Sau thời Honen, trong các tông phái Tịnh độ hưng khởi ở Nhật Bổn, tông phái phát triển lớn mạnh nhất là Chân tông Tịnh độ, về mặt giáo nghĩa, Chân tông không câu thúc vào hình thức khiến nó được đại chúng tiếp thu. Shinran vốn không có ý định sáng lập tông phái mới, trong tác phẩm “Giáo hành tín chứng” cùng với các tác phẩm khác của mình, Ngài thuyết minh rằng mình chỉ muốn y theo lời dạy của Ðức Phật Thích Ca và 7 vị cao tăng, xiển dương phần tinh tủy chân chánh quan trọng của các Ngài mà thôi. Kiến giải của Shinran đối với giáo lý Tịnh độ dường như căn cứ theo phán đoán của Ngài mà hình thành. Nhưng những kiến thức thâu lượm được từ kinh nghiệm cuộc sống và cảm xúc cá nhân của Ngài, trên thực tế đã làm sáng tỏ nền giáo lý mà các bậc cao tăng Nhật Bổn xưa kia đã truyền trao.
Trong việc phát triển bất cứ một nền tôn giáo hoặc triết học nào, việc canh tân lại giáo lý là quá trình không thể thiếu được. Ðể cho giáo lý và sự tu trì được bảo đảm tính chất sống, giáo lý và sự tu trì đó cần phải do sự thể nghiệm của tự thân mà đưa ra quan điểm mới để nghiên cứu và xiển dương lại. Việc nghiên cứu lại giáo lý như trên mặt đất khai thác một nguồn năng lượng mới. “Pháp” do Ðức Phật tìm ra cách đây hơn 2500 năm về trước như mặt đất. Ban đầu Ngài truyền trao cho chúng sanh phương pháp nguyên thủy trong việc khai thác và chế luyện để lấy được năng lượng. Phạn ngữ “dharma”, tôi phiên dịch là “pháp”, từ này ở Ấn Ðộ cổ xưa đã sử dụng rất phổ biến. Chân lý mà Ðức Phật tìm ra cùng với phương pháp tu học để đạt được chân lý cũng sử dụng chữ “pháp” này, nhưng Ngài sử dụng chữ “pháp” khác với Bà la môn giáo Ấn Ðộ. Ngài đã sử dụng chữ pháp với hàm nghĩa và quan điểm mới, hàm nghĩa này vài thế kỷ sau đó, sau khi đại thừa Phật giáo tại Ấn Ðộ hưng khởi mới hoàn toàn được hiển lộ. Theo quan điểm của đại thừa, Phật pháp do lịch sử, địa lý và xã hội thay đổi mà dùng trí huệ tham thấu và quan sát để đổi mới theo.
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh, quá trình nghiên cứu và đưa ra kiến giải mới, tĩnh tọa tham thiền là một yếu tố vô cùng quan trọng. Chỉ nương vào lý luận trống rỗng của phàm phu có thể nói là hư huyễn không thật tế. Từ khi lịch sử Phật giáo bắt đầu, tư tưởng siêu thế giới quan của Phật giáo… đều đạt được từ trong thiền định, điều này Phật giáo Tịnh độ tương đồng với Phật giáo đại thừa. Theo “Quán kinh”, nếu chúng ta có thể thành công y theo phương pháp trong kinh để tu trì, chúng ta có thể quán tưởng A Di Ðà Phật và cõi Cực lạc thế giới. Mỗi khi mê mờ phiền não, chúng ta có thể dùng phương pháp tĩnh tọa tham thiền để đối trị. Nhưng trên thực tế tĩnh tọa tham thiền không phải mỗi lần đều dễ dàng có hiệu quả. Hôm nay đã cách Phật quá xa, các đạo sư tu thiền càng ngày càng ít. Dù cho bạn tìm được một vị thầy, muốn lâu dài kiên trì tu tập theo pháp tu của vị này cũng rấtø khó khăn. Phương thức tĩnh tọa của pháp môn quán tưởng Tịnh độ dễ dàng tu tập hơn so với phương pháp thiền định tu trì của thiền tông. Ðó là vì hành giả có đối tượng chú tâm vào (Ðức Phật và Tịnh độ) cùng với sự gia trì của thần lực Ðức Phật A Di Ðà.
