Monday 30 June 2014

Phương pháp tu tập.
1. PHƯƠNG PHÁP NGỔI THIỀN.
a. Ý nghĩa ngồi thiền:
Ngồi thiền là một phương pháp giúp ta gạn lọc tư tưởng, tập trung tâm ý về một đối tượng. Ngồi thiền dẫn đến an tâm và phát huy tuệ giác. Vì vậy, ngồi thiền không phải là một giấc mơ trầm lặng mà là một phương pháp luyện tâm cho thanh tịnh và là một hoạt động tích cực khai thông năng lượng yêu thương mầu nhiệm đang ngủ chìm trong ta.

Cái tâm ta thật là quan trọng, nó là trung tâm của sự sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng chính tâm tạo nên khổ đau. Ngồi thiền là nhắm tới sự chuyển hóa, kiểm soát và phát triển sự tốt đẹp của cái tâm ấy.

Ý nghĩa trong khi thực tập ngồi thiền có hai phần. Thứ nhất là gom tâm lại một mối, xả bỏ tạp niệm và đưa tâm trở về trạng thái vắng lặng, an tịnh. Đây gọi là Chỉ, là ngưng mọi suy tư, tiếp xúc và phân biệt. Phần thứ hai là dùng năng lực vắng lặng của tâm để theo dõi sự vật và thấy đúng mọi biến tướng của sự vật, tức là nhìn sự vật dưới ánh sáng của ba đặc tính: Vô thường, khổ và vô ngã.

Gom tâm là Chỉ hay gọi Samatha. Theo dõi tâm và thấy đúng mặt hiện tượng của sự vật là Quán hay gọi là Vipassana. Chỉ là đình chỉ mọi tạp niệm, quán là quán sát sự vật đúng như thật tướng của nó. Chỉ có tu học theo phương pháp luyện tâm, ta mới rũ bỏ được mọi khổ não và đạt được trạng thái an lạc đích thực.

Chữ Quán hay Thiền quán là nguyên tắc đưa tới sự tỉnh thức, là theo dõi, thấy biết thực tại và sống ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ có giây phút hiện tại mới là giây phút đích thực của sự sống. Mọi đối tượng bên ngoài như màu sắc, âm thanh, hương vị, chạm xúc... đến với các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đều được ghi nhận tường tận. Tất cả những đối tượng ấy là những đề mục thiền quán và làm nẩy nở sự tỉnh thức.

Nhờ tỉnh thức thường trực mà ta thấy được thực tướng của sự vật nên không mê chấp, đắm luyến. Bản chất của con người và vạn vật được cấu tạo từ năm uẩn giả hợp, chúng vốn không có cái thật ngã tồn tại và bất biến. Càng định tâm, càng có trí tuệ ta sẽ thấy con người, vũ trụ chỉ là những mối nhân duyên liên hệ và tùy thuộc để sanh thành hay hoại diệt. Nhờ đó mà ta thấy được sự kết hợp của ngũ uẩn, tức là các hiện tượng bao hàm thân tâm như hình sắc, cảm giác, suy lường, tâm tư và nhận thức vốn không thật. Nhờ vậy mà ta được an ổn và xa lìa mọi vướng mắc, vọng tưởng; chứng đắc được chân lý mầu nhiệm, rũ bỏ phiền não và các tâm lý xấu ác.

b. Cách thức ngồi thiền:
Khi thực hành thiền ta phải chọn đề mục để tập trung tâm ý. Hơi thở thường được chọn làm đề mục chính. Ta nên theo dõi hơi thở và ghi nhận sự ra vào của hơi thở.
Ta có thể căn cứ vào bài thi kệ điều hơi thở sau đây để thực tập phép thiền quán trong lúc mới bắt đầu:
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời.
Thở vào, thầm niệm tĩnh lặng, thở ra thầm niệm mỉm cười và thật sự mỉm cười. Rồi thở vào, niệm hiện tại, và thở ra niệm tuyệt vời, và thật sự thấy thảnh thơi. Theo dõi hơi thở như thế dần dần ta kiểm soát được tâm. Tu thiền phải có thầy hướng dẫn mới có sự tiến bộ. Hãy nên học và thực tập theo Kinh Quán

Niệm Hơi Thở với các thầy có kinh nghiệm và sở đắc.

