| Phật Nói Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo 0600 | ![]() |
| Các Tiểu Bộ Kinh Bắc Truyền | |||
| Viết bởi Thích Tâm Châu | |||
|
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long
Vương rằng: “Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ
cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”. Này Long Vương! Ông xem
thân của Phật, từ trăm, nghìn, ức phúc đức sinh ra, mọi tướng trang nghiêm, ánh
sáng rực rỡ, tỏa khắp đại chúng; dù có đến vô lượng ức vị Tự Tại Phạm Vương cũng
không thể hiển hiện như thế được. Ai được chiêm ngưỡng thân của Như Lai lại
không lóa mắt!
Ông lại xem thân của các vị Đại
Bồ tát đây, diệu sắc nghiêm tịnh, hết thảy đều do tu tập phúc đức thiện nghiệp
sinh ra.
Lại, các hàng Thiên, Long bát
bộ có uy thế lớn cũng bởi phúc đức thiện nghiệp sinh ra.
Và, ngay như trong đại hải này
có những chúng sinh hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ cũng đều do những tưởng
niệm nơi tự tâm, tạo ra những nghiệp bất thiện của thân, miệng, ý, nên tùy
nghiệp, họ tự chịu lấy báo thân như thế.
Kinh Thập ThiệnHán dịch: Ngài Thực Soa Nan Đà dịch chữ Phạn ra chữ HánViệt dịch: Thích Tâm Châu
(Chánh Tân Tu Đại Tạng, Tập 15, Kinh Tập bộ,
Tr. 157, Số hiệu 0600 , 1, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Đường Thật Xoa Nan Đà
dịch.
Chúng tôi dò theo bản cũ không thấy tên nhà xuất bản,
chỉ ghi kiểm duyệt ngày 19/03/1957. bttdtkvn)
PHẬT NÓI KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO (1)
Chính tôi được nghe (2): Một
thời kia đức Phật ở chốn Long Cung: Sa Kiệt La (3), cùng với tám nghìn chúng Đại
Tỳ kheo và ba vạn hai nghìn vị Đại Bồ tát. (4)
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long
Vương rằng: “Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ
cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
Này Long Vương! Ông có thấy
những vị đương trong hội này cũng như những hình sắc của mọi loài trong đại hải
này, đều khác nhau không?
Như thế, hết thảy không phải do
tâm tạo ra thiện và bất thiện của nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý mà có
những hình sắc ấy là gì?
Song, TÂM không có SẮC, không
thể nào nhận thấy được. Và, đó chỉ là sự giả dối của mọi pháp hợp tập gây nên,
rốt ráo không có chủ, không có ta, cũng không có cái gì của ta. Tuy đều tùy
nghiệp hiện ra không đồng, mà trong ấy thực không có tác giả, nên hết thảy pháp
đều không thể nghĩ, bàn được về tự tính như huyễn của nó.
Bậc trí giả biết thế rồi, nên
tu thiện nghiệp và do đó sẽ sinh ra năm UẨN (5), mười hai XỨ (6), mười tám GIỚI
(7)... đều được đoan chính, ai trông thấy cũng đều vui vẻ không chán.
Này Long Vương! Ông xem thân
của Phật, từ trăm, nghìn, ức phúc đức sinh ra, mọi tướng trang nghiêm, ánh sáng
rực rỡ, tỏa khắp đại chúng; dù có đến vô lượng ức vị Tự Tại Phạm Vương cũng
không thể hiển hiện như thế được. Ai được chiêm ngưỡng thân của Như Lai lại
không lóa mắt!
Ông lại xem thân của các vị Đại
Bồ tát đây, diệu sắc nghiêm tịnh, hết thảy đều do tu tập phúc đức thiện nghiệp
sinh ra.
Lại, các hàng Thiên, Long bát
bộ (8)..., có uy thế lớn cũng bởi phúc đức thiện nghiệp sinh ra.
