KIM ĐÀI giới thiệu
1992-2536
Tâm pháp như nhiên
Vạn cổ huy
huyền
Thủy lưu sơn
đảnh
Hoa vũ mãn
thiên
Kim Đài
PHẦN MỘT
NGƯỜI CHỦ NON QUY
Ngày nọ có Tư Mã Đầu Đà từ Hồ Nam đến yết
kiến Bá Trượng và thưa rằng:
- Đất Quy Sơn là thắng cảnh
nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.
Bá Trượng hỏi:
- Lão tăng đến được
chăng?
- Đất Quy Sơn rất là kỳ tuyệt,
có thể tụ họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải là chỗ ở của Hòa
thượng.
- Sao vậy?
- Hòa thượng hình xương, núi
kia hình thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.
- Trong chúng của ta đây có ai
ở được chăng?
- Đợi xem qua mới
biết.
Bá Trượng sai thị giả gọi đệ nhất tọa, tức
là ngài Hoa Lâm đến, hỏi:
- Người này thế
nào?
Đầu Đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng và
đi vài bước xong, thưa rằng:
- Người này không
được.
Bá Trượng sai thị giả gọi Điển Tọa tức Linh
Hựu đến. Đầu Đà thưa:
- Đây chính là chủ Quy
Sơn.
Tối lại Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn
dò:
- Ta hóa duyên tại đây. Ông
hãy đến thắng cảnh Quy Sơn nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu
học.
Hoa Lâm hay tin này đến thưa:
- Con là thượng thủ, tại sao
Linh Hựu được trụ trì?
Bá Trượng bảo:
- Trong chúng đây, nếu ai nói
được câu xuất cách sẽ cho trụ trì.
Bá Trượng đặt tịnh bình xuống đất hỏi Hoa
Lâm:
- Không được gọi là tịnh bình,
ông gọi là gì?
Hoa Lâm thưa:
- Không thể gọi là khúc
cây.
Bá Trượng quay qua hỏi Linh Hựu, Linh Hựu
bèn đạp nhào tịnh bình mà đi.
Bá Trượng cười nói:
- Đệ nhất tọa thua mất hòn núi
rồi vậy.
Bèn phái Điển Tọa đi làm Tổ khai
sơn.
o0o
Chỉ cần một cú trình cơ là được phái đi làm
Tổ, khỏi cần nhọc sức ngồi mãi chẳng nằm, khỏi cần long đong cầu chơn đoạn vọng.
Giơ chân đá phắt một cái, Phật cũng chẳng quản, Tổ cũng chẳng màng, thế mà lại
ngồi trên Liên Hoa đài tạng.
Bá Trượng đặt câu hỏi “Không được gọi là
tịnh bình, ông gọi là cái gì?”
Nói khác, trước khi có ngữ ngôn, ông gọi là
cái gì?
Thủ tọa Hoa lâm nói “không thể gọi là khúc
cây”. Khúc cây hay tịnh bình là ngôn ngữ thế gian đặt ra. Đức Phật đã từng nói:
“Ta vì tùy thuận thế gian mà gọi như thế”. Gọi là tịnh bình là theo thế gian mà
gọi. Gọi là khúc cây là theo thế gian mà gọi. Hoa Lâm đã rơi vào ngôn ngữ thế
gian, việc bên xuất thế hãy còn mờ mịt nên Bá Trượng chẳng nhận.
Quy Sơn đạp nhào tịnh bình vượt trên ngôn
ngữ, làm nước sông Hoàng Hà chảy ngược, tuy thắng Hoa Lâm nhưng không qua được
con mắt Bá Trượng. Dù sao quy Sơn cũng còn nhọc sức với một cú đá như thế. Ngài
Pháp Diễn ở núi Ngũ Tổ đã nói “chẳng cần ông tiến trước lùi sau, dựng ngón tay,
đưa nắm tay, nhiễu giường thiền, làm người nữ lễ bái, đưa tọa cụ lên, ngàn thứ
kỹ lưỡng. Chỉ cần ông ngay một câu nói cho thích hợp, bèn là chỗ ông
thấy”.
Đối với tông phong Lâm Tế, nếu trình cơ như
thế chỉ mới là chiêu đầu, phải đỡ nổi cả hai chiêu sau mới được ấn khả, nên nói:
“Chiêu thứ nhất nếu tiến được cùng Phật Tổ làm thầy, chiêu thứ hai tiến được
cùng trời người làm thầy, chiêu thứ ba tiến được thì tự cứu chẳng xong”. Bá
Trượng vì còn nương tay, chẳng nỡ ra đòn hay chiêu kế tiếp, bởi vấn đề chỉ để
giải quyết người nào làm chủ Quy Sơn mà thôi.
o0o
Non Quy cao vót không bóng người qua lại,
là chỗ ở của cọp sói. Điển tọa Linh Hựu đến cất một am cỏ, hằng ngày lượm trái
lật trái dẻ làm thức ăn nuôi sống. Đã bảy năm qua, một hôm Sư tự nghĩ: “Đạo cốt
tiếp vật lợi sanh, ở một mình chẳng phải”. Sư bèn đi lần xuống núi thấy cọp sói,
Sư bảo: “Nếu ta có duyên với núi này, các ngươi nên đi tránh chỗ khác. Nếu ta
không có duyên ở đây thì các ngưoi cứ ăn thịt ta đi”. Sư nói xong, các thú dữ
đều bỏ đi. Sư trở về am ở yên như trước.
Không bao lâu dân cư dưới chân núi lần lần
hay biết, họ rủ nhau kéo lên núi cất một ngôi chùa cho Sư. Sau này theo lời tâu
của Liên Soái Lý Cảnh Nhượng, vua ban hiệu chùa là Đồng Khánh, số chúng quy tụ
lên đến một ngàn năm trăm người.
Xưa cũng như nay, tập thể nào cũng có kẻ
tốt người xấu, chúng của ngài Quy Sơn cũng chẳng thoát khỏi thông lệ này. Ngoài
những bậc có căn cơ xuất cách như Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, Hương Nghiêm Trí Nhàn,
cũng còn biết bao người lôi thôi trà trộn vào. Bài văn cảnh sách ra đời như một
liều lương dược làm hồi sinh sức tiến đạo, đã đánh bạt những con vi trùng khoét
thủng mạng mạch buổi sơ tâm, đã xuyên thấm vào từng tế bào và tâm não của những
người hiến trọn đời mình cho việc giải thoát và lợi ích quần sanh.
PHẦN
HAI
HAI MƯƠI LĂM
CÕI
1 - NGHIỆP LỤY THỌ
THÂN:
* Thọ thân: thọ thân có hai:
-Phần đoạn sanh tử: sanh tử của phàm phu,
vì ái chấp che đậy nên tạo
nghiệp ác mà phải chịu cái khổ sống chết từ
phần từ đoạn.
· Biến dịch sanh tử: sanh tử chuyên biến của
bậc thánh đã chứng quả tam thừa.
Ngài Bá Trượng nói: “chỉ cần suốt đời tâm
như gỗ đá, chẳng bị ấm giới các nhập, ngũ dục bát phong làm trôi chìm tức nhân
sinh tử đã được cắt đứt”.
* Nghiệp và lụy:
Vì còn tạo tác nên gọi là
nghiệp.
Vì chịu đủ thứ khổ nên gọi là
lụy.
Phàm phu vì lục căn lục trần sai sử nên
suốt ngày tạo các nghiệp ác nên phải chịu lụy vào ba đường dữ.
Hàng nhị thừa vì che đậy lục căn, xa lánh
lục trần, đắm mình trong không tịch nên vẫn còn tạo nghiệp, còn nghiệp là còn
lụy, lụy vào hầm sâu giải thoát, đoạn hột giống Phật.
Ngài Tăng Triệu nói: “muôn lụy có nhiễu,
gốc tại vọng tưởng, vọng tưởng đã trừ, muôn lụy đều hết”.
* Chúng duyên:
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Như cây chuối
nhơn tiếng sấm mà được tăng trưởng. Như cây a-thúc-ca, người nữ rờ chạm đến thì
cây này trổ bông. Như cây quít được tử thi thời trái thêm nhiều.
“Chim công nghe tiếng sấm nổ mà có
trứng. Như chim thanh tước uống nước mắt của thanh tước trống mà có trứng. Như
chim công mạng thấy chim trống múa bèn có trứng”.
Ấy là chúng duyên vậy. Thân của chúng ta do
duyên hòa hợp của cha mẹ mà sanh ra.
* Tứ đại: đất, nước, lửa, gió.
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Bồ tát suy xét
thân này như cái trấp, đất nước lửa gió như rắn độc; kiến độc, xúc độc, khí độc,
nọc độc. Tất cả chúng sanh gặp bốn rắn độc này thời phải mất mạng. Tứ đại cũng
như vậy, hoặc kiến chấp làm độc, hoặc chạm xúc làm độc, hoặc hà khí làm độc,
hoặc cắn nọc làm độc, do đây nên xa lìa những điều lành.
Bồ tát suy xét bốn rắn độc này có bốn dòng
họ: dòng Sát đế lợi, dòng Bà la môn, dòng Tỳ xá, dòng Thủ đà. Tứ đại cũng có bốn
chủng tánh: tánh cứng, tánh ướt, tánh nóng, tánh động. Vì thế nên Bồ tát xem Tứ
đại đồng chủng tánh với bốn rắn độc.
Bồ tát lại suy xét bốn rắn độc này thường
rình hại người: lúc nào sẽ nhìn ngó, lúc nào sẽ chạm xúc, lúc nào sẽ hà hơi, lúc
nào sẽ cắn. Tứ đại cũng như vậy, thường rình chờ dịp để hại chúng
sinh.
Nếu bị bốn rắn độc hại chết, chẳng đến nỗi
phải đọa trong ba đường ác. Nếu bị tứ đại giết hại tất sanh vào ba đường ác. Bốn
rắn độc này dầu săn sóc nuôi dưỡng nó nhưng nó cũng thường muốn giết người. Cũng
vậy, dầu thường cung cấp nhưng tứ đại cũng luôn kéo dắt người tạo những nghiệp
ác. Bốn rắn độc ấy nếu một con sân giận thời sẽ giết người. Tánh tứ đại nếu một
đại phát lên cũng có thể hại người. Bốn rắn độc ấy dầu ở chung một chỗ, nhưng
tâm tánh của nó đều riêng khác. Tứ đại dầu đồng ở một thân mà tánh của mỗi đại
khác nhau. Bốn rắn độc ấy dù có cung kính nó, cũng khó có thể gần gũi nó, tứ đại
cũng như vậy. Bốn rắn độc ấy nếu lúc hại người, có được phù chú thuốc men của Sa
môn hay Bà la môn thời có thể chữa trị. Tứ đại giết người dầu có Sa môn hay Bà
la môn dung thần chú phép tắc cũng chẳng trị được. Như người trí nghe hơi tanh
của rắn độc liền tránh xa. Chư Phật Bồ tát nghe hơi hôi của tứ đại cũng liền
tránh xa”.
