Thực tập thiền định - Cải thiện chính mình - Mở rộng trái tim
tác giả Fabrice Midal
Vài lời giới thiệu của người dịch
Dưới
đây là phần chuyển ngữ toàn bộ chương I (tr.13-20) của một quyển sách nhỏ về
Phật Giáo, mang tựa đề "Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme,
nhà xuất bản Grancher, 2008). Tuy bàn về những vấn đề rất căn bản thế nhưng tập
sách lại được viết bởi một triết gia Phật Giáo sâu sắc nổi tiếng hiện nay là
Fabrice Midal. Trong chương đầu tiên này, tác giả tìm cách giải thích Phật Giáo
là gì và nêu lên một vài khía cạnh về hiện tình phát triển của Phật Giáo tại
Pháp và Âu Châu. Toàn bộ quyển sách được tác giả trình bày với một văn phong rất
đơn giản và nêu lên các chủ đề cũng như các nhận xét thật bao quát, thế nhưng
chúng ta vẫn nhìn thấy được chiều sâu và sự chính xác tàng ẩn phía sau từng dòng
chữ thật đơn sơ của ông.
Sinh
năm 1967 trong một gia đình Do Thái Giáo, năm 20 tuổi Fabrice Midal may mắn gặp
được một nhà sư Tây Tạng khác thường là Chögyam Trungpa (1939-1987). Ông cạo đầu
và tu theo Phật Giáo Tây Tạng từ khi còn là sinh viên, sau đó thì đỗ tiến sĩ
triết học tại đại học Sorbonne (Paris). Tuy thấm nhuần các tư tưởng phóng
khoáng, cấp tiến và "phi-giáo-điều" của vị thầy Chögyam Trungpa, ông cũng đã
chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các vị thầy Tây Tạng khác mà ông đã theo học, và đặc
biệt nhất là được nhà thần kinh học nổi tiếng Francisco Varéla (1946-2001) một
trong các đệ tử thân cận của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, truyền thụ thêm cho ông về phép
thiền định.

Fabrice
Midal
Lý do nào khiến người Tây Phương lại theo Phật Giáo
đông đến thế?
Quả
thật là đã không hề có một dấu hiệu nào báo trước sự thành công kỳ lạ của Phật
Giáo tại Tây Phương trước khi Phật Giáo tiếp xúc với miền đất này vào thế kỷ XX.
Alfred Foucher (1865-1952, là một học giả uyên bác
của Pháp), tác giả một quyển sách thuật lại cuộc đời của Đức Phật
hiện vẫn còn giá trị, đã viết vào năm 1949 một câu như sau: "Ngoại trừ một số
người đặc biệt hiếu kỳ thích quan tâm đến những thứ ngoại lai ra thì Phật Giáo
rồi cũng sẽ chỉ thu nạp được một số tín đồ thật ít ỏi trên đất nước của chúng
ta". Theo ông thì tín ngưỡng đó không sao hòa hợp được với tâm tính của người
Tây Phương.
Ngày
nay nhiều khái niệm chủ yếu của Phật Giáo được biết đến và có thể nói rằng đã có
rất nhiều người Tây Phương tán đồng các quan điểm ấy: dù đấy là lòng từ bi, sự
vững chắc của hiện tượng vô thường (chữ này là một đặc
thù của Phật Giáo), các khái niệm về vô-ngã, về nghiệp hay là hiện tượng
tương liên (lý duyên khởi). Người ta có
thể quả quyết rằng rồi đây Tây Phương sẽ trở thành mảnh đất của Phật Giáo, dù
không nhất thiết phải là dưới một hình thức tu tập thật chuyên cần đi nữa.
Sự
lợi ích do thiền định mang lại thì mọi người đều biết và đã có hàng triệu người
đang luyện tập hiện nay.