Và, ngay như trong đại hải này
có những chúng sinh hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ cũng đều do những tưởng
niệm nơi tự tâm, tạo ra những nghiệp bất thiện của thân, miệng, ý, nên tùy
nghiệp, họ tự chịu lấy báo thân như thế.
Nay ông thường nên tu, học như
thế và cũng nên làm sao cho chúng sinh hiểu thấu nhân quả, tu tập thiện nghiệp
như thế. Được thế, nhân chỗ chính kiến bất động ấy ông sẽ không rơi vào đoạn
kiến, thường kiến (9). Đối với những ruộng phúc (10) các ông hoan hỷ, cung kính,
cúng dường, nên các ông cũng được Nhân, Thiên tôn kính, cúng dường.
Long Vương nên biết! Bồ tát có
một pháp dứt được hết thảy khổ não trong mọi đường ác.
Một pháp ấy là gì?
Nghĩa là ngày đêm thường nhớ,
nghĩ, quán sát thiện pháp, làm cho những thiện pháp ấy, niệm niệm tăng trưởng và
không dung hào phân bất thiện nào xen vào. Thế tức là hay khiến mọi ác dứt hẳn,
thiện pháp viên mãn, thường được thân cận chư Phật, Bồ tát và Thánh Chúng.
Thiện pháp ấy là gì? Nghĩa là,
thân của Nhân, Thiên, đạo Bồ Đề của hàng Thanh văn, đạo Bồ Đề của hàng Độc Giác
và đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, đều y vào pháp ấy làm căn bản mà được thành tựu, nên
gọi là thiện pháp. Và, thiện pháp ấy tức là mười thiện nghiệp đạo. Những gì là
mười?
Nghĩa là, xa hẳn những nghiệp:
sát sinh, trộm cắp, tà hạnh; nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, nói khéo; tham dục,
giận dữ và tà kiến.
Này Long Vương! Nếu tránh
nghiệp sát sinh, liền thành tựu được mười pháp lìa xa phiền não. Những gì là
mười? Một là, phổ thí đức vô úy đối với mọi chúng sinh. Hai là, thường khởi tâm
đại từ đối với chúng sinh. Ba là, dứt hẳn hết thảy tập khí (11) giận dữ. Bốn là,
thân thường không có tật bệnh. Năm là, thọ mệnh lâu dài. Sáu là, thường được
hàng Phi nhân (12) thủ hộ. Bảy là, thường không ác mộng, thức, ngủ vui vẻ. Tám
là, diệt trừ oán kết, mọi oán tự giải. Chín là, không sợ sa vào đường ác. Mười
là, sau khi mệnh mất được sinh lên cõi trời. Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp
ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, được quả
vị Phật, thọ mệnh sẽ tùy tâm tự tại.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp trộm cắp, liền được mười pháp có thể bảo đảm, tin tưởng. Những gì là
mười? Một là, của cải đầy dẫy, vua, giặc, nước, lửa và con hư không không thể
làm tan mất được. Hai là, nhiều người yêu mến. Ba là, người không lừa gạt. Bốn
là, mười phương khen ngợi. Năm là, không lo tổn hại. Sáu là, tiếng lành đồn xa.
Bảy là, ở chốn đông người không sợ. Tám là, của cải, thọ mệnh, hình sắc, sức
lực, yên vui, biện tài đầy đủ không thiếu. Chín là, thường sẵn lòng bố thí. Mười
là, sau khi mệnh mất được sinh lên cõi trời. Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp
ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, chứng được
trí thanh tịnh Đại Bồ Đề.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp tà hạnh, liền được bốn pháp mà bậc trí giả khen ngợi. Những gì là bốn?