2 – VÔ THƯỜNG TẤN TỐC:
* Vô thường: ở đây chỉ cho sanh già bịnh
chết nó đến bất chợt.
Vì nghiệp lực của chúng sanh khác nhau nên
sự sanh già bịnh chết của chúng sanh cũng khác nhau. Hàng chư thiên và địa ngục
đều có hóa sanh. Ngạ quỷ có hai cách là thai sanh và hóa sanh. Người và súc sanh
có bốn cách là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh. Ví như Tỳ Xá Khư mẹ
của Di Già La đẻ ra ba mươi hai cái trứng, thành ba mươi hai đứa con trai, Di
Già La là người con trai lớn nhất Đây là trường hợp noãn sanh. Lại, ví như trên
đỉnh đầu của Sa La Ba Ly sanh ra một vị Chuyển Luân Thánh Vương, đây là trường
hợp thấp sanh (sanh do ẩm ướt).
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn có quốc vương
tên Thiện Trụ, trên đầu hiện cục bướu, mười tháng sau sanh ra Đảnh Sanh, làm
Chuyển Luân Thánh Vương.
Trong chúng Tỳ kheo ni của Phật có một vị
Tỳ kheo ni tên A La Bà từ trong đất tự hóa sanh. Vào thời kiếp sơ, loài người
đều hóa sanh cả, rồi về sau thường do thai sanh.
* Sát na: Chỉ khoảng thời gian ngắn nhất
như trong chớp mi, nháy mắt.
Theo Đại Trí Độ Luận, trong một sát na, tâm
tư có sáu mươi lần sanh diệt.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Ca Diếp
Bồ tát, Phật nói: “một hơi thở, một nháy mắt, thọ mạng của chúng sanh có bốn
trăm lần sanh diệt.”
Ở đệ nhất nghĩa đế, sát na có nghĩa là vô
sanh, như trong kinh Lăng Già:
Tất cả pháp chẳng sanh
Đó là nghĩa sát na
Mới sanh liền có diệt
Chẳng vì kẻ ngu thuyết
* Ngạn thọ tỉnh đằng: Cây bờ dây giếng, dụ
cho cái gì bấp bênh, không bền chắc.
Kinh Đại Tập ghi: “Xưa có một người vì
tránh hai con voi say, nắm dây chuyền xuống giếng. Dưới có ba con rồng phun lửa
dương móng. Người kia liền đeo theo cái dây treo giữa chừng. Trên có hai con
chuột một đen một trắng cắn dây gần đứt. Bốn bên có bốn con rắn thò đầu le lưỡi
muốn cắn. Người kia ngó lên thì hai con voi đã đứng chực trên miệng giếng rồi.
Đang lo âu không biết làm thế nào thoát khỏi cái chết, bỗng có bầy ong bay qua
nhễu năm giọt mật vào miệng, người kia nuốt lấy mật ấy rồi quên cả sợ sệt nguy
hiểm.
Hai con voi say dụ cho sanh tử, sợi dây ví
cho mạng căn. Vào miệng giếng là dụ vô thường. Hai con chuột ví ngày tháng thoi
đưa. Bốn con rắn dụ tứ đại. Ba con rồng dụ ba độc. Năm giọt mật dụ cho ngũ
dục.
3 – LY GIA THẾ PHÁT
* Bên trong siêng công khắc niệm:
Khắc niệm chẳng phải chận đứng tâm như đắp
đê ngăn nước. Chẳng để vọng niệm thao túng tự do, cũng chẳng khởi tâm dẹp nó. Để
cho vọng niệm thao túng tự do, ấy là phàm phu, khởi tâm dẹp nó là rơi vào hạ
thừa.
Khắc niệm đến mức tuyệt cùng là ở nơi niệm
mà vô niệm, vô niệm mà niệm, tùy cơ cảm ứng như trăng với nước, như nước với
trăng. Nơi nào có nước là ở đó có trăng và tất cả mặt trăng trong nước đều nhiếp
về mặt trăng trên trời:
Nhứt nguyệt phổ hiện nhứt thiết
thủy
Nhứt thiết thủy nguyệt nhứt nguyệt
nhiếp
(Chứng Đạo Ca)
Đạo Ngô bảo chúng:
- Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có
một vật để lâu thành bệnh, người nào vì ta dẹp nó?
Thạch Sương bước ra thưa:
- Tâm vật đều phi, dẹp đó thêm
bệnh.
Đạo Ngô khen:
- Lành thay! Lành thay.
Khởi tâm dẹp các tư niệm là bệnh. Ấp ủ các
tư niệm cũng là bệnh. Chỉ cần tìm tâm thôi, vì tâm chính là nguồn phát sinh ra
các tư niệm này.
* Bề ngoài tỏa đức vô tranh:
Vô tranh tức chẳng sanh tâm tranh đấu,
chẳng có ý hơn thua, chẳng thấy lỗi người. Vì chẳng thấy lỗi người nên bề ngoài
thường tỏa đức vô tranh.
Lục Tổ nói: “Nếu thầy lỗi lầm người, lỗi
mình đến bên tả” (nhược kiến tha nhơn phi, tự phi khước thị tả).
Người tu suốt ngày thường kiểm điểm lỗi
mình, ấy gọi là vô tranh.
Bên trong siêng công khắc niệm là
nhân
Bề ngoài tỏa đức vô tranh là
quả.
Ngài Vĩnh Gia nói: “Lặng lẽ dứt ở trong
thảnh thơi bày bên ngoài” (Điềm đạm tức ư nội, tiêu tán dương ư ngoại) là đồng
với ý trên.
4 – DANH LỢI BÔN TẦM
* Tỳ kheo: có ba nghĩa Khất sĩ, Bố ma và
Phá ác. Có ba trường hợp thành Tỳ kheo:
1) Người chứng Thánh quả vô lậu gọi là pháp
tánh Tỳ kheo.
2) Được Phật đương thời gọi Thiện Lai Tỳ
kheo thì thành Tỳ kheo gọi là Thiện Lai Tỳ kheo.
3) Chư Tăng hòa hợp đúng pháp, bạch tứ yết
ma trao giới Tỳ kheo, đây gọi là Tác Pháp Tỳ kheo.
* Thường trụ: có bốn nghĩa:
1) Thường trụ thường trụ: là những món như
phòng, nhà, hoa quả, ruộng vườn v.v… Những vật đây thuộc về chùa, không cho mang
đi chỗ khác, không được chia ra bán.
2) Thập phương thường trụ: những vật cúng
trong chùa, chúng tăng thường ăn, mười phương Tăng đều được dùng.
3) Hiện tiền hiện tiền: Vật của thí chủ
cúng cho chúng tăng có mặt trong chùa, các thầy đây có quyền chung
hưởng.
4) Thập phương hiện tiền: các vị xuất gia
khi qua đời để lại chút ít vật. Nếu trong chúng Tăng chưa làm phép yết ma thì
vật ấy thuộc Thập phương Tăng. Đã làm phép yết ma rồi thì vật ấy thuộc về các
thầy có mặt trong chùa.
Hai món đầu gọi là của Tăng Kỳ (của
chùa).
Hai món sau gọi là của Hiện tiền
Tăng.
* Chỉ thú: diệu chỉ của Đạo.
Người xưa khi chưa nghe được diệu chỉ của
Đạo là bôn ba đi thưa hỏi người trên, như ngài Tuyết Phong, khi chưa ngộ đạo
phải lận đận ba phen Đầu Tử, chín lần Động Sơn, cuối cùng mới thành đạo ở Nham
Đầu.
Luận Ngữ nói: “Quân tử mưu đạo bất mưu
thực”. Nhà nho đã vì đạo mà quên ăn như thế, Thích tử chúng ta há vì cơm áo mà
xuất gia ư?
GIÁO PHÁP VÔ CHUYÊN:
* Pháp tịch: tên khác của tỳ ni
* Liễu nghĩa thượng thừa:
Giáo liễu
nghĩa: Giáo bất liễu nghĩa:
- Phân biệt về
thanh - Phân biệt về trược
- Phi tâm phi
Phật - Tức tâm tức Phật
- Thích hợp với người thượng
căn - Thích hợp với người hạ căn
- Nghịch tục
- Tùy tục
Giáo liễu nghĩa là trì. Giáo bất liễu nghĩa
là phạm. Phật địa thượng thừa chẳng trì chẳng phạm nên giáo liễu nghĩa và giáo
bất liễu nghĩa đều chẳng dùng.
* Giáo lý chưa từng thao thức
Huyền đạo rất mực khó vào:
Người từng thao thức về giáo lý thường quên
ăn bỏ ngủ, có khi bỏ cả thân mạng. Như Thủ tọa Sơ, vì không đáp được câu hỏi của
Động Sơn, một đêm trằn trọc thao thức bỏ ngủ, sáng hôm sau tịch. Câu chuyện như
sau:
Động Sơn đến Phần đàm yết kiến Thủ tọa Sơ.
Thủ tọa sơ dạy chúng có câu:
Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ
Phật giới đạo giới chẳng nghĩ
nghì
Động Sơn hỏi:
- Phật giới đạo giới chẳng hỏi, người nói
Phật giới đạo giới là ai, xin nói một câu?
Thủ tọa làm thinh không đáp. Động Sơn
giục:
- Sao chẳng nói đi?
- Nói chẳng được.
- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà nói
chẳng được?
Thủ tọa cũng không đáp. Động Sơn
thưa:
- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng
dẫn kinh?
- Kinh nói thế nào?
- Được ý quên lời.
Thủ tọa bảo:
- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành
bệnh.
- Nói Phật giới đạo giới bệnh lớn
nhỏ?
Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch.
Thời nhơn gọi Động Sơn là hỏi chết Thủ tọa.
Trường hợp của Thượng tọa Minh sau đây suýt
chút nữa là bỏ mạng vì đã từng thao thức với đạo:
Thượng tọa Minh ở Hương Giáo hỏi quốc sư
Đức Thiều:
- Ngài Ca Diếp mang y trượng sáu của đức
Thích Ca để tại núi Kê Túc chờ ngài Di Lặc ra đời để đem y trượng sáu này khoác
vào thân ngàn thước của Đức Di Lặc ứng vào vừa vặn. Chỉ như thân đức Thích Ca
cao trượng sáu, thân ngài di lặc cao ngàn thước, như vậy thân phải rút ngắn hay
y phải nối dài?
