---o0o---
|
Sau khi
cẩn trọng dịch âm, dịch nghĩa và lược giải 2 thời công phu rồi, tôi mới đặt vấn
đề như dưới đây. Biết rằng đặt vấn đề thì gây rắc rối, nhưng nghĩ vẫn phải đặt.
Ấy là nên có 1 hội đồng lâm thời nhưng đủ mọi cẩn trọng để xét đến 2 thời công
phu. Dưới đây là mấy điều nên xét đến.
Công phu
buổi sáng, sau khi tụng lời phát nguyện thì tụng 21 lần chú Lăng nghiêm (Án, a
na lệ, tì xá đề, bệ ra bạt xà ra đa rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra báng ni
phấn, hổ hộng, đô rô ung phấn, sa bà ha). Rồi lạy Hồng danh 53 vị Phật, nhưng
với nghi thức trước sau đầy đủ (chỉ 10 nguyện Phổ hiền là tỉnh giảm mà thôi).
Tiếp theo, tụng chú Đại bi, chú Bát nhã, niệm Phật, phát nguyện theo nguyện Phổ
hiền, và tam tự qui.
Công phu
buổi chiều, sau khi tụng Di đà thì lạy Hồng danh 35 vị Phật, nhưng cũng với nghi
thức đầy đủ. Rồi tụng chú Đại bi, chú Bát nhã, niệm Phật, phát nguyện theo
nguyện Phổ hiền, và tam tự qui.
Đề nghị
như trên đây không cốt ý đơn giản mà muốn nhất quán, tinh tiến với công việc và
thì giờ vừa phải.
Trong
một lời ghi thì không thể nói hết lý do. Nhưng vẫn ghi lại để xin chất chính
cùng các bậc Lương đạo, Thiện tri thức.
Sau hết,
rất cần nhắc lại mục đích của 2 thời công phu. Mục đích ấy, như đã nói ở sau, là
cầu sinh Cực lạc. Sinh Cực lạc có 2: một là sinh về Cực lạc để rồi trở lại Sa bà
trước hết, hai là sinh Cực lạc ngay nơi Sa bà. Đằng nào cũng là vì chúng sinh Sa
bà cả. Mà muốn sinh Cực lạc thì phải niệm Phật -- phải nắm lấy hồng danh của
Phật ở trong tâm và ở nơi miệng, làm những gì Phật làm, không làm những gì Phật
không làm. Niệm Phật, và trì tụng 2 thời công phu, là phải biết "Khi tâm tưởng
nhớ đến Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật" (Quán kinh, Chính
12/343).
a. Tài
liệu chính là Thiền môn nhật tụng Huế, tiểu bản. Các bản để tham khảo đối chiếu
là Chư kinh nhật tụng tập yếu quyển hạ (Trung hoa đại tạng kinh, tập 2 sách 37
trang 30071-30083), Triêu mộ khóa tụng của Phật giáo Hương cảng, Nhị khóa hợp
giải.
b. Tài
liệu phụ thì có Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục
tạng kinh bản chữ Vạn (ký hiệu là Vạn).
c. Khi
nói nguyên bản là chỉ cho Chư kinh nhật tụng tập yếu quyển hạ, còn nói truyền
thống là chỉ cho Thiền môn nhật tụng Huế.
Công phu
đây là của người xuất gia. Nội dung 2 thời công phu có khá rõ và nhất quán về
mục đích của người xuất gia. Mục đích ấy là chí nguyện mà thuật ngữ gọi là phát
bồ đề tâm. Phát bồ đề tâm có nhiều nghĩa, từ giai đoạn mở đầu cho đến giai đoạn
kết cục của sự tu hành: 1. phát giác tuệ giác vô thượng bồ đề của Phật chính là
bản giác của tâm chúng ta, gọi là phát bồ đề tâm; 2. phát khởi chí nguyện cầu
đạt cho được tuệ giác ấy, gọi là phát bồ đề tâm; 3. phát huy dần dần tuệ giác
ấy, gọi là phát bồ đề tâm; 4. phát hiện hoàn toàn tuệ giác ấy, gọi là phát bồ đề
tâm. Trong 4 giai đoạn như vậy, nội dung 2 thời công phu có cả, nhưng có đủ nhất
là giai đoạn 2. Phát bồ đề tâm ở giai đoạn 2 này thuật ngữ hay nói là thượng cầu
Phật tuệ, hạ hóa chúng sinh: trên thì cầu tuệ giác vô thượng, bằng cách dưới thì
giáo hóa chúng sinh.
Nhưng
mục đích 2 thời công phu chưa dừng ở đây, mà còn nói "vì tuệ giác bồ đề mà cầu
sinh Cực lạc". Cầu sinh Cực lạc có 2 mặt: một là cầu vãng sinh Cực lạc quốc của
đức Bổn tôn cho đủ khả năng để trở lại ngũ trược ác thế trước tiên mà giáo hóa;
hai là cầu thực hiện Cực lạc quốc ngay trong ngũ trược ác thế với thần lực của
đức Bổn tôn. Riêng mặt thứ hai, Di đà đại bản nói, "Có người vốn nguyện độ sinh
mau chóng, thì đem công đức của cái nguyện ấy mà tự trang bị, nhập vào thế giới
sinh tử, tự tại thuyết pháp giáo hóa. A di đà phật dùng thần lực làm cho người
này giáo hóa chúng sinh phát khởi chánh tín cho đến thành tựu bồ đề, nhưng từ
đầu đến cuối, người này không bị cái khổ của các đường dữ ..., dẫu sống trong
ngũ trược ác thế mà không khác gì sống trong thế giới của người ấy là Cực lạc
quốc độ" (Chính 12/337).