Sau đây xin tóm lược vài cách thức cơ bản giúp người khi mới bắt đầu tập ngồi thiền.

1/ Có nhiều người cùng ngồi thiền với nhau, sự thực tập dễ dàng hơn bội phần. Điều này rất dễ nhận biết đối với những thiền sinh đã trải qua những khóa quán niệm với nhiều bạn đồng tu. Thiền lực của một tập thể rất lớn và tác xúc rất đặc biệt vào sự nỗ lực định tâm của mỗi người. Nếu cả gia đình hay một tăng thân cùng ngồi thiền chung với nhau vào những giờ giấc nhất định trong ngày thì hiệu quả thiền tập sẽ đạt được rất nhanh.

2/ Một nơi yên tĩnh, núi rừng và thiên nhiên là trợ duyên rất lớn cho người ngồi thiền. Ta khó ngồi thiền được nếu gần đó, một máy truyền hình hay phát thanh mở lớn với các bản nhạc kích động. Hãy sắp đặt và tôn trọng sự yên tĩnh trong giờ thiền tọa.

3/ Giờ ngồi thiền sẽ được quyết định chung giữa những người cùng ngồi thiền. Định giờ nào thuận tiện cho mọi người, và khi đã quyết định một giờ giấc nào đó, nên luôn luôn giữ đúng giờ giấc một cách liên tục. Ngồi thiền lâu hay mau tùy theo quyết định của ta. Nếu ta muốn ngồi 15 phút một lần thì hãy giữ đúng 15 phút và luôn luôn bắt đầu, kết thúc cùng một giờ nhất định. Mới bắt đầu, nên ngồi khoảng 15 phút một lần, rồi gia tăng 15 phút nữa sau khoảng 5 tuần lễ hay hai tháng thực tập. Nếu ngồi được 45 phút hay 1 giờ, hai lần trong mỗi ngày là tốt nhất.

4/ Nên có tọa cụ làm cho thế ngồi được thoải mái, dễ chịu. Sắm một gối ngồi mềm mại, chiều cao vừa tầm. Tọa cụ tùy thuộc vào thế ngồi của mỗi người, làm thế nào cho khi ngồi được thoải mái. Những người đau bệnh nhức khớp xương không ngồi được dưới sàn, có thể ngồi trên một cái ghế hoặc một cái đòn bằng gỗ thích hợp.