Đức Thiều bảo:
- Ông lại hiểu lấy.
Thượng tọa Minh phủi áo bỏ đi
ra.
Đức Thiều bảo:
- Kẻ tiểu nhi! Nếu Sơn Tăng đáp lời ông
chẳng phải thì nên có nhân quả, nếu ông đáp phải ta sẽ thấy vậy.
Minh trở về bảy hôm sau thổ huyết.
Khi đó Hòa thượng Phù Quang
khuyên:
- Ông phải mau đi sám hối.
Minh liền đi đến phương trượng buồn khóc
thưa rằng:
- Xin Hòa thượng từ bi nhận cho con sám
hối.
Đức Thiều bảo:
- Như kẻ ngã xuống đât, nhơn đất mà đứng
dậy, ta chẳng từng dạy ông ngã hay đứng.
Minh thưa:
- Nếu cho con sám hối, con sẽ trọn đời hầu
hạ ngài.
Đức Thiều vì Thượng tọa Minh nói
kệ:
Chư Phật đạo bằng nhau
Rõ ràng thấy cao thấp
Thích Ca cùng Di Lặc
Như ấn đóng trên bùn
6 - TỰ CHỦ TOÀN VÔ:
Chưa rành kinh luật là nhân
Thâu nhiếp đều không là quả
Đây là do thối thất tâm ban đầu.
Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, có năm nhơn
duyên làm cho Tỳ kheo thối thất:
Một là thích nhiều việc
Hai là ưa nói chuyện đời
Ba là ham ngủ nghỉ
Bốn là gần gũi người tại gia
Năm là ưa dạo đây đó.
* Uy nghi:
Cái dáng tôn nghiêm làm cho người thấy phải
sợ gọi là uy. Nghi: dáng dấp.
Uy nghi là cái dáng dấp nghiêm trang làm
cho người ta thấy phải sợ, làm cho sanh lòng tôn kính mà bắt chước
theo.
Đại Trí Độ Luận ghi: “Sau khi Phật nhập
diệt một trăm năm, có vị Tỳ kheo Ưu Ba Cúc Đa được thần thông A La Hán. Khi Phật
còn tại thế, có vị Tỳ kheo ni được gặp Phật năm hai mươi tuổi. Lúc Ưu Ba Cúc Đa
đắc A La Hán, bà đã được một trăm hai mươi tuổi. Ngài Ưu Ba Cúc Đa muốn gặp vị
Tỳ kheo ni để hỏi về oai nghi của Phật, bèn sai người đệ tử đến báo trước với
bà.
Bà dùng bát đựng đầy dầu mè đặt ngay cửa để
xem oai nghi của vị A La Hán này ra sao. Ngài Ưu Ba Cúc Đa bước qua cửa, làm đổ
một ít dầu mè mà không để ý. Khi đã ngồi yên, ngài liền hỏi về dung nghi của
Phật ra sao.
Bà đáp rằng: Khi ấy tôi còn nhỏ tuổi, thấy
Phật vào tụ lạc, dân chúng đều đảnh lễ. Tôi thấy Phật quang minh, cũng cúi đầu
đảnh lễ. Ngay khi vừa cúi xuống thì chiếc xuyến vàng của tôi rơi lăn vào dưới
sàn chỗ Phật ngồi. Phật dùng quang minh chiếu sáng chỗ tối ấy, tôi thấy và lượm
lên. Do vậy tôi theo Phật thọ giới Tỳ kheo ni.
Ưu Ba Cúc Đa lại hỏi: Khi Phật còn ở đời,
oai nghi lễ phép các Tỳ kheo ra sao?
Bà đáp: Phật cũng có lục quần Tỳ kheo vô
liêm sỉ, rất là tệ ác, nhưng oai nghi phép tắc của họ hơn ngài nhiều.
- Làm sao bà biết được?
- Tuy tệ ác như vậy nhưng lục quần Tỳ kheo
trong các oai nghi đi đứng ngồi nằm không bao giờ mất phép tắc, cho nên họ đến
đây, tôi có để dầu ngoài cửa mà dầu chẳng đổ xuống đất. Ngài tuy được sáu thần
thông A La Hán mà không bằng họ.
Ngài Ưu Ba Cúc Đa nghe lời ấy rồi rất xấu
hổ. Từ đó về sau nhất tâm cẩn thận. Nhất tâm cẩn thận là tướng của thiện nhơn
vậy.
7 – XÚC SỰ BẤT THÔNG:
* Xúc sự diện tường: chạm việc đụng vách có
nghĩa gặp việc thì trở ngại, mù mịt chẳng giải quyết được như đối diện với tường
vách.
Như Hương Nghiêm Trí Nhàn miệng lưỡi lanh
lợi, khi còn ở với Tổ Bá Trượng hỏi một đáp mười. Đến khi bị Quy Sơn hỏi: trước
khi cha mẹ sanh, bổn lai diện mục của ông là gì? Lúc bấy giờ Hương Nghiêm mù mịt
như đối điện với tường vách.
8 – LÂM CHUNG KHỔ CẢNH:
* Lâm hành huy hoắc: khi đi quay quắt. Giờ
phút lâm chung như con cua bỏ vào nước sôi, công phu tu hành muôn phần, lúc này
chỉ còn một hai phần.
* Hộc xuyên tước phi: lụa thủng chim bay.
Đại Luận nói: “Con chim chun trong các cái
bình, lấy lụa bịt miệng bình lại, lụa rách chim bay đi. Cũng như cái thân ta lúc
tan rã, thần thức đi theo nghiệp. Cái bình dụ thân tứ đại, lụa dụ mạng căn, chim
dụ thần thức. Thần thức tức tâm thức vậy. Do tâm thức nương nơi nghiệp lành
nghiệp ác đời trước mà đến chịu quả báo, như chim nọ chun trong cái bình. Bị
nghiệp nó buộc như lụa bịt miệng bình. Quả báo nếu hết rồi, thân phải đi theo
nghiệp như lụa thủng chim bay đi. Bởi thức tâm nó buộc bằng dây nghiệp ở trong
bình sắc thân mà không chỗ nào chẳng đến. Dây nghiệp chưa dứt, đi rồi phải trở
lại. Bình bể dây dứt thì đi không trở lại.
9 - CẢNH SÁCH TƯƠNG THÂN:
* Giam ngôn: phong gói lời nói
* Quý: cuối. Tháng cuối mùa gọi là
quý.
- Chánh pháp: Chữ chánh cũng như chữ chứng
vậy. Nghĩa là sau khi Như Lai diệt độ, trong một ngàn năm đầu, có người vâng thọ
giáo pháp bèn hay tu hành liền được chứng quả.
- Tương pháp: chữ tượng cũng như chữ tợ,
nghĩa là cả đời tượng pháp đây cũng có giáo pháp, cũng có người tu hành, giống
như đời chánh pháp vậy. Nhưng sau khi Như Lai diệt độ hai ngàn năm, có người
vâng lãnh giáo pháp, cũng hay tu hành mà phần nhiều ít ai chứng quả.
- Mạt pháp: Chữ mạt nghĩa là ngọn ngành;
nghĩa là sau khi Như Lai diệt độ rồi, sau đời chánh pháp tượng pháp mười ngàn
năm giáo pháp để lại trong đời, cũng có người vâng lãnh nhưng chẳng có thể tu
hành chứng quả.
Tổ Quy Sơn ra đời (771-853) sau khi Như Lai
diệt độ non hai ngàn năm, là cuối thời tượng pháp nên gọi là tượng cuối.
10 - XUẤT GIA CÔNG HẠNH
* Xuất
gia:
- Cắt ái từ
thân, phát đại thệ nguyện thay chúng sanh chịu hết các khổ.
- Nương gần
thiện tri thức, nuôi lớn chánh kiến.
- Lìa hai đầu: phiền não cũng bất khả đắc,
Niết Bàn cũng bất khả đắc, cái bất khả đắc đó cũng bất khả đắc, đi vào tam giới
như dạo hoa viên, ấy gọi là xuất gia.
Có người nói: “Xuất gia vô gia, xứ xứ gia”,
xuất gia là kẻ không nhà, bởi đâu cũng là nhà.
* Phát túc siêu phương: Bước đi bặt dấu, đi
vào khắp mười phương thế giới mà chẳng dính mắc phương nào nên gọi là siêu
phương, cũng gọi là bặt dấu, bởi chẳng để lại dấu vết, chư Thiên tìm chẳng được,
Ba Tuần dò chẳng ra.
Theo Động Sơn, có ba con đường gọi là phát
túc siêu phương: huyền lộ, đường chim, xòe tay.
Có vị tăng hỏi:
- Bình thường thầy dạy học nhơn đi đường
chim, chưa biết thế nào là đường chim?
Động Sơn đáp:
- Chẳng gặp một người.
- Thế nào là đi?
- Cần phải hạ chân vô sự.
- Đi đường chim có phải là bổn lai diện mục
không?
- Xà Lê sao điên đảo.
- Chỗ nào là chỗ con điên đảo?
- Không điên đảo sao nhận giặc làm
con?
- Thế nào là bổn lai diện mục?
- Chẳng đi đường chim.
Cần phải tới điền địa này mới gọi là phát
túc siêu phương.
Như Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng cất am cỏ nơi
Tam Phong, cả tuần nhựt không xuống đường. Động Sơn thấy lạ hỏi:
- Mấy ngày nay sao ông không đến thọ
trai?
Đạo Ưng thưa:
- Có thiên thần cúng dường mỗi
ngày.
- Ông vẫn còn kiến giải. Rồi gọi: Ưng am
chủ!
- Dạ!
- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái
gì?
Sư về am lặng lẽ, thiên thần tìm mãi chẳng
thấy, trải ba ngày như thế mới thôi cúng dường.
Khi thiên thần tìm mãi chẳng thấy Đạo Ưng,
lúc ấy mới gọi là phát túc siêu phương.
Cửu Phong là thị giả của Thạch Sương. Khi
Thạch Sương mất, chúng Tăng trong tự viện họp và quyết định chọn vị Thủ tọa làm
trụ trì mới. Nhưng Cửu Phong đã đứng lên nói với cử tọa:
- Trước hết chúng ta phải biết rằng Thủ tọa
có thực sự hiểu giáo lý của Thầy không đã.
Thủ tọa hỏi:
- Ông định hỏi gì về giáo lý của
Thầy?
- Thầy chúng ta thường dạy về bảy “đi
thẳng”.
