay tu Phật, để tự diệt : Tham, Sân, Si mà đạt đến tự tánh thanh tịnh của chính mình trong đời sống bằng sự kiên nhẫn.
                Khi gặp khó khăn mà có tính kiên nhẫn, thay vì nổi nóng, hãy tự nhắc mình nhớ đến hình ảnh của hạt sen nẩy mầm trong trong bùn tối, thanh lọc mọi sự nhơ bẩn để nuôi thân, do đó mình không nên làm theo những hậu quả xấu của các hành động sân si để hại thân.
                Đứng trước bất kỳ các khó khăn nào, hãy nên dùng sự kiên nhẫn và bao dung, mà gánh chịu đau khổ tạm thời, còn hơn là phải hối hận ăn năng suốt đời vì làm những việc thiếu suy nghĩ.
                Hy sinh, chịu đựng những chuyện nhỏ, là một khả năng rèn luyện để vượt qua được những khó khăn lớn hơn trong tương lai.
                Thông thường chúng ta không thể nhận ra sự khác biệt giữa con người và hành vi. Chúng ta quên rằng lòng vị tha thì vĩ đại hơn là sự phục thù.
                Cato the Elder nói, “Kiên nhẫn là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính.”
                Issac Newton nói, “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú ‎ ý kiên nhẫn hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có.” Vậy, kiên nhẫn là gì và làm sao ta có được kiên nhẫn?
                Làm thế nào để khiêm tốn? Khi không còn “cái tôi” thì ta khiêm tốn, ta nhẫn nhục, ta kiên nhẫn…
                Sen nở hoa là do sự hợp tác giữa hạt, thân, rễ của nó và thiên nhiên. Cho nên muốn đạt được tự tánh thanh tịnh cho chính mình, là phải tự tập tánh kiên nhẫn đến mức độ cao nhất qua sự hợp tác của nhẫn nhục và nhẫn nhịn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/1/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

                                                                                                                                                                                                
                Hạnh phúc của người Phật tử

                Hạnh phúc, trong ý nghĩa thông thường, là sự vừa ý và thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống. Riêng đối với người Phật tử, hạnh phúc lớn nhất của họ, có thể nói là được làm người, được nghe, học tập và thực hành Chánh pháp. Trong kinh Tương ưng bộ V, Đức Phật nói rằng, không dễ có được thân người. Ví như con rùa mù rất lâu mới nổi lên mặt nước mà lọt vào bộng cây trôi trên biển mênh mông là chuyện vô cùng hy hữu. Một lần khác, Đức Phật khơi một chút đất dính vào đầu móng tay rồi đưa lên hỏi: Đất ở đầu móng tay nhiều hay đất quả địa cầu nhiều? Các Tỳ-kheo đáp: Bạch Thế Tôn, đất quả địa cầu rất nhiều, đất trong đầu móng tay có là bao. Lúc đó Đức Phật bảo: Cũng thế, chúng sinh khi bỏ thân này rồi mà trở lại được thân người cũng ít như đất trong đầu móng tay, còn sinh vào các cõi a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục… thì nhiều như đất quả địa cầu. Đức Phật từng nói trong các kinh rằng, có những chúng sinh vì tạo ác nghiệp mà phải mang thân súc sinh trải qua nhiều đời hoặc đọa trong địa ngục, ngạ quỷ rất nhiều năm v.v... Ngày nay nhiều nhà ngoại cảm có thể tiếp xúc với những vong linh đã từng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Từ đó cho thấy, một người sau khi chết có thể do nghiệp lực không tái sinh làm người được, phải sống dưới hình thái ngạ quỷ (vong linh, quỷ đói) trong đói lạnh, khổ não, tham muốn và thèm khát. Muốn được sinh ra làm người thật không dễ nếu không có đủ phước báu nhân duyên. Vì thế cổ đức nói: Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Trong sáu nẻo luân hồi (Lục đạo): Thiên đạo, nhân đạo, a-tu-la đạo, súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo thì loài người (thuộc nhân đạo) được xem là chúng sinh có phước báu chỉ kém cõi trời (thiên) mà thôi. Cõi người lại là cõi mà chúng sinh dễ tu hành nhất vì không quá khổ như ở cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và cũng không quá vui sướng như cõi trời thường đắm say hỷ lạc mà không lo tu hành. Thân người quý vì khó có được, quý vì nhờ đó mà tu hành thoát khổ, đạt được an vui. Trong kinh Pháp cú thí dụ, phẩm Ái thân thứ 22, Đức Phật dạy về giá trị của thân người như sau: “Người biết quý thân mình/Cẩn thận luôn gìn giữ/Mong giải trừ các dục/Học đạo chẳng mê tình/Thân người rất tôn quý/Nên là bậc có trí/Thường gắng tự tiến tu/Và siêng hành pháp thí/Tu trước phải sửa mình/Sau mới độ chúng sinh/Điều thân, thâm nhập tuệ/Vượt hơn kẻ phàm tình/Mình còn chưa lợi ích/Làm sao lợi ích người/Tâm thuần, hạnh ngay thẳng/Nguyện thành tựu mười mươi…”.