5/ Thế ngồi tùy thuộc sự lựa chọn và cố gắng của ta. Đức Phật đã ngồi kiết già trong 49 ngày và đã đắc đạo. Ta nên ngồi kiết già, tức là ngồi như một đóa hoa sen. Ngồi kiết già bàn chân trái đặt lên đùi chân phải, và bàn chân phải đặt lên đùi chân trái. Lưng thẳng, mắt nhìn phía trước hoặc nhắm lại, môi mỉm nụ cười hàm tiếu. Thế ngồi này là thế vững chãi nhất, vì sức nặng thân thể được đặt vào ba điểm, đó là bàn tọa, và hai đầu gốì. Hình ảnh chiếc đỉnh đứng trên ba chân, vững chãi, không lay chuyển. Nếu không ngồi kiết già được, thì hãy ngồi bán già. Bàn chân trái đặt trên chân phải, hay bàn chân phải đặt trên chân trái. Trong cả hai thế kiết già và bán già, hai tay buông thư, những ngón tay chồng lên nhau, hai ngón tay cái chạm nhẹ nhau. Không ngồi kiết già hay bán già được, thì có thể ngồi cách nào thoải mái nhất cho ta. Nếu ngồi dưới sàn không được ta có thể ngồi trên một chiếc ghế, lưng giữ thẳng, không dựa vào thành ghế. Lưng và bàn tọa làm thành một góc 90 độ. Đầu và hai tay giống như ngồi kiết già hay bán già.
6/ Việc ăn uống điều độ, tinh khiết và ngủ nghỉ đủ lượng, chừng mực cũng giúp ta rất nhiều trong việc ngồi thiền. Không nên ăn quá no, không nên ăn các thức ăn khó tiêu hóa như thịt các loài gia súc. Tuyệt hẳn rượu, thuốc lá, bài bạc; giảm dần sắc dục, thù hận và đấu tranh hơn thua thì việc ngồi thiền mới có hiệu quả tốt, nhanh chóng.
7/ Nên phát tâm quy y Tam Bảo và thọ trì năm giới nếu là phật tử tại gia. Giới luật cần phải được học hỏi và thực tập nghiêm túc. Giới luật không là những trói buộc mà là chìa khóa để mở trói những khúc mắc của mọi gốc rễ tham dục, sân hận, cố chấp và kiến thức sai lầm. Tu tập thiền quán luôn luôn lấy giới làm đầu, lấy giới tưới tẩm cho sự tươi mát của thân tâm và chánh niệm. Chánh niệm vừa là mở đầu, vừa là công năng và vừa là thành quả của thiền quán.
8/ Nếu không phải là người đi tu ở trong các thiền viện thì nên ghi danh tham dự các khóa tu tập thiền quán để có thể học hỏi phương pháp thiền quán trực tiếp với các vị thiền sư, thiền sinh có căn bản về kinh nghiệm tu học. Thầy và bạn thiền có chiều sâu của sự an lạc, vững chãi, thảnh thơi là những tác phẩm lớn nhất, hay nhất trao truyền cho ta về nguyên tắc, kỹ thuật linh động và thực tế của thiền quán.
9/ Tới các tu viện, thiền viện và các trung tâm thiền quán để được ở tu học vài tuần, vài tháng hay ít nhất là 10 ngày hằng năm là điều rất cần thiết cho việc phát triển công năng thiền quán của mình. Ở các nơi có nhiều vị xuất gia, thực hành hạnh viễn ly và giải thoát, nơi ấy và khung cảnh ấy có năng lượng thanh khiết, và có sức mạnh tâm linh rất lớn gia trì cho sự thực tập thiền quán của ta. Vì vậy mà tuệ giác, lòng từ bi của ta tiến bộ rất dễ dàng.
10/ Hãy tin nơi khả năng của mình và nơi pháp hành thiền một cách kiên định, bền vững, không bị ngoại cảnh và vọng cầu chi phối. Giới là thầy, định là thầy, tức là khả năng kiểm soát thân tâm, cảm giác, suy tưởng, nhận thức của ta. Trạng thái đi tới và thành tựu đầu tiên của thiền quán là làm chủ được ba nghiệp thân, miệng, ý trong giây phút hiện tại. Thân, miệng, ý không buông lung, không tạo tác các điều xấu là kết quả thực tế, mầu nhiệm của công năng thiền quán.

c. Kiểm soát hơi thở:
Kiểm soát hơi thở bằng cách đếm hơi thở. Đếm hơi thở là phương pháp thực hành sơ đẳng nhưng căn bản nhất. Thở vào đếm 1, thở ra đếm 1; thở vào đếm 2, thở ra đếm 2 cho đến 10 thì trở lại. Tâm của ta sẽ chỉ tập trung vào việc đếm hơi thở. Khi đếm hơi thở đã thuần thục, ta chỉ cần theo dõi hơi thở nơi bụng. Thiền Minh Sát dạy ghi nhận các cử động phồng, xẹp của bụng. Bước đầu tiên nên cố gắng thấu hiểu chính xác bản chất của những hiện tượng tâm lý đang diễn biến bên trong thân, như cảm giác nhẹ, khỏe, vui, mỉm cười. Mới thực tập, ta có thể theo dõi hơi thở ra, vào từng ba hơi thay vì theo dõi số đếm mười hơi. Thở vào và thở ra thầm đếm một; thở vào và thở ra thầm đếm hai; thở vào và thở ra thầm đếm ba. Cứ thực tập ba hơi thở cho vững chãi ta có thể theo dõi được tâm trong giây phút hiện tại. Trụ tâm trong giây phút hiện tại là chánh niệm và là ngọn đèn tuệ được thắp sáng. Có tuệ là ta sẽ thấy được mặt thật của đời sống và của lý duyên sinh, duyên khởi. Nhờ đó mà ta không bị ràng buộc, ta sẽ giải thoát được mọi mê lầm, vướng mắc.

