PHẬT NÓI
KINH A-HÀM CHÍNH-HẠNH (1)
Hậu-Hán, An-Thế-Cao
dịch chữ Phạn ra chữ
Hán.
---o0o---
Chính tôi được nghe: một thời kia đức Phật ở trong vườn
cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, thuộc nước Xá-Vệ.
Bấy giờ, đức Phật bảo các
vị Tỳ-Khưu: Nay ta sẽ vì các ông nói về kinh. Trong kinh, lời nói cao-thượng
cũng quý, lời nói trung-bình cũng quý, lời nói rất thấp cũng quý. Mà, nói về đạo
độ thế, cần lấy “chính tâm làm gốc”. Các ông hãy nghe ta nói và để cho đời sau
được truyền-bá, thực-hành theo lời kinh ấy.
Khi ấy, các vị Tỳ-Khưu đều chắp tay
thụ-giáo.
Đức Phật dạy: Trong thân người ta có năm thứ giặc, thường
lôi kéo người ta vào đường ác. Năm thứ giặc ấy là những
gì?
Một là, sắc (hình-sắc).
Hai là, đau-đớn (thụ: chịu đựng).
Ba là, tư-tưởng.
Bốn là, sinh-tử (hành-động).
Năm là, thức (nhận-thức). (2)
Đó là năm thứ mà người ta thường niệm
đến.
Đức Phật dạy: Người ta thường bị mắt lừa-dối, tai
lừa-dối, mũi lừa-dối, miệng lừa-dối và bị thân lừa-dối. Song, mắt chỉ trông
được, không thể nghe được; tai chỉ nghe được, không thể trông thấy được, mũi chỉ
biết ngửi hương-vị không thể nghe được; miệng lưỡi chỉ biết nếm mùi, không thể
biết được hương-vị; thân-thể chỉ biết lạnh, ấm, không thể biết được mùi. Năm căn
ấy đều thuộc về “tâm” và lấy “tâm” làm gốc. (3)
Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu! Các ông muốn cầu đạo, các
ông nên đoan-chính tâm các ông. Nếu từ nơi si-mê phát-khởi, hẳn sẽ sa rơi vào
mười hai nhân-duyên và liền có ra sự sinh-tử luân-hồi. Những gì là mười hai
nhân-duyên? - Một là, căn-bản là si-mê (vô-minh). Hai là, hành (hành-động). Ba
là, thức (nhận-thức). Bốn là, tự (danh-tự hay danh-sắc) (4). Năm là, lục-nhập
(5). Sáu là, tài (tài-bồi, có chỗ gọi là xúc) (6). Bảy là thống (đau-khổ, có chỗ
gọi là thủ). Tám là, ái (yêu). Chín là, thụ (cảm-thụ). Mười là, hữu (7). Mười
một là, sinh. Mười hai là tử (8). Người làm việc thiện, sẽ được làm
người. Người làm việc ác, chết phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ,
súc-sinh.
Đức Phật ngồi suy-nghĩ và nói:
“Người ta do si-mê, nên có ra sự sinh-tử”. Si là gì? - Trước đây do từ trong
si-mê, nên nay sinh làm người. Làm người, tâm si-mê không cởi-mở, mắt không khai
tỏ, không biết chết đi sẽ xu-hướng về nơi nào; thấy Phật không hỏi, thấy kinh
không đọc, thấy bậc Sa-Môn (9) không biết thừa-sự, không tin đạo-đức; thấy cha
mẹ không kính; không nghĩ đến nỗi khổ của thế gian, không biết sự tra-khảo,
trừng-trị kịch-liệt trong địa-ngục, thế gọi là si-mê, nên có ra sự sinh-tử. Và,
sự sinh-tử không ngừng, nhanh như thời-gian hô-hấp, nguy-hiểm ngay đến thân-mệnh
người ta. Trong thân người ta có ba sự, sau khi thân chết đi thời Thức đi, Tâm
đi và Ý đi. Trong ba sự ấy, thường theo-đuổi nhau. Người làm việc ác, chết phải
sa vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc sinh và quỷ-thần. Người làm việc thiện cũng
có ba sự ấy thường theo-đuổi nhau, hoặc sinh lên cõi Trời, hoặc sinh trong cõi
người. Những người bị sa-đọa vào trong năm đường (10), đều vì tâm không được
đoan-chính.”
Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Các ông đều phải nên
đoan-chính tâm các ông, đoan-chính mắt các ông, đoan-chính tai các ông,
đoan-chính mũi các ông, đoan-chính miệng các ông, đoan-chính thân các ông và
đoan-chính ý các ông. Thân-thể sẽ tan-hòa với đất, nhưng khối thần-thức sẽ không
phải vào trong địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, quỷ-thần.
Thấy nhà người ta có người con ác, bị quan nã-bắt, cũng
đều vì tâm không được đoan-chính. Trong thân người ta có đến trăm tên gọi, như
xe cũng có trăm tên gọi. Người hay tham, hay giận, không suy-nghĩ gì đến những
sự trong thân, chết vào trong địa-ngục, hối không kịp
được.
Đức Phật dạy: Thân ta xa-lìa đất nước, bỏ ngôi
Chuyển-Luân-Vương lo cắt đứt sinh-tử, muốn độ những người thế-gian, khiến họ
được đạo-quả Niết-Bàn. Người tinh-tiến thứ nhất sẽ được đạo-quả A-La-Hán; người
tinh-tiến thứ hai tự đến được đạo-quả A-Na-Hàm. Người tinh-tiến thứ ba được
đạo-quả Tư-Đà-Hàm. Người tinh-tiến thứ tư được đạo-quả Tu-Đà-Hoàn (11). Tuy thế,
người không tinh-tiến lắm được, cũng cần nên giữ năm điều răn: Một là, không sát
sinh. Hai là, không trộm-cắp. Ba là, không hai lưỡi. Bốn là, không dâm-dật. Năm
là, không uống rượu (12).
Đức Phật dạy: Người ta dù khi ngồi, khi dậy, thường nên
suy-nghĩ bốn việc này. Bốn việc ấy là những gì?
- Một là, tự quán thân mình và quán thân
người.
- Hai là, tự quán sự đau-đớn nơi mình và quán sự đau-đớn
nơi người.
- Ba là, tự quán tâm-ý nơi mình và quán tâm-ý nơi
người.
- Bốn là, quán pháp nơi mình và quán pháp nơi người
(13).
Người mà trong tâm khi sắp loạn-động, nên thu tâm lại, tự
đoan-chính nhìn thẳng vào thân-thể, quán-tưởng rằng: “Thân này, no cũng cực, đói
cũng cực, ở cũng cực, ngồi cũng cực, đi cũng cực, rét cũng cực, nóng cũng cực,
nằm cũng cực. Khi sắp muốn nằm, nên tự sợ hãi ngồi dậy! Người ngồi không được
đoan-chính, nên đứng dậy. Người đứng không được đoan-chính, nên kinh-hành. Người
mà thảng hoặc tâm không được đoan-chính, nên tự chính. Ví như Quốc-Vương đem
binh ra trận chiến-đấu, phải dàn những quân mạnh-mẽ ở đằng trước; tuy đã chống
giặc ở khu trước, lại phải thích-hợp, có thể gìn-giữ được những người ở sau. Vị
Sa-Môn đã bỏ nhà cửa, bỏ vợ con, cạo râu tóc làm Sa-Môn, tuy chịu khổ một đời,
sau được giải-thoát mãi mãi. Người khi đắc đạo rồi, trong tâm mình vui vẻ, coi
vợ như chị, em, coi con như bạn tri-thức, không còn có tâm tham-ái và thường rủ
lòng lành thương; coi chư Thiên, nhân-dân, địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, cùng
những loài sâu bay, bọ cựa trong mười phương, đều được giàu sang, an-lành, thoát
khỏi sinh-tử, được đạo-quả Niết-Bàn. Thấy những loài sâu dưới đất, nên đem lòng
từ thương xót nó. Biết lẽ sống, không vướng lại sự si-mê và thường có ý-niệm
này: thường nghĩ ân-đức Thầy, phụng-sự Phật, như người nghĩ đến công ơn cha mẹ,
như người tù bị tội tử-hình giam trong ngục, có bậc Hiền-giả đến xin cho khỏi bị
tù; người bị tù có trí hiểu-biết, thường nghĩ đến ân đức bậc Hiền-giả. Vị
Tỳ-Khưu được đạo-quả rồi, thường cũng phải nghĩ đến Phật như thế và nghĩ đến
kinh-pháp cũng như người nghĩ đến việc ăn cơm vậy.
Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu nên thừa sự nhau, như em thờ
anh. Trong ấy, nếu có người si-mê, nên học-hỏi người trí-tuệ; đắp-đổi dạy lẫn
nhau. Học hỏi người trí-tuệ như trong nơi tối có ánh đèn. Không được cãi-cọ,
kiện-cáo nhau. Thấy vàng bạc nên coi như đất, đá. Không được làm chứng càn cho
người ta, ghép người ta vào tội-pháp. Không được truyền lời nói xấu của người ta
và chuyển lời nói đấu-tranh nhau. Không được làm thương-tổn trong ý nói của
người ta. Không nghe thấy đừng nói là nghe thấy, không trông thấy đừng nói là
trông thấy. Đi đường thường nên cúi đầu trông xuống đất. Sâu-bọ không nên dẫm
chết. Không được tham-đắm phụ-nữ người ta và không được dùng hình-bóng phụ-nữ
người ta. Ngồi tự suy-nghĩ: “Bỏ tâm tham-ái, mới được gọi là
đạo”.
Đức Phật dạy: Người muốn cầu đạo, nên cầu ở chốn
không-nhàn vẳng-lặng, tự hô-hấp hơi thở nơi mình, biết cách thở dài, ngắn; thở
ra không hít vào, hình-thể đều mệt, ngậm hơi không thở, hình-thể cũng mệt (14).
Phân-biệt tự suy nghĩ: “Hình-thể này ai là người tạo-tác ra? Tâm nên xét ngoài,
cũng nên xét trong. Tự suy nghĩ, vui-vẻ, cùng người ta có tâm khác hơn, thời
trong khi ấy thấy không cần dùng những thứ trân-bảo của thiên-hạ nữa. Người, tâm
hơi muốn theo chánh-đạo, ý lại muốn chút xao-động, nên nén dẹp, ngăn ngừa giữ
lại ngay, thời ý liền hoàn lại. Ví như người có tấm gương, gương không sáng
không thể thấy hình được, lau-chùi bụi nhơ trên gương, tự thấy hình ngay. Người
ta bỏ được tham-dâm, giận-dữ, ngu-si cũng ví như tấm gương đã lau-chùi rồi. Suy
nghĩ kỹ: “Thiên-hạ này đều không có cái chi là vững-bền và cũng không có cái chi
là thường mãi.”
Đức Phật dạy: Các vị Tỳ-Khưu giữ-gìn tâm mình, nên như
tảng đá vuông bốn mặt. Tảng đá ở giữa sân, mưa rơi cũng không hoại được, ánh mặt
trời thiêu đốt cũng không tan được, gió thổi cũng không chuyển được. Gìn giữ tâm
thường như tảng đá ấy.
Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: Lòng người trong thiên-hạ
cũng như nước chảy; trong giòng nước chảy ấy, có cỏ cây gì, đều tự trôi đi,
không đoái nhìn lại nhau, thứ trôi trước không đoái nhìn lại thứ sau và thứ sau
cũng không nhìn về thứ trước. Cỏ cây trôi đi, đều tự như thế. Lòng người cũng
như thế, một niệm lại, một niệm đi, như cỏ cây trước, sau không nhìn lại nhau.