1. Đi thẳng, thôi nghỉ
2. Đi thẳng, buông hết
3. Đi thẳng, thu lạnh nước trong
4. Đi thẳng, muôn năm một niệm
5. Đi thẳng, lò hương miếu cổ
7. Đi thẳng, hương xông gió lặng
Nếu Thủ tọa hiểu nghĩa thật của đi thẳng
thì xin ban pháp ngữ, nếu không thì thôi.
Thủ tọa đáp: Một sắc màu, khác cách
dùng.
Cửu Phong la lên:
- Đó! Tôi biết ông chẳng hề hiểu giáo lý
của Thầy.
- Nếu ông không chấp nhận kiến giải của tôi
thì xin đốt một nén hương lên. Nếu tôi không thể chết trước khi hương cháy hết
thì tôi xin chịu là không hiểu ý Thầy.
Rồi thì hương được đốt và Thủ tọa bắt đầu
ngồi thẳng như một cây gậy. Và kìa, trước khi nén hương cháy hết, vị Thủ tọa đã
ngồi mà hóa.
Cửu Phong vỗ vai tử thi, nói:
- Ông muốn ngồi mà tịch hay đứng mà hóa
cũng được, còn về ý nghĩa những lời của Thầy, ông vẫn chưa hiểu.
Phải thấy như Cửu Phong kia mới gọi là phát
túc siêu phương, Thủ tọa vì còn kẹt nơi danh tướng, trụ ở Nhất tướng nên đối đáp
như thế.
11 - NGUYỆN LỰC HÀM TÀNG:
* Ý dục đẳng siêu hà sở: Ý muốn vượt lên ba
cõi mà chẳng dính mắc nơi ba cõi.
* Tâm kỳ Phật pháp đống lương: Tâm nguyền
trụ cột Phật thừa, kỳ hẹn làm cái gì to lớn cho Phật pháp.
- Thiền sư Nhơn Dũng ở Bảo Ninh đến tham
vấn Thiền Sư Minh Giác ở Tuyết Đậu. Minh Giác thầm biết Sư sẽ gánh vác đại pháp,
bèn nói cợt Sư là “tọa chủ Anh Tường”. Sư nổi giận xuống núi, trông về Tuyết Đậu
làm lễ và thề rằng: “Tôi đời này đi hành cước tham thiền nếu đạo lý chẳng bằng
Tuyết Đậu, thề chẳng trở về quê.
Sau này Sư nối pháp Tổ Dương Kỳ.
- Ngài Hiếp Tôn giả tám mươi tuổi mới xuất
gia. Những vị Tăng trẻ hỏi ngài: “Việc của người xuất gia, một là tu tập thiền
định, hai là học tụng kinh điển, mà ông nay đã già yếu, làm sao tu tiến
được?
Tôn giả nghe rồi liền phát thệ: “Tôi nếu
không thông ba tạng kinh, không đoạn được ái dục trong ba cõi, không chứng được
sáu pháp thần thông và đầy đủ tám món giải thoát, thệ không để hông bén chiếu.
Nhờ nguyện lực trên, ngài đắc pháp làm tổ thứ mười.
12 – NGÔN HẠNH TƯƠNG ƯNG:
* Mở lời phải hiệp với tủy kinh:
Lời nói phải đến chỗ rốt ráo tuyệt cùng,
dứt mạng căn người học, chẳng rơi bờ mé, chẳng còn vết tích, như chim bay trong
không chẳng để dấu, mở bày thật tướng cho người nghe, khiến họ được vào tri kiến
của Như Lai.
Như hỏi: “Thế nào là Bồ tát vào pháp môn
bất nhị?”, ba mươi mốt vị Bồ tát nơi hội Tịnh Danh đều trả lời theo chỗ thấy của
các ngài nhưng chưa vào được chỗ cốt tủy. Chỉ có ngài Duy Ma Cật mặc nhiên vô
ngôn, cái im lặng phá thủng nhị biên, mở đường sống cho người.
Bồ Đề Đạt Ma trước giờ lên đường, ngài bèn
bảo các đệ tử trình chỗ sở đắc của mình. Bấy giờ ông Đạo Phó bạch:
- Theo chỗ thấy của tôi, chẳng chấp văn tự,
chẳng lìa văn tự, đó là chỗ dụng của Đạo.
Tổ nói: “Ông được phần da của
tôi”.
Bà Ni Tổng trì bạch:
- Chỗ hiểu của tôi nay như Khánh Hỷ (A Nan)
nhìn vào nước Phật A Súc thấy một lần mà không thấy lại được.
Tổ nói: “Bà được phần thịt của tôi”.
Ông Đạo Dục bạch:
- Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng thật, chỗ
thấy của tôi là không có gì sở đắc hết.
Tổ nói: “Ông được phần xương của
tôi”.
Sau cùng đến Huệ Khả, Khả đảnh lễ Tổ rồi cứ
thế mà đứng thẳng.
Tổ nói: “Ông được phần tủy của
tôi”.
* Luận nói phải nhằm tông cổ đức. Nếu nói
không nhằm vào tông của cổ đức, cứ ức tưởng mà nói thì đồng với tà ma ngoại đạo.
Muốn nhằm tông, trước phải tâm thông, tâm đã thông rồi thì thuyết mới
thông.
Có vị Tăng hỏi Giáp Sơn:
- Thế nào là pháp thân?
Giáp Sơn đáp:
- Pháp thân vô tướng.
- Thế nào là pháp nhãn?
- Pháp nhãn vô tỳ.
Đây là do ức tưởng mà nói.
Đến khi đại ngộ nơi Hoa Đình Thuyền Tử,
Giáp Sơn trở về vẫn trả lời như trước. Đây là do kiến địa mà nói. Vì kiến địa mà
nói nên nhằm vào tông môn.
Nhưng như thế nào là tâm thông thuyết
thông? Lục Tổ nói: “Thuyết thông và tâm thông, như mặt trời giữa không”. Thuyết
và tâm cả hai đều quên, rỗng suốt không chỗ nương tựa như mặt trời giữa không,
hiển bày trung đạo đệ nhất nghĩa.
Vì mở lời thường hiệp với tủy kinh nên
chẳng chống trái với ý Phật. Luận nói lại nhằm tông cổ đức nên chẳng rơi bờ mé
của tình thức, chẳng kẹt ngữ ngôn. Quốc sư Trung Phong nói:
Toàn thể không còn chỗ che dấu
Đương cơ chẳng từng kẹt ngữ ngôn
13 - TRẠCH BẠN TƯƠNG GIAO
* Đi xa nương náu bạn hiền
Trú ở phải nên chọn bạn
Các câu này đều nói lên vai trò quan trọng
của bạn bè, khi giao du phải rất nên thận trọng. Tục ngữ Việt Nam có câu “Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng” cũng đều nói lên ý này.
Kinh Đại Niết Bàn nói: “Đại Bồ tát xem voi
ác cùng bạn ác đồng nhau không khác, vì cùng làm hại thân. Đối với voi ác, Bồ
tát chẳng sợ bằng bạn ác, vì voi ác chỉ hại thân mà chẳng hại được tâm. Bạn ác
thì hại cả hai thức thân và tâm. Voi ác chỉ làm hại một thân, bạn ác có thể làm
hại vô lượng thân lành, vô lượng tâm lành. Voi ác chỉ có thể hại thân hôi nhơ,
bạn ác có thể phá hoại tịnh thân cùng tịnh tâm. Voi ác chỉ có thể làm hại nhục
thân, bạn ác làm hại đến pháp thân. Bị voi ác giết chẳng sa vào ba đường ác, bị
bạn ác giết tất sa vào ba đường ác. Voi ác chỉ là kẻ oán thù của thân, bạn ác là
kẻ thù của pháp lành. Do đây nên Bồ tát thường phải xa lìa bạn ác”.
Thiền Lâm Bảo Huấn nói: “Người tu học, ở
phải chọn nơi, chơi phải lựa người, mới có thể dứt được những điều tà vạy, gần
được người trung chính và nghe được lời nói chân chánh. Xưa kia, Phúc Nghiêm
Lương Nhã Hòa thượng thường mến chuộng thể cách ngài Chân Như Triết, song chưa
biết ngài thường y phụ cùng ai. Một hôm Hòa thượng thấy ngài Chân Như Triết cùng
đi với các ngài Đại Ninh Khoan, Tưởng Sơn Nguyên và Thúy Nham Chân. Hòa thượng
Lương Nhã vui mừng khôn xiết và thung dung nói với ngài Chân Như Triết: “Các đại
sĩ là bậc long tượng trong pháp môn mà tôi may mắn được theo. Ngày sau, chống đỡ
sự đổ nát của Đạo ta, làm rạng rỡ sự lợi ích trong giáo pháp của các Tổ, hẳn
không phải là ở chỗ phó chúc nhiều lần của tôi mà là ở chỗ gương sáng giao bạn
của các ngài vậy”.
* Mỗi mỗi trong veo tai mắt:
Sắc chẳng tự nói rằng sắc, thinh chẳng tự
bảo rằng thinh, chỉ vì ai kia đã dính mắc vào đó. Nên Tilopa đã nói với đồ đệ
của mình là Naropa bên bờ sông Hằng một câu nói lừng danh như sau: “Không phải
các tướng đã trói buộc con trong luân hổi mà chính là sự chấp trước đã trói buộc
con. Ôi! Chính sự chấp trước đã làm con là Naropa!”
Nếu chẳng chấp trước, các pháp mỗi mỗi hiển
bày, mỗi mỗi trong veo tai mắt. Các pháp xưa nay vốn như thế, chẳng can hệ gì
đến ta:
Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.
14 - DỤC ĐỨC THAO TÂM:
- Thiền sư Vô Nghiệp nói: “Những vị cổ đức
xưa, sau khi hội được yếu chỉ bèn cất am tranh hoặc ở thất đá, nấu cơm bằng lò
bễ, trải hơn hai ba mươi năm, danh lợi không bận lòng, tiền của chẳng phiền
nghĩ, quên hẳn người đời, ở ẩn chốn núi rừng, vua chúa vời chẳng đến, chư hầu
thỉnh chẳng đi. Đâu như chúng ta ngày nay, tham danh mến lợi, chìm đắm trong bụi
đời như bọn con buôn”.
- Hòa thượng Lại Toản ở trong thất đá nơi
Hoành Sơn. Vua Đường Túc Tông nghe danh sai sứ đến triệu thỉnh. Sứ giả đến thất
nói to: Thiên tử có chiếu, Tôn giả nên đứng dậy lễ tạ ơn.
