Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy
*
Lời Nói Đầu
Phàm làm người, hễ có thân là có khổ
thân, và hễ còn phiền não là còn khổ tâm. Khổ thân và khổ tâm này thuộc về phần
thọ uẩn, nhưng tóm lại ngũ uẩn đều là khổ.
Khổ là sự thật chân lý của tất cả chúng
sinh nói chung, con người nói riêng, tất cả mọi người đều phải chịu đựng khổ,
song sự khổ ít hoặc nhiều của mỗi người có phần không giống nhau. Cho nên, sự
giải thoát khổ của mỗi người cũng không giống nhau.
Thật ra, quan niệm khổ của mỗi người
hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của nghiệp và trình độ nhận thức của mỗi người. Do
đó, con đường giải thoát khổ của mỗi người cũng phải thích ứng.
Quyển “Con Đường Giải Thoát Khổ”
này được trình bày 3 con đường:
1- Con đường thoát khổ nhất thời trong kiếp hiện tại.
2- Con đường giải thoát khổ, hưởng sự an lạc lâu dài trong những
kiếp sau.
3- Con đường giải thoát khổ hoàn toàn, không còn khổ
nữa.
Quyển “Con Đường Giải Thoát Khổ”
này vốn trước đây là một bản thảo viết tay, do sự yêu cầu của ông bà Phạm Kim
Khánh, bần sư đã biên soạn xong trong dịp ngày rằm tháng tư Phật lịch 2524 (cách
đây hơn 25 năm) tại Thiền viện Óm Nói, tỉnh Samutsakhorn Thái Lan, rồi đã gửi
đến ông bà Phạm Kim Khánh tại Hoa Kỳ.
Thời gian trải qua nhiều năm, bần sư
không còn nhớ đến nó nữa. Đến nay, bỗng nhiên nhận được bản thảo in computer
“Con đường giải thoát khổ” soạn giả Tỳ khưu Hộ Pháp (Dhammarakkhita
Bhikkhu) đúng là pháp danh của bần sư. Bần sư không ngạc nhiên làm sao
được!
Bần sư chân thành biết ơn ông Phạm Kim
Khánh, vì đã có công khéo giữ gìn cẩn trọng, bảo tồn chu toàn bản thảo suốt hơn
25 năm qua. Nay ông có ý định ấn hành để truyền bá đến mọi người; bần sư vô cùng
cảm kích trước thiện tâm của ông, bần sư cảm thấy vô cùng hoan hỷ, cho nên đã cố
gắng xem lại, biên tập xong, gửi lại cho ông tại Hoa Kỳ.
Xét theo thời gian, bản thảo này đã
sinh ra trước quyển “Tìm Hiểu Pháp Hành Thiền Tuệ” (hơn 560 trang). Như
vậy nó là soạn phẩm đầu tay của bần sư, nên bần sư đã xin ông Phạm Kim Khánh vui
lòng cho phép ấn hành soạn phẩm “Con Đường Giải Thoát Khổ” này tại Việt
Nam, để cho phần đông người Việt có cơ hội tìm hiểu.
Quyển sách “Con Đường Giải Thoát
Khổ” này bần sư đã cố gắng sưu tầm, góp nhặt những tài liệu từ Tam Tạng
Pāḷi, và các Chú giải Pāḷi được một phần nào đó thôi! Tuy bần sư đã cố gắng hết
mình giảng giải để giúp cho quý độc giả, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn
không thể tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng
hiểu biết của bần sư.
Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn,
kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình. Kính xin quý vị xem
soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận
đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, ngõ hầu mong đem lại sự
lợi ích chung, sự tiến hoá, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn
đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí, và kính
xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần
sư.
Quyển sách “Con Đường Giải Thoát
Khổ” này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức Dhammacitta Bhikkhu
(Tỳ khưu Tâm Pháp), cô Sumittā, cô Dhammanandā giúp xem bản thảo, đệ tử Sīlācāra
(Giới Hạnh) đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển; cùng các
thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành đó là: Pháp đệ
Bửu Đức cùng nhóm phật tử chùa Hương Đạo (Hoa Kỳ), gia đình anh Đinh Vạn Xuân
cùng nhóm Phật tử ở Úc, gia đình ông bà Trần Văn Cảnh - Trần Kim Duyên, gia đình
cô Dhammanandā ở Pháp, gia đình anh Hoàng Quang Chung... Và đã được Nhà xuất bản
Tôn Giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả các quý
vị.
Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita
Bhikkhu (Tỳ khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài
Vaṃsarakkhitamahāthera (cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông) là sư phụ của con, đồng thời
đến Ngài cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài cố
Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài cố Đại Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng
chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác... đã dày công đem Phật giáo Nguyên Thuỷ
(Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu. Và kính dâng đến chư
Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar, quý Ngài đã có công dạy dỗ con về
pháp học và pháp hành.
Con kính mong quý Ngài hoan
hỷ.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu
ñātayo.
Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin
hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng
kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để
thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ
mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te
puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia
phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ
cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời
dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới... xin tất cả quý vị hoan
hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị được giải
thoát mọi sự khổ, được an lạc lâu dài.
Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ
hotu.
Phước thiện pháp thí thanh cao này của
mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng
đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền
não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt
đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp
tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn
cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa
ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp
cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: Cõi người, các cõi trời dục giới... mà
thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con cũng là người có chánh kiến,
có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành
thân cận gần gũi với bậc thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc thiện trí, có
đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn
của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ
trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành
bậc Thánh Arahán.
Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi
chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù
xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư
Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp cố gắng tinh tấn hành theo
chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh
Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác
pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân
hồi trong ba giới bốn loài.
Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí
thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báu ở
cõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người;
hoặc khi thành tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế
nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi
chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu sớm chứng ngộ Niết Bàn
(Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
Khippameva samijjatu.
Khippameva samijjatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
Cuối năm 2005
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
-ooOoo-
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.
Quan niệm khổ của mỗi người tùy
thuộc vào hoàn cảnh trong cuộc sống hiện tại và trình độ nhận thức của mỗi
người. Cho nên con đường giải thoát khổ của mỗi người cũng phải
thích ứng theo nguyện vọng của mỗi người.
Con đường giải thoát khổ
này hướng dẫn hành theo con đường có lợi đem lại sự an lạc trong kiếp
hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai. Và hướng dẫn tránh xa con đường có hại đem lại
sự đau khổ trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Hai vấn đề chính: Khổ
và giải thoát khổ.
Khổ nghĩa là
gì?
Khổ dịch từ tiếng Pāḷi
“Dukkha”.
Dukkha có rất nhiều định
nghĩa.
Ví dụ:
Dukkaraṃ khamatī ti: Dukkhaṃ: Trạng
thái khó kham nhẫn chịu đựng được gọi là khổ.
Trong Phật giáo, Dukkha: Khổ, là một
chân lý gọi là Dukkhasacca: Khổ đế. Còn sukha: Lạc,
không phải là chân lý, mà chỉ là sự đảo điên gọi là sukhavipallāsa:
Lạc đảo điên, bởi vì lạc có sự sinh, sự diệt, vô thường luôn luôn hành hạ
nên chỉ có khổ mới là sự thật mà thôi.
Khổ có 3 loại
1- Dukkhadukkha (khổ thật khổ): Đó là thọ khổ
(dukkhavedanā), khổ khó kham nhẫn, khó chịu đựng nổi như: Khổ thân,
khổ tâm.
2- Vipariṇāmadukkha (biến chất khổ): Đó là thọ
lạc (sukhavedanā), thân an lạc, tâm an lạc. Thọ lạc sinh rồi diệt, vô
thường biến đổi, nên lạc biến thành thọ khổ, tuy thọ khổ nhưng dễ chịu
đựng.
3- Saṅkhāradukkha (pháp hữu vi khổ): Đó là thọ
xả và tâm, tâm sở, sắc pháp (không có thọ khổ và thọ lạc). Các
pháp do nhân duyên cấu tạo nên khổ.
Đức Phật dạy trạng thái của pháp hữu vi
bằng câu kệ như sau:
“Aniccā vata
saṅkhārā,
Uppādavayadhammino,
Uppajjitvā nirujjhanti,
Tesaṃ vūpasamo sukho” 1 .
“Các pháp hữu vi đều vô thường nhỉ!
Vì có sinh, diệt, trạng thái tự nhiên,
Sau khi đã sinh, đều phải bị diệt,
Niết Bàn tịch diệt pháp hữu vi ấy,
Mới thật sự có an lạc tuyệt đối”.
Uppādavayadhammino,
Uppajjitvā nirujjhanti,
Tesaṃ vūpasamo sukho” 1 .
“Các pháp hữu vi đều vô thường nhỉ!
Vì có sinh, diệt, trạng thái tự nhiên,
Sau khi đã sinh, đều phải bị diệt,
Niết Bàn tịch diệt pháp hữu vi ấy,
Mới thật sự có an lạc tuyệt đối”.
Các pháp hữu vi là tâm, tâm sở, sắc
pháp hoặc danh pháp, sắc pháp, v.v… được cấu tạo do bởi 4 nhân duyên là:
Nghiệp (kamma), tâm (citta), thời tiết
(utu), vật thực (āhāra) nên có sự sinh, sự diệt, có trạng
thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh. Cho nên,
tất cả các pháp hữu vi chỉ có khổ là sự thật chân lý mà thôi.
Niết Bàn là pháp vô vi không bị cấu tạo
bởi nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Cho nên, Niết Bàn không có sự sinh,
sự diệt. Niết Bàn là thường, lạc, vô ngã, tịnh.
Đức Phật dạy:
“Sabbe dhammā
anattā”.
“Tất cả các pháp đều vô ngã”.
“Tất cả các pháp đều vô ngã”.
Tất cả các pháp đó là các pháp hữu vi
và pháp vô vi (Niết Bàn) gồm cả Chế định pháp đều là vô ngã.
Và: “Nibbānaṃ paramaṃ
sukhaṃ”.
“Niết Bàn là an lạc tuyệt đối”.
“Niết Bàn là an lạc tuyệt đối”.
Niết Bàn là pháp diệt các pháp
hữu vi, nghĩa là diệt mọi sự khổ. Do đó, Niết Bàn là an lạc tuyệt
đối.
Ba Con Đường Giải Thoát
Khổ
Khổ thân, khổ tâm, giải thoát khổ bằng
3 con đường:
1- Thoát khổ nhất thời trong kiếp hiện tại.
2- Giải thoát khổ, hưởng sự an lạc lâu dài trong kiếp
sau.
3- Giải thoát khổ hoàn toàn, không còn khổ nữa.
Giải thích:
1- Thoát khổ nhất thời trong kiếp hiện tại như thế
nào?
Trong đời này, người nghèo khổ túng
thiếu không có đủ những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống như cơm không đủ no,
áo quần mặc không đủ ấm, chỗ ở không ổn định, khi bệnh hoạn ốm đau không có
thuốc chữa trị, v.v… Đó là những nỗi khổ trong cuộc sống hiện tại
này.
a) Nếu những người nghèo khổ không có đức tin nơi Tam Bảo, không
tin nghiệp và quả của nghiệp, không có trí tuệ, không biết suy xét đúng đắn kỹ
càng, thì họ có thể tìm cách thoát khổ bằng con đường làm nghề sát sinh, làm khổ
chúng sinh khác; làm nghề trộm cắp, gây thiệt hại cho người khác, v.v… những
việc làm ấy có thể tạm thời giải quyết được cảnh nghèo khổ, túng thiếu, đáp ứng
được phần nào những nhu cầu cần thiết nhất thời. Nhưng vì họ đã tạo nghiệp ác,
cho nên, họ phải chịu quả khổ của nghiệp ác ấy không chỉ trong kiếp hiện tại, mà
còn phải chịu quả khổ của nghiệp ác ấy trong những kiếp vị lai.
Đó là con đường thoát khổ nhất thời,
song có hại cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai. Do đó không nên làm,
cần phải tránh xa các nghiệp ác như vậy.
b) Nếu những người nghèo khổ có đức tin nơi Tam Bảo, tin nghiệp và
quả của nghiệp, có trí tuệ, biết suy xét đúng đắn kỹ càng, thì họ có thể tìm
cách thoát khổ bằng con đường làm những nghề lương thiện, không làm khổ mình,
không làm khổ người khác, không làm khổ chúng sinh khác.
Họ không làm 5 nghề buôn bán có hại
như:
- Không làm nghề buôn bán vũ khí giết hại chúng
sinh.
- Không làm nghề buôn bán người, các loài thú vật, các loại gia
súc, gia cầm,...
- Không làm nghề giết gia súc, gia cầm để bán
thịt.
- Không làm nghề buôn bán rượu, các chất say như thuốc phiện,
ma túy, thuốc lá, v.v…
- Không làm nghề buôn bán các loại chất độc giết hại chúng
sinh.
Họ tránh xa cách sống tà mạng như
thân hành ác, khẩu nói lời ác, lừa dối, ý nghĩ điều ác. Họ sống
đúng theo chánh mạng bằng các nghề nghiệp lương thiện. Nhờ sự cố gắng cần mẫn,
họ cũng tạo ra được nhiều của cải, không chỉ giúp cho họ thoát khỏi cảnh nghèo
khổ túng thiếu, mà còn giúp đem lại sự lợi ích cho nhiều người khác
nữa.
Đó là con đường thoát khổ có lợi, đem
lại sự an lạc cho mình cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai, nhờ vào
nghiệp thiện đã tạo trong kiếp hiện tại.
2- Giải thoát khổ, hưởng sự an lạc lâu dài trong kiếp sau như
thế nào?
a) Thoát khổ, hưởng sự an lạc lâu dài trong kiếp sau do được tái
sinh trong cõi trời dục giới
Trong đời này, có một số người giàu
sang phú quý, có đầy đủ mọi nhu cầu trong cuộc sống, là người có đức tin trong
sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, có trình
độ hiểu biết giáo pháp của Đức Phật, nên biết suy xét rằng:
“Trong cõi người này, có khi thiện
nghiệp cho quả thì thân và tâm được an lạc, nhưng cũng có khi nghiệp ác cho quả
thì thân và tâm chịu khổ đau; tuổi thọ con người cũng không nhất định. Trong các
cõi trời dục giới, nghiệp ác không có cơ hội cho quả, mà chỉ có nghiệp thiện có
cơ hội cho quả an lạc mà thôi; tuổi thọ cũng nhất định, lâu dài tùy theo mỗi cõi
trời dục giới ấy. Vậy ta nên tạo mọi phước thiện như: Bố thí, giữ gìn
giới cho được trong sạch và đầy đủ trọn vẹn; thực hành thiền định mà
chưa chứng đắc bậc thiền nào; thực hành thiền tuệ nếu chưa chứng đắc
Thánh Đạo - Thánh Quả nào thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân.
Hạng thiện trí phàm nhân này sau khi
chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh (hóa sinh), làm thiên nam hoặc thiên nữ
trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy (cho đến khi hết
tuổi thọ)”.
Đó là con đường giải thoát khổ, hưởng
sự an lạc lâu dài trong kiếp sau do nhờ được tái sinh lên cõi trời dục
giới.
b) Giải thoát khổ, hưởng sự an lạc lâu dài trong kiếp sau do được
tái sinh trong cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới
Trong đời này, có một số bậc thiện trí
phàm nhân có trí tuệ sáng suốt, có trình độ hiểu biết giáo pháp của Đức Phật sâu
sắc, nên biết suy xét rằng:
“Trong các cõi trời dục giới,
tuy có sự an lạc, nhưng sự an lạc ấy còn nương nhờ nơi ngũ trần (sắc trần,
thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần) còn thô, không vi tế, có tuổi thọ
không lâu dài. Còn trong các cõi trời sắc giới và cõi trời vô sắc
giới thì có sự an lạc không liên quan đến ngũ trần, thật vô cùng vi tế, có
tuổi thọ lâu dài hơn (được tính bằng đại kiếp trái đất). Những hành giả thực
hành thiền định chứng đắc đến bậc thiền hữu sắc nào, hoặc bậc thiền vô sắc nào
rồi, sau khi chết chắc chắn bậc thiền ấy sẽ cho quả tái sinh (hóa
sinh) lên cõi trời sắc giới, hoặc cõi trời vô sắc giới
tùy theo bậc thiền ấy”.
Sau khi suy xét đúng đắn như vậy, bậc
thiện trí phàm nhân thực hành đề mục thiền định có khả năng dẫn đến chứng
đắc bậc thiền hữu sắc.
Nếu hành giả thực hành thiền định dẫn
đến chứng đắc bậc thiền hữu sắc nào trong 4 bậc thiền hữu sắc và
duy trì được bậc thiền hữu sắc ấy cho đến khi chết, thì sau khi chết chắc
chắn bậc thiền hữu sắc ấy cho quả tái sinh (hóa sinh) làm phạm thiên
trong cõi trời sắc giới tương ứng với bậc thiền ấy, hưởng sự an
lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi trời sắc giới phạm thiên ấy.
Nếu hành giả thực hành thiền định, sau
khi đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc xong, rồi tiếp tục thực hành thiền định dẫn
đến chứng đắc bậc thiền vô sắc nào trong 4 bậc thiền vô sắc, thì
sau khi chết chắc chắn bậc thiền vô sắc ấy cho quả tái sinh (hóa
sinh) lên cõi trời vô sắc giới tương ứng với bậc thiền ấy, hưởng
sự an lạc vô cùng vi tế hơn cõi trời sắc giới, và có tuổi thọ lâu dài hơn cõi
trời sắc giới.
4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô
sắc có trong Phật giáo và cũng có ngoài Phật giáo.
Đó là con đường giải thoát khổ, hưởng
sự an lạc lâu dài trong kiếp sau, do nhờ được tái sinh trong cõi trời sắc giới,
cõi trời vô sắc giới.
3- Giải thoát khổ hoàn toàn như thế nào?
Trong đời này, bậc thiện trí phàm nhân
có trí tuệ sáng suốt, có trình độ hiểu biết giáo pháp của Đức Phật sâu sắc và
uyên thâm, nên biết suy xét rằng:
“Sinh mạng của mỗi chúng sinh hoàn toàn
tùy thuộc vào nghiệp và tuổi thọ. Vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài
từ vô thủy không sao biết được, có khi tạo nghiệp ác, có khi tạo nghiệp
thiện.
Nếu nghiệp ác cho quả, thì sẽ tái sinh
trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc
sinh.
Nếu nghiệp thiện cho quả, thì sẽ tái
sinh trong cõi thiện giới đó là cõi người, 6 cõi trời dục giới, 16 cõi trời sắc
giới, 4 cõi trời vô sắc giới, tùy theo năng lực của nghiệp thiện ấy. Dù chúng
sinh nào đã được tái sinh trong cõi nào, cõi ấy cũng chỉ là cõi tạm trú theo
tuổi thọ của chúng sinh ấy mà thôi. Trong 31 cõi tam giới có số cõi có tuổi
thọ không nhất định, có số cõi có tuổi thọ nhất định. Cõi cao nhất trong tam
giới và có tuổi thọ lâu dài nhất là cõi trời vô sắc Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ Thiên, có tuổi thọ 84.000 đại kiếp trái đất, nghĩa là phạm
thiên trong cõi này được tạm trú lâu dài nhất, không
có nghĩa là thường trú vĩnh viễn. Vị phạm thiên trong cõi trời vô
sắc này đến khi hết tuổi thọ, sau khi chết, do nghiệp thiện dục giới cho quả tái
sinh trở xuống cõi thiện dục giới đó là cõi người hoặc cõi trời dục giới; rồi
lại tiếp tục cuộc hành trình tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, mà
tử sinh luân hồi là khổ, không tử sinh luân hồi là
lạc. Nhưng chúng sinh còn có vô minh (avijjā) tối tăm
vì chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, còn có tham ái (taṇhā) như
sợi dây cột cổ dẫn dắt trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài,
không sao giải thoát ra khỏi khổ được.