Honen tu trì giáo pháp Thiên Thai tông nhiều năm ở núi Hiei mà bản thân vẫn không chứng ngộ. Shinran cũng giống như thế, cũng ở núi này tu tập 20 năm mà cuối cùng phát hiện mình không có cách nào thành tựu. Sau khi Honen đọc bộ luận của Ngài Thiện Ðạo mà hoát nhiên đại ngộ, vì thế Ngài bỏ đi các phương pháp tu trì khác, nhất tâm tín nguyện niệm Phật. Ðiều quan trọng của việc Honen chuyển lòng tin niệm Phật là ở sự thực Ngài phát hiện tự thân không thể làm cho mình giải thoát. Honen phát hiện ở sau danh hiệu Phật là thần lực vô lượng của Ðức Phật A Di Ðà. Do phát hiện này, Honen đã đứng ở một góc độ mới xiển dương giải thích Phật pháp và đặt pháp môn niệm Phật trên các pháp môn khác.
9
Các nhà học giả phương Tây thường so sánh Shinran với Martin Luther (Mã Ðinh Lộ Ðức 1483-1546), vì những sự đổi mới Phật giáo của Shinran có nhiều điểm tương đồng với kháng nghị của Martin Luther đối với Thiên chúa giáo. Nhưng Shinran không công khai kháng nghị với các vị lãnh đạo Phật giáo và cũng không có ý định sáng lập tông phái mới. Ðiều mà Shinran quan tâm cũng giống như Honen và 7 vị cao tăng là nương vào Tịnh độ để được giải thoát. Ðiều này xem ra dường như có chút tư tưởng riêng tư yếm thế, nhưng tâm hướng về Tịnh độ và bản thân của Ngài hoàn toàn không có riêng tư và cũng không bi quan yếm thế. Vì sau khi Shinran lãnh thọ được sức từ bi của Ðức Phật A Di Ðà, Ngài phát hiện bản thân và tất cả chúng sanh kỳ thực như nước hòa với sữa không thể phân cách. Vì thế, sau khi Shinran siêu thế gian, tức vãng sanh Tây phương, sẽ y theo bổn nguyện của mình trở về thế gian này cứu độ chúng sanh.
Shinran đã hiểu rõ sức cứu độ của Ðức Phật cùng với sự tư duy sâu sắc của mình đã thay đổi tư tưởng Phật giáo và những lý giải thông thường. Trong bộ sách quan trọng của Chân tông “Thán dị sao”, Shinran có câu danh ngôn như sau :
“Ngay cả người thiện cũng đều được vãng sanh Tịnh độ, huống chi kẻ ác. Ðối với việc này, người đời thường nói : ngay cả kẻ ác còn được vãng sanh Tịnh độ, huống chi người thiện. Câu này dường như có lý, nhưng trên thực tế đã sai ngược với bổn nguyện giáo lý tha lực vãng sanh”. (Chương thứ 3)
Y theo lời dạy của Ðức Phật, nếu chúng ta có thể thông qua tham thiền tu tập trí huệ và rộng tu các hạnh lành, thì đường tu tập của chúng ta càng thăng hoa. Nếu chúng ta không có cách nào làm các việc lành, chúng ta nhất định sẽ đọa vào trong các đường ác nhận chịu khổ đau để tiêu mòn ác nghiệp đã làm. Tuy Shinran có năng lực làm việc thiện, nhưng khi Ngài dùng huệ nhãn phát giác ác nghiệp lớn nhất trong nội tâm, và ý thức tất cả sở hành của mình không thể tách rời ác nghiệp thao túng. Ðây có nghĩa là Shinran ý thức bản thân mình không có mảy may thiện nghiệp và phước đức, càng không thể nói đến việc khiến cho bản thân mình giải thoát.
Một câu danh ngôn khác của Shinran trong “Thán Dị sao”:
“Tôi đã không biết tu bất cứ công hạnh gì, và như thế tương lai chắc chắn sẽ đọa địa ngục”.
Shinran không phải lâm vào cảnh sơn cùng thủy tận, cũng không phải cảm thấy mình bị sức cứu độ của Ðức Phật gạt bỏ bên ngoài. Sự chứng ngộ của Ngài đối với sự vô lực tự cứu của bản thân, chính là chứng minh bản thân mình đã được Ðức Phật A Di Ðà nhiếp thọ và cứu độ. Vì thế thông qua lòng tin chân thành đối với Ðức Phật, Shinran có thể lãnh thọ công đức, trí huệ và sức mạnh vô lượng của Ðức Phật, và hoàn toàn đặt căn bản của phàm phu tự ngã chấp trước vào trong lòng của Ðức Phật A Di Ðà.