Sư bới trong đống tro mò được một củ khoai
nướng lột ăn, nước mũi chảy lòng thòng mà không đáp lời sứ. Sứ giả cười nói: Xin
Tôn giả chùi mũi đi. Sư nói: Tôi đâu rảnh vì người tục chùi nước mũi. Sư không
đi. Sứ giả trở về tâu vua, vua càng kính phục và tán thán.
- Tosui là một thiền sư người Nhật, đã từng
ở nhiều ngôi đền và giảng dạy nhiều nơi khác nhau. Ngôi đền và Tosui ở sau cùng
quy tụ rất nhiều đệ tử. Tosui bảo với các môn đồ rằng ông sắp bỏ hẳn việc giảng
dạy. Tosui khuyên họ giải tán và đi đâu tùy thích. Sau đó không ai thấy bóng
dáng của Tosui đâu cả.
Ba năm sau, một đệ tử khám pháp thấy Tosui
chung sống với một số người ăn mày dưới một gầm cầm ở Kyoto. Lập tức anh ta khẩn
cầu Tosui chỉ dạy.
Tosui bảo: Nếu anh có thể sống được như ta
một đôi ngày thì ta dạy cho.
Thế rồi người đệ tử mặc quần áo ăn mày sống
với Tosui được một ngày. Hôm sau, một tên ăn mày ngã ra chết, Tosui và người đệ
tử nửa đem mang xác chết chôn nơi một sườn núi. Chôn xong hai thầy trò trở lại
gầm cầu.
Phần đêm còn lại, Tosui ngủ rất ngon giấc
nhưng người đệ tử không thể chợp mắt được. Sáng hôm sau, Tosui nói: Hôm nay
chúng ta khỏi phải đi xin đồ ăn, người bạn đã chết để lại một ít kìa!
Nhưng người đệ tử không ăn được một miếng
nào. Tosui bảo: Ta đã bảo anh không thể sống như ta được. Hãy cút đi, đừng làm
phiền ta nữa.
15 - THIỀN TÔNG YẾU CHỈ:
Yếu chỉ Thiền tông được gói trọn trong các
câu: “Chẳng cần để tâm theo vật, tâm đã chẳng theo vật, vật chẳng ngại
tâm”.
Sở dĩ chúng ta bị nghiệp lực thắt buộc là
vì để tâm theo vật, để cho căn chạm cảnh. Nếu căn chẳng đến cảnh thì làm người
giải thoát. Một khi tâm đã chẳng theo vật thì mười phương thế giới chẳng ngăn
ngại tâm, nên Bàng Uẩn nói:
Nếu tự vô tâm nơi vạn vật
Ngại gì vạn vật thường vây nhiễu
Trâu sắt không sợ sư tử rống
Giống như người gỗ xem chim vẽ
Người gỗ bổn thể tự vô tình
Chim vẽ gặp người cũng chẳng
kinh
Tâm cảnh như như chỉ như thế
Lo gì bồ đề đạo không thành?
Đạt đến vô tâm quả là chuyện không phải đơn
giản một đôi ngày có thể làm được. Như phẩm Phạm Hạnh nói “Ví như hột đậu đá,
lúc đã khô lấy dùi ghim trọn không dính được. Phiền não đã cứng rắn cũng như
vậy, dầu một ngày đêm nhiếp tâm chẳng tán nhưng khó điều phục được”. Vì thế nên
phải rất cẩn trọng.
Tông này khó nắm chỗ diệu
Phải trong tơ tóc dụng tâm
Nếu còn vướng chút nhỏ như sợi tơ trong tâm
thì chẳng phải đạp đến đất chân thật. Ngài Vô Nghiệp nói: “Bồ Tát học Bát Nhã
không được khinh mạn, như đi trên băng, như chạy trên kiếm bén. Khi lâm chung,
một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch, chút bụi tư niệm chưa quên, liền tùy
niệm thọ sanh.
Hành giả tham thiền đều phải qua ba giai
đoạn sau:
Giai đoạn 1: Tâm ghé bến mầu
Soi xét tinh
mật
Giai đoạn 2: Vạch cùng chỗ tột
Giai đoạn 3: Tỏ suốt nguồn
chơn
Tâm ghé bến mầu tức đã được chỗ
vào.
Ngài Trần Tôn Túc nói: “Chưa được chỗ vào
như đưa ma me. Đã được chỗ vào như đưa ma me”. Như thế, được chỗ vào chưa phải
là xong việc mà phải soi xét tinh mật, vạch cùng chỗ tột.
Ngài Hối Đường Tố Tâm, sau khi được chỗ vào
ở ngài Huệ Nam, Hối Đường vẫn thường đến thưa hỏi về ngữ
cú của Vân Môn. Huệ Nam bảo:
- Biết là việc bên liền thôi, ông dùng
nhiều công phu làm gì?
Hối Đường thưa:
- Chẳng thế, con còn có chút nghi, chẳng
đến vô học, đâu hay bảy dọc tám ngang xoay trời chuyển đất?
Huệ Nam hứa nhận.
Nếu chưa đến chỗ cùng tột thì chưa triệt
ngộ. Chỗ ngộ có sâu có cạn tùy ở sự kham nhận của mỗi hành giả. Có vị đã ngộ đạo
ra làm thầy, khai thị cho đệ tử cũng được ngộ đạo, nhưng đệ tử lại ngộ sâu hơn
thầy. Đó là trường hợp của thiền sư Pháp Thới Phật tánh, thủ tọa của thiền sư
Viên Ngộ ở Tương Sơn.
Một hôm có một vị sư tên là Trung An ở Linh
Nham đến thưa hỏi Phật Tánh, liền nhận được yếu chỉ. Có lần Trung An đến tăng
đường dâng thơ thăm hỏi thủ tọa Phật Tánh. Thủ tọa hỏi:
- Giấy trắng huyền sa đây từ đâu lại?
Trung An thưa:
- Yếu này lặng lâu chẳng cần nói gấp. Ngày
nay bái trình mong một phen xem.
Thủ tọa liền hét:
Trung An thưa: Tác gia!
Thủ Tọa lại hét.
Trung An lấy thơ liền đánh.
Thủ Tọa suy nghĩ.
Trung An thưa:
Chưa rõ ba tám chín
Chẳng khỏi tự trầm ngâm
Trung An lấy thơ lại đánh một cái,
nói
- Khi tiếp, Viên Ngộ cùng Phật Nhãn
thấy.
Viên Ngộ bảo:
Đánh thủ tọa ta chết rồi!
Phật Nhãn bảo:
- Quan coi ngựa, kẻ chặt củi, có bằng cớ
gì?
Trung An thưa:
- Nói gì là quan coi ngựa kẻ chặt củi,
chính là long tượng dày xéo.
Viên Ngộ gọi Trung An đến nói:
- Ông vì sao đánh thủ tọa năm trăm chúng
của ta?
Trung An thưa:
Hòa thượng cũng phải ăn một thoi mới
được.
Viên Ngộ nhìn Phật Nhãn le lưỡi.
Phật Nhãn nói: Chưa phải.
Rồi nhìn Trung An nói: “Tay không cầm cây
cuốc, thả bộ ngồi lưng trâu, người qua lại trên cầu, cầu trôi nước chẳng trôi” ý
thế nào?
Trung An cúi mình thưa:
- Chỗ cúng đều là đến thật.
Phật Nhãn cười nói:
- Xưa nay là người trong thất.
Đến như Trung An kia mới gọi là tỏ suốt
nguồn chơn. Việc này phải có thầy ấn chứng mới được. Đời nay có người tự cho
mình đã ngộ rồi đi ấn chứng cho người này người kia, đây là trái lắm
vậy.
Lục Tổ ngộ đạo khi còn là cư sĩ, còn phải
đến Tổ Hoằng Nhẫn để cầu ấn chứng. Vĩnh Gia Huyền Giác ngộ đạo nhơn xem kinh Duy
Ma, còn phải đến Lục Tổ cầu ấn chứng Tông môn phải có sự truyền thừa, tức là sự
ấn chứng của Thầy. Đời nay, kiếm một vị để ấn chứng cho chỗ thấy của mình thật
khó gặp, đây chính là mạt pháp vậy.
Ba giai đoạn trên đây cũng tương tự như ba
cửa ải của Tổ Hoàng Long. Người tham thiền phải đi suốt qua ba cửa ải này. “Gặp
Phật giết Phật, gặp tổ giết Tổ, gặp La Hán hoặc họ hàng đều giết sạch” mới được
làm người tự tại thoát khỏi lưới ma.
Tùng Duyệt Đâu Suất đến lễ thiền sư Thanh
Tố, Tố đứng tránh nói:
- Tôi do phước mỏng, tiên sư thọ ký chẳng
cho vì người. Duyệt càng thêm cung kính. Tố bảo:
- Vì thương lòng thành của ông, trái lời ký
của tiên sư. Ông bình sanh sở đắc như thế nào?
Duyệt thưa đủ sở kiến. Tố bảo:
- Khả dĩ vào Phật mà không thể vào
ma.
Duyệt thưa:
- Vì sao?
- Há chẳng thấy cổ nhân nói: “Một câu rốt
sau mới đến lao quan”. Trải mấy tháng sau, Tố mới ấn khả cho. Khi Tố chưa ấn
khả, Duyệt chỉ ở vào các giai đoạn 1, 2 ở trên mà thôi.
* Pháp tánh: tức là cảnh vật. Tâm không
khởi vọng, mỗi pháp toàn chơn, ở loài hữu tình gọi là Phật tánh, ở loài vô tình
gọi là pháp tánh.
* Mạc đoạn mạc tục: chẳng xua đuổi nó cũng
chằng dính mắc theo nó nên gọi là chẳng xua chẳng mắc. Bởi vì sao? Bởi vì pháp
tánh vốn không, khởi tâm trừ khử xua đuổi nó là quấy, là rơi vào hang ổ ngoại
đạo, mà dính mắc theo nó tiếp tục mãi như thế là đồng với phàm phu, luân chuyển
tam đồ, nên nói mạc đoạn mạc tục.
* Giá biên na biên: bên này bên kia hay nói
đây đó mọi bên. Người tham thiền đến trình độ nghe thinh thấy sắc thảy đều bình
thường rồi thì mỗi mỗi đều từ nơi hông ngựa lưu xuất, đến điền địa này toàn lý
là sự, toàn sự là lý. Vì toàn lý là sự nên chẳng nói sự nói lý. Vì toàn sự là lý
nên chẳng nói lý nói sự. Như trái bầu nổi trên mặt nước tự do xoay chuyển bên
này bên kia đều được tự tại nên gọi là giá biên na biên ứng dụng bất
khuyết.