Trong khoảng thiên thượng, thiên hạ này, không có cái gì ở chỗ nào lại vui trở
lại. Gửi thân trong trời đất, bỏ thân này không sinh lại được. Đạo thành nên
biết ơn thầy, thấy thầy liền thừa-sự, không thấy thầy nên suy-nghĩ lời răn dạy
của thầy, như người nhớ nghĩ đến cha mẹ. Ý định có sự nhất tâm, liền có lòng
thương-sót những loài sâu bay, bọ cựa cùng nhân-dân thiên-hạ. Và, ta ngồi ta tự
vui cười là ta đã thoát thân trong thiên-hạ cùng năm đạo: một là Thiên-đạo, hai
là Nhân-đạo, ba là Ngã-quỷ-đạo, bốn là Súc-sinh-đạo, năm là Địa-ngục-đạo. Người
được đạo-quả A-La-Hán muốn phi-hành, biến-hóa cũng được; trong thân biến ra
nước, lửa cũng được, ra chỗ kín mịn không kẽ hở, vào chỗ dầy-đặc không lỗ hổng
cũng được và xa-lìa nỗi khổ thế-gian, chứng-đạo Niết-Bàn cũng được.”
Đức Phật bảo các vị Tỳ-Khưu: “Đạo không thể không làm,
kinh không thể không đọc.”
Đức Phật nói kinh này rồi, năm trăm vị Sa-Môn đều được
đạo-quả A-La-Hán. Các vị Sa-Môn ấy đều đứng dậy, tới trước đức Phật, đầu mặt cúi
sát đất, làm lễ đức Phật mà lui.
(1) Kinh này là cuốn kinh số 151 trong Đại-Tạng-kinh.
A-Hàm (Agama) gọi tóm-tắt kinh sách Tiểu-thừa. A-Hàm dịch là “Pháp-quy” là muôn
pháp quay về nơi có nghĩa là vô-lậu; lại dịch là “vô-tỉ-pháp” có nghĩa là
diệu-pháp không có gì sánh kịp, và dịch là “thú vô” có nghĩa là tôn-chỉ nói ra
đạt tới chỗ rốt-ráo không còn có chỗ quy-thú nữa.
(2) Đây là nói về 5 uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và
thức.
(3) Đây nói là sự phân-biệt giả-dối của năm căn và đều
quy về tâm làm gốc.
(4) Danh-sắc: là nói báo thân trong thai tạng do tâm-thức
(danh) và tứ đại (sắc) hòa-hợp, nương tựa nhau sinh
trưởng.
(5) Lục-nhập: 6 căn xúc nhập với 6
trần.
(6) Vun trồng, tiếp xúc.
(7) Có sự tạo-tác kết thành nghiệp
hữu-lậu.
(8) 12 nhân-duyên nơi đây so-sánh với nơi khác, phần
danh-từ và thứ thự hơi có chút sai-biệt.
(9) Sa-Môn (Srmana): Xưa dịch là “Tức tâm, Tĩnh-chí,
Bần-đạo v.v…” Nay dịch là “Công-lao, Cần-tức”, đều có nghĩa là vị tu-hành
siêng-năng tu-tập, ngăn-dứt phiền-não nơi tâm, làm yên lặng, trong sạch
thần-chí, có công cần-cù khó nhọc tiến tu về đạo giải-thoát (đạo
Phật).
(10) 5 đường: Thiên, A-tu-la, Địa-ngục, Ngã-quỷ,
Súc-sinh.
(11) Xem chú-thích nơi kinh Tội-Phúc Báo
Ứng.
(12) Năm điều răn này so với chỗ khác có sự sai
thứ-tự.
(13) Đây là nói về 4 chỗ quán-niệm (tứ niệm xứ): 1/ Quán
thân không trong-sạch. 2/ Quán sự lĩnh-thụ là khổ. 3/ Quán tâm là vô thường. 4/
Quán pháp là vô ngã.
(14) Đây là nói về Sổ-tức-quán (cách đếm
hơi thở).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).9/5/2012.
No comments:
Post a Comment