                Thân người quý báu, khó có được thân người, vì thế cần phải biết quý trọng cơ hội làm người. Phải biết tận dụng cơ hội làm người để tu tập, để sau khi bỏ thân này rồi có thể sinh về các cảnh giới an vui như cảnh giới của chư Phật và Bồ-tát, hoặc cõi trời, hay ít ra cũng được trở lại làm người có phước. Đừng để đến lúc “Một mai ngã bệnh tại giường, các khổ tranh nhau bức ngặt, ngày đêm lo nghĩ, lòng dạ rối bời. Đường trước mịt mờ chưa biết về đâu! Từ đây mới biết ăn năn thì đã muộn. Khát đến đào giếng sao kịp? Hận mình sớm chẳng lo tu hành để dự bị, nên tuổi già mới sinh nhiều lầm lỗi, hối tiếc lắm điều. Lâm chung chợt đến, lo sợ bàng hoàng…”(Quy sơn cảnh sách - Đại Viên thiền sư). Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy rằng: “Được sinh làm người là khó, được sống trọn đời còn khó hơn, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời còn khó hơn”(PC.182). Phải có đủ phước báu nhân duyên mới có được thân người, mới được gặp Phật, Pháp, Tăng, đó là những sự kiện vô cùng hy hữu mà không phải ai cũng có được. Trong Ngũ thừa Phật giáo có giáo lý Nhân thừa giúp chúng sinh tu tập thiện nghiệp để được tái sanh làm người sau khi đời này chấm dứt. Giáo lý Nhân thừa dạy rằng muốn được thân người cần phải tu tập các hạnh lành, thọ trì Tam quy Ngũ giới, siêng làm các điều thiện (cúng dường Tam bảo, bố thí, phóng sinh, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, sống có đạo nghĩa với anh em, bạn bè, làm người tốt có ích cho xã hội…) để tạo công đức phước báu cho hiện tại và đời sau. Một khi mất thân người, khó mong tìm lại được. Nên xem thường giá trị thân mạng con người, không biết quý trọng mình, không biết quý trọng người khác, làm tổn thương mình hoặc tổn thương người khác đều đáng bị chê trách, đáng bị lên án. Ví dụ như có hành vi tự giết mình (tự tử), có hành vi giết người, gây thương tích cho người, trực tiếp hoặc gián tiếp làm tổn hại sức khỏe, tính mạng người khác như mua bán hoặc sử dụng ma túy, các chất kích thích, gây nghiện, các chất độc hại, đua xe, điều khiển các phương tiện lưu thông một cách không an toàn, cẩu thả. Ngày xưa có nhiều vị Tỳ-kheo sau khi thực hành pháp quán thân bất tịnh trong Tứ niệm xứ (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã) đã tự thuê người giết chết mình vì cảm thấy nhàm chán, ghê tởm cái thân. Đức Phật đã khiển trách những vị đó và dạy rằng, sở dĩ Ngài dạy pháp quán thân bất tịnh là để đối trị cái tâm tham dục, cái tâm tham đắm sắc thân, vì sắc thân mà tạo nghiệp (tham ăn uống, ngủ nghỉ, tham hưởng thụ dục lạc, tạo những nghiệp bất thiện để nuôi dưỡng, chiều chuộng cái thân). Ngài dạy các đệ tử không nên cực đoan, đừng vì cái thân mà tạo nghiệp khổ, nhưng cũng không nên xem thường giá trị lợi ích của cái thân, bởi nó là phương tiện để tu hành. Người nào hủy hoại thân mình là phạm luật. Đức Phật thí dụ, như có người bị chìm thuyền đang lặn hụp giữa dòng nước chảy xiết trên sông mà không có gì để bám