16 - GIẢI THOÁT TẤT THÀNH:
Tổ Quy Sơn nói: “Đời đời nếu không lui sụt”
cũng như trong kinh nói “Chế tâm nhứt xứ”. Quả Phật quyết định có kỳ thì trong
kinh nói “Vô sự bất biện”.
Vì vô tâm cho nên không lui sụt.
Vì không lui sụt chỉ có ở vô
tâm.
Vì vô tâm nên hồn nhiên trôi vào biển Bát
Nhã, gọi là quả Phật quyết định có kỳ.
Phần nhiều chúng ta buông mà buông không
được hết, không nghĩ thiện thì nghĩ ác, chẳng được vô tâm nên giải thoát khó
thành. Nếu buông được hết, chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, dứt hẳn vọng duyên,
độc thoát căn trần thì liền như Phật không khác:
Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô đoan
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo.
* Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới
(xem đồ biểu).
* Nhị thập ngũ hữu:
Dục giới: 3
Sắc giới: 18
Vô sắc giới: 4
Tổng cộng 25 cõi
8 cung trời (từ tứ thiên vương đến phi
tưởng phi phi tưởng (xem đồ biểu).
19 - HUYỀN MÔN VÔ LỘ:
Ngài Viên Ngộ nói: “Người học đạo cần như
anh hài. Vinh nhục công danh, nghịch tình thuận cảnh trọn động nó không được.
Mắt thấy sắc cùng mùi đồng, tai nghe tiếng cùng điếc đồng, như ngu như ngốc, tâm
chẳng động như núi Tu Di. Cái này là chỗ thiền khách chơn thật đắc lực. Cổ nhơn
nói: “Trùm chăn phủ đầu muôn sự thôi”. Khi này sơn tăng trọn chẳng hiểu. Nếu hay
như thế mới có ít phần tương ưng. Tuy nhiên như thế, dù cho một điểm cũng chẳng
lừa được y. Núi như xưa là núi, sông như xưa là sông, không được tạo tác không
duyên lự. Như mặt trời mặt trăng vận hành trong hư không chẳng từng tạm nghỉ,
cũng chẳng nói ta có bao nhiêu danh tướng. Như trời che khắp, tợ đất chở khắp.
Vì không tâm nên trưởng dưỡng vạn vật, cũng chẳng nói ta có bao nhiêu công hạnh.
Trời đất vì không tâm nên trường cửu, nếu có tâm chắc có chừng hạn.
Người đắc đạo cũng lại như thế, ở trong cái
không dụng mà bày công dụng tất cả nghịch tình thuận cảnh đều dụng từ tâm nhiếp
thọ. Đến trong đây cổ nhơn còn quở trách, nói:
Liễu liễu khi liễu vô sở liễu
Huyền huyền chỗ huyền còn phải
rầy.
Lại nói:
Vào thánh siêu phàm chẳng tạo
thinh
Rồng nằm hằng sợ suối trong xanh
Người đời nếu được hằng như thế
Đại địa đâu từng để một tên
Song tuy thế ấy lại phải nhảy ra khỏi sào
huyệt mới được.
18 – TRUNG CĂN THỌ PHÁP:
* Bối diệp: tức tam tạng kinh điển. Phạn
ngữ gọi là Bối đa la, Tàu gọi cây ngạn ảnh, cây này giống như cây kè, thẳng và
cao, lá dài rộng trơn mịn. Bên Tây Trúc khi tả kinh thường lấy lá cây này mà
chép nên gọi Kinh Bối đa la hay kinh Bối diệp.
* Trung lưu chi sĩ: Phật tánh vốn không có
thượng hạ cao thấp, chỉ vì người nhận được sai khác chẳng đồng nên thành ra có
bực thượng bực trung.
Sở dĩ có sự nhận được sự sai khác chẳng
đồng do vì tâm chúng sanh nó vốn khiếp nhược, như gã cùng tử chẳng dám nhận gia
tài của Trưởng giả giao phó mà cam chịu làm nghề hốt phân. Trưởng giả thấy con
như thế, lòng ông thương xót ngại ngùng.
“Một ngày nọ, đứng trong cửa sổ nhìn ra
thấy con ông thân thể ốm gầy, quần áo bẩn thỉu nhơ nhớp, ông liền cởi chuỗi anh
lạc, thay quần áo rách rưới, bưng thùng hốt phẩn đến nói với các người làm công
rằng: Các ông siêng làm, chớ có lười biếng. Dùng phương tiện ấy để gần gũi con
ông. Khi đã quen thân, ông mới bảo: Này cháu, tốt lắm! Cháu nên ở đây chớ đi nơi
khác, bác sẽ trả thêm tiền công vừa theo ý muốn của cháu. Bác như cha của cháu,
chớ nên suy tính. Vì sao? Vì bác tuổi đã già, còn cháu thì không có lười trễ. Từ
nay về sau bác nhận cháu là con.
Bấy giờ gã cùng tử tuy gặp việc vui mừng
chưa từng có, nhưng vẫn cho mình là khách và làm công hèn, nên suốt hai mươi năm
vẫn nhận việc hốt phân như cũ. Hai mươi năm sau, gã cùng tử quen dần, ra vào tự
tại nhưng chỗ ở vẫn y như cũ. Một ngày kia ông trưởng giả có bịnh, tự biết mình
còn sống chẳng bao lâu, bèn đem vàng bạc châu báu, kho tàng giao phó hết cho gã
cùng tử và bảo rằng: “Cha nay với con không khác, con phải cố tâm giữ gìn, chớ
để sót mất”. Gã cùng tử nhận lời, nhưng chỗ ở vẫn y như cũ, tâm hạ liệt vẫn
hết.
Ngày qua tháng, ông trưởng giả sắp mạng
chung, gọi con lại và hội cả trong thân tộc quốc vương, đại thần trong dòng vua
chúa và các cư sĩ đều có mặt đông đủ. Ông trưởng giả tuyên bố: “Các người nên
biết, gã này là con ta, ta sanh nó ra tại trong thành này nhưng nó bỏ ta đi
hoang, trải qua hơn năm mươi năm chịu nhiều cay đắng. Sản nghiệp của ta hôm nay
giao hết cho nó”. Khi đó gã cùng tử rất đỗi vui mừng và tự nghĩ: Ta thật không
có ý mong cầu của báu này tự nhiên đến”.
Ông trưởng giả dụ cho Phật. Gã cùng tử dụ
cho chúng sanh bỏ cha đi hoang, trái giác hợp trần. Làm nghề hốt phân dụ cho kẻ
hạ tiện bỏ quên kho báu. Tâm hạ liệt ví như lưu chuyển theo trần cảnh. Cha nay
với con không khác ý nói Phật và chúng sanh không hai không khác, bình đẳng tột
cùng, chẳng thượng chẳng hạ. Ta thật không có ý mong cầu mà của báu này tự nhiên
đến cũng như nói vô tâm thì thoát thể hiện thành.
Nhận được chỗ vô tâm ấy rồi thì chẳng nói
thượng lưu trung lưu chi hết mà suốt đời phong lưu: “Quen thói phong lưu chẳng
phải vay”.
19 - HỐI THÚC TIẾN TU:
Thời giờ như bóng câu qua cửa sở, được thân
người như cát dính móng tay. Vì thế ngài Y Am thiền sư mỗi khi trời ngã bóng về
chiều, ngài sa nước mắt than: “Ngày nay vẫn chưa được gì, ngày mai chưa biết
công phu ra sao!” Ở trong Tăng chúng không bao giờ ngài thốt ra lời vô ích.
Của mười phương tín thí thật khó tiêu. Nếu
ngộ được bổn tâm, mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng ròng. Nếu không dù một hột cơm
một giọt nước cũng phải nhiều phen đền trả.
20 – TÔN TRỌNG LINH TÁNH:
* Trượng phu: người trí, là hiền thánh đắc
đạo. Ngài Tuyết Đường nói “khí thắng chí là tiểu nhân, chí thắng khí là đoan
nhân chính sĩ, khí và chí ngang nhau là hiền thánh đắc đạo”. Kẻ gọi là trượng
phu thì khí và chí phải bằng nhau.
Phẩm Phạm Hạnh nói rằng “tất cả nam nữ nếu
đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu: Một là gần gũi thiện tri thức, hai là nghe
pháp, ba là tư duy pháp, bốn là y pháp tu hành”
* Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ: câu này có
hai nghĩa. Thứ nhất là để khuyến khích người học đạo, ai kia đã làm được thì ta
cũng làm được. Thứ hai, phải hiểu rằng ngã đây tức Phật tánh, người kia làm Phật
được, ta cũng làm Phật được, đã là Phật rồi thì tướng ngã đâu còn? Nhưng tướng
chân thật của ngã như thế nào?
Phẩm Như Lai tánh nói: “Ví như hai người
làm bạn thân nhau, một người là vương tử, một người là dân hèn, hai người đó
thường qua lại với nhau. Lúc đó người nghèo thấy vương tử có một con dao tốt,
trong lòng thích muốn. Thời gian sau vương tử mang dao trốn qua nước khác. Một
hôm người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, trong giấc ngủ mơ nói con dao! Con
dao! Người nhà nghe được bắt nộp vua. Vua gạn hỏi: Nhà ngươi nói con dao, nay ở
đâu? Người dân bèn thuật rõ việc trước. Nay nhà vua giết thần, banh xẻ tay chân
cũng không thể tìm được con dao. Thần cùng vương tử vốn là bạn thân, trước kia
dầu tận mắt thấy được con dao nhưng còn không dám chạm đến, huống lại cố ý lấy.
Vua lại hỏi: Lúc nhà ngươi thấy dao hình
dạng giống thứ gì?
Người dân thưa: Tâu Đại vương, thần thấy
con dao ấy giống như sừng dê đen.
Vua nghe xong vui mừng cả cười, bảo rằng:
Nhà ngươi chớ sợ, ta tha cho ngươi. Trong kho tàng của ta đều không có thứ dao
ấy, huống là ngươi thấy con dao nơi vương tử.
Lúc đó nhà vui lại hỏi các quan: Các khanh
từng thấy con dao đó chăng? Nói xong vua liền băng hà. Triều thần liền lập vương
tử khác lên làm vua.
Tân vương lại hỏi các quan: Các khanh từng
thấy con dao đó chăng? Hình dáng nó như thế nào?
Các quan đồng tâu: Chúng thần từng thấy
hình nó như sừng dê đen.
Vua nói: Trong kho tàng của ta làm gì có
thứ dao hình dạng như vậy.
Lần lượt bốn vị tân vương tra tìm con dao
ấy đều chẳng đặng.