Trong vòng tử sinh luân hồi, không phải
kiếp nào cũng được sinh làm người giàu sang phú quý, làm chư thiên trong cõi
trời dục giới, làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới như
vậy được cả đâu!
Nếu còn là hạng phàm nhân có đầy đủ
nguyên vẹn vô minh, tham ái, phiền não thì khó tránh khỏi sa đọa vào trong 4 cõi
ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh”.
Trong bộ Jātaka tiền kiếp của Đức Phật
Gotama, khi Ngài còn là Đức Bồ Tát, có kiếp cũng bị tái sinh ở cõi địa ngục, súc
sinh, v.v… huống gì những hạng phàm nhân tầm thường, thì làm sao tránh khỏi 4
cõi ác giới ấy được!
Một Ngài Đại Trưởng Lão dạy rằng:
Một vật được ném mạnh lên hư không, dù mau, dù chậm vật ấy cũng phải rơi
xuống mặt đất, chính mặt đất là nơi đón nhận mọi vật rơi từ hư không xuống. Cũng
như vậy, chúng sinh trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài từ vô
thủy không sao biết được, chắc chắn khó mà tránh khỏi sa đọa trong 4 cõi ác
giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.
Thật vậy, chính thiện nghiệp nâng đỡ
cho quả tái sinh làm người trong cõi người, làm chư thiên trong cõi trời dục
giới, làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới; mà thiện
nghiệp nào cho quả cũng có thời hạn của nó. Cho nên, chúng sinh đã được sinh
trong cõi nào cũng có thời gian tuổi thọ trong cõi ấy, đến khi hết tuổi thọ, dù
muốn hay không cũng phải từ bỏ cõi ấy, rồi tùy theo nghiệp của mình cho quả tái
sinh đến cõi khác. Tất cả chúng sinh còn vô minh tối tăm, vì chưa chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, còn có tham ái như sợi dây cột cổ dẫn dắt luẩn quẩn trong vòng
tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Giải thích:
Ba Giới - Bốn Loài
* Ba giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc
giới.
1- Dục giới có 11 cõi
2- Sắc giới có 16 cõi
3- Vô sắc giới có 4 cõi
Tam giới gồm có 31 cõi là nơi tạm trú
của chúng sinh.
1- Dục giới có 11 cõi như sau:
* 4 cõi ác giới:
- Cõi địa ngục có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi atula có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi ngạ quỷ có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi súc sinh có tuổi thọ không nhất định.
* 7 cõi thiện giới:
- Cõi người có tuổi thọ không nhất định.
- Cõi trời Tứ Đại Thiên Vương có tuổi thọ 500 năm trời,
bằng 9 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm
cõi người).
- Cõi trời Tam Thập Tam Thiên có tuổi thọ 1.000 năm trời,
bằng 36 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm
cõi người).
- Cõi trời Dạ Ma Thiên có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng
144 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi
người).
- Cõi trời Đẩu Xuất Đà Thiên có tuổi thọ 4.000 tuổi trời,
bằng 576 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm
cõi người).
- Cõi trời Hóa Lạc Thiên có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng
2.304 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm
cõi người).
- Cõi trời Tha Hóa Tự Tại Thiên có tuổi thọ 16.000 tuổi
trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng
1.600 năm cõi người)
2- Sắc giới có 16 cõi chia theo quả của 4 bậc thiền hữu sắc như
sau:
* Quả đệ nhất thiền hữu sắc có 3 cõi:
- Cõi Phạm Phụ Thiên có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ kiếp
trụ.
- Cõi Đại Phạm Thiên có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ kiếp
trụ.
* Quả đệ nhị thiền hữu sắc có 3 cõi:
- Cõi Vô Lượng Quang Thiên có tuổi thọ 4 đại
kiếp.
- Cõi Quang Âm Thiên có tuổi thọ 8 đại kiếp.
* Quả đệ tam thiền hữu sắc có 3 cõi:
- Cõi Thiểu Tịnh Thiên có tuổi thọ 16 đại kiếp.
- Cõi Vô Lượng Tịnh Thiên có tuổi thọ 32 đại
kiếp.
- Cõi Biến Tịnh Thiên có tuổi thọ 64 đại kiếp.
* Quả đệ tứ thiền hữu sắc có 7 cõi:
- Cõi Quảng Quả Thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp.
- Cõi Vô Tưởng Thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp.
- Cõi Phước Sinh Thiên có 5 cõi dành riêng cho bậc Thánh
Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:
+ Cõi Vô Phiền Thiên có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
+ Cõi Vô Nhiệt Thiên có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
+ Cõi Thiện Hiện Thiên có tuổi thọ 4.000 đại
kiếp.
+ Cõi Thiện Kiến Thiên có tuổi thọ 8.000 đại
kiếp.
+ Cõi Sắc Cứu Cánh Thiên có tuổi thọ 16.000 đại
kiếp.
3- Vô sắc giới có 4 cõi tuần tự theo quả của 4 bậc thiền vô sắc như
sau:
- Đệ nhất thiền vô sắc là không vô biên xứ thiền cho quả
tái sinh (hóa sinh) lên cõi Không Vô Biên Xứ Thiên có tuổi thọ 20.000 đại
kiếp.
- Đệ nhị thiền vô sắc là thức vô biên xứ thiền cho quả tái
sinh (hóa sinh) lên cõi Thức Vô Biên Xứ Thiên có tuổi thọ 40.000 đại
kiếp.
- Đệ tam thiền vô sắc là vô sở hữu xứ thiền cho quả tái
sinh (hóa sinh) lên cõi Vô Sở Hữu Xứ Thiên có tuổi thọ 60.000 đại
kiếp.
- Đệ tứ thiền vô sắc là phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền
cho quả tái sinh (hóa sinh) lên cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên có
tuổi thọ 84.000 đại kiếp lâu dài nhất trong tam giới.
* Bốn loài: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa
sinh.
1- Thai sinh: Chúng sinh sinh từ bụng mẹ như loài người;
loài gia súc: Trâu, bò, v.v…
2- Noãn sinh: Chúng sinh được sinh 2 lần: Trước tiên sinh từ
bụng mẹ ra bằng trứng và tiếp theo sau nở từ trứng ra thành con như các loài gia
cầm: Gà, vịt,…; các loài chim, v.v…
3- Thấp sinh: Chúng sinh được sinh từ nơi ẩm thấp như con
giun, con dòi, v.v…
4- Hóa sinh: Chúng sinh được hiện hữu đầy đủ ngay tức khắc,
không theo quá trình tăng trưởng như 3 loài chúng sinh trên. Các chúng sinh ấy
là chư thiên trong cõi trời dục giới, phạm thiên trong cõi trời sắc giới, cõi
trời vô sắc giới; chúng sinh trong địa ngục, chúng sinh loài atula, chúng sinh
loài ngạ quỷ. Và đặc biệt loài người xuất hiện đầu tiên trên trái đất cũng thuộc
chúng sinh hóa sinh.
Chúng sinh còn có vô minh
tối tăm, vì chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, còn có tham ái như
sợi dây cột cổ dẫn dắt tái sinh kiếp nhỏ, kiếp lớn trong vòng tử sinh luân hồi
trong ba giới bốn loài từ vô thủy không sao biết được.
Ngoại trừ 5 cõi trời Tịnh Cư Thiên chỉ
dành cho các bậc Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc ra, còn lại 26 cõi
khác trong tam giới, chúng sinh đều đã từng tái sinh trong các cõi ấy; nhưng có
lẽ cõi mà chúng sinh tái sinh nhiều lần, nhiều kiếp nhất đó là 4 cõi ác giới:
Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.
Sinh Làm Người Là Điều
Khó
- “Này chư Tỳ khưu, ví như khắp mặt đất này bị ngập trong nước
biển sâu; một người ném một cái ách 2 có lỗ nhỏ
xuống nước. Khi gió đông thổi, cái ách ấy trôi về hướng Tây; khi gió tây thổi,
cái ách ấy trôi về hướng Đông; khi gió nam thổi, cái ách trôi về hướng Bắc; khi
gió bắc thổi, cái ách trôi về hướng Nam. Một con rùa đui ở dưới đáy biển, cứ mỗi
khoảng cách thời gian trải qua 100 năm, 100 năm nó chỉ nổi lên trên mặt nước một
lần.
Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức
thế nào về điều này, con rùa đui ấy, cứ mỗi khoảng cách thời gian trải qua 100
năm nó mới nổi lên trên mặt nước một lần, nó có thể chui cái đầu đúng vào ngay
cái lỗ của cái ách ấy được hay không?
Chư Tỳ khưu bạch
rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, cứ mỗi khoảng cách thời gian 100 năm,
100 năm, nó chỉ nổi lên trên mặt nướcmột lần. Con rùa đui chui cái đầu lọt đúng
vào ngay cái lỗ của cái ách ấy thật vô cùng khó. Bạch Ngài.
Đức Phật dạy rằng:
- Này chư Tỳ khưu, cũng như thế! Được sinh làm người là một
điều khó.
Đức Như Lai, Bậc Arahán, Bậc Đức
Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
Pháp và Luật mà Như Lai đã thuyết
giảng, rồi được phổ biến rộng rãi trong thế gian này là một điều
khó.
Nay các con được sinh làm người, Như
Lai, Đức Arahán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện trên thế gian, Pháp và
Luật mà Như Lai đã thuyết giảng cũng được phổ biến rộng rãi trong thế gian
này.
Này chư Tỳ khưu, như vậy, các con
nên cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rằng:
Đây là Khổ Thánh Đế, đây là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, đây là Diệt Khổ Thánh Đế,
đây là Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”.
Trong Chú giải bài kinh này
dạy:
Nếu cái ách ấy chưa mục nát, nước biển
cũng chưa khô cạn, con rùa đui cũng chưa chết, thì ráng sức chờ đợi thời gian
trải qua cứ 100 năm, nó mới nổi lên mặt nước một lần, nếu may mắn gặp được cái
ách ấy, và cái đầu con rùa đui chui đúng ngay vào cái lỗ của cái ách ấy. Nếu con
rùa đui không gặp cái ách ấy, thì lại lặn xuống đáy biển nằm chờ đợi 100 năm
sau. Và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi có cơ hội may, con rùa đui chui cái đầu
vào lỗ của cái ách ấy được. Đó là một điều thật khó. Cho nên, Đức Phật dạy:
“Được sinh làm người là một điều rất
khó, cũng như con rùa đui chui cái đầu đúng vào lỗ của cái ách.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian
cũng là một điều rất khó, Giáo pháp của Đức Phật được lưu truyền trên thế gian
cũng là một điều rất khó, cũng như con rùa đui chui cái đầu đúng vào lỗ cái
ách”.
Thật vậy, khi Đức Phật đang còn hiện
hữu trên thế gian, hằng ngày Ngài thường khuyên dạy, nhắc nhở các hàng Thanh Văn
đệ tử rằng:
“Bhikkhave appamādena
sampādetha.
Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ.
Dullabho manussattapaṭilābho.
Dullabhā khaṇasampatti.
Dullabhā pabbajjā.
Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ” 1 .
Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ.
Dullabho manussattapaṭilābho.
Dullabhā khaṇasampatti.
Dullabhā pabbajjā.
Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ” 1 .
“Này chư Tỳ khưu, các con hãy nên cố
gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, thực hành Tứ
Niệm Xứ.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian là
một điều khó.
Được sinh làm người là một điều khó.
Có cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
Được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
Được nghe chánh pháp là một điều khó”.
Được sinh làm người là một điều khó.
Có cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
Được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
Được nghe chánh pháp là một điều khó”.
Đó là những điều khó mà Đức Phật hằng
ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ nên dể duôi.
Hiện tại, chúng ta đang được sinh làm
người, có duyên lành gặp được chánh pháp của Đức Phật đang còn lưu truyền trên
thế gian này, đó cũng là một diễm phúc lớn lao và vô cùng hy hữu.
Chúng ta chớ nên dể duôi, cố gắng tinh
tấn thực hành Tứ Niệm Xứ hoặc thực hành thiền tuệ.
Nếu chúng ta có đủ pháp hạnh ba-la-mật
đã tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, hỗ trợ cho pháp hành thiền
tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào,
trở thành bậc Thánh Nhân, thì thật là cao quý biết dường nào!
Nếu chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh
Quả nào trong kiếp hiện tại, thì âu cũng là cơ hội tốt, một dịp may hiếm có để
bồi bổ thêm pháp hạnh ba-la-mật, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị lai.
Nếu vì sự dể duôi nào, chẳng may nghiệp
ác có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới, thì đó là một sự thiệt hại lớn
lao, làm trì hoãn thời gian, kéo dài vòng tử sinh luân hồi không sao hạn định
được.
Vả lại, thời đại này, mạng sống của mỗi
người trong chúng ta rất mong manh, bởi vì có nhiều chứng bệnh, mà có phải chứng
bệnh nào cũng có thể chữa trị khỏi được cả đâu! Nếu chữa trị chứng bệnh không
khỏi, thì đành phải chịu chết. Ngoài ra, còn có nhiều tai nạn đều có thể gây tai
hại đến sinh mạng một cách dễ dàng, mà chính mình cũng không thể bảo vệ được
mình. Ví dụ: Khi chúng ta đang ngồi trên xe, trên tàu, trên máy bay, v.v… khi ấy
sinh mạng của chúng ta hoàn toàn giao trọn cho người tài xế lái xe, tài công lái
tàu, phi công lái máy bay, v.v… có phải vậy không? Một khi mỗi người chúng ta
chết mất kiếp người rồi, để tái sinh trở lại kiếp người thật vô cùng hy hữu, vì
quá ít.
Nên tìm hiểu những bài kinh sau
đây:
Tái Sinh Làm Người Quá
Ít
“Một thuở nọ, Đức Thế Tôn lấy một ít
hạt cát đặt trên đầu móng tay, rồi Ngài gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:
- Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này. Số
lượng hạt cát đang đặt trên đầu móng tay của Như Lai so với số lượng hạt cát
trên trái đất này, số hạt cát nơi nào nhiều hơn?
Chư Tỳ khưu bạch
rằng:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, số hạt cát trên trái đất quá nhiều, vô
lượng không sao đếm được; còn số hạt cát được đặt trên đầu móng tay của Đức Thế
Tôn chỉ là một số ít ỏi mà thôi. Số hạt cát trên trái đất nhiều gấp vô số lần,
còn số hạt cát được đặt trên đầu móng tay của Đức Thế Tôn thật quá ít, không
đáng kể, không đáng so sánh, chỉ là một phần nhỏ li ti mà thôi.
- Này chư Tỳ khưu, cũng như vậy, chúng sinh sau khi chết, do
thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người chỉ là số quá ít. Sự thật, ngoài
tái sinh làm người ra, chúng sinh sau khi chết, do nghiệp cho quả tái sinh làm
các loại chúng sinh khác thì quá nhiều”.
Tương tự như bài kinh Aññasutta
trên, các bài kinh tiếp theo Đức Thế Tôn xác định rõ từng mỗi loài chúng
sinh. Nội dung chính của mỗi bài kinh như sau:
“Cũng như vậy, loài người sau khi
chết, do thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người quá ít. Sự thật, loài
người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng sinh trong địa ngục,
… thì quá nhiều.
Cũng như vậy, loài người sau khi
chết, do thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người chỉ là quá ít. Sự thật,
loài người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm loài atula, làm loài
ngạ quỷ, làm loài súc sinh,… thì quá nhiều.
Cũng như vậy, loài người sau khi
chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong các cõi trời dục
giới; làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, trong cõi trời vô sắc giới số quá
ít. Sự thật, loài người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng
sinh trong cõi địa ngục, làm loài ngạ quỷ, làm loài atula, làm loài súc sinh, …
thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chư thiên sau khi
chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm chư thiên, hoặc làm người
trong cõi người quá ít. Sự thật, chư thiên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả
tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài ngạ quỷ, làm loài atula,
làm loài súc sinh, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh trong cõi
địa ngục mãn nghiệp, sau khi chết do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người
trong cõi người, hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự
thật, chúng sinh trong cõi địa ngục mãn nghiệp, sau khi chết do ác nghiệp cho
quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục nhỏ, làm loài ngạ quỷ, làm loài
atula, làm loài súc sinh, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh loài súc
sinh, sau khi chết do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người,
hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự thật, chúng sinh
loài súc sinh, sau khi chết do ác nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm loài súc
sinh, làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài atula, làm loài ngạ quỷ, … thì
quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh loài ngạ
quỷ, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người,
hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự thật, chúng sinh
loài ngạ quỷ, sau khi chết do ác nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm loài ngạ
quỷ, làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài atula, làm loài súc sinh, … thì
quá nhiều”…
Qua các bài kinh trên, hạng thiện trí
phàm nhân có sự nhận thức đúng đắn rằng: “Chúng sinh (chưa phải là bậc Thánh
Nhân) hễ còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì khó tránh khỏi bị sa
đọa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh”.
* Tại sao chúng sinh bị sa đọa trong 4 cõi ác
giới?
Sở dĩ chúng sinh bị sa đọa trong 4 cõi
ác giới là vì chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Chân lý Tứ Thánh Đế đó là:
- Khổ Thánh Đế (Dukkha ariyasacca) đó là chấp
thủ trong ngũ uẩn, Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng
ngộ.
- Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Dukkhasamudaya
ariyasacca) đó là Tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà
bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Tập Thánh Đế.
- Diệt Khổ Thánh Đế (Dukkhanirodha
ariyasacca) đó là Niết Bàn, Diệt Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc
Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Diệt Thánh Đế.
- Pháp hành dẫn đến diệt Khổ Thánh Đế
(Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca) đó là Bát Chánh
Đạo, pháp hành dẫn đến Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc
Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Đạo Thánh Đế.
Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ,
hoặc thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế lần thứ
nhất chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn
tuyệt được tâm tà kiến và tâm hoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập
Lưu. Bậc Thánh Nhập Lưu chắc chắn vĩnh viễn không còn tái sinh
trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh nữa. Bậc Thánh
Nhập Lưu chỉ còn tử sinh luân hồi trong cõi người và cõi trời dục giới nhiều
nhất đến 7 kiếp nữa. Trong kiếp thứ 7 ấy chắc chắn sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt
mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh Arahán,
ngay trong kiếp ấy sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba
giới bốn loài.
Như vậy, chúng sinh còn luẩn quẩn trong
vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài là vì chưa từng chứng ngộ chân lý
Tứ Thánh Đế.
Thật vậy, trích dẫn một đoạn kinh trong
bài kinh Mahāparinibbānasutta 1 (Kinh
Đại Niết Bàn) như sau:
“Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại
làng Koṭi trong xứ Vajji. Khi ấy, Đức Thế Tôn gọi chư Tỳ khưu bèn dạy
rằng:
- Này chư Tỳ khưu, trước kia, vì chưa chứng ngộ, chưa thông
suốt chân lý Tứ Thánh Đế, nên Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt
thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Chân lý Tứ Thánh Đế mà chưa chứng
ngộ là thế nào?