víu. Trong lúc ấy có một khúc gỗ mục trôi tới, người ấy vô cùng mừng rỡ, quyết bám cho bằng được khúc gỗ mục để bơi vào bờ. Tuy là khúc gỗ mục không có giá trị gì, nhưng lúc nguy cấp thì nó trở nên quý báu. Biết sử dụng nó thì nó trở thành vật có giá trị hữu dụng. Không có thân làm sao tu hành giác ngộ, giải thoát? Không có thân làm sao hoằng dương Chánh pháp làm lợi ích chúng sinh? Dù là người xuất gia tu hành cầu giải thoát, hay người tại gia có ý hướng hoàn thiện mình, cải tạo, xây dựng xã hội, ai cũng cần quý trọng thân người, lấy nó làm phương tiện để rèn luyện tu tập vì mục đích hướng thượng (tự lợi), lấy nó để làm việc lợi ích phục vụ tha nhân, cống hiến cho cộng đồng, xã hội (lợi tha).
                Hạnh phúc lớn nhất của người Phật tử là được nghe, học và thực hành Chánh pháp. Có những người sống rất khổ vì nghèo khó thiếu áo đói cơm, vì làm lụng vất vả, vì bệnh hoạn tật nguyền nhưng họ chưa bao giờ tự hỏi hoặc tìm hỏi ai đó: Vì sao mình lại quá khổ như thế này? Có con đường nào để thoát khổ hay không? Tại sao mình có mặt trên cuộc đời này để chịu khổ, và sau khi chết mình đi về đâu? Mục đích của đời sống là gì? Lại có những người không lâm vào tình cảnh bất hạnh như thế nhưng lại không có nhân duyên gặp được Chánh pháp, họ rơi vào tà kiến ngoại đạo. Có người gặp được Chánh pháp nhưng lại không có niềm tin. Có người có niềm tin nhưng không có hiểu biết chơn chánh. Có người có niềm tin và hiểu biết nhưng không có sự tinh tấn hành trì, không có thầy lành bạn tốt trợ duyên. Có những người sống gần hết một đời nhưng vẫn mê mờ tâm trí, không giác ngộ được bản chất cuộc đời, bản chất kiếp nhân sinh, mấy mươi năm trong kiếp người chỉ lẩn quẩn trong việc tìm kiếm miếng ăn, rồi đến trăm tuổi già xuôi tay nhắm mắt chẳng mang theo được thứ gì, cả đời cũng chẳng làm được việc gì có ý nghĩa, lợi ích cho bản thân và cho cuộc đời, uổng phí một cơ hội làm người, chưa hề nghĩ mục đích đời sống là gì, sau khi chết mình đi về đâu? Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy: “Sống trăm năm mà không thấy pháp vô thường sinh diệt, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà được thấy pháp vô thường sinh diệt (PC.113). Sống trăm năm mà không thấy đạo tịch tịnh vô vi, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy đạo vô vi tịch tịnh (PC.114). Sống trăm năm mà không thấy pháp tối thượng, chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy pháp tối thượng (PC.112)”. Một hạnh phúc khác nữa là có cơ hội và điều kiện làm việc thiện, vun trồng ruộng phước (tài thí, pháp thí, vô úy thí, biết tùy hỷ, biết lợi hành, đồng sự, biết cách tự lợi, lợi tha) nhằm tu tạo công đức phước điền, gieo duyên lành hạnh phúc cho đời này và đời sau. Những hạnh phúc ấy không phải người Phật tử nào cũng có được. Hiểu điều này, người Phật tử cần quý trọng những hạnh phúc mà mình đang có. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/1/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.