Kiến giải đối với Phật giáo của Shinran phát xuất từ kinh nghiệm tín thọ và lãnh thọ Phật lực (tha lực). Ngài chia Phật giáo thành hai hệ thống, là tự lực giáo và tha lực giáo. Chân tông thì hoàn toàn là tha lực giáo, các tông phái Phật giáo khác thuộc về tự lực giáo. Shinran thậm chí không khuyến khích niệm Phật. Ðối với Thiện Ðạo và Honen, tín đồ Tịnh độ toàn tâm toàn lực xưng niệm danh hiệu Phật, còn đối với Shinran, việc cần thiết là chỉ chân thành lãnh thọ sức cứu độ vô điều kiện của Ðức Phật dành cho chúng sanh.
10
Chân tông từ xưa đến nay xuất hiện nhiều nhân vật được gọi là “người Tuyệt vời”. Những người tuyệt vời này là những người nam nữ bình thường, phần đông tuy không biết chữ nhiều nhưng sâu sắc hiểu rõ tha lực giáo.
Họ hoàn toàn không phải chỉ là những người niệm Phật đơn giản kiền thành. Những người này đã phát hiện tha lực và bản thân mình cùng với Ðức Phật hòa hợp thành một thể, hoàn toàn lãnh thọ lòng từ bi của Ðức Phật đối với chúng sanh. Tuy những người tuyệt vời này hiểu rõ bản thân không thể do tự lực giải thoát, nhưng họ lại thường ôm lòng tri ân vô hạn đối với ân đức sâu dày của Ðức Phật, và cuộc sống hàng ngày của họ tràn ngập pháp hỷ mang tánh tự phát và tình thương vô ngã đối với thế gian.
Asahara Saichi (Thiển Nguyên Tài Thị 1851 - 1933) khi còn thiếu niên đã hướng về Phật giáo. Sau 5 hay 6 năm, ông ta đã nghe rất nhiều buổi thuyết giảng về Phật pháp, nhưng sau khi suy nghĩ sâu sắc về khả năng giải thoát của bản thân, ông quyết định từ bỏ Phật giáo. 10 năm sau, sự khát vọng của ông đối với Phật giáo lại lần nữa xuất hiện, lúc đó ông đang làm thợ mộc trong ngành đóng thuyền. Saichi sau những giờ làm việc rảnh rỗi, không bao giờ bỏ qua bất cứ cơ hội nghe thuyết pháp. Ðể hoàn toàn hiểu rõ tha lực giáo, ông đã nỗ lực tìm kiếm và đến năm 50 tuổi, lòng tin đã thức tỉnh trong ông. Ông đã đổi nghề làm người thợ giày.
Sự hoan hỷ của Saichi đối với Ðức Phật lúc nào cũng từ trong tâm tuôn chảy ra. Ông đã dùng thi ca để biểu đạt pháp hỷ của mình. Saichi tuy không biết tiếng Hoa, nhưng ông dùng tiếng Nhật viết những bài thơ trên những miếng gỗ bỏ và ban đêm viết vào vở. Trong rất nhiều bài thơ của ông, dưới đây dẫn chứng vài bài để cho chúng ta hiểu rõ cảm xúc của ông đối với lòng tin.
Nam mô A Di Ðà Phật và Nam mô A Di Ðà Phật,
Là một chứ không phải là hai.
Nam mô A Di Ðà Phật là chính ta,
Và A Di Ðà Phật là cha mẹ tôi.
Ðó chính là nhất thể hóa mà Ðức Phật A Di Ðà thể hiện,
Ðối với sự đãi ngộ này, tôi vô cùng hạnh phúc,
Nam mô A Di Ðà Phật.
A ! Saichi, Tịnh độ Cực lạc của bạn ở đâu?
Tịnh độ của tôi chính là ở đây.
Thanh âm của bạn chính là Nam mô A Di Ðà Phật,
Tôi vô cùng cảm kích,
Tôi, Saichi đã được danh hiệu của Ngài cứu độ
Bạn và tôi là một thể với Nam mô A Di Ðà Phật
Danh hiệu Phật trong miệng tôi lúc nào cũng có thể tìm được,
Ðây quả thật là một vị Phật tuyệt vời
Ðây là cha mẹ tôi A Di Ðà kêu gọi tôi
Tôi, Saichi đã được trói buộc vào trong đó.