Một là, mọi căn điều hòa, thuận lợi. Hai là, xa hẳn sự xôn xao. Ba là, được đời
khen ngợi. Bốn là, vợ không bị ai xâm phạm. Ấy là bốn pháp. Nếu đem bốn pháp ấy
hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, được cái tàng
tướng ẩn mật của Phật, Đại Trượng Phu.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp nói dối, liền được tám pháp mà chư Thiên khen ngợi. Những gì là tám? Một
là, miệng thường thơm, sạch như hoa sen. Hai là, được mọi người đời tín phục. Ba
là, nói lời thành chứng, Nhân, Thiên kính ái. Bốn là, thường đem lời dịu dàng,
an ủi chúng sinh. Năm là, được ý vui thù thắng (13) ba nghiệp thanh tịnh. Sáu
là, nói không lầm lẫn, tâm thường hoan hỷ. Bảy là, nói lời tôn trọng, Nhân,
Thiên vâng làm. Tám là, trí tuệ thù thắng, không ai có thể chế phục được. Ấy là
tám pháp. Nếu đem tám pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau
khi thành Phật, liền được chân thực ngữ của Như Lai.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp hai lưỡi, liền được năm pháp không thể phá hoại. Những gì là năm? Một là,
được thân bất hoại, không gì có thể hoại được. Hai là, được quyến thuộc bất
hoại, không gì có thể phá được. Ba là, được lòng tin bất hoại, thuận theo bản
nghiệp. Bốn là, được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố. Năm là, được thiện tri
thức bất hoại, không bị lừa dối. Ấy là năm pháp. Nếu đem năm pháp ấy hồi hướng
đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, được quyến thuộc chân
chính, các ma ngoại đạo không thể làm tan hoại được.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp ác khẩu, liền thành tựu được tám thứ tịnh nghiệp. Những gì là tám? Một
là, lời nói không trái pháp độ. Hai là, lời nói ra đều lợi ích. Ba là, lời nói
quyết định hợp lý. Bốn là, lời nói đẹp đẽ. Năm là, lời nói ra người ta thừa lĩnh
được. Sáu là, lời nói ra người ta tin dùng. Bảy là, lời nói không thể chê trách
được. Tám là, lời nói ra người ta đều ưa thích. Ấy là tám pháp. Nếu đem tám pháp
ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, đầy đủ
Phạm âm thanh tướng của Như Lai.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
nghiệp nói khéo, liền thành tựu được ba thứ quyết định. Những gì là ba? Một là,
quyết định được bậc trí nhân yêu mến. Hai là, quyết định thường dùng trí tuệ như
thực vấn đáp. Ba là, quyết định đối với Nhân, Thiên uy đức tối thắng, không có
dối trá. Ấy là ba pháp. Nếu đem ba pháp ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng
Chính giác, sau khi thành Phật, được Như Lai thụ ký, đều không luống dối.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
tham dục, liền thành tựu được năm thứ tự tại. Những gì là năm? Một là, ba nghiệp
tự tại, mọi căn đầy đủ. Hai là, của cải tự tại, hết thảy oán tặc không hề cướp
đoạt. Ba là, phúc đức tự tại, tùy tâm muốn gì, vật dụng đều đủ. Bốn là, vương vị
tự tại, đồ vật quý lạ đều đem phụng hiến. Năm là, những vật được dùng, thù thắng
gấp trăm lần bản tâm mong cầu, vì thời trước không bỏn xẻn, ghen ghét. Ấy là năm
pháp. Nếu đem năm pháp ấy, hồi hướng đạo Vô thượng Chính đẳng, Chính giác, sau
khi thành Phật, ba cõi (14) đặc biệt tôn trọng và đều cung kính, cúng
dường.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
giận dữ, liền được tám thứ tâm pháp hỷ duyệt. Những gì là tám? Một là, không có
tâm làm tổn não ai. Hai là, không có tâm giận dữ. Ba là, không có tâm gây sự
kiện cáo. Bốn là, có tâm nhu hòa, ngay thực. Năm là, được từ tâm của bậc Thánh
giả. Sáu là, tâm thường làm việc lợi ích, an vui cho chúng sinh. Bảy là, thân
tướng đoan nghiêm, chúng đều tôn kính. Tám là, vì sự hòa nhẫn, chóng sinh lên
thế giới Phạm thiên. Ấy là tám pháp. Nếu đem tám pháp ấy hồi hướng đạo Vô thượng
Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, được tâm vô ngại của Phật, người
trông không chán.