Này chư Tỳ khưu, vì chưa chứng ngộ,
chưa thông suốt “Khổ Thánh Đế ”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải
trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba
giới bốn loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt
“Nhân sinh Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua
suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt
“Diệt Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt
thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt
“Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải
qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới
bốn loài.
Này chư Tỳ khưu, nay Như Lai đã
chứng ngộ, đã thông suốt “Khổ Thánh Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt
“Nhân sinh Khổ Thánh Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt “Diệt Khổ Thánh
Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt “Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”; đã
diệt đoạn tuyệt tham ái trong mọi kiếp (bhavataṇhā) không còn dư sót; tham ái
trong kiếp ví như sợi dây cột cổ dẫn dắt tái sinh kiếp sau đã bị cắt đứt xong
rồi. Bây giờ, Như Lai không còn tái sinh kiếp nào nữa”.
Sau khi thuyết xong thời pháp, Đức Thế
Tôn thuyết bài kệ tóm tắt rằng:
“Catunnaṃ
ariyasaccānaṃ,
Yathābhūtaṃ adassanā.
Saṃsitaṃ dīghamaddhānaṃ,
Tāsu tāsveva jātisu.
Tāni etānī diṭṭhāni,
Bhavenetti samūhatā,
Ucchinnaṃ mūlaṃ dukkhassa.
Natthi dāni punabbhavo 1 ”.
Yathābhūtaṃ adassanā.
Saṃsitaṃ dīghamaddhānaṃ,
Tāsu tāsveva jātisu.
Tāni etānī diṭṭhāni,
Bhavenetti samūhatā,
Ucchinnaṃ mūlaṃ dukkhassa.
Natthi dāni punabbhavo 1 ”.
Vì chưa ngộ chân lý Tứ Thánh
Đế,
Nên đã phải trải qua suốt thời gian
Lâu dài trong vòng tử sinh luân hồi
Từ vô thủy kiếp này sang kiếp khác.
Nay Như Lai đã ngộ Tứ Thánh Đế,
Tham ái, sợi dây đã bị đoạn tuyệt,
Gốc rễ của Khổ đế bị chặt đứt.
Nay không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Nên đã phải trải qua suốt thời gian
Lâu dài trong vòng tử sinh luân hồi
Từ vô thủy kiếp này sang kiếp khác.
Nay Như Lai đã ngộ Tứ Thánh Đế,
Tham ái, sợi dây đã bị đoạn tuyệt,
Gốc rễ của Khổ đế bị chặt đứt.
Nay không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Đức Thế Tôn thuyết dạy pháp hành
giải thoát khổ sinh: Đây là giới, đây là định, đây là tuệ.
* Do nương nhờ nơi giới, nên định được phát sinh, đem lại nhiều
quả báu trong tam giới, trong Siêu tam giới.
* Do nương nhờ nơi định, nên tuệ được phát sinh, đem lại nhiều
quả báu trong tam giới, trong Siêu tam giới.
* Do nương nhờ nơi tuệ, nên phát sinh Siêu tam giới tâm, đó là
4 Tâm Thánh Đạo, 4 Tâm Thánh Quả giải thoát khỏi phiền não trầm luân 2 : Dục
giới trầm luân (kāmāsava); kiếp trầm luân trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới
(bhavāsava) và vô minh trầm luân (avijjāsava).
TỨ THÁNH ĐẾ
(CATUARIYASACCA)
(CATUARIYASACCA)
Tứ Thánh
Đế (Ariyasacca) là 4 sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng
ngộ, đó là:
1- Khổ Thánh Đế (Dukkha
ariyasacca): Danh pháp, sắc pháp trong tam giới là Khổ Thánh Đế,
là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế
(Dukkhasamudaya ariyasacca): Tâm tham ái là Nhân sinh Khổ
Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ; hay gọi tắt là
Tập Thánh Đế (Samudaya ariyasacca).
3- Diệt Khổ Thánh Đế
(Dukkhanirodha ariyasacca): Niết Bàn là pháp diệt Khổ
Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ; hay gọi tắt là Diệt
Thánh Đế (Nirodha ariyasacca).
4- Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca): Bát
Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng
ngộ Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ;
hay goi tắt là Đạo Thánh Đế (Magga ariyasacca).
Tứ Thánh
Đế là nền tảng căn bản trong giáo pháp của Chư Phật trong
quá khứ, hiện tại và vị lai.
* Đức Thế Tôn có Ân đức là “Sammāsambuddha”:
Chánh Đẳng Giác, là do chính Ngài đã tự mình chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và
Niết Bàn, trở thành bậc Thánh đầu tiên, được tôn xưng là Bậc
Chánh Đẳng Giác cao thượng, độc nhất vô nhị trong 10 ngàn thế giới chúng
sinh.
* Đức Thế Tôn
có Ân đức “Buddha”, Đức Phật, là do chính Ngài đã tự mình chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế đầu tiên, rồi Ngài đem ra giáo huấn cho chúng
sinh có duyên lành cùng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài.
Sau khi trở
thành Bậc Chánh Đẳng Giác, Đức Phật đã ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là
Isipatana, để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu: Đại đức Koṇḍañña, Đại đức Vappa, Đại
đức Bhaddiya, Đại đức Mahānāma, Đại đức Assaji. Đức Thế Tôn thuyết giảng
bài kinh đầu tiên gọi là “Dhammacakkappavattanasutta”: Kinh Chuyển Pháp
Luân. Khi nhóm 5 Tỳ khưu lắng nghe xong bài kinh, trong đó Đại đức
Koṇḍañña, vị trưởng nhóm đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập
Lưu, vị Thánh Thanh Văn đệ tử đầu tiên trong giáo pháp của Đức
Phật Gotama, cùng với 180 triệu chư thiên và phạm thiên cũng chứng ngộ chân
lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả cùng trong lúc ấy.
Trong bài kinh
Chuyển Pháp Luân này, có một đoạn Đức Thế Tôn khẳng định truyền
dạy toàn cõi thế giới rằng:
“Yato ca
kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ
yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi”.
Athāhaṃ
bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya
devamanussāya “Anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho” ti paccaññāsiṃ…” 1
“Này Chư Tỳ
khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh
Đế theo tam tuệ luân thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã phát sinh
đến với Như Lai.
Này Chư Tỳ
khưu, khi ấy Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: “Như Lai đã chứng đắc thành Bậc
Chánh Đẳng Giác Vô Thượng trong toàn thế giới chúng sinh: Gồm nhân loại, Vua
Chúa, Samôn, Bàlamôn, Chư thiên, Ma vương và Phạm thiên cả thảy”.
Như vậy, Đức
Thế Tôn có Ân đức: “Sammāsambuddha” vì chính Ngài tự chứng ngộ
chân lý Tứ Thánh Đế theo tam tuệ luân là:
- Trí tuệ học (saccañāṇa).
- Trí tuệ hành (kiccañāṇa).
- Trí tuệ thành (katañāṇa).
Ba loại trí
tuệ trong Tứ Thánh Đế (3x4) thành 12 loại trí tuệ, mà Đức Phật đã tuần tự chứng
đạt một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, để trở thành bậc Chánh Đẳng
Giác (Sammāsambuddho).
Đối với hàng
Phật tử là bậc xuất gia Sadi, Tỳ khưu, cũng như hàng tại gia cư sĩ là cận sự
nam, cận sự nữ, cùng tất cả chư thiên, phạm thiên có nguyện vọng trở thành bậc
Thánh Nhân, phải hành theo con đường duy nhất mà Đức Phật đã thực hành. Đó là:
Pháp hành thiền tuệ để dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo tam tuệ
luân, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, pháp giải thoát khổ tử
sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Tìm Hiểu Ý
Nghĩa Tứ Thánh Đế
1- Khổ Thánh Đế đó là
chấp thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới,
là sự thật chân lý Khổ Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực trạng là:
- Thực trạng khổ luôn luôn hành hạ.
- Thực trạng khổ là do nhân duyên cấu tạo.
- Thực trạng khổ làm nóng nảy.
- Thực trạng khổ là do luôn luôn biến đổi.
2- Tập Thánh Đế: Đó
là tâm tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực trạng
là:
- Thực trạng làm nhân sinh khổ,
- Thực trạng làm cho phát sinh Khổ đế.
- Thực trạng ràng buộc trong khổ, không thoát ra khỏi khổ
được.
- Thực trạng dính mắc trong Khổ đế.
3- Diệt Thánh Đế: Đó
là Niết Bàn, pháp diệt Khổ Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực trạng
là:
- Thực trạng giải thoát mọi cảnh Khổ Thánh Đế.
- Thực trạng không bị ràng buộc trong Khổ Thánh Đế.
- Thực trạng không bị nhân duyên nào cấu tạo.
- Thực trạng không còn sinh tử nữa.
4- Đạo Thánh Đế: Đó là
pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, có 4 ý nghĩa thực trạng
là:
- Thực trạng pháp hành dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
- Thực trạng pháp hành là nhân dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn.
- Thực trạng pháp hành để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
- Thực trạng pháp hành dẫn đầu làm phận sự biết Khổ Thánh Đế, diệt
Nhân sinh Khổ Thánh Đế, chứng ngộ Niết Bàn.
Tất cả 16 ý
nghĩa thực trạng của Tứ Thánh Đế này đồng thành tựu trong Tâm Thánh
Đạo.
Tam Tuệ
Luân
Tam tuệ
luân (tiparivaṭṭa): Là 3 bậc trí tuệ luân chuyển theo Tứ Thánh Đế
như sau:
1- Saccañāṇa: Trí tuệ học Tứ Thánh Đế.
2- Kiccañāṇa: Trí tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế.
3- Katañāṇa: Trí tuệ thành hoàn thành phận sự Tứ
Thánh Đế.
1- Trí Tuệ Học Tứ Thánh Đế
1. 1- Trí
tuệ học Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học là
hiểu biết rõ các chi pháp trong Khổ Thánh Đế.
Khổ Thánh
Đế đó là chấp thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc pháp trong tam
giới mà bậc Thánh Nhân chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.
* Chấp thủ ngũ uẩn là:
- Chấp thủ trong sắc uẩn: Sắc uẩn là đối tượng của
tham ái, tà kiến chấp thủ.
- Chấp thủ trong thọ uẩn: Thọ uẩn là đối tượng của
tham ái, tà kiến chấp thủ.
- Chấp thủ trong tưởng uẩn: Tưởng uẩn là đối tượng
của tham ái, tà kiến chấp thủ.
- Chấp thủ trong hành uẩn: Hành uẩn là đối tượng của
tham ái, tà kiến chấp thủ.
- Chấp thủ trong thức uẩn: Thức uẩn là đối tượng của
tham ái, tà kiến chấp thủ.
* Danh pháp, sắc pháp trong tam giới là:
- Danh pháp trong tam giới đó là tâm và tâm
sở.
* Tâm tam giới: Có 81 tâm (không có 8 hay 40 tâm
Siêu tam giới, vì không phải Khổ Thánh Đế):
- Tâm dục giới có 54 tâm.
- Tâm sắc giới có 15 tâm.
- Tâm vô sắc giới có 12 tâm.
* Tâm sở: Có 51 tâm sở (không có tâm sở tham, vì
tâm sở tham thuộc Tập Thánh Đế).
- Sắc pháp chỉ có trong dục giới và sắc giới,
không có trong vô sắc giới, có tất cả 28 sắc pháp.
Như vậy, gồm
có 81 tâm tam giới + 51 tâm sở + 28 sắc pháp là Khổ Thánh Đế, là pháp mà
bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ.
1. 2- Trí
tuệ học Tập Thánh Đế
Trí tuệ học là
hiểu biết rõ các chi pháp trong Tập Thánh Đế.
Tập Thánh
Đế đó là tâm tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế.
Tham ái
(taṇhā): Có 3 loại, 6 loại, 54 loại, 108 loại:
* Tham ái theo tính chất có 3 loại:
1- Kāmataṇhā: Dục ái, tham ái trong 6
trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trong dục giới.
2- Bhavataṇhā: Hữu ái, tham ái trong 6
trần hợp với thường kiến (sassatadiṭṭhi) thấy sai lầm cho là
thường tồn. Hoặc tham ái trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới; trong
thiền hữu sắc, thiền vô sắc.
3- Vibhavataṇhā: Phi hữu ái, tham ái
trong 6 trần hợp với đoạn kiến (ucchedadiṭṭhi) thấy sai lầm cho là
không có. Tâm tham ái hoan hỷ với đoạn kiến như vậy.
* Tham ái theo 6 đối tượng có 6 loại:
Mỗi tham ái
phát sinh do nương nhờ 6 đối tượng, nên có 6 loại tham ái:
1- Sắc ái, tham ái trong sắc trần.
2- Thanh ái, tham ái trong thanh trần.
3- Hương ái, tham ái trong hương trần.
4- Vị ái, tham ái trong vị trần.
5- Xúc ái, tham ái trong xúc trần.
6- Pháp ái, tham ái trong pháp trần.
* Tham ái theo 3 thời:
3 loại tham ái
nhân với 6 đối tượng của tham ái thành 18 loại tham ái phát sinh theo 3
thời:
- Thời quá khứ có 18 loại tham ái.
- Thời hiện tại có 18 loại tham ái.
- Thời vị lai có 18 loại tham ái.
* Tham ái theo 2 bên (bên trong và bên ngoài):
3 loại tham ái
nhân với 6 đối tượng của tham ái nhân với 3 thời thành 54 loại tham ái phát sinh
bên trong của mình và bên ngoài mình của người.
- Bên trong của mình có 54 loại tham ái.
- Bên ngoài mình của người có 54 loại tham ái.
Tổng cộng tâm
tham ái gồm có:
3 x 6 x 3 x 2
= 108 loại tham ái.
108 loại tham
ái này đều là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ
bằng Thánh Đạo Tuệ.
Tâm tham
ái không những là nhân sinh khổ ở kiếp hiện tại, mà còn là nhân
sinh khổ dẫn dắt tái sinh trong kiếp sau nữa. Hễ còn tâm tham ái,
thì còn phải tái sinh kiếp sau.
1. 3- Trí
tuệ học Diệt Khổ Thánh Đế
Trí tuệ học là
hiểu biết rõ các chi pháp trong Diệt Khổ Thánh Đế.
Diệt Khổ
Thánh Đế: Đó là Niết Bàn, pháp diệt Nhân sinh Khổ Thánh
Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế.
* Niết Bàn có 2 loại theo bậc Thánh Arahán
1- Hữu Dư Niết Bàn (Sa upādisesanibbāna): Niết
Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền
não không còn dư sót, còn gọi là Phiền Não Niết Bàn
(Kilesaparinibbāna), nhưng ngũ uẩn vẫn còn tồn tại cho đến hết
tuổi thọ.
2- Vô Dư Niết Bàn (Anupādisesanibbāna): Niết
Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi
phiền não không còn dư sót; đồng thời đến lúc hết tuổi thọ, ngũ uẩn tịch
diệt Niết Bàn, còn gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna),
chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.
* Niết Bàn có 3 loại theo đối tượng
1- Vô Tướng Niết Bàn
(Animittanibbāna): Hành giả thực hành thiền tuệ, khi trí
tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp có trạng thái vô
thường hiện rõ hơn trạng thái khổ và trạng thái vô ngã, do
tín pháp chủ (saddhindriya) có năng lực hơn 4 pháp chủ khác,
thì sẽ dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Vô Hiện Tượng Niết Bàn: Niết
Bàn không có hiện tượng pháp hành hữu vi”.
2- Vô Ái Niết Bàn (Appaṇihitanibbāna): Hành
giả thực hành thiền tuệ, khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh
pháp, sắc pháp có trạng thái khổ hiện rõ hơn trạng thái vô thường
và trạng thái vô ngã, do định pháp chủ (samādhindriya)
có năng lực hơn 4 pháp chủ khác, thì sẽ dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn gọi
là “Vô Ái Niết Bàn”: Niết Bàn không có tham ái nương nhờ.
3- Chơn Không Niết Bàn (Suññatanibbāna):
Hành giả thực hành thiền tuệ, khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ
danh pháp, sắc pháp có trạng thái vô ngã hiện rõ hơn trạng thái vô
thường và trạng thái khổ, do tuệ pháp chủ (paññindriya)
có năng lực hơn 4 pháp chủ khác, thì sẽ dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn gọi là
“Chơn Không Niết Bàn”: Niết Bàn hoàn toàn vô ngã, không phải ta, không phải
của ta.
Vậy, các loại
Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh
Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ.
1. 4- Trí
tuệ học Đạo Thánh Đế
Trí tuệ học là
hiểu biết rõ các chi pháp trong Đạo Thánh Đế.
Đạo
Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành
dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế.
Bát Chánh
Đạo:
- Chánh kiến: Trí tuệ chân chính, là trí
tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế: Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế,
Diệt Thánh Đế và Đạo Thánh Đế.
- Chánh tư duy: Tư duy chân chính, là tư
duy thoát ra khỏi ngũ trần, tư duy không làm khổ mình khổ người, tư duy không
làm hại mình hại người.
- Chánh ngữ: Nói lời chân chính, là tránh
xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục (chửi
rủa, mắng nhiếc), tránh xa sự nói lời vô ích.
- Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính, là
tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà
dâm.
- Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính, là
tránh xa cách sống tà mạng do thân và khẩu hành ác.
- Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính
là:
* Tinh tấn
ngăn ác pháp chưa sinh thì không phát sinh.
* Tinh tấn
diệt ác pháp đã sinh.
* Tinh tấn
làm cho thiện pháp chưa sinh thì phát sinh.
* Tinh tấn
làm tăng trưởng thiện pháp đã sinh.
- Chánh niệm: Niệm chân chính, là niệm
thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, (ngoài ra không gọi là chánh
niệm).
- Chánh định: Định chân chính, là định tâm
trong các bậc Siêu tam giới thiền tâm, có Niết Bàn làm đối tượng (ngoài ra, định
tâm ở bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc không gọi là chánh định).
Vậy, Bát
Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Khổ
Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả
Tuệ.
Trên đây là 4
trí tuệ học, là học các chi pháp của Tứ Thánh Đế, thuộc về
phần pháp học (pariyattidhamma).
2- Trí Tuệ Hành Phận Sự Tứ Thánh Đế
Khi 4 trí
tuệ học đã hiểu biết rõ tất cả chi pháp trong Tứ Thánh Đế xong rồi, luân
chuyển đến 4 trí tuệ hành theo phận sự của mỗi Thánh Đế như sau:
2. 1- Trí
tuệ hành phận sự Khổ Thánh Đế
Khổ
Thánh Đế: Đó là chấp thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc
pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên biết
(pariññeyya); hay trí tuệ hành có phận sự nên biết danh pháp, sắc pháp là
Khổ đế. (không phải có phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên thực
hành).
2. 2- Trí
tuệ hành phận sự Tập Thánh Đế
Tập
Thánh Đế: Đó là tâm tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là
pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên diệt (pahātabba); hay trí tuệ hành
có phận sự nên diệt tâm tham ái. (không phải có phận sự nên biết, nên
chứng ngộ, nên thực hành).
2. 3- Trí
tuệ hành phận sự Diệt Khổ Thánh Đế
Diệt Khổ
Thánh Đế: Đó là Niết Bàn, diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là
pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba); hay trí
tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ Niết Bàn. (không phải có phận sự nên
biết, nên diệt, nên thực hành).