Trước khi bắt đầu thực tập hơi thở, kiểm soát hơi thở, ta nên nhẩm đọc bài kệ sau đây ba lần:
Ngồi vững tợ núi cao
Thở thanh nhẹ ra vào
Tâm duyên theo hơi thở
Nhẩm đếm từng ba hơi.
d. Những bệnh khi ngồi thiền:
Những bệnh thông thường của người mới tu thiền là bệnh hôn trầm và bệnh loạn tưởng. Bệnh hôn trầm là khi ngồi thiền, tâm ta mơ mơ màng màng, không tỉnh cũng không mê. Bệnh loạn tưởng là khi ngồi thiền, những niệm thiện, niệm ác lăng xăng đi qua tâm ta không ngừng nghỉ. Đối với người tu, những niệm bất thiện là không tốt, nhưng cũng phải rũ bỏ những niệm thiện. Đến một lúc nào đó, ta sẽ hiểu một cách rõ ràng là muốn giải thoát, ta phải dứt bỏ những niệm bất thiện cũng như những niệm thiện, tức là thấu được thể chơn tánh bình đẳng, xa lìa phân biệt.
e. Kiểm soát vọng niệm bằng sự ghi nhận, tỉnh giác:
Khi tâm mơ màng, ý thức rằng ta đang mơ màng. Thuốc chữa bệnh này là niệm: tỉnh tỉnh. Tỉnh lại để chấm dứt trạng thái hôn trầm. Khi đang loạn tưởng thì ta ý thức rằng tâm ta đang loạn tưởng. Thuốc chữa bệnh này là lặng lặng. Tỉnh tỉnh cách nào, lặng lặng cách nào, đó là tùy vào sự chú tâm rõ ràng của ta.
Một hôm Đức Phật dùng thiên nhãn thông, Ngài thấy một đệ tử lớn đang ngủ gục và ngáy trong khi hành thiền. Nhân đó đức Phật chỉ những cách thức chế ngự bệnh hôn trầm:
* Mở mắt ra
* Nhìn lên trời
* Đứng dậy đi kinh hành
* Thở sâu, dài và chậm
* Nín thở để ý thức tỉnh dậy
* Đi rửa mặt
* Tập vài động tác thư giãn.
* Suy niệm về một người đau khổ, sự chết.
* Gởi tâm từ trợ niệm cho một người sắp qua đời.
* Gởi năng lượng từ bi đến cho một người hay sân hận và có nhiều oán thù.
* Hãy tưởng tới một người mù lòa và cụt cả hai chân, người ấy khổ sở biết chừng nào.
* Đuối sức quá, buồn ngủ quá, hãy nằm xuống ngủ một giấc cho thoải mái.
* Khi tỉnh giác rồi, tiếp tục hành thiền và kiểm soát hơi thở.
Về phương pháp chữa bệnh loạn tưởng, ta hãy ý thức mình đang nghĩ về một điều nào đó và thầm niệm điều đó. Ví dụ ta đang nghĩ về một người bệnh tim, hãy thầm niệm bệnh tim, bệnh tim. Khi vọng tâm này chấm dứt, hãy trở về đếm lại từng ba hơi thở. Vạn pháp có sanh thì có diệt. Vọng tưởng cũng không khác, nghĩa là vọng tưởng đã có sanh, thì tất sẽ có diệt. Ta chỉ cần ý thức điều đó và tự nhiên cái niệm lăng xăng sẽ tan biến. Dần dà, sau nhiều công phu tu tập, thân và tâm của ta sẽ dễ dàng tĩnh lặng và ta sẽ bước qua phần quán chiếu sâu hơn để phát triển trí tuệ và tâm từ bi.

Muốn thiền định ta phải giữ giới. Không giữ giới thì không thể nào có định lực. Như ta đã thọ ba quy y và đã phát nguyện giữ năm giới thì phải quyết tâm giữ gìn các giới ấy, không buông lung và thối chuyển. Muốn có định thì phải giữ giới. Muốn có huệ thì phải có định tâm trước. Người đi tu có nhiều giới luật và oai nghi, song năm giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà dục, không đại vọng ngữ về sở đắc và không uống rượu là năm giới quan trọng mà ta cần tiếp nhận thọ trì.
f. Lợi ích ngồi thiền:
Ngồi thiền là làm cho thân tâm trở nên an định, sáng suốt, hết bệnh hoạn và rũ bỏ mọi lo âu. Ngồi thiền là cách hay nhất làm cho tinh thần giàu mạnh, có thừa đức tính nhẫn nại, biết lắng nghe, cởi mở và giúp ta thành công trong mọi lãnh vực của đời sống.