Lại nữa, Long Vương! Nếu xa lìa
tà kiến, liền thành tựu được mười pháp công đức. Những gì là mười? Một là, được
ý vui chân thiện và bạn bè chân thiện. Hai là, thâm tín nhân quả, thà bỏ thân
mệnh trọn không làm ác. Ba là, chỉ quy y Phật, không quy y các Thiên thần. Bốn
là, lòng ngay, thấy chính, lìa hẳn hết thảy lưới ngờ: tốt, xấu. Năm là, thường
sinh trong cõi Nhân, Thiên, không sa đường ác. Sáu là, vô lượng phúc tuệ, dần
dần thêm hơn. Bảy là, lìa hẳn tà đạo, tu hành Thánh đạo. Tám là, không khởi thân
kiến (15) bỏ mọi nghiệp ác. Chín là, trụ vào kiến giải vô ngại. Mười là, không
sa vào những nạn xứ. Ấy là mười pháp. Nếu đem mười pháp ấy hồi hướng đạo Vô
thượng Chính đẳng Chính giác, sau khi thành Phật, mau chứng hết thảy pháp của
Phật, thành tựu thần thông tự tại.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo
Long Vương rằng: “Nếu có vị Bồ tát nào y vào thiện nghiệp ấy, trong khi tu đạo,
xa lìa nghiệp sát hại, chăm làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt,
được sống lâu không chết non và không bị hết thảy oán tặc làm tổn hại.
Xa lìa nghiệp không cho mà lấy,
chăm làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, được sự tối thắng,
không ai sánh kịp và đều hay tập hợp đầy đủ những pháp tạng của chư Phật.
Xa lìa nghiệp không đúng Phạm
hạnh, chăm làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, mà mình trinh
thuận, mẹ và vợ, con, không ai thường đem lòng dục mà nhìn ngó ngoài.
Xa lìa lời nói dối trá, chăm
làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, tránh mọi hủy báng, thu giữ
chính pháp, như lời thệ nguyện của mình, việc làm quyết định kết quả.
Xa lìa lời ly gián, chăm làm bố
thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, quyến thuộc hòa mục, đồng vui một
chí, thường không có sự tranh đấu ngang trái.
Xa lìa lời thô ác, chăm làm bố
thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, hết thảy chúng hội, hoan hỷ quy y
và lời nói ra ai cũng đều tín thụ, không chút trái nghịch.
Xa lìa lời nói vô nghĩa, chăm
làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, lời nói không hư thiết,
người đều kính thụ, hay dùng thiện phương tiện, dứt mọi ngờ vực.
Xa lìa tâm tham cầu, chăm làm
bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, hết thảy vật sở hữu, đều đem ban
cấp, tín giải kiên cố, đủ uy lực lớn.
Xa lìa tâm bực tức, chăm làm bố
thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, chóng tự thành tựu tâm trí vô ngại,
mọi căn nghiêm trang, tốt đẹp, ai thấy cũng đều kính ái.
Xa lìa tâm tà đảo, chăm làm bố
thí, thường giàu của báu, kông ai xâm đoạt, thường sinh vào nhà kính tín chính
kiến, thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng và thường không quên mất tâm
Đại Bồ Đề.
Ấy là bậc Đại Sĩ trong khi tu
đạo Bồ tát, làm mười nghiệp thiện, dùng bố thí trang nghiêm, được lợi ích
lớn.”
Như thế, Long Vương! Thiết yếu
mà nói, thực hành mười thiện đạo, dùng trì giới trang nghiêm, hay sinh hết thảy
nghĩa lợi của Phật Pháp và đầy đủ đại nguyện. Dùng nhẫn nhục trang nghiêm, được
viên âm của Phật, đủ mọi tướng tốt. Dùng tinh tiến trang nghiêm hay phá ma oán,
nhập Pháp tạng của Phật. Dùng thiền định trang nghiêm, hay sinh niệm, tuệ, tàm
quý, khinh an (16). Dùng trí tuệ trang nghiêm, hay dứt hết thảy phân biệt vọng
kiến.