2. 4- Trí
tuệ hành phận sự Đạo Thánh Đế
Đạo
Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo, pháp hành dẫn đến chứng ngộ
Niết Bàn, pháp diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có
phận sự nên thực hành (bhāvetabba); hay trí tuệ hành có phận sự nên thực
hành Bát Chánh Đạo. (không phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng
ngộ).
Trên đây là
4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, thuộc về phần pháp
hành (paṭipatti-dhamma).
3- Trí Tuệ Thành Phận Sự Tứ Thánh Đế
Khi 4 trí
tuệ hành đã làm tròn phận sự Tứ Thánh Đế xong rồi, luân chuyển đến 4 trí
tuệ thành, hoàn thành xong phận sự của mỗi Thánh Đế như sau:
3. 1- Trí
tuệ thành phận sự Khổ Thánh Đế
Khổ
Thánh Đế: Đó là chấp thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp,
sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ thành đã biết xong
(pariññata), đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ
thành đã biết xong danh pháp, sắc pháp là Khổ Thánh Đế.
3. 2- Trí
tuệ thành phận sự Tập Thánh Đế
Tập
Thánh Đế: Đó là tâm tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là
pháp mà trí tuệ thành đã diệt xong (pahīna), đã hoàn thành xong phận sự diệt
Tập Thánh Đế, hay trí tuệ thành đã diệt xong tâm tham ái.
3. 3- Trí
tuệ thành phận sự Diệt Khổ Thánh Đế
Diệt Khổ
Thánh Đế: Đó là Niết Bàn, diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là
pháp mà trí tuệ thành đã chứng ngộ xong (sacchikata), đã hoàn thành
xong phận sự chứng ngộ Diệt Thánh Đế, hay trí tuệ thành đã chứng ngộ xong
Niết Bàn.
3. 4- Trí
tuệ thành phận sự Đạo Thánh Đế
Đạo
Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, pháp hành
dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, là pháp mà trí tuệ thành đã thực hành xong
(bhāvita); đã hoàn thành xong phận sự thực hành Đạo Thánh Đế, hay
trí tuệ thành đã thực hành xong Bát Chánh Đạo.
Trên đây là
4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế, thuộc về
pháp thành (paṭivedhadhamma), là sự chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh
Quả và Niết Bàn, gọi là 9 Siêu tam giới pháp
(Navalokuttaradhamma).
Nhân Quả
Liên Quan Tam Tuệ Luân
- 4 trí tuệ học, là học hiểu biết đúng theo các chi pháp
của Tứ Thánh Đế, làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ
hành.
- 4 trí tuệ hành, là hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh
Đế, làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ thành, là đã hoàn thành xong
4 phận sự của Tứ Thánh Đế, đó là sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng
đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai
Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả đến Arahán Thánh Đạo - Arahán
Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán. Trí tuệ thấy rõ, biết rõ phạm hạnh
đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải tái sinh kiếp nào khác
nữa.
Như trong đoạn
kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Thế Tôn khẳng định:
“Ñāṇañca
pana me dassanaṃ udapādi ‘Akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni
punabbhavo’ ti…”.
“Trí tuệ
quán xét đã phát sinh đến Như Lai biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả Tuệ giải thoát
của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp
hiện tại này, không còn phải tái sinh kiếp nào nữa”.
Tam Tuệ
Luân Của Mỗi Thánh Đế
Trong mỗi
Thánh Đế có đủ tam tuệ luân như sau:
1- Khổ Thánh Đế
- Trí tuệ học, là trí tuệ hiểu biết rõ danh pháp, sắc
pháp trong tam giới là Khổ Thánh Đế.
- Trí tuệ hành, là trí tuệ đang thực hành thiền tuệ, để
thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp có phận sự nên biết
(pariññeyya).
- Trí tuệ thành, là trí tuệ đã thực hành thiền tuệ, đã thấy
rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp có phận sự nên biết thì đã biết
xong (pariññāta).
2- Tập Thánh Đế
– Trí tuệ học, là trí tuệ hiểu biết rõ tâm tham ái là
Nhân sinh Khổ Thánh Đế.
– Trí tuệ hành, là trí tuệ đang thực hành thiền tuệ, để
thấy rõ, biết rõ tâm tham ái là pháp có phận sự nên diệt
(pahātabba).
– Trí tuệ thành, là trí tuệ đã thực hành thiền tuệ, đã thấy
rõ, biết rõ tâm tham ái là pháp có phận sự nên diệt thì đã diệt xong
(pahīna).
3- Diệt Thánh Đế
– Trí tuệ
học, là trí tuệ hiểu biết rõ Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh
Đế.
– Trí tuệ
hành, là trí tuệ đang thực hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ Niết
Bàn là pháp có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba).
– Trí tuệ
thành, là trí tuệ đã thực hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là
pháp có phận sự nên chứng ngộ thì đã chứng ngộ xong
(sacchikata).
4- Đạo Thánh Đế
– Trí tuệ
học, là trí tuệ hiểu biết rõ Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ
Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế.
– Trí tuệ
hành, là trí tuệ đang thực hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp có
phận sự nên thực hành (bhāvetabba).
– Trí tuệ
thành, là trí tuệ đã thực hành pháp hành Bát Chánh Đạo, là pháp có phận
sự nên thực hành thì đã thực hành xong (bhāvita).
Trong mỗi
Thánh Đế có tam tuệ luân chuyển. Vậy, trong Tứ Thánh Đế (4 X 3) gồm có 12
tuệ luân chuyển, có thể tượng trưng như một bánh xe Pháp Luân
(Dhammacakka) có 12 căm luân chuyển.
Bảng Tóm
Tắt Tam Tuệ Luân Trong Tứ Thánh Đế
|
Tam Tuệ Luân
|
Tứ Thánh Đế
| |||
|
Khổ Thánh Đế
|
Tập Thánh Đế
|
Diệt Thánh Đế
|
Đạo Thánh Đế
| |
|
Trí tuệ học
|
Danh - Sắc
|
Tham ái
|
Niết Bàn
|
Bát Chánh Đạo
|
|
Trí tuệ hành
|
Nên biết
|
Nên diệt
|
Nên chứng ngộ
|
Nên thực hành
|
|
Trí tuệ thành
|
Đã biết
|
Đã diệt
|
Đã chứng ngộ
|
Đã thực
hành
|
Tứ Thánh Đế |
Tam Tuệ Luân | ||
|
Trí tuệ học
|
Trí tuệ hành
|
Trí tuệ thành
| |
|
Khổ Thánh Đế
|
Danh - Sắc
|
Nên biết
|
Đã biết
|
|
Tập Thánh Đế
|
Tham ái
|
Nên diệt
|
Đã diệt
|
|
Diệt Thánh Đế
|
Niết Bàn
|
Nên chứng ngộ
|
Đã chứng ngộ
|
|
Đạo Thánh Đế
|
Bát Chánh Đạo
|
Nên thực hành
|
Đã thực
hành
|
Tam Tuệ
Luân Của 4 Bậc Thánh Nhân
Mỗi bậc Thánh
Nhân đều trải qua tam tuệ luân trong Tứ Thánh Đế, mỗi tuệ luân có năng lực trí
tuệ khác nhau đối với mỗi bậc Thánh Nhân.
– Bậc Thánh
Nhập Lưu trải qua tam tuệ luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhất, Nhập Lưu
Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được: Tham ái hợp với tà kiến
trong 4 tâm tham hợp tà kiến (còn 4 tâm tham không hợp tà kiến chưa diệt
được).
– Bậc Thánh
Nhất Lai trải qua tam tuệ luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhì, Nhất Lai Thánh
Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được: Tham ái ngũ trần loại thô trong 4 tâm tham
không hợp tà kiến (còn ngũ trần loại vi tế chưa diệt được).
– Bậc Thánh
Bất Lai trải qua tam tuệ luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ ba, Bất Lai Thánh
Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được: Tham ái ngũ trần loại vi tế, trong 4 tâm
tham không hợp tà kiến (thuộc cõi dục giới).
– Bậc Thánh
Arahán trải qua tam tuệ luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ tư, Arahán Thánh Đạo
Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được: Tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, cõi
trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới trong 4 tâm tham không hợp tà kiến, không
còn dư sót.
Tính Chất 4
Phận Sự Của Tứ Thánh Đế
4 trí tuệ
hành và 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế có tính cách
liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau.
Trong
bộ Thanh Tịnh Đạo có ví dụ rằng:
“Khi đốt
một cây đèn dầu (hay cây đèn cầy) trong đêm tối, có 4 sự việc xảy ra đồng thời,
không trước, không sau là:
– Ánh sáng
tỏa ra.
– Bóng tối
bị tan biến.
– Tim đèn
bị cháy mòn.
– Dầu bị
hao dần.
4 sự việc
xảy ra cùng một lúc, không việc nào trước, không việc nào sau.
Cũng giống
như 4 phận sự của Tứ Thánh Đế có tính cách đồng thời, không trước, không
sau”.
Đại đức
Gavampati thưa với chư Tỳ khưu rằng:
“Này chư
pháp hữu, tôi được nghe từ nơi Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Khổ Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng
chứng ngộ Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
- Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Tập Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng
chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
- Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Diệt Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng
chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Đạo Thánh Đế.
- Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Đạo Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng
chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế…”.
Như vậy, Tứ
Thánh Đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời, không trước, không sau.
Phần giải
thích:
* 4 trí tuệ
hành phận sự trong Tứ Thánh Đế
Trong 4 trí
tuệ hành này, trí tuệ hành phận sự biết Khổ đế là chính, còn 3
trí tuệ hành phận sự kia là phụ. Song 4 phận sự có tính cách đồng thời,
không trước, không sau.
- Khi trí tuệ
thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp nào, sắc pháp nào là Khổ đế,
thì,
- Đồng
thời, tâm tham ái là Nhân sinh Khổ đế không sinh (diệt) ở danh pháp ấy,
sắc pháp ấy.
- Cũng đồng
thời, chứng ngộ sự diệt của tâm tham ái, Nhân sinh Khổ đế ở danh pháp ấy,
sắc pháp ấy.
- Trong khi
đang thực hành thiền tuệ với chánh niệm, chánh kiến, chánh tinh tấn,
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế nên biết, Tập Đế nên
diệt, Diệt Đế nên chứng ngộ, thì chính Đạo Đế đang được thực hành.
Như vậy, 4 trí
tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế đồng thời, không trước, không sau.
* 4 trí tuệ
thành phận sự trong Tứ Thánh Đế
4 trí tuệ
thành là đã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế, là quả của 4 trí
tuệ hành. Cũng có tính cách đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết
Bàn làm đối tượng.
- Khi trí tuệ
thiền tuệ Siêu tam giới đó là Thánh Đạo Tuệ đã hoàn thành xong phận sự
biết Khổ Thánh Đế, thì:
- Đồng thời
Thánh Đạo Tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt Tập Thánh
Đế.
- Đồng thời
Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ Diệt Thánh Đế.
- Đồng thời
Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định đồng sinh
với Tâm Thánh Đạo, đã hoàn thành xong phận sự thực hành
Đạo Thánh Đế là:
+ Khổ Thánh Đế nên biết, thì đã biết xong.
+ Tập Thánh Đế nên diệt, thì đã diệt xong.
+ Diệt Thánh Đế nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ
xong.
+ Đạo Thánh Đế nên thực hành, thì đã thực hành
xong.
4 trí tuệ
thành phận sự này, đã hoàn thành xong 4 phận sự Tứ Thánh Đế, đồng thời,
không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng.
Như vậy, trong
4 trí tuệ thành phận sự này, trí tuệ thành phận sự đã thực hành
xong Đạo Thánh Đế là trọng yếu nhất, vì đóng vai trò chính yếu trong
sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết
Bàn.
Vai Trò 4
Trí Tuệ Hành và 4 Trí Tuệ Thành
- Trong 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn
đầu, trí tuệ hành phận sự biết Khổ Thánh Đế đóng vai trò chính yếu; là
trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là Khổ đế, là pháp nên
biết. Trí tuệ hành phận sự mỗi Thánh Đế còn lại cũng thành tựu phận sự cùng
một lúc, không trước không sau.
- Trong 4 trí tuệ thành phận sự của Tứ Thánh Đế,
giai đoạn cuối, trí tuệ thành phận sự đã thực hành Đạo Thánh Đế đóng vai
trò chính yếu; là vì Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh, đồng sinh với Tâm Thánh Đạo, Tâm
Thánh Quả, có Niết Bàn làm đối tượng, hoàn thành xong phận sự đã thực hành xong
Bát Chánh Đạo. Trí tuệ thành phận sự mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu
phận sự cùng một lúc, không trước, không sau.
Tứ Thánh Đế
Trong Giáo Pháp Của Đức Phật
Tứ Thánh Đế là
chân lý của chư bậc Thánh, là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi, trọng yếu trong
giáo pháp của Chư Phật.
1- Khổ Thánh Đế: Đó
là chấp thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới.
Trong giáo pháp của Đức Phật, thì tất cả mọi danh pháp, sắc pháp cõi dục
giới, cõi sắc giới và danh pháp cõi vô sắc giới, đúng theo chân lý
đều là Khổ đế (dukkhasacca).
Trong tam giới
không có pháp nào gọi là “lạc đế”, mà chỉ có “lạc đảo
điên” (sukhavipallāsa), do quan niệm tâm đảo điên
(cittavipallāsa), tà kiến đảo điên (diṭṭhivipallāsa), tưởng
đảo điên (saññāvipallāsa).
Đúng theo chân
lý thì chỉ có Khổ đế mà thôi. Dầu có thọ lạc (sukhavedanā),
nhưng thọ lạc cũng bị vô thường biến đổi, nên cũng chỉ là Khổ
đế.
Như Đại đức Tỳ
khưu ni Vajirā dạy rằng:
“Chỉ có Khổ
đế sinh, Khổ đế trụ, Khổ đế diệt.
Ngoài Khổ đế ra, không có gì sinh, không có gì trụ, không có gì diệt…” 1
Ngoài Khổ đế ra, không có gì sinh, không có gì trụ, không có gì diệt…” 1
Do đó, chấp
thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là Khổ
đế.
2- Tập Thánh Đế: Đó
là tâm tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế.
Tâm tham ái là
nhân sinh khổ trong kiếp hiện tại.
* Nếu tâm tham không được thỏa mãn, thì sinh tâm
sân, không hài lòng, làm khổ tâm.
* Nếu tâm tham mà được, thì sinh tâm chấp thủ, cho
là của ta, lại làm nhân phát sinh tâm sân sầu não, lo sợ cũng làm
khổ tâm.
Như Đức Phật
dạy trong Pháp Cú kệ rằng:
“Sự sầu não
phát sinh do tham ái,
sự lo sợ phát sinh do tham ái.
Bậc Thánh Arahán không tham ái,
không sầu não, từ đâu có lo sợ?” (216).
sự lo sợ phát sinh do tham ái.
Bậc Thánh Arahán không tham ái,
không sầu não, từ đâu có lo sợ?” (216).
Tâm tham ái
là nhân dẫn dắt đi tái sinh khổ trong kiếp sau. Ngoại trừ bậc
Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, còn lại tất cả mọi
chúng sinh: Nhân loại, chư thiên, Phạm thiên và gồm cả 3 bậc Thánh hữu
học: Bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, còn tham
ái, nên còn phải tái sinh khổ trong kiếp sau.
Chúng sinh có
ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn) ở cõi dục giới và sắc
giới, hay chúng sinh có tứ uẩn (thọ, tưởng, hành và thức uẩn) ở cõi vô
sắc giới, hay chúng sinh chỉ có nhất uẩn (sắc uẩn) ở cõi Vô Tưởng
Thiên, cũng đều phải chịu Khổ đế. Chỉ khác nhau là khổ nhiều, khổ ít mà
thôi.
Do đó, tâm
tham ái là Nhân sinh Khổ đế.
3- Diệt Thánh Đế: Đó là
Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt được tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế,
cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế.
* Niết Bàn pháp diệt đoạn tuyệt tâm tham ái
Hành giả thực
hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo Tuệ, có
Niết Bàn làm đối tượng; Thánh Đạo Tuệ nào có khả năng diệt đoạn tuyệt
được tâm tham ái nào, thì tâm tham ái ấy vĩnh viễn không bao giờ
phát sinh trở lại nữa, gọi là “Phiền não Niết Bàn”
(Kilesaparinibbāna). Loại phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt do Thánh
Đạo Tuệ rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không còn sinh trở lại.
Trường hợp
Đức Phật Gotama chứng ngộ “Phiền não Niết Bàn” tại đại cội Bồ
đề.
* Niết Bàn pháp tịch diệt ngũ uẩn
Bậc Thánh
Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót,
đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi
trong ba giới bốn loài, gọi là “Ngũ uẩn Niết Bàn”
(Khandhaparinibbāna). Ngũ uẩn của bậc Thánh Arahán khi tịch diệt Niết Bàn
rồi, không còn tái sinh kiếp sau nữa, như ngọn đèn tắt.
Trường hợp
Đức Phật Gotama tịch diệt, “Ngũ uẩn Niết Bàn” tại khu rừng
Kusinārā.
Do đó, Niết
Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế.
4- Đạo Thánh Đế: Đó là
Bát Chánh Đạo, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn.
Hành giả thực
hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, có Niết
Bàn làm đối tượng. Khi ấy, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định đồng sinh với Tâm Thánh Đạo đã hoàn thành xong 4 phận sự:
– Khổ Thánh
Đế là pháp nên biết, thì Thánh Đạo Tuệ đã biết xong.
- Tập Thánh Đế là pháp nên diệt, thì Thánh Đạo Tuệ đã diệt
xong.
– Diệt
Thánh Đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh Đạo Tuệ đã chứng ngộ
xong.
– Đạo Thánh
Đế là pháp nên thực hành, thì Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh đã thực hành
xong.
Do đó, Bát
Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn.
Tứ Thánh
Đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của Chư
Phật. Vì vậy, hành giả thực hành thiền tuệ, dù có những đối tượng thiền tuệ khác
nhau như “thân, thọ, tâm, pháp, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, danh pháp,
sắc pháp,…”, đến giai đoạn cuối cùng đều đạt đến chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn như
nhau.
Nhân Quả
Liên Quan Của Tứ Thánh Đế
Chân lý Tứ
Thánh Đế có nhân quả liên quan với nhau như sau:
1- Khổ Thánh Đế: Chấp
thủ trong ngũ uẩn, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới (dục giới, sắc
giới, vô sắc giới), là quả của Tập Thánh Đế.
2- Tập Thánh Đế: Tâm
tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, nhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau (taṇhā
ponobbhavikā).
3- Diệt Thánh Đế: Niết
Bàn, không thuộc quả phát sinh do một nhân nào. Vì Niết Bàn
là Pháp Vô Vi (asaṅkhatadhamma), là pháp hoàn toàn không do
một nhân duyên nào cấu tạo.
4- Đạo Thánh Đế: Bát
Chánh Đạo, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn.
Như vậy, Bát
Chánh Đạo là nhân đạt đến Niết Bàn, Diệt Thánh Đế, không phải là nhân
sinh Niết Bàn. Và Niết Bàn, Diệt Thánh Đế cũng không phải là
quả của Đạo Thánh Đế, mà chỉ là đối tượng Siêu tam giới của Đạo
Thánh Đế.
Ví dụ :
Con đường dẫn
đến kinh đô.
– Con
đường ví như Bát Chánh Đạo, là Đạo Thánh
Đế.
– Kinh
đô ví như Niết Bàn, là Diệt Thánh Đế.
