Tổ thứ sáu Trung
Hoa
33-
Huệ Năng(638 - 713 TL.)
(Trích
trong “Sử 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn-Hoa”,
Thích Thanh Từ soạn, 1972, trang 215-231)
Thích Thanh Từ soạn, 1972, trang 215-231)
|
Sư họ Lư,
tổ tiên quê ở Phạm Dương, cha tên Hành Thao mẹ là Lý Thị. Ðời Võ Ðức (618-627
TL.) nhà Ðường, cha Sư làm quan ở Nam Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sanh tại Tân
Châu.
Sư được ba tuổi, cha mang bệnh
rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong gia đình rất nghèo túng. Mỗi
ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.
Một hôm, nhân gánh củi ra chợ
bán, có người mua bảo gánh đến nhà. Sư gánh ngang qua một căn nhà, bỗng nghe
người trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Sư vừa nghe, chợt tỉnh ngộ Sư hỏi
khách:
|
|
|
- Tụng đó là kinh gì? Phát xuất từ đâu?
Khách đáp:
- Kinh Kim Cang. Phát xuất từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn
ở chùa Ðông Sơn, tại huyện Huỳnh Mai.
Nghe nói xong, Sư tỏ chí muốn tìm đến đó học
đạo, song gia cảnh còn mẹ già không ai nuôi! Có người khách hàng quen xin đài
thọ số tiền để Sư cung cấp mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Sư về xin phép mẹ cho xuất
gia, mẹ Sư hoan hỉ cho xuất gia.
Sư khăn gói lên đường, trải hơn một tháng mới
đến huyện Huỳnh Mai, Sư vào yết kiến Tổ. Tổ hỏi:
- Ngươi từ đâu đến?
Sư thưa:
- Từ Lãnh Nam đến.
- Ðến đây để cầu việc gì?
- Ðến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì
khác.
- Người Lãnh Nam không có Phật tánh, làm sao
cầu làm Phật được?
- Người thì có Nam Bắc, chớ Phật tánh không
chia Nam Bắc.
Tổ biết Sư là hàng pháp khí, bèn bảo xuống nhà
trù làm công quả.
Ở đây, Sư chuyên bửa củi, giã gạo. Cối gạo to,
chày đạp lớn, người Sư ốm, không đủ sức nặng cất được chày đạp, Sư phải cột thêm
cục đá vào lưng để đủ sức giã gạo. Sư làm công việc nặng nhọc như vậy gần ngót
sáu tháng, mà chưa khi nào trễ nải, thối chí.
Một hôm, Tổ xuống nhà trù, đi ngay chỗ Sư giã
gạo, thấy Sư mang đá giã gạo, Tổ bảo:
- Ngươi vì đạo quên mình như thế ư? Ta biết
ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện
với ngươi, ngươi có biết chăng?
Sư thưa:
- Con đã biết thế.
Tổ biết thời cơ truyền pháp đã đến, liền ra
lệnh cho toàn chúng trình kệ. Trong số chúng bảy trăm người đều suy nhường
Thượng tọa Thần Tú. Sư nghe bài kệ của Thần Tú, biết là chưa thấy tánh, nên họa
lại một bài kệ. Ðọc kệ của Sư, Tổ biết Sư đã thấy tánh. Mấy hôm sau, Tổ tìm cơ
hội xuống nhà trù, đến chỗ Sư giã gạo hỏi:
- Gạo trắng chưa?
Sư thưa:
- Ðã trắng mà chưa có sàng.
Tổ bèn cầm gậy gõ trên tay cối ba cái, rồi đi
lên.
Canh ba đêm ấy Sư vào thất Tổ. Tổ truyền pháp
và trao luôn y bát cho Sư, dạy đi về phương Nam.
Sư mang y bát đi được mấy hôm vừa đến Dứu Lãnh
bị một người hiệu Huệ Minh đuổi theo. Sư để y bát trên tảng đá, vào rừng ẩn. Huệ
Minh đến giở y bát lên không nổi, đành phải kêu:
- Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không vì y
bát.