Lòng từ trang nghiêm, đối với
chúng sinh không khởi não hại. Lòng bi trang nghiêm, thương mọi chúng sinh
thường không chán bỏ. Lòng hỷ trang nghiêm, thấy người tu thiện, tâm không hiềm
ghét. Lòng xả trang nghiêm, đối cảnh thuận, nghịch, tâm không thương,
giận.
Bốn nhiếp pháp (17) trang
nghiêm, thường siêng nhiếp hóa hết thảy chúng sinh.
Niệm xứ trang nghiêm, khéo hay
tu tập bốn quán niệm xứ (18). Chính cần (19) trang nghiêm, đều hay dứt trừ hết
thảy bất thiện pháp, thành hết thảy thiện pháp. Thần túc (20) trang nghiêm,
thường khiến thân tâm vui vẻ, nhẹ nhàng. Năm căn (21) trang nghiêm, thâm tín
kiên cố, tinh cần không biếng, thường không mê vọng, vắng lặng điều thuận, dứt
mọi phiền não. Năm lực (22) trang nghiêm, mọi oán diệt hết, không gì hoại được.
Giác chi (23) trang nghiêm, thường khéo giác ngộ hết thảy mọi pháp. Chính đạo
(24) trang nghiêm, được chính trí tuệ, thường hiện ở trước. CHỈ trang nghiêm nên
gột bỏ được hết thảy kết sử. QUÁN trang nghiêm nên hay như thực biết được tự
tính của mọi pháp. PHƯƠNG TIỆN trang nghiêm, chóng thành đầy đủ sự vui vô
vi.
Long Vương nên biết! “Mười
nghiệp thiện ấy hay khiến mười LỰC (25), bốn pháp VÔ ÚY (26), mười tám pháp BẤT
CỘNG (27) cùng hết thảy Phật Pháp đều được viên mãn. Vì thế, các ông nên siêng
tu học”.
Này Long Vương! ví như hết thảy
thành, ấp, làng, xóm, đều y vào đại địa mà được an trụ, hết thảy dược thảo, cỏ
cây, rừng rú cũng y vào đại địa mà được sinh trưởng; mười thiện đạo ấy cũng lại
như thế: Hết thảy Nhân, Thiên y vào đó mà an lập; hết thảy Thanh văn, Độc giác,
Bồ Đề, mọi hạnh Bồ tát và hết thảy Phật Pháp, cùng y vào đại địa của mười thiện
mà được thành tựu”.
Đức Phật nói kinh này rồi, Sa
Kiệt La Long Vương cùng toàn thể đại chúng hết thảy thế gian Thiên, Nhân, A tu
la... đều rất hoan hỷ, tín thụ phụng hành.
Chú Thích:
1) Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
là cuốn kinh số 600 trong Đại Tạng Kinh do Ngài Thực Xoa Nan Đà (Siksànanda: Tàu
dịch là Học Hỷ) dịch chữ Phạm ra chữ Hán.
2) Chính tôi được nghe: Là lời
Tôn Giả A Nan tự xưng. (Xem thêm nơi kinh tội phúc báo ứng có giải kỹ) Ít lâu
sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, chư vị Thánh Tăng nhóm họp lại để kết tập những
lời Phật dạy. Tôn Giả A Nan được đề cử tụng Kinh tạng, do đó, đầu mỗi kinh đều
có ghi câu “Chính tôi được nghe”, để chứng tín.
3) Sa Kiệt La (Sàgara): Tàu
dịch là Hàm Hải (bể nước mặn).
4) Tỳ kheo (Bhiksu): Trung Hoa
dịch là “Khất sĩ”. Nghĩa là người tu hành, trên cầu đạo của chư Phật để tu tỉnh,
dưới đi xin ăn nơi quần chúng để tiện hóa độ. Tỳ kheo có hai phái. Phái nam gọi
là Tỳ kheo giữ 250 giới. Phái nữ gọi là Tỳ kheo ni (Bhiksuni) giữ 348
giới.