Con đường dẫn
đến kinh đô, chứ không phải là nhân sinh kinh đô.
Cũng như vậy,
Đạo Thánh Đế không phải Nhân sinh Diệt Thánh Đế, mà chỉ là nhân đạt đến Diệt
Thánh Đế.
DIỆT ĐOẠN TUYỆT PHIỀN NÃO
Diệt
đoạn tuyệt phiền não (samucchedapahāna): Đó là khả
năng đặc biệt của 4 Thánh Đạo Tuệ, đồng sinh với 4 Tâm Thánh Đạo có Niết Bàn làm
đối tượng.
Loại tham
ái, phiền não, ác pháp nào đã bị diệt đoạn tuyệt bởi Thánh Đạo Tuệ rồi,
thì loại tham ái, phiền não, ác pháp ấy vĩnh viễn không bao giờ phát
sinh trong tâm của bậc Thánh Nhân ấy nữa, nên gọi là Kilesaparinibbāna: Phiền
não Niết Bàn. Nghĩa là, phiền não đã bị diệt đoạn tuyệt rồi sẽ không còn
phát sinh bất cứ lúc nào và bất cứ kiếp nào nữa (đối với bậc Thánh Nhập Lưu, bậc
Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai).
Mỗi bậc Thánh
Đạo Tuệ, có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được một số loại tham ái, phiền
não, ác pháp tùy theo năng lực của mỗi Thánh Đạo Tuệ từ thấp đến cao như
sau:
3 Tham Ái
(Taṇhā)
Tham
ái có chi pháp là tâm sở tham, đồng sinh với 8 tâm
tham, là Nhân sinh Khổ đế trong ba giới bốn loài.
1- Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2
loại tham ái là:
- Vibhavataṇhā (phi hữu ái): Tham ái hợp với đoạn
kiến.
- Bhavataṇhā (hữu ái): Tham ái hợp với thường kiến. Đó là
tâm sở tham, đồng sinh với 4 tâm tham hợp tà kiến.
2- Bậc Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1
loại tham ái là:
- Kāmataṇhā (dục ái): Tham ái trong lục trần loại
thô, trong cõi dục giới. Đó là tâm sở tham, đồng sinh với 4 tâm tham
không hợp tà kiến.
3- Bậc Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1
loại tham ái là:
- Kāmataṇhā (dục ái): Tham ái trong lục trần loại vi
tế, trong cõi dục giới. Đó là tâm sở tham đồng sinh với 4 tâm tham không
hợp tà kiến.
4- Bậc Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1
loại tham ái là:
- Bhavataṇhā (hữu ái): Tham ái trong thiền hữu sắc và thiền
vô sắc, cõi sắc giới và cõi vô sắc giới. Đó là tâm sở tham đồng sinh với
4 tâm tham không hợp tà kiến.
Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt
được tham ái không còn dư sót, nghĩa là diệt đoạn tuyệt được Nhân sinh Khổ Thánh
Đế.
4 Pháp Trầm
Luân (Āsava)
Pháp
trầm luân có chi pháp là tà kiến, tham, si làm cho chúng
sinh say mê, lầm lạc trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, vô thủy
vô chung.
1- Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được
tà kiến trầm luân (diṭṭhāsava). Đó là tâm sở tà kiến
đồng sinh với 4 tâm tham hợp tà kiến.
2- Bậc Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn
tuyệt được ngũ dục trầm luân (kāmāsava) loại thô trong cõi dục
giới. Đó là tâm sở tham đồng sinh với 4 tâm tham không hợp tà
kiến.
3- Bậc Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được
ngũ dục trầm luân loại vi tế trong cõi dục giới. Đó là tâm sở
tham đồng sinh với 4 tâm tham không hợp tà kiến.
4- Bậc Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2
pháp: Kiếp sinh trầm luân (bhavāsava), trong cõi sắc giới, cõi
vô sắc giới; đó là tâm sở tham đồng sinh với 4 tâm tham không hợp tà
kiến. Và vô minh trầm luân (avijjāsava), đó là tâm sở si
đồng sinh với tâm bất thiện.
10 Loại
Phiền Não (Kilesa)
Phiền
não có chi pháp là tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn, hoài
nghi, buồn ngủ, phóng tâm, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi
là những phiền não làm cho tâm ô nhiễm, thân và tâm nóng nảy khiến tạo
nghiệp cho quả tử sinh luân hồi.
1- Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2
loại phiền não là: Tà kiến (diṭṭhi), và hoài nghi
(vicikicchā).
2- Bậc Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1
loại phiền não là: Sân (dosa) loại thô.
3- Bậc Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1
loại phiền não là: Sân loại vi tế.
4- Bậc Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 7
loại phiền não còn lại là: Tham (lobha), si (moha), ngã mạn (māna), buồn ngủ
(thīna), phóng tâm (uddhacca), không biết hổ thẹn tội lỗi (ahirika) và
không biết ghê sợ tội lỗi (anottappa).
12 Tâm Bất
Thiện (Akusalacitta)
Tâm bất
thiện: Đó là 8 tâm tham + 2 tâm sân + 2 tâm si, là những tâm bất
thiện do hợp với tâm sở bất thiện, làm cho tâm bị ô nhiễm, cho quả khổ trong
kiếp hiện tại và kiếp vị lai.
1- Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 5
tâm bất thiện là: 4 tâm tham hợp tà kiến (diṭṭhigatasampayuttacitta)
và 1 tâm si hợp hoài nghi (vicikicchāsampayuttacitta).
2- Bậc Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được
2 tâm sân (dosacitta) loại thô.
3- Bậc Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được
2 tâm sân loại vi tế.
4- Bậc Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 5
tâm bất thiện còn lại là: 4 tâm tham không hợp tà kiến
(diṭṭhigatavippayuttacitta) và 1 tâm si hợp phóng tâm
(uddhacca-sampayuttacitta).
QuẢ BÁu CỦA PHÁp HÀNh
ThIỀn TUỆ
Hành giả
thực hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung Đạo,
có thể đưa đến kết quả chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân.
Bậc Thánh Nhân
trong Phật giáo từ thấp đến cao có 4 bậc là:
1- Bậc
Thánh Nhập Lưu (Sotāpanna).
2- Bậc
Thánh Nhất Lai (Sakadāgāmī).
3- Bậc
Thánh Bất Lai (Anāgāmī).
4- Bậc
Thánh Arahán (Arahanta).
1- Quả báu của bậc Thánh Nhập Lưu
Bậc
Thánh Nhập Lưu là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham
hợp tà kiến và tâm si hợp hoài nghi. Kể từ kiếp hiện tại cho đến kiếp
vị lai, 4 tâm tham hợp tà kiến và tâm si hợp hoài nghi, vĩnh viễn
không còn có trong tâm của bậc Thánh Nhập Lưu nữa. Nên bậc Thánh Nhập Lưu hoàn
toàn giải thoát khổ do tà kiến và hoài nghi trong
kiếp hiện tại và kiếp vị lai. Hoàn toàn giải thoát cảnh khổ tái sinh trong 4 cõi
ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.
* Bậc Thánh Nhập Lưu có 3 hạng là:
1. 1-
Sattakkhattuparamasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ 1 năng lực yếu, còn phải tái sinh làm người và làm chư
thiên cõi trời dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến kiếp thứ 7, thì chắc chắn sẽ
chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi
tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
1. 2-
Kolaṃkolasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ năng lực trung
bình nên còn phải tái sinh làm người và làm chư thiên từ 2-3-4-5-6 kiếp nữa,
mới có thể chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
1. 3-
Ekabījīsotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ năng lực mạnh
nên chỉ còn tái sinh làm người hay làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy,
sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi
tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
Trường hợp
ngoại lệ, có 7 vị Thánh Nhập Lưu tái sinh hơn 7 kiếp như sau:
1- Phú hộ
Anāthapiṇḍika.
2- Bà
Visākhā mahā upāsikā.
3- Chư
thiên Cullaratha.
4- Chư
thiên Mahāratha.
5- Chư
thiên Anekavaṇṇa.
6- Chư
thiên Nāgadatta.
7- Đức vua
trời Sakka.
7 vị Thánh
Nhập Lưu này có phát nguyện, muốn hưởng sự an lạc trong các cõi trời từ dục giới
đến các cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh: Sắc Cứu Cánh Thiên
(Akaniṭṭha), mới chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành
bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi ngay
trong cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh ấy.
2- Quả báu của bậc Thánh Nhất Lai
Bậc
Thánh Nhất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham
không hợp tà kiến và tâm sân, loại thô cõi dục giới, nên chỉ còn tái
sinh làm người hay làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy sẽ chứng đắc
Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
3- Quả báu của bậc Thánh Bất Lai
Bậc
Thánh Bất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham
không hợp tà kiến và tâm sân loại vi tế cõi dục giới, nên không còn
tái sinh trở lại cõi dục giới, chỉ tái sinh lên cõi sắc giới. Nếu chứng đắc đệ
tứ thiền hữu sắc, sẽ tái sinh lên tầng trời Tịnh Cư Thiên.
* Bậc Thánh Bất Lai có 5 hạng là:
3. 1-
Antarāparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai ở cõi sắc giới phạm thiên
chưa đến một nửa tuổi thọ sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh
Quả, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân
hồi trong tam giới.
3. 2-
Upahaccaparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai sống quá một nửa tuổi thọ của
cõi sắc giới phạm thiên sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở
thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong
tam giới.
3. 3-
Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai không cần phải tinh tấn nhiều,
cũng sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới phạm thiên ấy, chấm dứt tử sinh
luân hồi trong tam giới.
3. 4-
Saṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai cần phải tinh tấn nhiều, sẽ
chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán rồi
tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới phạm thiên ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi
trong tam giới.
3. 5-
Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī: Bậc Thánh Bất Lai khi hết tuổi thọ trong cõi trời sắc
giới tầng thấp, tuần tự tái sinh lên tầng trời bậc cao, cho đến tầng trời sắc
giới Akaniṭṭha tột đỉnh, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở
thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi trời sắc giới Akaniṭṭha
ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
4- Quả báu của bậc Thánh Arahán
Bậc
Thánh Arahán là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tất cả
mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót. Nên bậc Thánh
Arahán không còn tái sinh trở lại kiếp nào khác nữa. Ngay kiếp hiện tại này, đến
khi hết tuổi thọ, sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong
tam giới.
* Bậc Thánh Arahán có nhiều hạng:
4. 1-
Bậc Thánh Arahán Tevijjā: Bậc Thánh
Arahán chứng đắc Tam Minh: Túc mạng minh, thiên nhãn minh, và lậu tận
minh.
4. 2-
Bậc Thánh Arahán Chaḷabhiññā:
Bậc Thánh Arahán chứng đắc Lục thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông,
tha tâm thông, túc mạng thông và lậu tận thông.
4. 3-
Bậc Thánh Arahán
Catupaṭisambhidappabheda: Bậc Thánh Arahán chứng đắc Tứ tuệ phân tích:
Nghĩa (nhân) phân tích, pháp (quả) phân tích,
ngôn ngữ phân tích và ứng đối phân tích.
4. 4-
Bậc Thánh Arahán Ubhatobhāgavimutta:
Bậc Thánh Arahán giải thoát bằng 2 pháp hành: Thiền định chứng đắc 4 bậc
thiền vô sắc và thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh
Quả...
4. 5-
Bậc Thánh Arahán Paññāvimutta: Bậc
Thánh Arahán giải thoát bằng pháp hành thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo -
Arahán Thánh Quả…
Pháp hành thiền tuệ
thuộc về lĩnh vực thực hành, để thực nghiệm thấy rõ, biết rõ thực tánh của
các pháp, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế. Do đó, phần pháp học (lý
thuyết), chỉ là phương tiện để hiểu biết pháp hành thiền
tuệ mà thôi, không thể nào diễn tả được thực tánh của các pháp; song do
nhờ hiểu biết đúng đắn về pháp học, nên hành giả mới có thể hành đúng theo pháp
hành thiền tuệ, đến khi phát sinh trí tuệ thiền tuệ, mới thấy rõ, biết rõ được
thực tánh của các pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh
Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Phần Thực Hành:
Sự Thật Chân Lý
(Sacca)
Đức Phật thuyết pháp có 2 sự thật chân
lý là:
1- Sammutisacca: Sự thật theo ngôn ngữ chế định.
2- Paramatthasacca: Sự thật chân lý đúng theo Chân nghĩa
pháp.
1- Sự thật theo ngôn ngữ chế định như thế
nào?
Sự thật này hoàn toàn dựa vào danh từ
ngôn ngữ chế định mà người đời đã nói, đã viết thành chữ, đã công nhận là sự
thật trong đời, được lưu truyền từ ngàn xưa cho đến nay.
Trong Phật giáo, sự thật theo ngôn ngữ
chế định có 2 loại chính:
* Avijjamānapaññatti: Danh từ ngôn ngữ chế định không
dựa thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
Ví dụ:
- Về chúng sinh như con người, người đàn ông, người đàn bà, con
voi, v.v…
- Về vật chất như nhà cửa, xe cộ, đồ dùng, v.v…
Những danh từ ngôn ngữ chế định này
không dựa thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
* Vijjamānapaññatti: Danh từ ngôn ngữ chế định dựa thực
tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
Ví dụ:
Danh từ gọi: Chân lý Tứ Thánh Đế,
Khổ Thánh Đế, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, Diệt Khổ Thánh Đế, Pháp hành diệt Khổ
Thánh Đế, ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn),
danh pháp, sắc pháp, thậm chí những danh từ gọi tâm, tâm sở, sắc pháp,
Niết Bàn, v.v…
Những danh từ ngôn ngữ chế định này dựa
thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh
bằng ngôn ngữ Pāḷi. Ngôn ngữ Pāḷi mà Đức Phật chế định trong toàn giáo
pháp của Ngài, có nguồn gốc từ ngôn ngữ Māgadha của dân tộc
Magadha, nhưng dân tộc Magadha nói tiếng Māgadha thì không gọi là tiếng
Pāḷi, bởi vì không có mục đích hướng đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong
ba giới bốn loài. Còn ngôn ngữ Pāḷi trong giáo pháp của Đức Phật, có mục đích
hướng đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Thật vậy, giáo pháp của Đức Phật chỉ có
một vị duy nhất là vị giải thoát khổ sinh mà thôi. Như Đức Phật đã
dạy:
- “Này Pahārāda, như nước đại dương chỉ có một vị duy nhất là
‘vị mặn’. Cũng như vậy, này Pahārāda, Pháp và Luật trong giáo pháp của Như Lai
cũng chỉ có một vị duy nhất là ‘vị giải thoát khổ sinh’”.
Đức Phật thuyết giảng chân lý Tứ
Thánh Đế trong bài kinh Chuyển Pháp Luân bằng tiếng Pāḷi
(Dhammacakkappavattanasuttapāḷi) lần đầu tiên tại khu rừng phóng sinh nai
gọi là Isipatana (Chư Phật Độc Giác thường ngự xuống nơi này) để
tế độ nhóm 5 Tỳ khưu: Ngài Koṇḍaññā, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma
và Ngài Assaji.
Đức Phật thuyết dạy sự thật chân lý
theo ngôn ngữ chế định được ghi chép lại trong Tạng Kinh
(Suttantapiṭaka) và Tạng Luật (Vinayapiṭaka).
Muốn biết sự thật chân lý theo ngôn ngữ
chế định, bậc thiện trí có thể biết bằng trí tuệ do học hỏi nghiên cứu
(sutāmayapaññā) và bằng trí tuệ do tư duy đúng đắn (cintāmayapaññā).
2- Sự thật chân lý đúng theo Chân nghĩa pháp như thế
nào?
Sự thật chân lý đúng theo Chân nghĩa
pháp (Paramatthadhamma) là pháp có thực tánh hiện hữu, không bị biến
thể theo thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai; nghĩa là thực tánh ấy trong thời
quá khứ như thế nào, thì thời hiện tại và thời vị lai cũng như thế
ấy.
Ví dụ: Nhãn thức tâm có phận sự
nhìn thấy sắc trần, trong thời quá khứ như thế nào, thì thời hiện tại và
thời vị lai cũng như thế ấy.
Sự thật chân lý đúng theo Chân nghĩa
pháp hoàn toàn không dựa vào danh từ ngôn ngữ chế định, mà sự thật
chân lý đúng y theo thực tánh của mỗi pháp trong 4 Chân nghĩa pháp là
tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết Bàn.
Sự thật chân lý đúng theo Chân nghĩa
pháp có 2 loại:
a- Sabhāvasacca: Sự thật chân lý
đúng theo thực tánh pháp.
- Kusaladhamma: Pháp thiện.
- Akusaladhamma: Pháp bất thiện.
- Abyākatadhamma: Pháp vô ký (không phải pháp thiện, không
phải pháp bất thiện), v.v...
Đó là những pháp không phải chúng sinh,
không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, …, không phải vật này,
vật kia,… mà chỉ là tất cả thực tánh pháp mà thôi.
Đức Phật thuyết dạy sự thật chân lý
đúng theo thực tánh pháp được ghi chép lại trong Tạng Vi Diệu Pháp
(Abhidhammapiṭaka).
b- Ariyasacca: Tứ Thánh Đế là sự
thật chân lý.
- Dukkha ariyasacca: Khổ Thánh Đế đó là danh pháp và
sắc pháp thuộc trong tam giới mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
- Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân sinh Khổ Thánh Đế
đó là tham ái, mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
- Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt Khổ Thánh Đế đó là
Niết Bàn, Diệt Khổ Thánh Đế mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
- Dukkhanirodhagāminīpaṭipadā ariyasacca: Pháp hành
diệt Khổ Thánh Đế đó là pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và
chánh định là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế mà bậc
Thánh Nhân đã chứng ngộ.
Muốn biết sự thật chân lý đúng theo
thực tánh pháp, bậc thiện trí không thể biết bằng trí tuệ do học hỏi nghiên cứu,
cũng không thể biết bằng trí tuệ do tư duy đúng đắn; hai loại trí tuệ này làm
nhân duyên hỗ trợ để phát sinh trí tuệ do thực hành
(bhāvanāmayapaññā) mới có khả năng biết được sự thật chân lý đúng theo
thực tánh pháp (nếu không có trí tuệ học và trí tuệ do tư duy, thì không thể
phát sinh trí tuệ do thực hành).
Trí tuệ do thực hành đó là trí tuệ
thiền tuệ, có 2 loại:
* Lokiyavipassanā: Trí tuệ thiền tuệ tam giới
có khả năng thấy rõ, biết rõ được thực tánh các pháp (sabhāvadhamma) của danh
pháp, sắc pháp trong tam giới; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp,
sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã của danh pháp, sắc pháp.
* Lokuttaravipassanā: Trí tuệ thiền tuệ Siêu tam
giới có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn.
Các Pháp
Pháp của Đức Phật có 2 loại:
1- Paññattidhamma: Chế định pháp.
2- Paramatthadhamma: Chân nghĩa pháp.
1- Chế định pháp
(Paññattidhamma): Chế định pháp là pháp do con người căn cứ
vào Chân nghĩa pháp có quy ước rõ ràng, chế định đặt ra danh từ để nói, để viết,
rồi lưu truyền từ người này sang người khác, từ ngàn xưa cho đến nay.
Chế định pháp có 2 loại
chính:
- Atthapaññatti: Chế định về ý nghĩa, hình dạng.
- Saddapaññatti: Chế định về danh từ ngôn ngữ.