Sư nghe nói, bước ra ngồi trên tảng đá
bảo:
- Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm lại nghe tôi
nói.
Huệ Minh đứng lặng yên giây lâu.
Sư bảo:
- Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì
là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?
Huệ Minh nghe câu này liền đại ngộ.
Sư thường tàng ẩn nơi hai ấp Hoài và Hội. Có
lúc gặp phải cuộc sống khó khăn, Sư lại gia nhập vào đoàn thợ săn. Ðến bữa ăn,
Sư hái rau luộc nhờ trong nồi thịt, rồi chỉ ăn rau, không ăn thịt. Như vậy, Sư
với hình thức cư sĩ, thường tùy nghi nói pháp cho họ nghe.
Có lần Sư đến Thiều Châu, gặp ông cư sĩ Lưu Chí
Lược kết bạn. Chí Lược có người cô làm ni hiệu Vô Tận Tạng, thường tụng kinh
Niết-bàn. Sư vừa nghe tụng qua đã hiểu được thâm ý, vì bà giải nói nghĩa
thú.
Sư cô đem quyển kinh ra hỏi chữ, Sư
bảo:
- Chữ thì tôi không biết, nghĩa tùy cô cứ
hỏi.
Sư cô bảo:
- Chữ còn không biết, nghĩa làm sao hiểu
nổi?
Sư bảo:
- Diệu lý của chư Phật, chẳng quan hệ gì đến
văn tự.
Sư cô nghe nói kinh ngạc, liền báo tin cho các
bậc kỳ lão trong làng hay rằng:
- Có bậc đạo sĩ đáng cúng dường.
Dân chúng trong làng nghe tin, đua nhau đến
chiêm lễ Sư. Gần đó có ngôi chùa cổ hiệu Bửu Lâm, lâu đời bị đổ nát, dân chúng
trong làng hợp sức tu bổ lại, thỉnh Sư về trụ trì. Hằng ngày tứ chúng bốn phương
tụ hội về đông đảo, không bao lâu ngôi chùa Bửu Lâm biến thành một đạo tràng
xinh đẹp.
Chẳng bao lâu có người theo dõi, Sư lại tìm nơi
ẩn tránh.
Ngót mười sáu năm ẩn tránh, Sư biết cơ duyên
hoằng pháp đã đến, bèn đến Quảng Châu nhằm ngày mùng tám tháng giêng năm Bính
Tý, niên hiệu Nghi Phụng năm đầu (676 T.L.) nhà Ðường. Sư vào nghỉ nhờ ngoài
hiên chùa Pháp Tánh.
Hôm ấy, pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh
Niết-bàn. Trước chùa treo lá phướn dài, gió thổi lá phướn phất phơ qua lại. Hai
ông đạo lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói “phướn động”, người bảo “gió
động”, bàn qua cãi lại mà không ngã lẽ. Sư đến thưa:
- Có thể cho khách cư sĩ này lạm bàn
chăng?
Hai ông đồng ý, Sư bảo:
- Không phải phướn động, không phải gió động,
mà tâm nhân giả động.
Mọi người nghe qua đều ngạc nhiên. Họ vào báo
cho Ấn Tông biết lời bàn kỳ diệu ấy.
Hôm sau, Ấn Tông mời Sư vào hỏi về lý “tâm
động”. Sư giải rõ thâm lý cực diệu. Ấn Tông bất giác đứng dậy thưa:
- Ngài không phải là người thường. Nghe nói y
pháp của Ngũ tổ Huỳnh Mai đã về phương Nam, vậy có phải Ngài chăng?
Sư đáp:
- Chẳng dám.
Ấn Tông bèn tập hợp bốn chúng, cầu xin Sư trình
bày y bát của Tổ. Sư bèn đem y bát cho đại chúng chiêm bái.
Ấn Tông xin làm đệ tử, đồng thời cầu chỉ dạy
thiền yếu.