Bồ tát (Bodhisattva): Gọi đủ là
Bồ đề tát đỏa. Trung Hoa dịch nghĩa là “Giác hữu tình”. Nghĩa là những vị phát
đại tâm, vì chúng sinh cầu đạo vô thượng, và luôn luôn giác ngộ chúng sinh thành
vô thượng đạo.
5) Năm uẩn: Có chỗ gọi năm ấm.
Là năm thứ ngăn che mất chân tính. Năm thứ ấy là: sắc, thụ, tưởng, hành,
thức.
6) Mười hai xứ: Có chỗ gọi là
mười hai nhập. Tức là sáu căn: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý và sáu trần (cảnh):
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
7) Mười tám giới: Là sáu căn,
sáu trần như trên và thêm sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức,
thân thức và ý thức thành 18 giới.
8) Thiên, Long bát bộ: Là nói
bao quát tám bộ chúng thường tới nghe Phật thuyết pháp và hộ trì chính pháp mà
mắt người không thể trông thấy được. Tám bộ ấy là:
1) Thiên (Deva: các vị trong
cõi trời).
2) Long (Nàga: rồng là loài vua
dưới nước).
3) Dạ Soa (Yaksa: quỷ thần bay
trên không; cũng có chỗ gọi là Dược Soa).
4) Càn Thát Bà (Gandharva: dịch
là Hương Ấm, là Nhạc Thần trong cung vua Đế Thích).
5) A tu la (Asura: dịch là Phi
Thiên, tức là một loại quỷ thần có phúc báo gần như trời...).
6) Ca Lâu La (Garuda: dịch là
Kim Sí Điểu).
7) Khẩn Na La (Kimnara: dịch là
Ca Thần cũng là vị Nhạc thần trong cung vua Đế Thích).
8) Ma Hầu La Già (Mahoraga:
dịch là Đại Mãng Thần, tức là loài địa long vậy).
9) Đoạn kiến, thường kiến: Đây
là hai thứ kiến giải của những con người thiên chấp. Đoạn kiến là không tin
nghiệp quả, cố chấp thân tâm con người chết đi là hết không tục sinh nữa, phóng
tâm làm ác, không sợ hậu báo. Thường kiến là cố chấp thân tâm con người thường
trụ không gián đoạn mặc dầu trải qua thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai, do đó
tạo những nghiệp thiện, ác cho là không quan hệ gì đến sự sướng, khổ của thân
này.
10) Những ruộng phúc: Là nơi
gieo trồng mầm phúc đức. Ruộng phúc phân tích có 8, nhưng bao quát lại thời có 3
thứ: 1) Cung kính chư Phật, Thánh nhân, chư Tăng gọi là Kính điền. 2) Hiếu thuận
với những người có ân như: cha mẹ, Hòa Thượng, A Xà Lê... gọi là Ân điền. 3)
Thương xót, cứu giúp chúng sinh cùng những người yếu đau gọi là Bi điền.
11) Tập khí: Là một vọng hoặc
trong 3 vọng hoặc của Đại thừa giáo. Tập khí thông thường gọi là thói quen. Là
cái khí tập do sự huân tập mà thành. Ngài Xá Lợi Phất đã dứt được chủng tứ của
sân hoặc, nhưng khi hoàn cảnh xúc động tới, khí sân còn thôi thúc thân
tâm.
12) Phi nhân: Là chỉ vào các
hàng quỷ thần.
13) Thù thắng: Là chỉ cho những
sự siêu tuyệt, mà đời khó có.
14) Ba cõi: Cõi Dục, cõi Sắc và
cõi Vô Sắc.
15) Thân kiến (Satkàyadrsti):
Tà kiến đối với thân chấp là thực ngã.
16) Niệm, tuệ, tàm quý, khinh
an: Đây là nói về những tâm sở thiện phát hiện trong khi nhập định. Xem về Duy
thức học sẽ rõ.