Nếu là người đam mê sắc dục, ngồi thiền sẽ bớt đam mê sắc dục. Nếu là người hay nóng giận, ngồi thiền sẽ giúp ta trừ nóng giận. Nếu là người thiếu tự tin, ngồi thiền sẽ giúp ta tự tin. Nếu là người đầy phiền não, buồn chán, ngồi thiền giúp ta có an lạc và tỉnh thức.

Xa hơn, người ngồi thiền lâu ngày và đúng phương pháp hành trì sẽ giác ngộ như Phật, không còn bị đèo bòng khổ não, không còn rong ruổi trong biển sống chết và mê lầm nữa. Ngồi thiền rốt ráo là thấy được thể tính chân thật của ta, của người và của vạn vật là bình đẳng, thanh tịnh và hòa hợp. Ta có mặt trong vạn pháp, trong cái thể bất sinh diệt và trong muôn pháp đều có hóa thân của ta.

Nhờ ngồi thiền mà ta chuyển hóa được mọi gốc rễ khổ đau, đạt được trạng thái an lạc đích thực bây giờ và mai sau. Ngồi thiền ta phát triển được tuệ giác và năng lượng từ bi để có thể hóa giải khổ đau, hận thù của những người chung quanh.

Lợi ích của việc ngồi thiền đến mức độ thuần thục, rốt ráo, ta sẽ đạt được trạng thái bất sanh giữa dòng đời sanh diệt.
Ngồi thiền pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Khai tâm mở tuệ giác
Sống tự tại an nhiên.
Tâm tạo nên cảnh giới
Niết bàn không ngoài tâm
Cực Lạc ngay tự tánh
Thiền Tịnh một lối về.
Tâm Tịnh cõi nước tịnh
Tâm bình thế giới bình
Pháp lạc nơi hiện trú
Bây giờ và ở đây.
2.Pháp Môn Thiền Lễ Phật
Lạy Phật làm cho thân, miệng, ý trong sạch. Xa hơn, lạy Phật đưa đến định tâm và tuệ giác. Đó là khi ta lạy Phật đạt tới chỗ năng lễ sở lễ tánh không tịch, tức là khi lạy Phật ta phải buông bỏ tự ngã riêng biệt, tâm ý thể nhập vào tự tánh của chư Phật và vạn pháp một cách tuyệt đối. Lạy Phật trong chánh niệm.
Tự tánh của vạn pháp, chúng sanh và tự tánh của chư Phật vốn vắng lặng, bình đẳng. Vì vậy khi khởi ý lạy Phật, ta phải đem tâm tha thiết, không chấp trước và không đối đãi mà lạy. Lạy Phật mà "ỷ" mình có lạy Phật, ngồi thiền mà "ỷ" mình có ngồi thiền là trước tướng. Phàm cái gì có tướng và trước tướng đều là hư dối, không có khả năng làm hiển lộ trí tuệ viên mãn và thể tánh chân thật. Vẫn biết hình tướng, là phương tiện, là sự cần thiết cho sự bắt đầu tu theo Phật pháp.

Thông thường ta lạy Phật là để tưởng niệm ân đức sâu dày của Phật, nguyện sống theo hạnh lành của Phật, nguyện từ bỏ những việc làm xấu ác. Lạy Phật là nguyện thực tập tâm từ bi và lòng vị tha rộng lớn của Phật, nhằm chuyển hóa khổ đau tự thân và nguyện làm lợi ích cho nhiều người.
Bằng vào Pháp môn thiền lạy Phật mà đại chúng thường trú tại Tu Viện Kim Sơn có sức khỏe rất tốt, niềm vui có mặt, thân tâm của mỗi người trở nên tươi mát, vững chãi và thảnh thơi.
Lạy Phật pháp thắng diệu
Ba nghiệp hằng lắng trong
Chân tâm ngời sáng dậy
Vượt thoát khổ luân hồi.
a. Cách thức lạy Phật:
Sau giờ ngồi thiền, đọc kinh ta nên phát nguyện thực tập phần lạy Phật. Nếu ít thì lạy chừng 51 lạy, nhiều thì lạy từ 300 đến 500 lạy mỗi ngày. Đại chúng tại Tu Viện Kim Sơn, mỗi người đều phát tâm dõng mãnh và tinh tấn lạy Phật sau mỗi thời công phu. Càng lạy Phật ta càng thấy thân tâm an lạc, tật bệnh tiêu trừ, căn lành tăng trưởng.