Ðến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông thỉnh các bậc
danh đức đến làm lễ thế phát cho Sư. Ngày mùng tám tháng hai, làm lễ truyền giới
Cụ túc cho Sư tại chùa Pháp Tánh. Luật sư Trí Quang làm Tuyên luật
sư.
Giới đàn này, đời Tống, Tam tạng
Cầu-na-bạt-đà-la đã dự ký trước rằng:
- Sau sẽ có nhục thân Bồ-tát thọ giới tại
đây.
Lại, thời Lương mạc, Tam tạng Chân Ðế, đích
thân trồng hai cây bồ-đề tại giới đàn này và bảo chúng rằng:
- Sau khoảng một trăm hai chục năm, sẽ có bậc
đại sĩ ở dưới cội bồ-đề này khai diễn pháp vô thượng thừa, độ chúng sanh vô
lượng.
Sau đó có quan Thích sử Thiều Châu tên Vi Cừ
thỉnh Sư đến chùa Ðại Phạm thuyết pháp môn vi diệu và thọ giới vô tướng tâm địa.
Quan liêu, sĩ thứ và kẻ tại gia, người xuất gia đến dự nghe pháp trên ngàn
người. Những thời thuyết pháp tại đây, được đệ tử Sư ghi lại đầy đủ trong kinh
Pháp Bảo Ðàn.
Năm sau, Sư muốn trở về chùa Bửu Lâm ở Tào Khê
là chỗ ẩn xưa kia, Ấn Tông cùng quan liêu sĩ thứ đạo tục tiễn đưa có hơn ngàn
người. Sư an trú ở đây, tăng
chúng xa gần đua nhau đến tham vấn. Trung bình chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới
một ngàn. Sư đã dựng lên cây cờ Ðại pháp, bốn phương trông thấy đều hướng
về.
Niên hiệu Thần Long năm đầu (705 T.L.), vua
Trung Tông xuống chiếu sai sứ là Tiết Giản đi thỉnh Sư về triều. Sư từ chối vì
lý do bệnh. Trong lời từ chối của Sư có câu: “ Tôi nguyện được trọn đời ở chốn
núi rừng.”
Tiết Giản thưa:
- Các bậc thiền đức nơi kinh thành đều nói “muốn
được hội đạo cần phải tọa thiền tập định, nếu không nhân thiền định mà được giải
thoát, là việc chưa từng thấy”. Chưa biết Thầy thường nói pháp dạy người thế
nào?
Sư đáp:
- Ðạo do tâm ngộ, đâu phải ở ngồi. Kinh nói:
“Nếu nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm là người ấy không hiểu nghĩa ta
nói. Vì sao? Vì Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu.” Vì không từ đâu
đến, nên không sanh, vì không đi đâu nên không diệt. Nếu không sanh diệt là Như
Lai thanh tịnh thiền, các pháp không tịch là Như Lai thanh tịnh tọa. Tột cùng
không được, cũng không có chỗ chứng, huống là ngồi ư?
Tiết Giản thưa:
- Ðệ tử trở về kinh đô ắt Chúa thượng có hỏi.
Cúi xin Hòa thượng từ bi chỉ cho chỗ tâm yếu, ngõ hầu đối cảnh giải rành, khiến
cho những kẻ học giả ở kinh đô hiểu biết tu hành. Ví như thắp một ngọn đèn, mồi
được trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ tối tăm được sáng, sáng mãi không
cùng.
Sư bảo:
- Ðạo không có tối sáng, tối sáng là nghĩa đối
đãi nhau; dù sáng mãi không cùng, cũng là có cùng. Bởi vì đối đãi mà lập danh
tự, cho nên kinh nói: “Pháp không có so sánh vì không có đối đãi.”
- Sáng thí dụ trí tuệ, tối thí dụ phiền não.
Người tu hành nếu không dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, thì cái sanh tử từ vô
thủy do đâu được ra khỏi?
Sư bảo:
- Nếu dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, đây là
kẻ tiểu căn Nhị thừa, là xe dê, xe nai, người đại căn thượng trí không như
vậy.