Khoảng hơn bảy-trăm-ngàn người Pháp tự nhận mình là Phật tử (nước Pháp có 65 triệu dân), và do đó Phật Giáo đã
trở thành tôn giáo đứng hàng thứ ba tại quốc gia này. Con số ấy thật ra còn che
khuất một sự thật quan trọng hơn thế nhiều: đấy là có năm triệu người Pháp cho
rằng Phật Giáo là một tín ngưỡng mà họ cảm thấy gần gũi với mình hơn cả. Phật
Giáo du nhập vào nước Pháp vững chắc hơn so với các nơi khác: hàng nhiều trăm
trung tâm thiền định đã được thiết lập trên đất Pháp. Ngôi chùa Tây Tạng lớn
nhất Âu Châu tọa lạc trong vùng Bourgogne (miền
đông nước Pháp), trung tâm thiền Zen quan trọng nhất ở Âu Châu được
thiết lập tại Touraine (miền tây nước
Pháp), và ngôi chùa mới của Phật Giáo Việt Nam thì ở Evry (ngoại ô Paris).(hình
bên)
Có
rất nhiều nguyên nhân đưa đến sự phát triển của Phật Giáo trên đây. Thế nhưng
căn cứ vào một vài khía cạnh của tín ngưỡng Phật Giáo đã khiến cho con tim của
người Tây Phương phải rung động thì có lẽ chỉ cần nhận ra hai nguyên nhân chính
yếu nhất là đủ: trước hết là một nền móng đạo đức xây dựng trên sự khoan dung,
lòng nhân ái, sự ý thức được trách nhiệm của mình đối với người khác trong cộng
đồng xã hội; và kế đó là sự tập luyện về thiền định như là một nghệ thuật sống,
giúp làm hiển lộ được bản chất đích thật nơi con người của mỗi chúng ta trong
bất cứ một bối cảnh nào trong cuộc sống.
Các
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá triệt để khiến cho tương lai của hành
tinh này đang bị hăm dọa một cách trầm trọng, và nếu nhìn trên một bình diện
rộng hơn nữa thì có thể nói rằng bất cứ thứ gì trên hành tinh này cũng đều đang
bị khai thác một cách tận cùng - trong đó kể cả con người. Trong bối cảnh đó đối
với nhiều người thì Phật Giáo đã xuất hiện như là một giải pháp cứu tinh mạnh
mẽ, mạch lạc và thật cần thiết.
Đối với
người Tây Phương muốn trở thành một Phật tử thì phải như thế
nào?
Đấy
là ước vọng được bước theo bước chân của Đức Phật, thế nhưng đây không phải là
cách thâu thập cho mình một thứ gì ngoại lai, mà thật ra là để noi theo tấm
gương của một Con Người cách nay hơn hai-ngàn-năm-trăm năm đã khám phá ra một
con đường cho chúng ta bước theo, hầu giúp cho mình trở thành những con người
xứng đáng hơn.
Nếu
bắt buộc phải định nghĩa Phật Giáo bằng một câu duy nhất thì tôi sẽ nói rằng đấy
là một phương pháp giúp chúng ta sống thật trọn vẹn từng giây phút một trong
cuộc đời này.
Tất
cả chúng ta đều trải qua những giây phút khổ nhọc và đau buồn, và cả mọi thứ khó
khăn khác mang ít nhiều gay gắt. Thế nhưng Phật Giáo cho thấy là chúng ta có thể
triệt tiêu được những thứ ấy một cách hữu hiệu, và còn nhắn bảo với chúng ta
không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh bên ngoài hay cho người khác, vì đấy chỉ là cách
ngăn chận không giúp chúng ta trưởng thành một cách đúng đắn được.
Phật
Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm
nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành
động của mình. Nếu nhìn theo chiều hướng đó thì Phật Giáo không phải là một tôn
giáo. Phật Giáo không bắt nguồn từ một thứ đức tin nào cả, và cũng chẳng cần
phải chấp nhận một thứ hiểu biết nào mang tính cách giáo điều. Kể cả một Đấng
Tối Cao cũng không có trong tín ngưỡng ấy.