17) Bốn nhiếp pháp: Nghĩa là 4
phương pháp nhiếp phục, hóa độ chúng sinh. Bốn phương pháp ấy là: bố thí, ái
ngữ, lợi hành và đồng sự.
18) Bốn niệm xứ: Tức là 4 pháp
quán niệm: quán thân bất tịnh, quán thụ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô
ngã.
19) Chính cần: 4 pháp cố gắng
hành trì một cách chân chính: 1) Điều ác đã sinh, làm cho dứt hẳn. 2) Điều ác
chưa sinh, làm cho không thể sinh được. 3) Điều thiện chưa sinh làm cho chóng
sinh. 4) Điều thiện đã sinh làm cho tăng trưởng.
20) Thần túc: còn gọi là 4 như
ý túc: Tức là 4 pháp thực hành làm cho sự tu thiền được đầy đủ như ý bằng sự
linh diệu:Dục, niệm, tiến và tuệ.
21) Năm căn: Tín, tinh tiến,
niệm, định và tuệ.
22) Năm lực: Tín lực, tinh tiến
lực, niệm lực, định lực và tuệ lực.
23) Giác chi: Tức là 7 ngành
giác ngộ: Trạch pháp, tinh tiến, hỷ, khinh an, niệm, định và hành xả.
24) Chính đạo: Tức là 8 chính
đạo: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh
tiến, chính niệm và chính định.
25) Mười lực: Đây là 10 lực của
Như Lai:
1. Trí lực biết chỗ giác ngộ,
hay chẳng phải chỗ giác ngộ.
2. Trí lực biết nhân quả nghiệp
báo 3 đời của chúng sinh.
3. Trí lực biết mọi phép thiền
giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết mọi pháp thiền
định và 8 giải thoát tam muội.
5. Trí lực biết mọi tri
giải.
6. Trí lực biết mọi cảnh
giới.
7. Trí lực biết được chỗ sẽ đến
của mọi đường (đạo).
8. Trí lực biết dùng thiên nhãn
không chướng ngại.
9. Trí lực biết túc mệnh vô
lậu.
10. Trí lực biết dứt hẳn tập
khí.
(26) Bốn pháp vô úy: Là bốn
pháp nói về tâm hóa độ tha nhân không khiếp sợ. Vô úy có hai: Vô úy của Bồ tát
và Vô úy của Phật:
A. Vô úy của Phật:
1) Nhất thiết trí vô úy. 2) Lậu
tận vô úy. 3) Chướng đạo vô úy. 4) Tận khổ đạo vô úy.
B. Vô úy của Bồ tát:
1) Ghi nhớ không quên nên
thuyết pháp không sợ.
2) Biết pháp dược và biết căn
tính chúng sinh nên thuyết pháp không sợ.
3) Khéo hay vấn đáp nên thuyết
pháp không sợ.
4) Hay ngắt dứt nỗi ngờ của
chúng sinh nên thuyết pháp không sợ.
27) Mười tám pháp bất cộng: Vì
không cộng đồng với các hàng Nhị thừa và Bồ tát, nên 18 công đức này chỉ có ở
nơi Phật nên gọi là “bất cộng”: 1) Thân không lầm.
2) Miệng không lầm.
3) Niệm không lầm.
4) Không có tưởng khác.
5) Không có cái gì là không
định tâm.
6) Không có cái gì là không
biết xả.
7) Lòng mong muốn độ sinh không
diệt.
8) Tinh tiến không diệt.
9) Niệm không diệt.
10) Tuệ không diệt.
11) Giải thoát không
diệt.
12) Giải thoát tri kiến không
diệt.
13) Hết thảy nghiệp thân làm
theo trí tuệ.
14) Hết thảy nghiệp khẩu làm
theo trí tuệ.
15) Hết thảy nghiệp ý làm theo
trí tuệ.
16) Trí tuệ biết được đời quá
khứ không bị chướng ngại.
17) Trí tuệ biết được đời vị
lai không bị chướng ngại.
18) Trí tuệ biết được đời hiện
tại không bị chướng ngại.
|

No comments:
Post a Comment