Tiết Giản hỏi:
- Thế nào là chỗ kiến giải của Ðại
thừa?
Sư đáp:
- Sáng cùng không sáng tánh nó chẳng hai, tánh
không hai tức là tánh thật. Tánh thật thì ở phàm ngu chẳng bớt, ở Hiền Thánh
chẳng thêm, dừng nơi phiền não mà chẳng loạn, đứng nơi thiền định mà chẳng lặng,
chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến, chẳng đi, chẳng ở giữa và hai bên, chẳng
sanh, chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ không dời đổi, gọi đó là
Ðạo.
Tiết Giản thưa:
- Hòa thượng nói chẳng sanh chẳng diệt, có khác
gì chúng ngoại đạo nói?
Sư bảo:
- Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem
cái diệt chận cái sanh, lấy cái sanh để bày cái diệt. Diệt vẫn chẳng diệt, sanh
nói không sanh. Ta nói không sanh diệt là xưa tự không sanh, nay cũng không
diệt, đâu có thể đồng với ngoại đạo ư?
Ông muốn rõ được tâm yếu thì, đối tất cả việc
thiện ác đều chớ suy nghĩ, tự nhiên được vào. Tâm thể trong trẻo thường lặng lẽ
diệu dụng như hằng sa.
Tiết Giản nghe qua liền đại ngộ, lễ bái Sư trở
về triều. Về triều ông tâu hết tự sự cho vua nghe. Vua càng thêm cung kính và
ngợi khen. Vua lại ban chiếu và cúng dường ca-sa, tích trượng, bảo câu... Sắc
đổi tên chùa Bửu Lâm là Trung Hưng.
Năm sau, vua lại sắc Thích sử Thiều Châu kiến
thiết ngôi chùa Trung Hưng lại và đổi tên là Pháp Tuyền. Chùa của Sư ở trước,
tại Tân Châu đổi tên là Quốc Ân.
Một hôm Sư bảo chúng:
- Thiện tri thức! Các ngươi mỗi người tịnh tâm
nghe ta nói pháp, hết thảy các ngươi tâm mình là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài
không có một pháp có thể dựng lập, đều là tâm mình sanh ra muôn pháp. Kinh nói:
“Tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt.” Nếu muốn thành
tựu chủng trí phải đạt nhất tướng tam-muội và nhất hạnh tam-muội.
Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong
tướng ấy mà không sanh yêu ghét, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích,
thành hoại, v.v... an ổn thanh tịnh gọi là nhất tướng tam-muội.
Nếu ở tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, ròng một
trực tâm, không dời khỏi đạo tràng, liền thành tịnh độ, gọi là nhất hạnh
tam-muội.
Nếu người đủ hai tam-muội này, như đất có giống
hay chứa đựng, nuôi dưỡng thành tựu được bông trái của nó. Nhất tướng, nhất hạnh
cũng lại như vậy.
Nay ta nói pháp, ví như khi mưa thấm ướt cả
đất. Phật tánh của các ngươi ví như các hột giống, vừa gặp thấm ướt, liền nảy
mầm. Giữ đúng lời ta quyết được Bồ-đề, đúng theo ta dạy mà thực hành nhất định
chứng quả Phật.
Niên hiệu Tiên Thiên năm đầu (712 T.L.), một
hôm Sư chợt gọi đồ chúng đến bảo:
- Ta ở chỗ Tổ Hoằng Nhẫn thọ pháp yếu cùng y
bát. Nay tuy nói pháp mà không truyền y bát, bởi vì các ngươi lòng tin đã thuần
thục, không còn nghi ngờ, nên chẳng truyền. Nghe ta nói kệ:
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai manh. Ðốn ngộ hoa tình dĩ, Bồ-đề quả tự thành.
Dịch:
Ðất tâm chứa các giống,
Mưa khắp ắt nẩy mầm. Hoa tình vừa đốn ngộ, Trái bồ-đề tự thành.