Lòng tin này thật là lòng tin kỳ diệu
Phật đã nghe được âm thanh của Phật
Ở đây không có chỗ cho Saichi tôi nhúng tay vào
Tôi vô vàn cảm kích ân huệ Ðức Phật đối với tôi
Nam mô A Di Ðà Phật, Nam mô A Di Ðà Phật.
Ðối với Saichi và những người có lòng tin chân thành, niệm Phật và lòng tin đã hòa nhập thành một thể. Niệm Phật không phải nỗ lực tu trì, mà là pháp hỷ tự nhiên tuôn trào từ lòng tin chân thành. Vì thế, Nam mô A Di Ðà Phật có nghĩa là cảnh giới Ðức Phật A Di Ðà và tín giả hòa nhập thành một thể, vì “Nam mô” là lòng tin của tín đồ, mà “A Di Ðà Phật” là sức cứu độ tuyệt đối vô ngại của Ðức Phật.
Ashikaga Genza (Nguyên Tả 1842-1930) là một vị tuyệt vời khác. Lòng từ bi vô lượng của Ðức Phật cũng là từ trong tâm ông hiển thị tình thương bao la không một chút riêng tư. Một ngày kia, ông ta nhìn thấy các cây hồng trong vườn buộc đầy các cành gai. Ông hỏi:
- Ai làm gì đây?
Con ông trả lời:
- Con thấy mấy đứa con nít thường hái trộm hồng nên làm như thế để ngăn chặn nó.
Genza nói:
- Nếu có người vì đó mà bị thương thì làm sao đây?
Ông bèn dẹp đi các nhánh cây gai, và để một cây thang gần cây hồng. Con ông bèn hỏi:
- Làm như thế, không phải để cho người ta dễ trộm hồng của mình sao?
Genza trả lời:
- Ðể cho họ lấy đi những trái hồng mà họ muốn ăn, dù sao chúng ta cũng còn đủ hồng để ăn mà.
Một lần khác có một chàng thanh niên vào trong vườn của ông lấy một ít đậu cho ngựa ăn. Genza thấy vậy bèn kêu rằng:
- Chàng thanh niên kia! Ðậu ở đó không ngon, hãy đi vào trong sẽ tìm được đậu ngon cho ngựa!
Nghe lời này, cậu thanh niên lập tức trèo lên ngựa chạy mất.
Shoma (Trang Tùng 1799-1871) là một người dân nghèo không biết chữ. Tuy kiếm sống bằng nghề đan dép, bện thừng, làm thuê làm mướn, nhưng ông có kiến giải sâu sắc đối với lòng từ bi của Ðức Phật A Di Ðà. Có người hỏi ông:
- Ðặt lòng tin tuyệt đối vào Ðức Phật, có ích lợi gì?
Nghe câu hỏi này Shoma bèn thảnh thơi nằm trước bàn Phật thờ trong nhà.
Khi ông cùng với người bạn đi đến chùa, ông nằm nghiêng trong chánh điện. Người bạn trách ông:
- Bạn quá vô lễ, trang nghiêm lên một chút!
Shoma trả lời:
- Ðây là nhà của cha mẹ tôi, không cần phải khách sáo, chẳng lẽ bạn là chàng rể sao?
Lần khác ông cùng với bạn bè ngồi thuyền đi Kyoto lễ bái chùa Bổn Nguyện. Trên đường trở về, thuyền gặp phải sóng to gió lớn. Lúc đó tất cả hành khách đều sợ xanh mặt, chỉ có một mình Shoma vẫn nằm ngủ ngon lành như không có chuyện gì xảy ra. Lúc bạn kêu dậy, ông hỏi:
- Chúng ta vẫn chưa đến Tịnh độ sao?
Người tuyệt vời như thế, đã cho thấy những tín đồ Chân tông đạt được lòng tin chân thành tuyệt đối vào tha lực thì cũng không khác gì những người tu thiền ngộ đạo. Tất cả các việc làm của họ không những không bị bất cứ thứ gì ràng buộc, mà đồng thời còn sung mãn tình thương đối với chúng sanh và sự giác ngộ triệt để đối với vạn sự vạn vật. Những người này thậm chí sẽ siêu việt thiện và ác, thế gian và Tịnh độ. Người tuyệt vời đối với mọi người chung quanh không cống cao cũng không ngạo mạn, ngược lại sẽ dùng tâm thông cảm hoan hỷ để giúp đỡ mọi người cùng đi trên con đường Tịnh độ như mình.
