Friday 25 January 2013

Kinh Thiên Thỉnh Vấn


KINH THIÊN THỈNH-VẤN[1]
- Đường, Huyền-Trang dịch chữ Phạm ra chữ Hán.
- Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt.

Chính tôi được nghe: một thời kia đức Thế-Tôn ở nơi vườn của ông Cấp-Cô- Độc, trong Thệ-Đa-lâm, nước Thất-La-Phạt (Sràvasti).
Khi ấy, có một Thiên-nhân (người cõi Trời) dung-nhan đẹp lạ, vào khoảng ban đêm, thân tới nơi Phật, đỉnh lễ chân Phật, rồi đứng lui về một bên. Vị Thiên-nhân ấy uy-quang rực-rỡ rất là rộng lớn, soi sáng khắp cả vườn Thệ-Đa-lâm.
Bấy giờ vị Thiên-nhân kia nói ra bài tụng, có nghĩa vi-diệu, thỉnh-vấn đức Phật:
            - Gì là dao gươm sắc?
              Gì là thuốc thảm-độc?
              Gì là lửa cháy bừng?
              Gì là tối mù-mịt?
Khi ấy đức Thế-Tôn cũng dùng bài tụng đáp lại vị Thiên-nhân kia:
            - Lời thô: dao gươm sắc,
             Tham-dục: thuốc thảm-độc;
              Lửa giận-bực cháy bừng,
              Vô-minh tối mù-mịt.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Người nào là được lợi?
              Người nào là mất lợi?
              Gì là giáp-trụ[2] bền?
              Gì là dao gậy tốt?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - Người cho là được lợi,
              Người nhận là mất lợi;
              “Nhẫn” là giáp-trụ bền,
              “Tuệ” là dao gậy tốt.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Gì gọi là giặc-cướp?
              Gì là của Trí-nhân?
              Gì mà trong Nhân-Thiên,
              Nói là: hay cướp-bóc?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - Nghĩ tà là giặc-cướp?
              “Giới” là của Trí-nhân;
              Trong các cõi Nhân-Thiên,
              Phạm giới: hay cướp-bóc.

Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Gì là rất yên vui?
              Gì là giàu sang lớn?
              Gì là thường đoan-nghiêm?
              Gì là thường xấu-xí?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - Ít muốn rất yên vui,
              Biết đủ giàu sang lớn;
              Giữ giới thường đoan-nghiêm,
              Phá giới thường xấu-xí.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Gì là quyến-thuộc thiện?
              Gì là tâm oán ác?
              Gì là khổ cực trọng?
              Gì là vui thứ nhất?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - “Phúc” là quyến-thuộc thiện,
              “Tội” là tâm oán ác;
              Địa-ngục khổ cực trọng,
              “Vô-sinh” vui thứ nhất.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Gì “ái” mà không hợp?
              Gì hợp mà không “ái”?[3]
              Gì là bệnh cực nhiệt?
              Ai là Đại-lương-y?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - Mọi dục-ái không hợp,
              Giải-thoát hợp, không “ái”;
              “Tham” là bệnh cực nhiệt,
             Phật là Đại-lương-y.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Gì che được thế-gian?
            Gì làm mê thế-gian?
            Gì làm bỏ bạn thân?
            Gì ngăn lối sinh Thiên?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - “Không trí” che thế-gian,
              “Si” làm mê thế-gian;
              Sẻn-tham bỏ bạn thân,
              Nhiễm-trước ngăn sinh Thiên.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Vật gì lửa không cháy,
              Gió cũng chẳng xé tan;
              Nước không làm mục nát,
              Lại phù-trì thế-gian?
              Gì cùng vua chống giặc,
              Dũng-mãnh kháng-cự nhau;
              Không bị Nhân, Phi-Nhân,[4]
              Tới nơi xâm-đoạt được?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - “Phúc”, lửa không cháy được,
              Gió cũng chẳng xé tan;
              “Phúc”, nước không làm mục,
              Thường phù-trì thế-gian.
              “Phúc”, cùng vua chống giặc,
              Dũng-mãnh kháng-cự nhau;
              Không bị Nhân, Phi-nhân,
              Tới nơi xâm-đoạt được.
Thiên-nhân lại thỉnh-vấn:
            - Con nay còn ngờ-vực,
              Thỉnh Phật vì trừ-đoạn;
              Đời nay đến đời sau,
              Ai tự dối cực độ?
Đức Thế-Tôn đáp:
            - Người có nhiều của báu,
              Mà không hay tu phúc;
              Đời nay đến đời sau,
              Họ tự dối cực độ.
Bấy giờ, Thiên-nhân kia nghe Phật Thế-Tôn nói kinh này rồi, vui mừng hớn-hở, khen chưa từng có, đỉnh lễ chân Phật và liền ngay trước Phật thốt-nhiên biến mất.






[1] Kinh này là cuốn kinh số 592 trong Đại-Tạng kinh.
[2] Áo mũ nhà binh.
[3] Ái là chỉ cho “tham-ái”. Hợp và không hợp đây là chỉ vào đạo “giải-thoát” mà nói.
[4] Nhân là loài người; Phi-nhân là Thiên, Long, quỷ-thần v.v…HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/1/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

No comments:

Post a Comment