Giáo
huấn của Đức Phật là những lời chỉ dạy giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với
những kinh nghiệm sống thật mà chúng ta cảm nhận được. Dầu sao thì chữ kinh
nghiệm (experience) không hàm chứa đầy đủ được ý nghĩa cần thiết để diễn đạt
được những gì nói đến trên đây, bởi vì ngày nay chữ kinh nghiệm đã quen được sử
dụng trong khoa học và mang ý nghĩa như là một sự thử nghiệm, không còn là một
sự lắng nghe với tất cả sự cảnh giác nữa.
Bước
theo vết chân của Đức Phật trước hết có nghĩa là khám phá ra rằng thực tại không
hề hiển hiện ra đúng thật của nó, thế nhưng chúng ta thì lại không sẵn sàng để
chấp nhận điều ấy. Vì thế phải cần đến một sự tập luyện cần thiết nào đó để giúp
chúng ta tiếp cận thật gần, đúng thật với những gì đang hiển hiện ra. Thí dụ như
khi viếng thăm một thành phố nào đó mà trước đây ta chưa hề biết, thì trong
trường hợp ấy ta cũng cần phải có một thời gian để cảm nhận được các đặc điểm
của nơi ấy, và khung cảnh sinh hoạt của nơi ấy. Thế nhưng vẫn có thể là ta không
thể nào quả quyết là mình đã cảm nhận được một cách đích thật tất cả
những gì trong bối cảnh cá biệt ấy hay không, do đó ta cần phải có thêm thì giờ
để kiểm chứng lại. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy thì sẽ hiểu rằng Phật Giáo khuyên
chúng ta phải tập luyện thiền định. Đức Phật ngồi xuống để thiền định và đã tiếp
cận trực tiếp và thật sát với tất cả mọi sự vật đúng với những gì chúng hiển
hiện ra, đồng thời thì Ngài cũng đã nhìn thẳng vào những kinh nghiệm cảm nhận
của chính Ngài với một sự sắc bén thật cao độ. Trở thành một người Phật tử chỉ
đơn giản có thế, tức có nghĩa là biết hành xử như thế.
Tuy
nhiên không phải dễ để thực hiện được điều ấy. Nếu nhiều người cùng tập luyện
chung với nhau thì có thể sẽ dễ dàng hơn, nhất là biết tuân theo một số quy tắc
được thiết đặt rõ rệt và biết cố gắng giữ sự thành tín mang tính cách "tôn giáo"
trong lòng mình, phải tự tin rằng mình là một người tốt và mình có lý - không
nên đổ lỗi cho người khác về các khó khăn của chính mình. Con người luôn bị thúc
đẩy thật mạnh bởi một niềm mong muốn tạo lập được một cơ sở nào đó và dồn tất cả
trí thông minh của mình vào đấy, và sau đó thì hy sinh tất cả cho lý tưởng ấy -
thí dụ như thành lập một xí nghiệp, một hội đoàn, một cơ sở hành chánh, hay theo
một Giáo Phái nào đó mà vì hoàn cảnh đưa đẩy đã trói buộc mình vào với nó. Tất
cả những thứ ấy thật vô cùng khủng khiếp.
Đức
Phật khuyên chúng ta phải biết tận hưởng, biết cảm nhận và biết sống trong từng
giây phút một qua sự hiện hữu của chính mình, thế nhưng không phải vì thế mà
phải loại bỏ trí thông minh của chính mình, và bắt buộc mình phải giao sự tự do
của chính mình vào trong tay của bất cứ ai khác.
Các điều ấy có khác với những gì đang xảy ra ở các
nước Tây Phương hay không?
Đúng
là có, bởi vì tại Á Châu thông thường thiền định không được xem là tâm điểm của
Phật Giáo. Thiền định chỉ được thực thi bởi một số người đặc biệt quan tâm đến
nó mà thôi. Phật Giáo tại những nơi này đã hòa nhập một cách tự nhiên với cuộc
sống thường nhật. Tại Tây Phương, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như
thế đối với Thiên Chúa Giáo, và cũng nên hiểu rằng nhiều người xem tất cả những
thứ ấy chỉ là một khung trời thấm đượm văn hóa và các tập quán lâu đời mà thôi,
không phải là một con đường tâm linh đích thật.