1. 1-
Quy ước chế định về ý nghĩa, hình dạng
(atthapaññatti)
Mỗi đối tượng có ý nghĩa, có hình dạng
khác biệt, nên có nhiều loại chế định như sau:
* Santānapaññatti: Chế định về khối.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm về tứ đại (đất, nước, lửa, gió) liên kết lại với
nhau thành hình khối.
Ví dụ:
Khái niệm về
mặt phẳng của mặt đất, về chiều cao của núi, về chiều dài của sông, về chiều
rộng của biển, v.v…
* Samūhapaññatti: Chế định về tổng hợp.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm các thành phần lớn nhỏ lắp ráp, kết cấu vào với nhau.
Ví dụ:
Khái niệm về
sự tổng hợp các phần lớn nhỏ lắp ráp, kết cấu vào với nhau thành chiếc xe, thành
cái nhà, v.v…
* Sattapaññatti: Chế định về chúng sinh.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm căn cứ ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp.
Ví dụ:
Khái niệm về
con người, về đàn ông, về đàn bà, về chư thiên, về phạm thiên, về con voi, về
con ngựa, v.v...
* Disāpaññatti: Chế định về phương hướng.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm căn cứ Thái dương hệ luân chuyển.
Ví dụ:
Khái niệm về
phía mặt trời mọc thuộc hướng Đông, về mặt trời lặn thuộc hướng Tây, về hướng
Nam, về hướng Bắc, v.v…
* Kālapaññatti: Chế định về thời gian.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm căn cứ mặt trời.
Ví dụ:
Khái niệm về
lúc mặt trời mọc là buổi sáng, về lúc mặt trời đứng bóng là buổi trưa, về lúc
mặt trời lặn là buổi chiều, ngày, đêm, tháng, năm, v.v…
* Akāsapaññatti: Chế định về hư không.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm căn cứ khoảng không, do nương nhờ khoảng trống của tứ đại
không dính liền với nhau.
Ví dụ:
Khái niệm về
hang, động, giếng, hầm, hố, v.v…
* Kasiṇapaññatti: Chế định về đề mục
kasiṇa.
Sự chế định
này dựa trên khái niệm căn cứ vào tứ đại… dùng làm đề mục thiền định.
Ví dụ:
Khái niệm về
đề mục đất, về đề mục nước, về đề mục lửa, về đề mục
gió, v.v…
* Nimittapaññatti: Chế định về đối tượng của thiền định
(tướng của định).
Chế định đối
tượng này dựa trên khái niệm, phát sinh do thực hành thiền định, có 3 loại:
- Parikammanimitta: Đối tượng bắt đầu thực hành thiền định.
- Uggahanimitta: Đối tượng thô tương tự phát sinh trong
tâm.
- Paṭibhāganimitta: Đối tượng vi tế trong sáng phát sinh
trong tâm.
Tất cả mọi chế
định về ý nghĩa (aṭṭha), hình dạng… khác biệt của mỗi đối tượng tùy theo khái
niệm hiện rõ trong tâm tưởng, nên đối tượng ấy không còn hiện rõ thực
tánh của danh pháp, sắc pháp đúng theo Chân nghĩa pháp, song ý thức tâm có
thể nhận biết đối tượng chế định về ý nghĩa ấy theo khái niệm.
1. 2-
Chế định về danh từ ngôn ngữ
(saddapaññatti)
Chế định này
không chỉ là về khái niệm đơn thuần, mà còn chế định danh từ ngôn ngữ đặt tên
gọi đối tượng, có 2 tính chất đặc biệt là:
- Tâm hướng đến ý nghĩa (aṭṭha).
- Làm cho ý nghĩa ấy hướng về tâm.
* Tâm hướng đến ý nghĩa
Đó là tính
chất của thính giả hoặc độc giả, khi nghe hoặc đọc sách báo, một
danh từ ngôn ngữ quen thuộc, tâm hướng đến biết ý nghĩa, hình dạng của danh từ
ấy.
Ví dụ:
- Danh từ “mặt đất”, là một mặt bằng do tứ đại kết dính
thành khối.
- Danh từ “con voi”, là một con vật có thân hình to lớn, có
bốn bàn chân lớn, có cái vòi dài làm lỗ mũi…
* Làm cho ý nghĩa ấy hướng về tâm
Đó là tính
chất của người nói hoặc người viết, trước khi nói hoặc viết một
danh từ ngôn ngữ nào, thì ý nghĩ hình ảnh của danh từ ấy đã hiện rõ trong tâm
của người nói hoặc người viết.
Ví dụ:
- Danh từ “mặt đất”, ở trong tâm hiện rõ hình ảnh một mặt
phẳng do tứ đại liên kết thành khối.
- Danh từ “con voi”, ở trong tâm hiện rõ hình ảnh một con
vật có thân hình to lớn, có bốn bàn chân lớn, có cái vòi dài làm lỗ mũi, …
- Danh từ “khổ”, “vui”, v.v…
Những danh từ
ngôn ngữ này người xưa đã chế định, có quy ước rõ ràng, được lưu truyền lại từ
người này sang người khác, từ xưa cho đến nay; dùng để nói, để viết, thông tin,
diễn tả ý nghĩa tâm tư, tình cảm của mình, để hiểu biết lẫn nhau.
Chế định về
danh từ ngôn ngữ có nhiều loại, trong đó có 2 loại căn bản là:
a) Avijjamānapaññatti: Danh từ ngôn ngữ chế định không
dựa thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
Ví dụ: Danh từ
gọi “Con người, đàn ông, đàn bà, chư thiên, ngôi nhà, chiếc xe, mặt đất, núi,
sông”,…
b) Vijjamānapaññatti: Danh từ ngôn ngữ chế định dựa thực
tánh pháp hiện hữu làm nền tảng.
Ví dụ: anh từ
gọi “Tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết Bàn, hoặc sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn, thức uẩn, danh pháp, sắc pháp, Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế,
Đạo Thánh Đế”, v.v…
Những danh từ
ngôn ngữ chế định, dầu dựa vào thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng, và không
dựa vào thực tánh pháp hiện hữu làm nền tảng, cả hai đều thuộc về Chế định
pháp (Paññattidhamma), không phải là Chân nghĩa
pháp (Paramatthadhamma), vì có những tính chất đặc biệt như
sau:
- Hoàn toàn tùy thuộc vào khái niệm và danh từ ngôn ngữ chế
định.
- Bị hạn chế bởi không gian nơi này, nước kia.
- Bị thay đổi ý nghĩa theo thời gian: Quá khứ, hiện tại, vị
lai.
- Bị ảnh hưởng trực tiếp vào trình độ hiểu biết của các hạng chúng
sinh.
- Không có thực tánh (chỉ là danh từ ngôn ngữ).
- Không có trạng thái riêng của mỗi pháp.
- Không có sự sinh, sự diệt.
- Không có 3 trạng thái chung: Trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã.
Chế định
pháp thuộc về pháp, nên cũng là pháp vô ngã.
Do đó, pháp chế định này thuộc về
“sự thật theo ngôn ngữ chế định (sammutisacca)”, chỉ có thể làm
đối tượng của pháp hành thiền định mà thôi, hoàn toàn không thể làm đối
tượng của pháp hành thiền tuệ.
2- Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma):
Chân nghĩa pháp là pháp có thực tánh rõ
ràng, không bị biến thể theo thời gian: Quá khứ, hiện tại, vị
lai.
Chân nghĩa pháp có 4 pháp:
- Citta: Tâm có trạng thái nhận biết đối
tượng.
- Cetasika: Tâm sở có trạng thái tùy thuộc nương nhờ
vào tâm mà sinh.
- Rūpadhamma: Sắc pháp là pháp có trạng thái bị hủy
hoại do nóng, lạnh, đói khát, v.v…
- Nibbāna: Niết Bàn có trạng thái tịch tịnh vắng
lặng mọi phiền não, ngũ uẩn.
Phần giải thích:
1-
Tâm
(citta): Có trạng thái biết đối tượng.
Tâm gồm có 89 hay 121 tâm được phân
chia theo 4 cảnh giới như sau:
Tâm dục giới (kāmavacaracitta) có 54
tâm - 54 tâm
Tâm sắc giới (rūpavacaracitta) có 15
tâm - 15 tâm
Tâm vô sắc giới (arūpavacaracitta) có
12 tâm - 12 tâm
Tâm Siêu tam giới (lokuttaracitta) có 8
tâm hoặc 40 tâm
Tổng cộng: 89 tâm 121 tâm
* 54 tâm dục giới được phân chia làm các loại
tâm:
- 12 tâm bất thiện:
+
8 tâm tham.
+
2 tâm sân.
+
2 tâm si.
+
7 tâm quả bất thiện vô nhân.
+
8 tâm quả thiện vô nhân.
+
3 tâm duy tác vô nhân.
- 24 tâm dục giới tịnh hảo:
+
8 tâm đại thiện.
+
8 tâm đại quả.
+
8 tâm đại duy tác.
* 15 tâm sắc giới được phân chia làm 3 loại:
+ 5 tâm thiện sắc giới.
+ 5 tâm quả sắc giới.
+ 5 tâm duy tác sắc giới.
* 12 tâm vô sắc giới được phân chia làm 3 loại:
+ 4 tâm thiện vô sắc giới.
+ 4 tâm quả vô sắc giới.
+ 4 tâm duy tác vô sắc giới.
* 8 hoặc 40 tâm Siêu tam giới được phân chia làm 2
loại:
+ 4 hoặc 20 tâm Thánh Đạo.
+ 4 hoặc 20 tâm Thánh Quả.
2-
Tâm Sở (cetasika): Tâm sở luôn luôn tùy thuộc, nương nhờ vào tâm, có 4 trạng
thái.
- Đồng sinh với tâm: Khi tâm nào sinh, thì ắt phải có số
tâm sở đồng sinh với tâm ấy.
- Đồng diệt với tâm: Khi tâm nào diệt, thì ắt phải có số
tâm sở đồng diệt với tâm ấy.
- Đồng đối tượng với tâm: Khi tâm nào có đối tượng nào, thì
ắt phải có số tâm sở đồng đối tượng với tâm ấy.
- Đồng nơi sinh với tâm: Khi tâm nào nương nhờ nơi môn
(vatthu) nào phát sinh, thì có số tâm sở cũng nương nhờ nơi môn ấy.
Tâm sở có 4 trạng thái đồng với tâm,
mỗi tâm có một số tâm sở đồng sinh. Tâm sở với tâm không bao giờ tách rời nhau,
ví như bóng với hình; hình nào thì bóng ấy. Cũng như vậy, tâm nào thì có tâm sở
ấy.
Phân Loại Tâm Sở
Tâm sở gồm có 52 tâm sở, mỗi tâm sở có
một trạng thái riêng, do đó 52 tâm sở có 52 trạng thái riêng.
52 tâm sở được phân loại như
sau:
* Tâm sở sinh chung toàn tâm (sabbacittasādharaṇacetasika):
Có 7 tâm sở đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm như sau:
1- Phassa: Tâm sở xúc, có trạng thái tiếp xúc đối tượng.
2- Vedanā: Tâm sở thọ, có trạng thái cảm thọ nơi đối
tượng.
3- Saññā: Tâm sở tưởng, có trạng thái tưởng nơi đối
tượng.
4- Cetanā: Tâm sở tác ý, có trạng thái tạo tác
theo đối tượng.
5- Ekaggatā: Tâm sở nhất tâm, có trạng thái chú tâm
trong đối tượng.
6- Jīvitindriya: Tâm sở danh mạng căn, có trạng thái
bảo hộ danh pháp.
7- Manasikāra: Tâm sở ý hành, có trạng thái hướng dẫn
tâm đến đối tượng.
(7 tâm sở này luôn luôn đồng sinh
đầy đủ trong 89 hay 121 tâm).
* Tâm sở sinh riêng tùy tâm (pakiṇṇakacetasika): Có 6 tâm
sở đồng sinh riêng rải rác tùy theo tâm như sau:
1- Vitakka: Tâm sở hướng tâm, có trạng thái hướng tâm
đến đối tượng.
2- Vicāra: Tâm sở quan sát, có trạng thái quan sát
nơi đối tượng.
3- Adhimokkha: Tâm sở quyết định, có trạng thái quyết
định đối tượng.
4- Vīriya: Tâm sở tinh tấn, có trạng thái tinh
tấn.
5- Pīti: Tâm sở hỷ, có trạng thái hoan hỷ nơi đối
tượng.
6- Chanda: Tâm sở mong muốn, có trạng thái muốn thành
đạt.
(6 loại tâm
sở này, đồng sinh tùy theo tâm, rải rác trong một số tâm, trừ 10 loại thức tâm
(2 nhãn thức tâm, 2 nhĩ thức tâm, 2 tỷ thức tâm, 2 thiệt thức tâm và 2 thân thức
tâm).
* Tâm sở bất thiện (akusalacetasika): Có 14 tâm sở bất
thiện đồng sinh với tâm bất thiện như sau:
1- Moha: Tâm sở si, có trạng thái không biết thực
tánh của các pháp.
2- Ahirika: Tâm sở không hổ thẹn, có trạng
thái tự mình không biết hổ thẹn tội lỗi, khi hành ác.
3- Anottappa: Tâm sở không ghê sợ, có trạng thái
không ghê sợ tội lỗi, khi hành ác.
4- Uddhacca: Tâm sở phóng tâm, có trạng thái không an trụ
trong đối tượng.
(4 tâm sở
này có tâm sở si là gốc, đồng sinh với 12 tâm bất thiện).
5- Lobha: Tâm sở tham, có trạng thái tham muốn trong
đối tượng.
6- Diṭṭhi: Tâm sở tà kiến, có trạng thái thấy
sai, chấp lầm nơi đối tượng.
7- Māna: Tâm sở ngã mạn, có trạng thái so sánh
ta với người khác (ta hơn người, ta bằng người, ta kém hơn
người).
(3 tâm sở
này, có tâm sở tham là gốc, đồng sinh với tâm tham).
- Tâm sở tham đồng sinh với 8 tâm tham.
- Tâm sở tà kiến đồng sinh với 4 tâm tham hợp tà
kiến.
- Tâm sở ngã mạn đồng sinh với 4 tâm tham không hợp tà kiến
(không chắc chắn).
8- Dosa: Tâm sở sân, có trạng thái hung dữ, tàn bạo,
không hài lòng nơi đối tượng.
9- Issā: Tâm sở ganh tị, có trạng thái ganh tị của
cải, sắc đẹp, địa vị… người khác.
10- Macchariya: Tâm sở bỏn xẻn, có trạng thái cất dấu
tài sản của mình không cho người khác.
11- Kukkucca: Tâm sở hối hận, có trạng thái nóng nảy
hối hận việc ác đã làm, việc thiện không làm.
(4 tâm sở
này, có tâm sở sân là gốc, đồng sinh với 2 tâm sân, riêng issā,
macchariya, kukkucca không chắc chắn, khi sinh, khi không sinh, tùy theo đối
tượng).
12- Thīna: Tâm sở buồn chán, có trạng thái không hăng
hái trong đối tượng.
13- Middha: Tâm sở buồn ngủ, có trạng thái buồn ngủ,
buông bỏ đối tượng.
(2 tâm sở
này đồng sinh trong 4 tâm tham và 1 tâm sân cần có sự động viên, không chắc
chắn).
14- Vicikicchā: Tâm sở hoài nghi, có trạng thái hoài
nghi nơi đối tượng.
(tâm sở
hoài nghi này đồng sinh với 1 tâm si hợp hoài nghi).
(14 tâm sở bất thiện này chỉ đồng
sinh rải rác trong 12 tâm bất thiện).
* Tâm sở tịnh hảo sinh chung tâm tịnh hảo
(sobhaṇasādharaṇacetasika): Có 19 tâm sở tịnh hảo đồng sinh với mọi tâm tịnh
hảo như sau:
1- Saddhā: Tâm sở tín, có trạng thái tin nơi Tam Bảo, tin
nghiệp và quả của nghiệp.
2- Sati: Tâm sở niệm, có trạng thái niệm trong đối
tượng.
3- Hiri: Tâm sở hổ thẹn, có trạng thái tự mình hổ
thẹn tội lỗi.
4- Ottappa: Tâm sở ghê sợ, có trạng thái ghê sợ tội
lỗi.
5- Alobha: Tâm sở vô tham, có trạng thái không tham
muốn, không dính mắc trong đối tượng.
6- Adosa: Tâm sở vô sân, có trạng thái hiền hòa,
không hung dữ nơi đối tượng.
7- Tatramajjhattatā: Tâm sở trung dung, có trạng thái
làm cho tâm và tâm sở đồng đều nhau.
8- Kāyapassaddhi: Tâm sở an tịnh tam uẩn 1 , có trạng thái làm an tịnh toàn tâm sở đồng sinh trong tâm
tịnh hảo ấy.
9- Cittapassaddhi: Tâm sở an tịnh thức uẩn, có trạng
thái làm an tịnh tâm tịnh hảo ấy.
10- Kāyalahutā: Tâm sở nhẹ nhàng tam uẩn, có trạng
thái làm nhẹ nhàng toàn tâm sở đồng sinh trong tâm tịnh hảo ấy.
11- Cittalahutā: Tâm sở nhẹ nhàng thức uẩn, có trạng
thái làm nhẹ nhàng tâm tịnh hảo ấy.
12- Kāyamudutā: Tâm sở nhu nhuyến tam uẩn, có trạng
thái làm nhu nhuyến toàn tâm sở đồng sinh trong tâm tịnh hảo
ấy.
13- Cittamudutā: Tâm sở nhu nhuyến thức uẩn, có trạng
thái làm nhu nhuyến tâm tịnh hảo ấy.
14- Kāyakammaññatā: Tâm sở uyển chuyển tam uẩn, có
trạng thái làm uyển chuyển toàn tâm sở đồng sinh trong tâm tịnh hảo
ấy.
15- Cittakammaññatā: Tâm sở uyển chuyển thức uẩn, có
trạng thái làm uyển chuyển tâm tịnh hảo ấy.
16- Kāyaguññatā: Tâm sở thành thạo tam uẩn, có trạng
thái làm thành thạo toàn tâm sở đồng sinh trong tâm tịnh hảo
ấy.
17- Cittaguññatā: Tâm sở thành thạo thức uẩn, có trạng
thái làm thành thạo tâm tịnh hảo ấy.
18- Kāyajukatā: Tâm sở chánh trực tam uẩn, có trạng
thái làm chánh trực toàn tâm sở đồng sinh trong tâm tịnh hảo
ấy.
19- Cittajukatā: Tâm sở chánh trực thức uẩn, có trạng
thái làm chánh trực tâm tịnh hảo ấy.
(19 tâm sở tịnh hảo này đồng sinh
với 24 tâm dục giới tịnh hảo + 15 tâm sắc giới + 12 tâm vô sắc giới + 8 hoặc 40
tâm Siêu tam giới (trừ ra 12 tâm bất thiện + 18 tâm vô nhân). Như vậy, 19 tâm sở
tịnh hảo này đồng sinh với 59 hoặc 91 tâm).
* Tâm sở tiết chế (viratīcetasika): Có 3 tâm sở đồng sinh
với tâm, chế ngự tâm không hành ác như sau:
1- Sammāvācā: Tâm sở chánh ngữ, có trạng thái tránh
xa sự nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
2- Sammākammanta: Tâm sở chánh nghiệp, có trạng thái
tránh xa sự sát sinh, sự trộm cắp, sự tà dâm.