Sau đó vị vương tử đào vong ngày trước trở
về nước, được tôn làm vua, khi lên ngôi xong, tân vương này lại hỏi các quan:
Các khanh thấy con dao đó chăng? Hình dạng nó như thế nào?
Các quan tâu: Chúng tôi đều thấy. Rồi đua
nhau trình bày hình dáng của con dao. Người thì nói sắc dao thanh tịnh như hoa
sen xanh. Người thì lại nói như sừng dê. Người thì lại nói dao màu hồng đỏ như
lửa. Người thì nói dao đen tuyền như rắn đen.
Nhà vua cả cười bảo: Các khanh đều chẳng
thấy biết hình dáng thật con dao của ta.
Này thiện nam tử! Bồ Tát xuất hiện nơi đời
nói tướng chân thật của ngã cũng như vậy. Nói xong bỏ đi, như vương tử mang con
dao trốn qua nước khác.
Người phàm phu ngu mê cho rằng tất cả đều
có ngã. Như người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, mơ nói con dao! Con
dao!
Hàng Thanh Văn, Duyên Giác hỏi các chúng
sanh tướng của ngã như thế nào? Đáp rằng: Tôi thấy tướng ngã lớn bằng ngón tay
cái. Có kẻ nói như hột gạo. Có kẻ nói như hột cỏ. Cũng có kẻ nói tướng của ngã ở
trong tâm, sáng rỡ như mặt trời.
Những chúng sanh đó đều chẳng biết tướng
ngã, như các quan chẳng biết hình dáng của con dao.
Bồ tát nói tướng trạng của ngã, hàng phàm
phu chẳng rõ biết, vọng tưởng ra các hình tướng của ngã, nhưng những người nói
hình dáng của con dao giống như sừng dê đen.
Các hạng phàm phu đó tuần tự nối nhau mà
sanh những tà kiến.
Vì dứt những tà kiến đó nên đức Như Lai
hiện ra đời, nói pháp vô ngã. Vương tử bảo các quan: trong kho tàng của ta không
có thứ con dao như vậy.
Này thiện nam tử! Hôm nay đức Như Lai nói
ngã chơn thật gọi là Phật tánh. Phật tánh như vậy ở trong Phật pháp của ta, như
con dao tốt kia”.
Đoạn kinh văn trên, vương tử mang dao trốn
qua nước khác dụ cho người đã kiến tánh, nắm chắc con dao trong tay, thấy được
tướng chơn thật của con dao. Người dân hèn cùng các quan dụ cho những người còn
mê chấp, chạy theo sắc tướng, đâu biết đây là tướng huyễn hóa, chẳng phải tướng
chơn thật của ngã. Tiên vương là chủ kho tàng, dụ cho người đã kiến tánh. Nói
xong liền băng hà là để cho triều thần mỗi người tự khám phá con dao của mình.
Bởi tiên vương có nói ra, đó là phần của vua, đâu có ích gì cho triều
thần.
Bốn tân vương dụ cho tứ ma: tử ma, thiên
ma, ngũ ấm ma và phiền não ma. Vì trong lòng đã ma mị như thế nên tìm Phật chẳng
được.
Như vậy tướng chân thật của con dao chỉ có
hai người thấy là tiên vương và vương tử đào vong. Rủi thay, một người băng hà
một người đào vong. Bọn triều thần còn lại một bề chạy theo thinh sắc, chẳng bao
giờ thấy được tướng chân thật của con dao, nên tân vương sau khi về nước đã nói
rằng: Các khanh đều chẳng thấy biết hình dáng thật con dao của ta.
21 – HƯNG PHẤN TINH THẦN:
* Dứt ý quên duyên:
Nghĩa của dứt ý quên duyên chẳng phải là
chận đứng vọng niệm. Người tham thiền chẳng chạy theo vọng niệm, cũng chẳng chận
đứng vọng niệm. Chạy theo vọng niệm là phàm phu, chận đứng vọng niệm là hạ thừa.
Giáo chủ Kỳ Na giáo trong khi nhập định, năm trăm cổ xe lớn đi ngang qua mà
chẳng hay biết. Phật pháp chẳng phải lý này.
Hãy nghe Tào Sơn hỏi Tăng: Bồ tát trong
định nghe voi lớn qua sông rõ nàng, là xuất phát ở kinh nào? Tăng thưa: Kinh
Niết Bàn. Tào Sơn hỏi: Trước định nghe hay sau định nghe? Tăng thưa: Dòng Hòa
thượng vậy. Tào Sơn nói: dưới bãi tiếp lấy.
Được như giáo chủ Kỳ Na giáo kia cũng chỉ
là ngâm nước chết, là vào hầm sâu giải thoát đen ngòm, đoạn hột giống Phật, che
lấp bổn tâm, mê mờ tánh giác.
Ở trong định mà chẳng bị rượu tịnh chấp làm
say chìm gọi là dứt ý quên duyên. Ở trong trần mà chẳng theo trần vọng tác nên
gọi la hòa quang đồng trần. Như chim bay ngang qua hồ, hồ không có ý soi bóng
chim bay ngang. Thế nhưng đâu phải không có hình chim trong hồ, cũng chẳng nói
có hình chim trong hồ, hữu vô đều chẳng dùng gọi là dứt ý quên duyên.
* Tâm không cảnh tịch:
Tâm xưa nay vốn chẳng dính mắc vào trần
cảnh, thênh thang vô ngại nên gọi là tâm không.
Cảnh xưa nay vốn chẳng khuấy động người,
bởi cảnh vốn thường lặng nên gọi là cảnh tịch.
Vì chẳng rõ lý này mà lầm chấp gió động
phướng động, chẳng hay tâm động. Nếu ngay đây biết đường về, gió phướng tự gió
phướng, tâm thể tự tâm thể, gió phướng chẳng tự gió phướng, tâm thể chẳng tự tâm
thể, gió phướng chẳng rời tâm thể, tâm thể chẳng rời gió phướng, ấy là tâm không
cảnh tịch vậy.
Tâm thể tự tâm thể bởi tâm thể đâu hay dính
mắc.
Gió phướng chẳng tự gió phướng bởi gió
phướng chẳng thể tự thành.
Tâm thể chẳng tự tâm thể bởi tâm thể nhơn
gió phướng mà hiển lộ.
Tổ Tăng Xán nói:
Lục trần bất ác
Hoàn đồng chánh giác
Trí giả vô vi
Ngu nhơn tự phược.
Trí giả vô vi tức là tâm không
Lục trần bất ác tức là cảnh
tịch.
Nếu rõ được như thế thì hoàn đồng chánh
giác - Nếu chưa được như thế thì không dây tự trói.
22 - NGHIỆP CỦA NAN ĐÀO:
* Cưỡng tác chủ tể: cố gắng làm chủ. Người
tu đến địa vị làm chủ được mình đã là khó lắm rồi. Chiến đấu trăm trận trăm
thắng không bằng làm chủ được mình. Thật khó thay! Thế mà vẫn bị các Thiền sư
quở trách.
Nam Viện hỏi Phong Huyệt:
- Hạ này ở đâu?
Phong Huyệt thưa:
Đồng qua hạ với thị giả Khoách ở Lộc
Môn.
- Kia nói với ông điều gì?
- Trước sau chỉ dạy con một bề làm
chủ.
Nam viện liền đánh đuổi ra khỏi phương
trượng, nói: Nếu như thế cũng chỉ là loại bại trận, có dùng được gì?
Thế mới biết còn làm chủ tể tức là chưa
buông được hết vậy. Bởi nếu buông hết rồi thì vật ngã nhất như, còn nói gì làm
chủ nữa:
Diệu hữu chơn không bổn thị đồng
Vật ngã nhứt như chơn pháp hữu
Dạ lan đạo thính huyền trung hữu
Nhậm giao hàn nguyệt chiếu xuân
phong.
(Khương Du)
* Nghiệp quả sở khiên thành nan đào
ty.:
Khi nghiệp quả đã lôi thì khó mà chạy trốn.
Kinh nói: “Chẳng phải bay lên không trung, chẳng phải lặn xuống đáy bể, chẳng
phải chui vào hang núi, dù tìm khắp thế gian này, chẳng có nơi nào trốn khỏi ác
nghiệp đã gây”. Như vậy chúng ta phải làm thế nào?
Phật dạy: “Phải quan sát tất cả phiền não
hữu lậu và nhơn của hữu lậu. Vì người trí nếu chỉ quán hữu lậu mà chẳng quán
nhơn của hữu lậu thì không thể dứt các phiền não. Vì người trí quán sát hữu lậu
do nhơn này mà sanh, nay ta dứt nhơn này thời lậu chẳng còn sanh. Như y sư trước
trừ nhơn của bịnh thời bịnh chẳng còn. Do đây nên người trí trước phải quán sát
nhơn, kế đó quán sát quả báo, biết rằng từ nhơn lành sanh ra quả lành, từ nhơn
ác sanh quả ác. Khi rõ biết quả báo rồi thời xa lìa nhơn ác. Lại phải quán phiền
não nhẹ hay nặng, trước lìa phiền não nặng thời phiền não nhẹ tự
mất”.
23 – PHÁP LỮ ĐỒNG NĂNG:
* Pháp lữ: bạn pháp, bạn nương nhau để học
đạo.
Thời Tống có hai người bạn, một người tên
Đạo Khiêm, học Thiền đã nhiều năm nhưng chưa nhập lý. Được phái đi hành cước
phương xa, ông tỏ vẻ thất vọng. Một cuộc viễn du kéo dài đến sáu tháng trời chắc
rằng sẽ là một chướng đạo hơn là trợ đạo cho ông. Một ông bạn đồng môn tên là
Tông Nguyên thấy thương hại bèn nói: “Tôi sẽ theo ông trên đường hành cước, sẽ
làm những gì có thể làm được giúp ông. Thế rồi cả hai lên đường.
Một đêm kia, Đạo Khiêm tuyệt vọng, nài nỉ
người bạn đường giúp ông vén màn bí mật của vũ trụ và nhân sinh. Tông Nguyên
đáp: “Tôi sẵn sàng giúp ông bất cứ gì, nhưng có năm điều tôi không thể giúp ông
được, tự ông phải đảm đương lấy.
Đạo Khiêm xin cho biết là những điều gì.
Ông bạn đáp:
Chẳng hạn như khi ông mặc áo ăn cơm thì tôi
không thể ăn mặc dùm ông được, ông phải tự mình ăn mặc lấy. Khi ông mắc ỉa mắc
đái ông phải tự mình lo liệu, tôi không thể làm thay ông. Sau hết chính là ông,
không thể ai khác, phải mang cái thây thúi của ông trong suốt khoảng đường
dài.