Phật
giáo tại Tây Phương trước hết phải được xem là một sự truyền thụ tâm linh. Phật
Giáo không phải là một thứ tổng hợp gồm các tín điều, nghi lễ và các thái độ
hành xử. Quả thật tất cả là nhờ vào những vị "anh hùng" (đây là cách "mượn chữ" trong kinh sách Phật Giáo, nhất là
kinh sách Phật Giáo Tây Tạng, chữ "anh hùng" dùng để chỉ những vị Bồ-tát xả
thân cho lý tưởng của mình, và trong trường hợp này là những nhà sư Tây Tạng đã
trốn thoát khỏi quê hương của họ để sống lưu vong tại Âu Châu) đã
mang Phật Giáo vào Tây Phương cho chúng ta vào hậu bán thế kỷ XX, đấy là những
người bị gạt ra khỏi các thể chế xã hội trên chính quê hương của họ. Họ ý thức
được Phật Giáo đang trở thành một thứ hóa thạch (địa khai - fossil) trên quê hương họ, và khi đã
đến được mảnh đất phương Tây thì họ cũng hiểu được rằng đấy cũng là một cơ hội
để giúp cho Phật Giáo tồn tại, và hơn nữa đấy cũng là một dịp để phát huy cho
mọi người biết đến các tiềm năng quý giá vô ngần của Phật Giáo. Những tiềm năng
ấy không nhất thiết đề cao một nền luân lý hay quảng bá một thứ giáo điều nào
cả, mà đúng hơn đấy là những gì giúp chúng ta có thể nhìn thấy được một thể dạng
hiện hữu nào đó (thể dạng thanh cao, an vui và giải thoát của một người tu
tập).
Đối
với các thế hệ trẻ tại Á Châu, Phật Giáo bị xem như là một thứ gì lạc hậu, và
cũng chẳng giúp ích gì được cho họ trong cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu mà họ
đang muốn nhập cuộc để tham gia. Trong thế giới Tây Phương thì chúng ta may mắn
hơn và đã ý thức được những giới hạn của chủ thuyết toàn cầu hóa đó cũng như của
sự đua đòi tiện nghi vật chất. Kinh nghiệm bản thân giúp chúng ta chứng nghiệm
được tính cách đích thật trong những lời giáo huấn của Đức Phật. Các lời giáo
huấn ấy giúp chúng ta ý thức được là dù luôn cố tìm cách thỏa mãn sự ham muốn
thế nhưng thực sự ra thì chúng ta sẽ không bao giờ hết thèm khát cả. Chúng ta
nào có biết tìm lấy cho mình sự an vui sẵn có mà luôn chỉ muốn tìm cách để đuổi
theo những thứ khác hơn.
Dầu
sau thì vấn đề vẫn còn hàm chứa một khía cạnh khác nữa. Trong thế giới Đông
Phương, Phật Giáo đã ăn sâu vào toàn bộ nền văn hóa và thấm nhuần trong từng
sinh hoạt cụ thể của cuộc sống thường nhật. Con người hít thở bầu không khí Phật
Giáo một cách thật tự nhiên - hành động của họ đều thấm đượm tinh thần Phật
Giáo, từ cách ăn ở, cách chào hỏi, cách ngắm nhìn muôn thú, núi đồi hay bất cứ
một sự vật nào khác. Các nền văn hóa Đông Phương không hề gây chiến chống lại
bất cứ gì chi phối bởi một thứ trật tự duy lý mang tính cách tính toán - mà luôn
giữ được ý nghĩa của sự thiêng liêng và nghi lễ, biết quan tâm đến thân xác và
cả tình yêu thương. Và đấy chính là những gì mà chúng ta không có. Muốn thực
hiện được những điều ấy thì nhất định phải cần đến một sự cố gắng thật lớn lao.
Nếu không thiết lập được một nền móng văn hóa Phật Giáo đích thực tại Tây Phương
thì cũng sẽ khó lòng mà giúp cho Phật Giáo bắt rễ vào mảnh đất ấy.