3- Sammāājīva: Tâm sở chánh mạng, có trạng thái nuôi
mạng chân chánh, tránh xa cách sống tà mạng do hành ác.
(3 tâm sở tiết chế này chỉ sinh
riêng rẽ từng mỗi tâm sở với 8 tâm dục giới đại thiện, nhưng 3 tâm sở tiết chế
này chắc chắn đồng sinh cùng một lúc với 8 hay 40 tâm Siêu tam giới. Như vậy,
tâm sở tiết chế này đồng sinh với 16 hoặc 48 tâm).
* Vô lượng tâm sở (appamaññācetasika): Là tâm sở có
đối tượng chúng sinh vô lượng, gồm có 2 tâm sở:
1- Karuṇā: Tâm sở bi, có trạng thái muốn cứu giúp
chúng sinh đang trong cảnh khổ.
2- Muditā: Tâm sở hỷ, có trạng thái hoan hỷ với chúng
sinh đang hưởng sự an lạc hạnh phúc.
(2 tâm sở
vô lượng này chỉ sinh riêng rẽ từng mỗi tâm sở với 8 tâm dục giới đại thiện + 8
tâm dục giới đại duy tác + 12 tâm sắc giới, (trừ 3 tâm sắc giới đệ ngũ thiền).
Như vậy, vô lượng tâm sở đồng sinh với 28 tâm).
* Tuệ chủ tâm sở (paññindriyacetasika): Là tâm sở trí tuệ,
có 1 tâm sở:
Tâm sở
trí tuệ, có trạng thái thấy rõ, biết rõ thực tánh của các
pháp.
(tâm sở trí
tuệ đồng sinh với 4 tâm dục giới đại thiện hợp với trí + 4 tâm dục giới đại quả
hợp với trí + 4 tâm dục giới duy tác hợp với trí + 15 tâm sắc giới + 12 tâm vô
sắc giới + 8 hay 40 tâm Siêu tam giới. Như vậy, trí tuệ tâm sở đồng sinh với 47
hay 79 tâm).
Tâm
sở luôn luôn tùy thuộc vào tâm do bởi 4 trạng thái đồng sinh, đồng diệt,
đồng đối tượng, đồng nơi phát sinh. Do đó, tâm sở và tâm không thể tách rời
nhau.
Khi tâm nào
sinh, ắt phải có số tâm sở thích hợp đồng sinh với tâm ấy, để làm phận sự.
Tâm thường bị ảnh hưởng bởi tâm sở.
Tâm sở nào có năng lực, thì tâm được gọi tên do năng lực của
tâm sở ấy.
Ví
dụ:
- Gọi tâm tham, vì có tâm sở tham
trong 21 tâm sở đồng sinh với tâm tham. Cũng như vậy,
- Gọi tâm sân, vì có tâm sở sân trong
22 tâm sở đồng sinh với tâm sân.
- Gọi tâm si, vì có tâm sở si trong 15
tâm sở đồng sinh với tâm si.
- Gọi tâm đại thiện hợp với trí, vì có
tâm sở trí tuệ trong 38 tâm sở đồng sinh với tâm đại thiện ấy,
v.v…
Cũng như màu
hòa lẫn trong nước, hòa màu nào vào trong nước, thì nước trở thành màu
ấy.
Tâm gồm có 89
hay 121 tâm, và tâm sở gồm có 52 tâm sở. Tâm và tâm sở luôn luôn sinh rồi diệt
không ngừng, thay đổi tùy theo 6 đối tượng với 6 môn.
Trong mỗi
chúng sinh có số lượng tâm và tâm sở nhiều hay ít không giống nhau, không chắc
chắn. Bởi vì:
- Tùy thuộc vào mỗi hạng chúng sinh khác nhau, (có 12 hạng
chúng sinh).
- Tùy theo đối tượng khác nhau, (có 6 đối tượng, có 6 loại
tâm).
- Tùy thuộc vào cảnh giới tâm khác nhau, (có 4 cảnh giới tâm:
dục giới tâm, sắc giới tâm, vô sắc giới tâm và Siêu tam giới
tâm).
Chẳng hạn nếu chúng sinh nào mắt mù,
tai điếc… thì chúng sinh ấy không có 2 nhãn thức tâm, 2 nhĩ thức tâm,… vì không
phát sinh lên được.
3-
Sắc Pháp (Rūpadhamma)
Sắc
pháp: Là pháp có trạng thái bị hủy hoại do nóng, lạnh, đói, khát,…
(ruppanalakkhaṇa).
Sắc pháp gồm
có 28 sắc pháp, phân làm 2 loại:
- Sắc tứ đại (mahābhūtarūpa).
- Sắc phụ thuộc (upādayarūpa).
3. 1-
Sắc tứ đại (mahābhūtarūpa): Là 4 sắc pháp rộng lớn làm nền tảng cho các sắc pháp, gồm
có:
- Sắc địa đại (paṭhavīdhātu): Chất đất.
- Sắc thủy đại (āpodhātu): Chất nước.
- Sắc hỏa đại (tejodhātu): Chất lửa.
- Sắc phong đại (vāyodhātu): Chất gió.
Sắc tứ đại là
sắc pháp có tính chất rộng lớn, có thực tánh rõ ràng.
Sắc tứ đại:
Chất đất, chất nước, chất lửa, chất gió, là 4 sắc pháp không thể tách rời
được, luôn luôn nương nhờ lẫn nhau, song số lượng của sắc đại nào nhiều nhất thì
đóng vai trò chính, và được gọi tên của sắc đại ấy.
Sắc tứ đại ở
trong thân của chúng sinh và ở bên ngoài thân của chúng sinh, vạn
vật.
a) Sắc địa đại (paṭhavīdhātu): Là
sắc pháp có thực tánh rộng lớn, làm nền tảng cho tất cả mọi sắc pháp khác.
* 4 tính
chất riêng của sắc địa đại:
- Sắc địa đại có trạng thái cứng hoặc mềm.
- Sắc địa đại có phận sự làm nền tảng cho các sắc pháp khác đồng
sinh.
- Sắc địa đại là nơi tiếp nhận các sắc đồng sinh, là quả hiện
hữu.
- Sắc địa đại có 3 sắc đại: Sắc thủy đại, sắc hỏa đại và sắc
phong đại là nguyên nhân gần để phát sinh.
* Sắc địa
đại luôn luôn nương nhờ ở 3 sắc đại khác:
- Sắc địa đại nương nhờ sắc thủy đại để làm cho được đông đặc, rắn
chắc.
- Sắc địa đại nương nhờ sắc hỏa đại để giữ gìn.
- Sắc địa đại nương nhờ sắc phong đại để chuyển động, rung
chuyển.
* Sắc địa
đại có trạng thái cứng hay mềm:
- Sắc địa đại có trạng thái cứng, là vì chất đất có
số lượng nhiều, hơn 3 sắc đại khác và là chính ở trong mọi sắc pháp ấy. Cho nên,
khi sắc thân tiếp xúc với địa đại có cảm giác cứng.
Ví như:
Xương, sắt, đá, gỗ…
- Sắc địa đại có trạng thái mềm, vì chất đất có số
lượng ít, nhưng vẫn nhiều hơn 3 sắc đại khác và cũng là chính ở trong mọi sắc
pháp ấy. Cho nên, khi sắc thân tiếp xúc với địa đại có cảm giác mềm.
Ví như: Da
thịt, bông gòn,…
Khi sắc thân
tiếp xúc với sắc pháp có trạng thái cứng hay mềm đều thuộc về sắc địa
đại (ngoài sắc địa đại ra không có sắc pháp nào khi thân tiếp xúc lại có
cảm giác cứng hoặc mềm).
Sắc địa
đại là một sắc pháp lớn, là nơi nương nhờ của các sắc pháp khác.
b) Sắc thủy đại
(āpodhātu): Là sắc pháp có thực tánh lỏng, thấm vào mọi sắc pháp
khác.
* 4 tính
chất riêng của sắc thủy đại:
- Sắc thủy đại có trạng thái lỏng hoặc đông đặc.
- Sắc thủy đại có phận sự làm cho tất cả sắc pháp đồng sinh được
phát triển.
- Sắc thủy đại làm kết dính tất cả mọi sắc pháp khác đồng sinh vào
nhau là quả hiện hữu.
- Sắc thủy đại có 3 sắc đại: Địa đại, hỏa đại, phong đại,
là nguyên nhân gần để phát sinh.
* Sắc thủy
đại luôn luôn nương nhờ ở 3 sắc đại khác:
- Sắc thủy đại nương nhờ sắc địa đại làm nền
tảng.
- Sắc thủy đại nương nhờ sắc hỏa đại để gìn giữ.
- Sắc thủy đại nương nhờ sắc phong đại để chuyển động, rung
động.
* Sắc thủy đại là sắc pháp có trạng thái lỏng hay đông
đặc:
- Sắc thủy đại có trạng thái lỏng, chất nước bình thường có
trạng thái lỏng, khi chất nước tiếp xúc với không khí lạnh dưới 00C,
chất nước sẽ đông đặc lại thành khối cứng rắn, ví như nước đá. Nếu đem khối nước
đá tiếp xúc với hơi nóng, sẽ tan ra thành chất lỏng như bình thường.
- Sắc thủy đại có trạng thái đông đặc, chất nước ở trong
chất sáp, chì, đồng, sắt,… khi bị nung đốt, tiếp xúc với sức nóng ở nhiệt độ
cao, thì chất sáp, chì, đồng, sắt,… tan ra trở thành thể lỏng trôi chảy. Sự trôi
chảy này, không phải là chất nước, mà là chất đất cùng với chất nước. Khi thể
lỏng này tiếp xúc với nhiệt độ lạnh, sẽ trở lại đông đặc như trước.
Sắc thủy đại
ví như một chất keo gắn dính liền các nguyên tử địa đại vào với nhau.
* Chức năng
của sắc thủy đại:
- Sắc thủy đại thấm vào mọi sắc pháp đồng sinh, rồi ở trong sắc
pháp ấy.
- Sắc thủy đại làm cho tất cả sắc pháp đồng sinh được phát triển
tốt.
- Sắc thủy đại theo gìn giữ tất cả mọi sắc pháp đồng sinh ấy gắn
bó, khắn khít lại với nhau không để rời rạc.
Sắc pháp có
trạng thái lỏng hay đông đặc thuộc về sắc thủy
đại.
c) Sắc hỏa đại (tejodhātu):
Là sắc pháp có trạng thái nóng làm cho chín mềm mọi sắc pháp khác.
* 4 tính
chất riêng của sắc hỏa đại:
- Sắc hỏa đại
có trạng thái nóng hoặc lạnh.
- Sắc hỏa đại
có phận sự làm cho tất cả mọi sắc pháp đồng sinh già dần, đốt cháy cằn cỗi
dần.
- Sắc hỏa đại
làm cho tất cả mọi sắc pháp đồng sinh khác mềm mại, là quả hiện hữu.
- Sắc hỏa đại
có 3 sắc đại: Sắc địa đại, sắc thủy đại, sắc phong đại, là nguyên nhân
gần để phát sinh.
* Sắc hỏa
đại luôn luôn nương nhờ ở 3 sắc đại khác:
- Sắc hỏa đại
nương nhờ sắc địa đại làm nền tảng .
- Sắc hỏa đại
nương nhờ sắc thủy đại để làm cho dính lại không rời rạc.
- Sắc hỏa đại
nương nhờ sắc phong đại để chuyển động, rung chuyển.
* Sắc hỏa
đại có trạng thái nóng hay lạnh:
- Sắc
hỏa đại có trạng thái nóng (uṇhatejo) làm cho tất cả mọi sắc
đồng sinh chín dần, mềm mại.
Ví dụ: Nấu
cơm, nấu đồ ăn, …
- Sắc
hỏa đại có trạng thái lạnh (sītatejo) có thể làm khô héo.
* Sắc hỏa
đại có 5 loại:
1- Usmātejo: Sắc hỏa đại có nhiệt độ ấm ở trong sắc thân của
mỗi chúng sinh.
2- Santappanatejo: Sắc hỏa đại tăng cao nhiệt độ nóng ở thân
thể.
3- Dahanatejo: Sắc hỏa đại tăng nhiệt độ nóng lên cao tột
bực có thể làm người bệnh phát khùng.
4- Jiraṇatejo: Sắc hỏa đại trong sắc thân làm cho già nua,
da nhăn, tóc bạc, răng rụng,…
5- Pācakatejo: Sắc hỏa đại làm phận sự tiêu hoá vật
thực.
Trong 5 loại
sắc hỏa đại này, có 2 loại sắc hỏa đại luôn luôn có trong thân thể của chúng
sinh là usmātejo: Sắc hỏa đại có nhiệt độ ấm trong thân thể, và
pācakatejo: Sắc hỏa đại là chất lửa làm tiêu hóa vật thực. Còn lại
3 loại sắc hỏa đại kia là do sự biến đổi từ sắc hỏa đại có nhiệt độ ấm trong
thân thể (usmātejo) mà có.
- Đối với người bệnh, khi bị cảm sốt, từ usmātejo: Nhiệt độ ấm
trong thân thể tăng nhiệt độ nóng lên cao trở thành
santappanatejo: Sắc hỏa đại tăng nhiệt độ nóng ở thân thể lên
cao. Khi nhiệt độ nóng lên cao đến tột bực, trở thành dahanatejo:
Sắc hỏa đại tăng nhiệt độ nóng lên tột bực có thể làm cho người bệnh phát
khùng.
- Đối với người bình thường, hằng ngày usmātejo: Nhiệt
độ ấm trong thân thể, thiêu đốt các sắc pháp trong thân thể trở thành
jiraṇatejo: Hỏa đại làm cho sắc thân già nua, da nhăn, tóc bạc, răng
rụng,…
Khi sắc thân
tiếp xúc với sắc pháp có trạng thái nóng hay lạnh, đều thuộc về sắc hỏa
đại.
d) Sắc phong đại (vāyodhātu):
Là sắc pháp có thực tánh chuyển động, rung chuyển.
* 4 tính
chất riêng của sắc phong đại:
- Sắc phong đại có trạng thái di chuyển.
- Sắc phong đại có phận sự làm cho tất cả sắc pháp chuyển
động.
- Sắc phong đại làm rung chuyển tất cả sắc pháp đồng sinh là quả
hiện hữu.
- Sắc phong đại có 3 sắc: Sắc địa đại, sắc thủy
đại, sắc hỏa đại là nguyên nhân gần để phát sinh.
* Sắc phong
đại luôn luôn nương nhờ ở 3 sắc đại khác:
- Sắc phong đại nương nhờ sắc địa đại làm nền tảng.
- Sắc phong đại nương nhờ sắc thủy đại làm cho nối tiếp, không rời
rạc.
- Sắc phong đại nương nhờ sắc hỏa đại làm cho gió có nhiệt độ
nóng, gió có nhiệt độ lạnh.
* Sắc phong
đại có trạng thái phồng và rung chuyển:
- Sắc phong đại có trạng thái làm phồng lên, gọi là
vitthambhanavāyo: Chất gió làm căng phồng lên, làm cho mọi sắc
pháp đồng sinh trở nên cứng rắn.
+ Nếu chất gió căng phồng lên trong thân thể, làm cho người ấy có
cảm giác khó chịu mỏi mệt, đau nhức toàn thân.
+ Nếu chất gió căng phồng lên ở vật gì thì làm cho vật ấy cứng
rắn.
Ví như: Bơm
hơi vào trái bóng, bánh xe…
- Sắc phong đại có trạng thái di chuyển, gọi là
samīraṇavāyo: Chất gió làm cho mọi sắc pháp đồng sinh di
chuyển.
Chất gió
samīraṇavāyo ở trong thân thể chúng sinh, làm cho thân cử động, đi lại
được. Chúng sinh đi, đứng, ngồi, nằm, co tay vào, duỗi chân ra… đều do năng lực
của chất gió này.
* Chất gió
có 6 loại:
1- Uddhaṅgamavāyo: Chất gió bốc lên phía trên.
2- Adhogamavāyo: Chất gió đẩy xuống phía dưới.
3- Kucchiṭṭhavāyo: Chất gió ở trong bụng.
4- Koṭṭhāsayavāyo: Chất gió ở trong ruột già.
5- Aṅgamangānusārīvāyo: Chất gió ở toàn thân thể.
6- Assāsapassāsavāyo: Chất gió hơi thở vô, thở
ra.
Đó là 6 loại
gió ở trong thân thể của mỗi chúng sinh.
Chất gió
samīraṇavāyo ở bên ngoài thân thể làm cho rung chuyển, di động từ nơi này
đến nơi khác được.
Khi sắc thân
tiếp xúc với sắc pháp có trạng thái phồng xẹp, chuyển động, đều là sắc
phong đại.
Sắc tứ đại:
Sắc địa đại, sắc thủy đại, sắc hoả đại, sắc phong đại có tính chất rộng
lớn và có thực tánh rõ ràng.
Trong bộ
Abhidhammatthasaṅgaha (Vi Diệu Pháp Yếu Nghĩa) dạy rằng: Xúc
trần là đối tượng của thân thức tâm chỉ có 3 sắc đại
là:
1- Paṭhavīphoṭṭhabbārammaṇa: Xúc trần, chất đất cứng hoặc
mềm.
2- Tejophoṭṭhabbārammaṇa: Xúc trần, chất lửa nhiệt độ nóng
hoặc nhiệt độ lạnh.
3- Vāyophoṭṭhabbārammaṇa: Xúc trần, chất gió phồng hoặc
xẹp.
Chỉ có chất
đất, chất lửa và chất gió có thể tiếp xúc trực tiếp với
thân tịnh sắc (sắc thân) để phát sinh thân thức tâm, biết được
xúc trần: Cứng hoặc mềm (chất đất), nhiệt độ nóng hoặc nhiệt độ lạnh
(chất lửa), phồng hoặc xẹp (chất gió).
Riêng về
sắc thủy đại không phải là xúc trần, nên không thể biết bằng
thân thức tâm. Sắc thủy đại thuộc về pháp trần, nên chỉ có
thể biết bằng ý thức tâm. Bởi vì, sắc thủy đại là đối tượng rất vi
tế, thân thức tâm không thể tiếp xúc, nhận biết được.
Trong bộ
Abhidhammavibhāvinīṭīkā có giảng giải rằng:
“Āpodhātuyā
sukhumabhāvena phusitaṃ asakkuṇeyyattaṃ vuttaṃ...”
“Sắc thủy
đại có thực tánh rất vi tế, nên thân tịnh sắc không thể tiếp xúc đối tượng sắc
thủy đại được”.
Trong nước
lạnh hoặc nước nóng, dĩ nhiên có chất nước nhiều hơn các chất đất, chất lửa,
chất gió. Khi sắc thân tiếp xúc, tưởng như tiếp xúc với nước. Nhưng sự thật, khi
thân tịnh sắc tiếp xúc nhiệt độ nóng hoặc nhiệt độ
lạnh, đó là chất lửa; cứng hoặc mềm đó là chất
đất; sự chuyển động đó là chất gió. Thân thức tâm chỉ
biết được chất đất, chất lửa, chất gió ở trong chất nước ấy. Vì
chất nước không thuộc về xúc trần, mà là pháp trần, nên chỉ có thể
biết bằng ý thức tâm mà thôi.
3. 2-
Sắc phụ thuộc (upādāyarūpa): Là sắc pháp nương nhờ sắc tứ đại này phát sinh, có 24
sắc pháp:
- 5 tịnh sắc: Nhãn tịnh sắc, nhĩ tịnh sắc, tỷ tịnh sắc,
thiệt tịnh sắc và thân tịnh sắc.