Trong 2
thời công phu, lời nguyện của ngài A nan mở đầu công phu sáng, hiểu thị đủ cả 2
mặt của chí nguyện "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc". Rồi từ đó, mọi sự
trì tụng suốt 2 thời công phu, cũng như mọi sinh hoạt suốt 24 giờ sau đó, toàn
là lặp lại và thực thi chí nguyện này. Do vậy, suốt 24 giờ sau đó, nếu có trì
tụng kinh chú gì khác ngoài 2 thời công phu hay trì niệm danh hiệu nào khác
ngoài hồng danh đức Bổn tôn, cũng là pháp hạnh thực hiện chí nguyện "vì tuệ giác
bồ đề mà cầu sinh Cực lạc".
Như đã
thấy, chí nguyện "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc" là chủ não của 2 thời
công phu. Công phu sáng là mỗi sáng sớm lặp lại chí nguyện ấy để rồi sau đó làm
theo cả ngày. Nhưng biết rằng trở ngại của chí nguyện ấy là dục vọng, là bao
nhiêu ma chướng: thiếu thốn, tật bịnh, tai nạn, khổ báo ... Vì vậy mà phải trì
chú Lăng nghiêm và các phẩm thần chú khác. Sau phần trì chú là phần hồi hướng,
niệm Phật, phát nguyện theo hạnh nguyện Phổ hiền tức nguyện sinh Cực lạc, và tự
qui y Tam bảo, toàn là để bảo vệ và tăng trưởng cho chí nguyện "vì tuệ giác bồ
đề mà cầu sinh Cực lạc".
Chiều
tối, đem bao nhiêu việc làm cả ngày hồi hướng cầu sinh Cực lạc. Kinh Di đà để
biết cái thế giới mà mình cầu sinh. Sám Hồng danh để tịnh trừ nghiệp chướng. Mở
đóng vòng đơn ở đây là văn Thí thực để làm tịnh thí pháp thực cho quỉ thần. Rồi
y như sáng sớm, công phu chiều tối cũng niệm Phật, cũng nguyện sinh Cực lạc,
cũng tự qui y Tam bảo, hồi hướng tất cả 2 thời công phu cùng với hết thảy việc
làm cả ngày vào mục đích "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc".
Đặc biệt
công phu chiều tối còn cảnh giác về sự vô thường và sách tiến về sự nỗ lực, văn
ý rõ ràng, chính yếu, chí thiết và rất gọn, cho 2 thời công phu ngày hôm sau và
ngày hôm sau nữa, cho cả đời người xuất gia, quyết tâm "thử thân bất hướng kim
sinh độ, cánh hướng hà sinh độ thử thân", thân này không tự độ bằng đời này thì
còn hướng vào đời nào nữa mới tự độ thân này?
Đã nói
là công phu của người xuất gia thì người xuất gia phải ngày ngày trì tụng cho
liên tục, đúng giờ, đúng cách. Trì tụng 2 thời công phu thì phải thuộc lòng,
phải có chí nguyện "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc", phải giữ giới, phải
chí thành và thâm tín. Miệng không ăn thịt, ăn đồ cay nồng, uống rượu, nói chơi,
nói tục, ăn ở nhà bất tịnh. Thân không dâm dục, chạm tay vào chỗ dơ, không tắm
rửa, y áo dơ bẩn. Chỗ trì tụng phải tôn nghiêm. Giọng và tiếng trì tụng phải rõ
ràng, về âm điệu cũng như văn tự. Mức độ trì tụng thì không quá mau quá chậm,
không quá lớn quá nhỏ. Phải tụng sao cho tự nghe rõ ràng. Điều kiện này cũng ấn
định tâm trí có chuyên chú hay không. Trì tụng khá công phu sẽ thấy một vài điềm
tốt: cấm khoe, nhất là khoe để mưu lợi, cầu cung kính. Rồi cũng có thể có vài
điềm xấu, như bỗng phát sợ, hay giận hay ngủ, lưỡi không bình thường, phát nghi,
thắc mắc và suy diễn: đừng sợ, định tĩnh mà lướt tới sẽ tan biến hết.
Riêng
việc tụng chú, phải tụng đề chú để biết chủ ý của chú ấy. Phải tụng đủ số tối
thiểu đã ghi, nhất là văn Thí thực. Đừng nghĩ rằng phải tụng đúng âm Phạn tự.
Việc ấy ngày nay không khó gì, chỉ vì không linh nghiệm bằng tụng như bình
thường. Nhiều thí nghiệm kiên nhẫn cho thấy như vậy.
Còn sám
Hồng danh thì chỗ nào ghi lạy là phải lạy. Không được tụng không. Cũng không
được chỉ quì mà tụng. Lại càng không được nói mỗi tháng lạy 2 lần rồi thôi. Nếu
lạy không hết 53 + 35 đức Phật một lúc thì thà phân ra, ngày này lạy 53 đức
Phật, ngày khác lạy 35 đức Phật. Đầu và cuối thì như nhau, ngày nào cũng tụng và
lạy cho hết.
Trì tụng
2 thời công phu mà thôi, một đời xuất gia cũng đẹp, khá đẹp. Có nhiều người đã
và đang tự chứng minh như vậy.
Việc
dịch 2 thời công phu thì đủ cả dịch âm và dịch nghĩa. Còn việc giải thì có 3: 1.
lược ghi về Lăng nghiêm, Đại bi và Thí thực; 2. lược giải về Di đà, Hồng danh và
Bát nhã; 3. chú thích những chỗ cần trong tất cả việc dịch giải trên
đây.
No comments:
Post a Comment