Sau
hết cũng cần phải nêu lên thêm một sự khác biệt nữa giữa Phật Giáo Á Châu và
Phật Giáo Tây Phương: đấy là vai trò của những người xuất gia. Tại Đông Phương
nhất là ở các nước Đông Nam Á, vị thế của người tu hành được nâng lên rất cao.
Người thế tục thuộc mọi thành phần đều phải cung cấp các tiện nghi vật chất cho
các nhà sư trong cuộc sống thường nhật, và họ xem bổn phận ấy quan trọng hơn cả
việc tu tập để hướng vào sự giác ngộ cho chính mình.
Ở
Tây Phương thì lại khác, các người thế tục chỉ biết lo tu tập, tham gia vào các
khóa ẩn cư hay các buổi thực tập. Họ tìm cách bước thẳng vào lãnh vực cao thâm
nhất và linh thiêng nhất của Phật Giáo.
Nguyên nhân nào đã thúc đẩy ta trở thành người Phật
Giáo?
Con
người càng đa dạng bao nhiêu thì những nguyên nhân thúc đẩy cũng càng phức tạp
bấy nhiêu.
Các
nguyên nhân ấy có thể là sự bất an gay gắt trong lòng, sự bất toại nguyện dai
dẳng (vì khổ đau mà tu), chấp nhận tự
gánh vác tất cả mọi khó khăn của mình (ý thức được
nguyên nhân của khổ đau là do chính mình gây ra), hay đấy là tinh
thần thượng võ, lòng ước vọng giúp đỡ tất cả chúng sinh (lý tưởng của người bồ-tát).
Hoặc
cũng có thể là vì cảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong những lời giảng huấn của
Đức Phật, luôn vang lên trong lòng mình một cách thật thiết tha.
Dầu
sao đi nữa thì đến một ngày nào đó, người ta cũng sẽ cảm thấy mình muốn được
uống những ngụm nước tuôn ra từ con suối ấy (tức
Phật Giáo). Nếu muốn đến được con suối thì phải sẵn sàng từ bỏ các
thói quen chỉ biết hành xử nhắm vào quyền lợi cá nhân của mình. Quả thật chẳng
có gì hẹp hòi hơn. Đấy chỉ là một cách chạy quẩn chạy quanh. Chính vì thế mà đến
một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ muốn được nhìn thấy các sự vật gần hơn, đúng
thật hơn với cách mà chúng hiển hiện ra.
Đấy
chính là cách giúp chúng ta bước vào "con đường".
Các
nguyên nhân khiến chúng ta tìm đến với Phật Giáo tất nhiên cũng phải biến đổi.
Những nguyên nhân thúc đẩy hẹp hòi rồi sẽ dần dần biến thành những nguyên nhân
cao rộng hơn, sự ích kỷ rồi một lúc nào đó cũng sẽ chuyển thành lòng quyết tâm
hy sinh vì sự lợi ích của kẻ khác.
Dù
được thúc đẩy bởi bất cứ một động lực nào đi nữa thì luôn luôn ta cũng phải cần
đến một con đường giúp cho ta theo đó mà đi.
Quả
đấy là một thứ gì thật khó. Con người lúc nào cũng muốn che chở mình bằng một
lớp vỏ bên ngoài thật cứng nhắc mà chẳng bao giờ nghĩ đến là phải biến cải chính
mình từ bên trong.
Thế
nhưng đấy lại là mục đích của Phật Giáo. Phải tu tập mà thôi, thế nhưng không
phải tập để đơn giản trở thành một người Phật tử - chữ ấy mang một ý nghĩa thật
đáng thương hại, bởi vì đấy chỉ là cách gán thêm cho mình một thứ cá tính nào đó
để tự nâng cao giá trị của mình, hầu để tự trấn an lấy mình - mà đúng hơn tu tập
có nghĩa là phải đi theo những bước chân của Đức Phật.
Phật Giáo
có nghi lễ nào tương tự như lễ rửa tội hay lễ Bar Mitsva (lễ thụ giới của Do Thái Giáo lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và
con trai thì 13 tuổi) hay không?