- 2 sắc tính: Sắc nam tính và sắc nữ
tính.
- 1 sắc ý căn (hadayavatthu).
- 1 sắc mạng chủ.
- 1 sắc vật thực.
- 1 sắc chân không.
- 2 sắc cử động: Sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
- 3 sắc biến chuyển: Sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc
uyển chuyển.
- 4 sắc trạng thái: Sắc sinh, sắc liên tục, sắc già dặn,
sắc vô thường.
24 sắc pháp
này hoàn toàn tùy thuộc vào sắc tứ đại mà phát sinh.
Như vậy, sắc
pháp gồm có 28 sắc pháp.
Một người bình
thường không bị khiếm khuyết vì bệnh tật, trong thân thể người ấy có đủ 27 sắc
pháp.
- Nếu là người
đàn ông, thì trừ sắc nữ tính.
- Nếu là người
đàn bà, thì trừ sắc nam tính.
Trường hợp người có đôi mắt bị mù, hai
tai bị điếc,... thì số sắc pháp trong thân thể người ấy bị giảm theo bệnh tật
khiếm khuyết ấy.
4-
Niết Bàn (Nibbāna)
Niết
Bàn là pháp có trạng thái tịch tịnh, vắng lặng mọi phiền não, ngũ uẩn,
là pháp diệt mọi sự khổ, pháp an lạc tuyệt đối (santisukha). Niết
Bàn thuộc về Diệt Thánh Đế.
Tính chất của
Niết Bàn được phân ra nhiều loại, mỗi loại có ý nghĩa như sau:
4. 1-
Niết Bàn có 2
loại:
1- Sa upādisesanibbāna: Hữu Dư Niết Bàn: Niết Bàn đối
với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi phiền não,
mọi ác pháp không còn dư sót. Nhưng ngũ uẩn vẫn còn tồn tại, cho đến hết tuổi
thọ.
2- Anupādisesanibbāna: Vô Dư Niết Bàn: Niết Bàn đối
với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi phiền não,
mọi ác pháp không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, không
còn tái sinh kiếp nào nữa, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
4. 2-
Niết Bàn có 3
loại:
1- Animittanibbāna: Vô Hiện Tượng Niết Bàn: Niết Bàn
đối với hành giả tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh
pháp, sắc pháp sinh diệt, thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường
(aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng thái khổ và trạng
thái vô ngã, vì tín pháp chủ 1 có năng lực
nhiều hơn 4 pháp chủ khác (tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ
pháp chủ), hay do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn. Niết Bàn này gọi là: “Vô Hiện Tượng Niết Bàn”, Niết Bàn
không có hiện tượng pháp hành hữu vi.
2- Appaṇihitanibbāna: Vô Ái Niết Bàn: Niết Bàn đối
với hành giả tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết
rõ danh pháp, sắc pháp sinh diệt, thấy rõ biết rõ trạng thái khổ
(dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn 2 trạng thái vô thường và trạng
thái vô ngã, vì định pháp chủ 2 có năng lực
nhiều hơn 4 pháp chủ khác (tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, tuệ
pháp chủ), hay do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết
Bàn. Niết Bàn này gọi là: “Vô Ái Niết Bàn”, Niết Bàn
không có tham ái nương nhờ.
3- Suññatanibbāna: Chơn không Niết Bàn: Niết Bàn đối
với hành giả tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiện tuệ thấy rõ biết
rõ danh pháp, sắc pháp sinh diệt, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô ngã
(anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng thái vô thường và
trạng thái khổ, vì tuệ pháp chủ 3 có năng lực nhiều hơn 4 pháp chủ khác (tín pháp chủ, tấn
pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ), hay do năng lực của
tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn. Niết Bàn này gọi là: “Chơn
Không Niết Bàn”, Niết Bàn hoàn toàn vô ngã, không phải ta, không phải
của ta.
Tính Chất Của Đối
Tượng
Muốn thực hành thiền tuệ dẫn đễn chứng
ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn giải
thoát khổ hoàn toàn khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, hành giả
không những học hỏi hiểu rõ Chế định pháp và Chân nghĩa pháp, mà còn phải biết
phân biệt rõ sự khác biệt giữa đối tượng Chế định pháp và đối tượng Chân nghĩa
pháp, bởi vì mỗi đối tượng có tính chất riêng biệt hoàn toàn khác nhau như
sau:
1- Đối tượng Chế định pháp không có thực tánh pháp, không có
sự sinh, sự diệt, không có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã, cho nên không dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không chứng đắc 4
Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi
trong ba giới bốn loài. Cho nên, Chế định pháp chỉ làm đối tượng của pháp hành
thiền định mà thôi; hoàn toàn không thể làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
2- Đối tượng Chân nghĩa pháp có thực tánh pháp, có sự sinh,
sự diệt, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, cho nên dẫn
đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết
Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên, Chân nghĩa
pháp có thể làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Như Đức Phật dạy:
Tất cả pháp hữu vi
Danh pháp và sắc pháp,
Đều có ba trạng thái
Vô thường, khổ, vô ngã.
Niết Bàn và chế định
Thuộc về pháp vô ngã.
Danh pháp và sắc pháp,
Đều có ba trạng thái
Vô thường, khổ, vô ngã.
Niết Bàn và chế định
Thuộc về pháp vô ngã.
Lợi Ích Của
Chế Định Pháp và Chân Nghĩa Pháp
Đức Phật
thuyết pháp tế độ chúng sinh thường dùng 2 phương pháp:
1- Sammutidesanā: Thuyết pháp theo sự thật ngôn
ngữ chế định.
Ví dụ: Đức
Phật sử dụng danh từ gọi “chúng sinh, con người, đàn ông, đàn
bà, chư thiên, phạm thiên, con voi, con ngựa, ngôi nhà, chiếc xe”… mà người
đời đặt ra, có quy ước chế định được lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến
ngày nay, mọi người đã chấp nhận xem như là sự thật.
2- Paramatthadesanā: Thuyết pháp theo sự thật Chân nghĩa
pháp.
Ví dụ: Đức
Phật thuyết pháp về “tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết Bàn, danh
pháp, sắc pháp, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, Khổ Thánh Đế,
Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế”,…
Bởi vì, Đức
Phật có 2 loại trí tuệ đặc biệt, mà bậc Thánh Thanh Văn không có, đó
là:
- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ căn duyên
cao thấp của mỗi chúng sinh.
- Āsayānusayañāṇa: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ nghiệp quả và phiền
não ngấm ngầm của mỗi chúng sinh.
Khi tế độ
chúng sinh, Đức Phật quán xét căn duyên của mỗi chúng sinh nên thuyết pháp cách
nào.
* Nếu chúng sinh nào, tiền kiếp không từng nghe, học
hỏi về Chân nghĩa pháp, thì trước tiên Đức Phật
thuyết pháp về sự thật do ngôn ngữ chế định làm nền tảng, rồi tiếp theo
thuyết pháp về sự thật theo Chân nghĩa pháp, để hướng dẫn tâm trí của
chúng sinh ấy, đạt đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo -
Thánh Quả.
* Nếu chúng sinh nào, tiền kiếp đã từng nghe, học hỏi về Chân
nghĩa pháp, thì Đức Phật thuyết pháp trực tiếp về sự thật theo Chân nghĩa
pháp, để hướng dẫn tâm trí của chúng sinh ấy, đạt đến chứng ngộ chân lý Tứ
Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả.
Cho nên, sự
thuyết pháp của Đức Phật chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc
lâu dài cho chúng sinh trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Lợi ích của sự thật theo Ngôn ngữ chế định
Đức Phật
thuyết giảng sự thật theo ngôn ngữ chế định về con người đem lại sự lợi ích có 8
trường hợp như sau:
1- Để cho con người biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi
(hirottappadīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nên biết hổ
thẹn tội lỗi, nên biết ghê sợ tội lỗi”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ
nghi ngờ thắc mắc rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào nên
biết hổ thẹn tội lỗi, nên biết ghê sợ tội lỗi?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ…
phải nên biết hổ thẹn tội lỗi, nên biết ghê sợ tội lỗi…”, thì các hàng đệ tử
lắng nghe sẽ hiểu rõ, không nghi ngờ thắc mắc nữa.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng (puggalādhiṭṭhāna).
2- Để chứng tỏ mỗi chúng sinh đều có nghiệp là của riêng mình
(kammassakatādīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp đều có nghiệp
là của riêng mình”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ không hiểu, nghi ngờ
thắc mắc rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào có nghiệp là của riêng
mình?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Mỗi chúng sinh đều có nghiệp là của riêng
mình”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ dễ hiểu, không nghi ngờ thắc mắc
nữa.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.
3- Để làm cho nổi bật công việc của mỗi người
(paccattapurisakāradīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Ngôi chùa Jetavana do ngũ uẩn, danh pháp,
sắc pháp ấy xây cất”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ không biết nguời nào
xây cất, thắc mắc nghi ngờ rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào xây
cất?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Ngôi chùa Jetavana do ông phú hộ
Anāthapiṇḍika cho người xây cất. Ngôi chùa Pubbārama do bà Vīsākhā cho người xây
cất…”, thì các hàng đệ tử lắng nghe sẽ dễ hiểu không nghi ngờ thắc
mắc.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.
4- Để biết rõ người phạm nghiệp ác vô gián
(anantariyadīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này phạm phải nghiệp
ác vô gián: Giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh Arahán, làm cho Đức Phật bầm máu,
chia rẽ chư Tỳ khưu Tăng”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ không biết ai,
nghi ngờ thắc mắc rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc
pháp nào đã phạm nghiệp ác vô gián như vậy?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Vua Ajātasattu giết Phụ vương tên là
Bimbisāra. Tỳ khưu Devadatta làm cho Đức Phật bầm máu, chia rẽ Tỳ khưu
Tăng…”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, biết được người phạm nghiệp ác vô
gián, không nghi ngờ thắc mắc.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người làm nền tảng.
5- Để làm đề mục niệm rải tứ vô lượng tâm
(brahmavihāradīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Hành giả nên niệm rải tâm từ đến ngũ uẩn,
danh pháp, sắc pháp. Nên niệm rải tâm bi…, niệm rải tâm hỷ…, niệm rải tâm xả đến
ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp”, là những đối tượng không rõ ràng. Hành
giả không thể làm đề mục để thực hành thiền định niệm rải tâm từ…, niệm rải tâm
bi…, niệm rải tâm hỷ…, niệm rải tâm xả… được. Như vậy, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ,
tâm xả không thể phát sinh, các bậc thiền cũng không thể phát triển
được.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng:
- “Hành giả nên thực hành niệm rải tâm từ đến đối tượng hạng
chúng sinh đáng yêu, đáng mến”.
- “Hành giả nên thực hành niệm rải tâm bi đến đối tượng hạng
chúng sinh đang ở trong cảnh khổ, mong cho họ được thoát khổ”.
- “Hành giả nên thực hành niệm rải tâm hỷ đến đối tượng hạng
chúng sinh đang hưởng sự an lạc hạnh phúc, mong cho sự an lạc hạnh phúc được lâu
dài.
- “Hành giả nên thực hành niệm rải tâm xả đến đối tượng hạng
chúng sinh có nghiệp là của riêng họ, họ thọ hưởng quả an lạc do thiện nghiệp,
họ thọ quả khổ do ác nghiệp của họ đã tạo”.
Như vậy, hành
giả sẽ hiểu rõ từng mỗi đối tượng niệm rải tâm từ, niệm rải tâm bi, niệm rải tâm
hỷ, niệm rải tâm xả một cách rõ ràng, nên sự thực hành thiền định có thể chứng
đắc các bậc thiền được.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người, chúng sinh làm nền tảng.
6- Để ứng dụng vào trí tuệ “Túc Mạng Minh”
(pubbenivāsadīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng rằng: “Tiền kiếp của Như Lai sinh làm ngũ uẩn,
danh pháp, sắc pháp như thế ấy, như thế ấy… đã tạo ba-la-mật như thế ấy…”,
thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ không hiểu biết được, nghi ngờ thắc mắc
rằng: “Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào tiền kiếp của Đức Phật đã tạo
ba-la-mật như vậy…?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Trong tiền kiếp, Như Lai sinh làm Hoàng thái tử
Vessantara, Mẫu hậu là Phussatā, Phụ vương là Đức vua Sañjeyya trị vì ở kinh
thành Jetuttara, khi Đức Bồ Tát Vessantara trưởng thành, Phụ vương đã truyền
ngôi báu, lên làm Vua, và kết hôn cùng Hoàng hậu Maddī, hạ sinh được Hoàng tử
Jāli và Công chúa Kaṇhā. Đức vua Bồ Tát hoan hỷ trong pháp hành bố thí
ba-la-mật, nên đã bố thí voi quý của triều đình, bố thí của cải, thậm chí bố thí
cả Hoàng tử Jāli, Công chúa Kaṇhā, và Hoàng hậu Maddī…. Hay tiền kiếp của
Như Lai đã từng sinh làm Đức vua…, voi chúa, khỉ chúa… đã tạo ba-la-mật như thế
ấy”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ hiểu biết được, không còn nghi ngờ,
thắc mắc.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng chúng sinh, con người làm nền tảng.
7- Để phân biệt được Bậc có giới đức trong sạch xứng đáng thọ lãnh
vật dụng cúng dường (dakkhiṇāvisuddhidīpanattha)
Nếu Đức Phật
thuyết giảng dạy rằng: “Nên bố thí cúng dường đến ngũ uẩn, danh
pháp, sắc pháp có giới đức trong sạch, sẽ được nhiều phước thiện, có nhiều quả
báu cao quý”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ nghi ngờ thắc mắc rằng:
“Ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp nào có giới đức trong sạch để mình bố
thí, rồi được nhiều phước thiện, nhiều quả báu cao quý?”.
Nhưng khi Đức
Phật thuyết giảng rằng: “Nên làm phước bố thí cúng dường đến
chư Thánh Tăng, là bậc giới đức trong sạch, sẽ được nhiều phước thiện, sẽ có
nhiều quả báu cao quý suốt vô lượng kiếp”, thì các hàng đệ tử lắng nghe, sẽ
hiểu biết được, không nghi ngờ thắc mắc nữa.
Do đó, Đức
Phật thuyết pháp dùng con người chúng sinh làm nền tảng.
8- Để gìn giữ sự thật ngôn ngữ ở trong đời không bị mai một
(lokasammutti appahānattha)
Đức Phật
thuyết pháp giảng dạy với mục đích tế độ chúng sinh để giải thoát cảnh khổ. Điều
quan trọng đầu tiên, chúng sinh nghe hiểu rõ được giáo pháp của Ngài. Cho nên,
Đức Phật vẫn phải dùng đến những danh từ ngôn ngữ chế định, mà người đời thường
dùng để thông tin truyền đạt ý nghĩ, tư tưởng với nhau để thuyết giảng chánh
pháp.
Như vậy, chúng
sinh sẽ hiểu rõ được chánh pháp rồi thực hành thiền tuệ, dẫn đến
sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn,
giải thoát cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Do đó, Đức
Phật dùng ngôn ngữ chế định, cốt để gìn giữ sự thật ngôn ngữ ở đời không bị mai
một.
Đó là 8 điều
lợi ích của sự thật theo ngôn ngữ chế định.
Lợi ích của sự thật theo Chân nghĩa pháp
Hành giả
thực hành thiền tuệ, điều quan trọng đầu tiên cần phải học hỏi
hiểu biết rành rẽ thông thạo về Chân nghĩa pháp, có 4 pháp: Tâm, tâm sở, sắc
pháp, Niết Bàn, được phân chia thành những pháp như: Ngũ uẩn, 12 xứ, 18
giới,… tóm tắt còn 2 pháp là:
- Sắc pháp (rūpadhamma) thuộc pháp hữu
vi.
- Danh pháp (nāmadhamma) thuộc pháp hữu vi,
đó là tâm và tâm sở.
- Danh pháp (nāmadhamma) thuộc pháp vô vi, đó
là Niết Bàn.
Niết Bàn
thuộc danh pháp đặc biệt, chỉ làm đối tượng của tâm Siêu tam giới, đó là
4 Tâm Thánh Đạo và 4 Tâm Thánh Quả mà thôi.
Sự thật
Chân nghĩa pháp (Paramatthasacca) không thể thấy rõ, biết
rõ bằng trí tuệ do học hỏi (sutāmayapaññā), hoặc
trí tuệ do tư duy (cintāmayapaññā), mà chỉ thấy rõ, biết rõ bằng trí
tuệ do thực hành thiền tuệ (bhāvanāmayapaññā) mà thôi.
* Kết quả của sự thật theo ngôn ngữ chế định
Trong đời này,
có số người chỉ biết sự thật theo ngôn ngữ chế định, mà không hiểu
biết sự thật theo Chân nghĩa pháp, nên không hiểu rõ danh pháp,
sắc pháp là pháp vô ngã. Số người ấy, thường phát sinh tà kiến
theo chấp ngã (attānudiṭṭhi), cho là ta, của ta, người, của người, chúng
sinh, vật này, vật kia,… dễ phát sinh mọi phiền não, tự làm khổ
mình, làm khổ người, tự làm khổ mình lẫn làm khổ người.
* Kết quả của sự thật theo Chân nghĩa pháp
Trong đời này,
bậc Thánh Nhân đã thấy rõ, biết rõ sự thật theo Chân nghĩa pháp
là pháp vô ngã, có thiền tuệ chánh kiến, Thánh Đạo chánh
kiến, Thánh Quả chánh kiến, đã diệt đoạn tuyệt được tà kiến chấp thủ ngũ
uẩn (sakkāyadiṭṭhi) rồi, nên không còn chấp ta, người, chúng
sinh, vật này, vật kia,…
Trong cuộc
sống hằng ngày, bậc Thánh Nhân vẫn biết rõ sự thật theo ngôn ngữ chế định
dùng để giao tiếp với mọi người: Như thuyết pháp, nói đạo, thông tin,
truyền đạt ý nghĩ của mình. Nhưng đặc biệt bậc Thánh Nhân hoàn toàn không
chấp ngã. Cho nên, phiền não không phát sinh, không
tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn làm khổ
người.
Đó là điều lợi ích của sự thật
Chân nghĩa pháp.
2 Cái ách là một
dụng cụ đeo trên cổ, như ách đeo cổ con bò. Ở đây nên hiểu rằng một tấm gỗ có lỗ
nhỏ vừa cái đầu con rùa chui vào. Chiggaḷayuga = chiggaḷa +
yuga (chiggaḷa = cái lỗ, yuga = cái ách mang vào cổ),
chiggaḷayuga = cái ách có lỗ nhỏ mang vào cổ.
1 Tâm vô nhân là tâm không có nhân nào trong 6 nhân (tham,
sân, si, vô tham, vô sân, vô si) đồng sinh với tâm.
1 Trong mỗi tâm tịnh hảo gồm có đủ 4 uẩn: Tâm tịnh hảo ấy là
thức uẩn, và một số tâm sở tịnh hảo đồng sinh với tâm tịnh hảo ấy,
gồm có 3 uẩn: Tâm sở thọ là thọ
uẩn, tâm sở tưởng là tưởng uẩn, các tâm sở còn lại là
hành uẩn.
1 Xúc trần: Có 3 sắc đất,
lửa, gió đã tính trong phần sắc tứ đại rồi, nên trong phần sắc phụ thuộc không
tính vào 24 sắc pháp.
-ooOoo-
No comments:
Post a Comment