11
Từ những ví dụ ở trên, Chân tông bao gồm nhiều tầng lớp người thế gian và xuất thế gian. Tóm lại, trước bất cứ việc gì, tín đồ Chân tông nương theo sức bổn nguyện của Ðức Phật mà được giải thoát. Từ “giải thoát” theo Chân tông có 3 tầng bậc. Thứ nhất, những người phàm phu như chúng ta có thể cùng với Ðức Phật A Di Ðà là bậc đã siêu vượt thế gian dung hợp thành một thể, khiến cho tự thân thoát ly lục đạo luân hồi, vì chúng ta lãnh thọ lòng tin từ nơi Ðức Phật, cho nên chúng ta luôn luôn tưởng niệm đến ân sâu vô lượng của Ðức Phật đối với chúng ta. Thứ hai, sau khi chúng ta qua đời, nhất định sẽ vĩnh viễn giải thoát cõi ta bà, lục đạo này, và vãng sanh cõi Tây phương Cực lạc. Vãng sanh Tịnh độ, trên cơ bản không khác gì Niết bàn thành Phật đạo. Tịnh độ là đại bảo tàng công đức vô lượng, vì thế người được sanh vào cõi Tịnh độ không những thọ nhận pháp hỷ vô tận, mà còn có thể dùng thân Bồ tát rộng độ tất cả chúng sanh, cuối cùng, chúng ta sẽ chứng đắc Phật đạo Vô thượng.
Ba tầng bậc này có thể phân chia theo thời gian từ quá khứ đến vị lai. Nhưng quan trọng nhất là cần phải hiểu rõ việc thành Phật không phải vị lai hoặc quá khứ, mà là chứng nghiệm chân lý ngay trong “hiện tại”. Saichi trong một bài thơ viết rằng:
Ôi ! Saichi, ai là Phật?
Ngài không phải là ai khác mà chính là tôi,
Ai là người sáng lập ra Chân tông Tịnh độ?
Ngài không phải là ai khác mà chính là tôi.
Gì là kinh điển và luận trước?
Ðó cũng không phải là ai khác mà chính là tôi.
Ðối với Shinran, lòng tin không những là “món quà miễn phí” của Ðức Phật A Di Ðà ban cho mọi người, cũng chính là tự thân của Ðức Phật A Di Ðà. Shinran trong một bài tán viết rằng:
Người hoan hỷ tín tâm vô ngại, là Phật pháp,
Phật pháp cũng là đức Như Lai,
Ðại tín tâm tức là Phật tánh,
Phật tánh tức là Như Lai. (Bài tán 94)
Ðây có nghĩa là lòng tin bao gồm tất cả. Sau khi chúng ta lãnh thọ lòng tin, việc chúng ta thành Phật đã được khẳng định. Ðây không chỉ là quan điểm mới của giáo lý Tịnh độ mà Shinran viết trên giấy tờ mà thôi, thông qua lòng tin, Shinran và Ðức Phật A Di Ðà đã dung hợp thành một thể. Các giáo đồ Chân tông khác cũng giống như Shinran vậy. Nên nói, lòng tin là tâm hoan hỷ vui mừng, vì lòng tin chính là hoan hỷ tiếp nhận, lãnh thọ sức cứu độ của Ðức Phật A Di Ðà. Ðức Phật A Di Ðà dùng hình thức “Nam mô A Di Ðà Phật” để gần gũi thân cận chúng ta. Một khi chúng ta lãnh thọ 6 chữ danh hiệu này, 6 chữ sẽ biến thành lòng tin. Nói cách khác, 6 chữ Thánh hiệu là tất cả công đức của Ðức Phật A Di Ðà , lòng tin cũng chính là Ðức Phật A Di Ðà.
NGÀI THÂN LOAN VÀ CHÂN TÔNG TỊNH ÐỘ (SHINRAN AND JODOSHINSHU)
Nguyên tác tiếng Anh của Tiến sĩ Hisao Inagaki (Ðạo Viên Cửu Hùng), phát biểu tại trường đại học Leiden - Hà Lan, ngày 7.4.1992
Xuất bản: Học hội văn hóa Phật giáo quốc tế (International Association of Buddhist culture).
Hoa dịch: Tan Peng Yau (Trần Bỉnh Nghiêu, Singapore)
Việt dịch: Tuệ Liên.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).14/1/2012.
No comments:
Post a Comment