Khi
sinh ra chúng ta không đương nhiên là người Phật Giáo, tương tự như trường hợp
của Do Thái Giáo, hay là trường hợp của Thiên Chúa Giáo nhờ vào phép rửa tội.
Chúng ta trở thành người Phật Giáo bằng một sự tự nguyện mang tính cách cá nhân
gọi là "quy y Tam Bảo" tức là nương tựa vào Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn: đấy
là tấm gương để ta noi theo (tức Đức Phật), con đường giúp ta bước theo
(Đạo Pháp), và tập thể những người đảm
trách việc truyền giáo (Tăng
Đoàn).
Tại
sao lại gọi là "quy y"?
Quyết tâm trở thành một người Phật Giáo là một cách (gián tiếp) chứng tỏ cho thấy là các mục tiêu
trước đây không đáp ứng được nguyện vọng của mình. Các mục tiêu ấy không đủ vững
chắc để cho ta có thể nương tựa vào đấy. Tìm kiếm lạc thú, lợi lộc, uy quyền thì
rốt cuộc cũng chỉ là cách chạy theo những thứ phù du. Sự nương tựa đích thật
mang lại lợi ích thực sự chính là cái không gian mở rộng - cái không gian mà Đức
Phật đã trỏ cho chúng ta thấy. Chỉ có Đức Phật là vững bền và không có bất cứ
một thứ gì có thể làm cho Ngài bị ô uế được.
Đức
Phật cũng như Đạo Pháp và Tăng Đoàn tất cả đều hiển lộ một cách thật xác thực,
và được xem như ba viên ngọc quý giá không gì có thể so sánh được. Những viên
ngọc vô giá đó có thể giúp chúng ta chữa lành những vết thương sâu kín nhất.
Chúng ta có thể mạnh dạn nương tựa vào những viên bảo châu ấy mà không e ngại gì
cả. Đấy là những viên bảo châu không bao giờ phản bội chúng ta và cũng không bao
giờ làm cho chúng ta phải bị lạc hướng...
Việc
quy y thường được diễn ra trong một buổi lễ với sự chủ tọa của một vị thầy, có
thể tổ chức ở chùa hay tại nhà. Thể thức thật giản dị, chỉ cần xướng lên ba
lần:
Tôi
xin quy y Phật
Tôi
xin quy y Pháp
Tôi
xin quy y Tăng
Để
chính thức hóa sự kiện ấy, người chủ lễ sẽ cắt một lọn tóc của người tân đồ đệ,
tương tự như khi Đức Phật rời bỏ cung điện vua cha đã cắt tóc để tỏ sự quyết tâm
đi theo con đường mà mình đã chọn.
.
Ngay
cả ở Phương Đông, tục lệ này đôi khi cũng không còn giữ được tính cách long
trọng như xưa nữa, và tiếc thay đấy lại là những gì thật cần thiết. Người tân đồ
đệ dù có xướng lên những lời ước nguyện thế nhưng cũng chẳng cần biết đấy có ý
nghĩa gì, và cũng chẳng cần phải đem ra để áp dụng trên con đường tu tập của
mình. Vì thế nên ngày nay tại Tây Phương thiết nghĩ cũng nên tổ chức lễ quy y
thật long trọng và nên chờ đến khi nào người tu tập thật sự sẵn sàng để quy y và
quyết tâm tuân thủ những điều nguyện ước của mình thì mới làm.
Hành
động quy y không phải chỉ có ý nghĩa và giới hạn trong buổi lễ. Người tu tập
trong từng ngày phải nhớ đến hành động quy y của mình, và phải xem đấy như là
một phép tu tập đích thật, và đấy cũng là một cách nhắc nhở mỗi người chúng ta
không được quên cái lý tưởng mà chúng ta hằng mong muốn là mang lại cho sự sống
của chính mình. Mặc dù không hề ý thức được, thế nhưng thực ra thì lúc nào chúng
ta cũng bám víu quá nhiều vào những thứ vô ích và phù du, vì thế tốt hơn hết
chúng ta nên tìm cho mình một hướng đi (tức là Phật
Giáo) để gởi gắm con tim của chính mình.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).8/5/2012.
No comments:
Post a Comment