Sư lại bảo:
- Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Ðạo kia
thanh tịnh cũng không các tướng. Các ngươi dè dặt chớ quán tịnh và tâm kia
không. Tâm này sẵn tịnh, không lấy bỏ, mỗi người tự nỗ lực tùy duyên đi an
lành.
Sư thuyết pháp độ sanh đã được bốn chục năm.
Trước đây, Sư đã sai người về chùa Quốc Ân ở Tân Châu xây tháp. Ðến ngày mùng
sáu tháng sáu năm này, Sư lại sai người đến đốc suất làm nhanh. Ðến ngày mùng
một tháng bảy, niên hiệu Tiên Thiên thứ hai (713 T.L.), Sư gọi môn nhân
bảo:
- Ta muốn trở về Tân Châu, các ngươi lo sửa
soạn thuyền.
Lúc ấy, đại chúng đều buồn bã, thỉnh Sư ở nán
lại. Sư bảo:
- Chư Phật ra đời vẫn thị hiện vào Niết-bàn. Có
đến ắt có đi, lẽ đó là việc thường vậy. Thân hình hài của ta về ắt có
chỗ.
Chúng hỏi:
- Hôm nay Thầy đi bao giờ trở lại?
Sư bảo:
- Lá rụng về cội, trở lại không hẹn.
Chúng hỏi:
- Pháp nhãn tạng, Thầy sẽ trao cho người
nào?
Sư bảo:
- Có đạo thì được, vô tâm thì thông.
Chúng thưa:
- Thầy để lời di chúc xem có nạn
không?
Sư bảo:
- Ta diệt độ khoảng năm, sáu năm ắt có người
đến lấy đầu ta. Nghe ta nói kệ:
Ðầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu xan. Ngộ Mãn chi nạn, Dương Liễu vi quan.
Dịch:
Trên đầu nuôi thân,
Trong miệng để ăn. Gặp Mãn gây nạn, Dương Liễu làm quan.
Sư nói tiếp:
- Sau khi ta diệt độ khoảng bảy chục năm, có
hai vị Bồ-tát từ phương Ðông đến, một tại gia, một xuất gia chung hưng hóa Phật
pháp, sửa lại các ngôi già-lam nâng đỡ tông chỉ của ta.
Sư về đến Tân Châu, vào chùa Quốc Ân, tắm gội
xong, ngồi kiết-già, an nhiên thị tịch. Khi ấy có mùi hương lạ xông ra, móng
trắng vòng chí đất. Sư tịch ngày mùng hai tháng tám năm Quí Sửu, niên hiệu Tiên
Thiên thứ hai (713 T.L.), đời Ðường, thọ bảy mươi sáu tuổi.
Bấy giờ môn đồ hai châu Thiều và Tân muốn đem
hài cốt Sư về châu mình an táng. Bàn nhau không ngã lẽ, phải thắp hương cầu
nguyện ý Sư; nếu khói hương bay về đâu, thì vâng theo ý đó. Khói hương bay thẳng
hướng Tào Khê. Thế là môn đồ ở Thiều Châu sửa soạn đưa linh cữu Sư về nhập tháp.
Ngày mười ba tháng mười một đưa linh cữu về nhập tháp tại bên bờ khe Tào Hầu,
nay là chùa Nam Hoa.
Vua Ðường Hiến Tông truy phong Sư là Ðại Giám
thiền sư, tháp hiệu Nguyên Hòa
Linh Chiếu.
Môn đệ của Sư đắc pháp và hoằng hóa sau này có
cả thảy bốn mươi ba vị:
1- Hành Tư ở núi Thanh Nguyên. 2- Hoài Nhượng ở
Nam Nhạc. 3- Pháp Hải. 4- Huệ Trung. 5- Bổn Tịnh. 6- Thần Hội. 7- Huyền Giác.
8- Huyền Sách. 9- Tam tạng Quật-đa v.v...
Những lời Sư chỉ dạy có thể đa số được sưu tập
trong quyển Pháp Bảo Ðàn Kinh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).10/5/2012.
|
No comments:
Post a Comment