Khi nghe những lời trên, Đạo Khiêm bỗng
nhiên sáng tỏ. Bấy giờ Tông Nguyên mới nói rằng công quả của ông nay đã tròn, từ
nay sự đi chung chẳng cần nữa. Thế rồi hai người chia tay.
Bạn pháp như thế thật hiếm có
vậy.
24 – TAM GIỚI MỘNG HUYỄN:
* Huyễn thân:
Nhà mộng hoa đốm là dụ cho thân huyễn. Nhà
mộng do ngủ mê mà có, hoa đốm do nhặm mắt mà sanh. Mạng căn vốn không, tứ đại
giả hợp nên gọi là huyễn.
Như nhà huyễn thuật lấy cây cỏ làm hình
nộm, cũng cử động đi đứng như người, xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi đều bày ra. Nếu
thâu cái huyễn kia thì các hình nộm chẳng còn. Chúng sanh vì lầm chấp các hình
nộm xanh vàng đỏ trắng này mà lăn lóc ba cõi.
Thiền sư Pháp Diễn vào thành, thấy một hàng
rào trong là người gỗ, liền lại gần xem. Hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu
xa vô kể, chuyển động đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi thấy rõ. Khi xem kỹ
vốn là những miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Pháp Diễn không thể
chịu nổi bèn đến hỏi: - Ông tên gì? Kia nói: - Hòa thượng già xem là xong, hỏi
tên làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kia hỏi một câu khiến không lời có thể đáp,
không lý có thể bày. Lại có người vì sơn tăng nói được chăng?
Hôm qua trong ấy rơi cành
Ngày nay trong đây nhổ gốc.
Thấy được chỗ cùng tột của cái huyễn này,
tưởng không ai bằng Bàng Uẩn, trước khi thị tịch đã an nhiên nói kệ:
Không hoa lạc ảnh
Dương diệm phiên ba.
* Vô minh: mờ ám đối với lý với sự gọi là
vô minh.
- Căn bản vô minh: vô minh nơi
lý.
- Chi mạt vô minh: vô minh nơi
sự.
Một niệm chưa động gọi là căn bản vô minh,
cũng gọi là vô thỉ vô minh.
Một niệm đã động gọi là chi mạt vô minh,
cũng gọi là nhất niệm vô minh.
Khi tâm đã thông thì phá sạch hai thứ vô
minh trên.
Tham thoại đầu tức tham chỗ một niệm chưa
động. Nhìn thẳng vào vô thỉ vô minh tức nhìn chỗ một niệm chưa động. Một niệm
chưa động ấy là thoại đầu. Một niệm đã động ấy là thoại vỹ. Nói thoại đầu thoại
vỹ đều là vô minh, hãy nói một câu thoát khỏi vô minh xem?
Đèn đốt dưới lòng sông
Gà bươi đầu cột phướng
25 - NIẾT BÀN TỊCH TĨNH:
* Tâm cảnh đều quên
Chẳng ghi chẳng nhắc
Cũng đồng với Tứ tổ nói: “Nhứt thiết bất
lưu vô khả ký ức, hư minh tự chiếu bất lao tâm lực”.
Ngài Bàn Sơn cũng nói: “Trăng tâm tròn vìn,
sáng trùm vạn tượng, sáng không chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều
quên, lại là vật gì?”.
Pindola, một nhà sư Nhật Bản, khi mang bình
bát đi khất thực. Bấy giờ có một thanh niên bịnh cùi đem cơm ra bố thí, chẳng
may ngón tay cùi của chàng rơi luôn vào trong bình bát của nhà sư. Pindola về
đến tịnh thất. Giờ thọ thực cùng chúng thọ trai. Nhà sư đã bình lặng ăn luôn
ngón tay cùi. Trước đây rất lâu xa, người viết có làm thơ tán thán Pindola như
sau:
Ăn luôn cả ngón tay cùi
Bát cơm bố thí không người không
ta.
Chân Đại đức Pindola
Nghìn sau vang động pháp tòa Tịnh
Danh
Tâm cảnh cu quyên tức tâm cảnh cả hai đều
chẳng còn, chẳng dính tâm cũng chẳng mắc cảnh, trong ngoài nhứt như, một vật
cũng chẳng vướng
Xưa có một vị tăng hỏi ngài Triệu
Châu:
- Khi một vật không đem đến thì thế
nào?
Triệu Châu đáp:
- Buông hết xuống!
- Một vật không đem đến, buông xuống cái
gì?
- Buông không được thì gánh lên.
Tâm cảnh đều quên là đến điền địa
này.
* Sáu căn an nhiên
Đến đi lặng tắt
Là đồng với Chứng Đạo Ca nói.
“Hành diệc thiền tọa diệc thiền
Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên.”
Vì thể an nhiên nên “vô sở tùng lai diệc vô
sở khứ”, đến mà chưa từng cất bước, đi mà chẳng từng dời gót, sáu căn an nhiên
vắng lặng nên Tổ Từ Minh nói “chết cổi áo trời hạ, sanh đắp mền trăng
đông”.
Vì sáu căn an nhiên nên thường ly thế sự.
Vì đến đi lặng tắt nên bầu bạn cùng trăng mây.
Chọn nơi xa vắng hợp lòng quê
Quanh năm mặc khách đến hay về
Có khi lên thẳng đầu non nguyệt
Cất tiếng cười dòn vọng sơn khê
Đó là Thích sử Lý Tường làm thơ tặng ngài
Dược Sơn, nguyên văn như sau:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời trực thướng cô phong
đảnh
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất
thinh.
(Lý
Tường)
Và đó cũng là tâm trạng của Đại Mai pháp
thường
Cây khô nép lạnh rừng dài
Xuân qua mấy độ chẳng thay tấc
lòng
Khách tiều gặp chẳng buồn trông
Người thành thôi chớ nhọc lòng tìm
nơi
Lá sen kết áo che trời
Hoa tùng lót dạ nở ngời chân mây
Thế nhân đã đến nơi này
Thì thôi lại chuyển am gầy lên
non.
Toàn văn như sau:
Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
Tiều khách ngộ chi du bất cố
Dĩnh nhơn na đắc khổ truy tầm
Nhất trì hà diệp y vô tận
Sổ thụ tùng hoa thực hữu dư
Cương bị thế nhân tri trú xứ
(Đại Mai Pháp
Thường)
* Một tâm chẳng sanh
Muôn pháp đều bặt.
Lục tổ nói: “Na già thường tại
định
Không lúc nào chẳng
định”.
là tóm thâu toàn bộ ý của nhứt tâm bất
sanh.
Ta và pháp giới không hai không khác là
nhất. Một niệm chẳng sanh sáng trùm vạn tượng là tâm.
Ta và pháp không hai không khác, chẳng sanh
một niệm, sáng tỏ tột cùng gọi là nhứt tâm.
Thói thường, ta không nghĩ thiện thì nghĩ
ác. Đâu biết rằng thiện ấy cũng chính là ta, ác ấy cũng chính là ta. Diêm Vương
cũng chính là ta, Niết Bàn cũng chính là ta nên Niết Bàn chẳng say đắm ta. Tất
cả chúng sinh và ta không hai không khác. Vì tất cả chúng sinh và ta không hai
không khác nên độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh mà không có chúng sinh nào
được độ. Sở dĩ có một phiền não nổi lên bởi vì còn thấy rằng ta và phiền não là
hai mặt đối địch. Nếu thấy chắc thật ta chính là phiền não ấy thì phiền não đặt
ở chỗ nào? Các nhà dâm cũng chính là ta, các quán rượu cũng chính là ta thì mười
phương pháp giới đặt để chỗ nào? Mười phương pháp giới không có chỗ để nên nói
vạn pháp cu tức.
Điều này đánh đổ nguyên lý đồng nhất trong
triết học Tây phương. A là A, A chẳng thể nào là phi A. Người học Phật nói, gọi
là A đó cũng chẳng phải A mới thực sự là A vậy. Gọi là thiên đường đó cũng chẳng
phải thiên đường mới thực sự là thiên đường.
Thánh Đức thái tử đã y theo kinh Thắng Man
mà phát nguyện rằng: “Nguyện từ nay đến khi đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh
giác, đối với sắc thân kẻ khác, con không sanh tâm đố kỵ” Vì sao không sanh tâm
đố kỵ? Vì chúng sanh ấy chính là ta đó vậy. Thấy một chúng sanh nào trước mắt
như thấy chính ta thì cái thấy không còn. Vì cái thấy không còn nên đối đãi hết.
Vì đối đãi hết nên không cần phải thể hiện tâm từ mà tâm từ tự đầy
đủ.
Bồ tát thấy người nữ trước mắt, trong tâm
không sanh tướng nữ. Vì sao không sanh tướng nữ? Vì trí đã muội, vì cảnh đã
vắng, nên Bát Nhã Vô Tri Luận nói: “Trí càng muội chiếu càng sáng, thần càng
lặng ứng càng mạnh, cảnh càng vắng cảm càng nhạy”. Một khi năng sở càng vong bặt
thì càng thầm hợp vô sanh.
Tam Tổ nói: Nhứt tâm bất sanh
Vạn pháp vô
cữu
Tùng Duyệt Đâu Suất nói:
Đẳng nhàn hành xứ
Bộ bộ giai như
Tuy cư thinh sắc
Ninh trệ hữu vô
Nhứt tâm mi dị
Vạn pháp phi thù
đều nói lên nghĩa của “một tâm chẳng sanh,
muôn pháp đều bặt”.
Có bài tụng kèm ở sáu câu cuối của bài cảnh
sách:
Tâm cảnh cu quyên
Thông reo đầu ngõ
Mạc ký mạc ức
Không tay xách giỏ
Lục căn di nhiên
Phố chợ không người
Hành trú tịch mặc
Thịt cá đầy rổ
Nhất tâm bất sanh
Chân đội nón cời
Vạn pháp cu tức
Nương mây đạp cỏ.
PHẦN BA
QUY SƠN CẢNH SÁCH VĂN
1 - NGHIỆP LỤY THỌ THÂN
Phù nghiệp hệ thọ thân
vị miễn hình lụy
bẩm phụ mẫu chi di thể
giả chúng duyên nhi cộng thành
tuy nãi tứ đại phù trì
thường tương vi bội
Dịch
Vì nghiệp buộc thọ thân
chưa khỏi hình lụy
nhận di thể của cha mẹ
mượn các duyên mà cộng thành
tuy được bốn đại giữ gìn
lại thường xung
đột