Trong một đại chúng có nhiều người, ta nên chia mỗi người phụ trách xướng một danh hiệu đức Phật hoặc danh hiệu một vị Bồ Tát. Mỗi danh hiệu, ta có thể xướng từ 5 đến 10 lần. Nếu thực tập lạy Phật một mình, ta cũng có thể dùng phương pháp nầy để ghi số lượng lạy Phật cho dễ nhớ trong mỗi lần công phu.
Đại chúng tại Tu Viện Kim Sơn vẫn ứng dụng pháp Hồng Danh Sám Hối, lạy Thù Ân, lạy Phật theo văn kinh Lương Hoàng Sám và lạy các danh hiệu đức Phật trong các nghi Năm Trăm Vị Phật, Ba Ngàn Vị Phật, Một Vạn Vị Phật trong thời gian nhập thất, tịnh tu. Song nghi thức lạy Phật thường xuyên mỗi ngày tại Tu Viện là áp dụng theo pháp Thập Hiệu Nghi Văn. Đó là lễ bốn danh hiệu Đức Phật và sáu danh hiệu các vị Bồ Tát sau đây:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Đức Phật Dược Sư Lưu Ly
Đức Phật A Di Đà
Đức Phật Di Lặc
Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi
Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền
Đức Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm
Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng
Đức Bồ Tát Đại Hiếu Mục Kiền Liên
Các vị Tổ Sư qua các thời đại.
Khi xướng lễ, khởi đầu bằng câu: "Nhất tâm kỉnh lễ Nam mô".

Mỗi đức Phật, mỗi vị Bồ Tát đều đã đạt được tự tánh thanh tịnh, bình đẳng. Tuy vậy, bản ý độ sanh, mỗi Ngài có một hạnh nguyện vào đời khác nhau trong việc lợi lạc hữu tình, nên khi lễ lạy và trì danh niệm Phật, ta cũng tùy nguyện mà đảnh lễ danh hiệu một hay nhiều đức Phật, Bồ tát để có sự xúc tác và cơ cảm sâu sắc.

Phương pháp lạy Phật tại Tu Viện Kim Sơn, là mỗi tuần mười vị phát nguyện làm thị giả hầu mười đức Phật và Bồ Tát. Mỗi người đối trước Tam Bảo và đại chúng làm lễ thỉnh nguyện và bắt thăm. Khi bắt thăm trúng danh hiệu đức Phật hay vị Bồ tát nào thì vị ấy nguyện làm thị giả hầu vị đó. Phép hầu đức Phật và các vị Bồ Tát, có bảy việc mà vị thị giả tâm niệm, nguyện thừa hành và thực tập:
1. Thấy mình như được diễm phúc làm thị giả của một vị Phật sống.
2. Tự cân nhắc mình đi, đứng, nằm, ngồi, hành xử trong an vui, tỉnh thức và chánh niệm.
3. Tuyệt đối thức ngủ đúng giờ, nỗ lực tinh tấn tu tập, tham gia mọi sinh hoạt với đại chúng nghiêm túc và không trễ nải.
4. Tỏ ra mình là một thị giả xứng đáng với tên đức Phật hay vị Bồ Tát mà mình đang hầu.
5. Thỉnh tượng của đức Phật hay vị Bồ Tát để tôn trí tại phòng mình nhằm tưởng nhớ và có ấn tượng đẹp trong khi đang là thị giả của đức Phật hay vị Bồ tát đó.
6. Hằng ngày, xướng danh hiệu đức Phật hay vị Bồ Tát mà mình hầu để đại chúng được lễ lạy sau mỗi thời tọa thiền, công phu.
7. Thị giả Phật tập sống như hạnh Phật và chắc chắn sẽ thành Phật.
Pháp môn Thiền Lạy Phật, đã giúp cho toàn đại chúng tại Tu Viện Kim Sơn tu tập rất tiến bộ và có nhiều an lạc. Hàng phật tử xuất gia hay tại gia chưa có cơ hội thực tập pháp môn lạy Phật, nên phát nguyện hành trì đều đặn mỗi ngày để có miền vui và hạnh phúc trong đời sống.

b. Công đức lạy Phật:
Đại Sư Viên Giác thể nghiệm 12 công đức thù thắng trong việc lạy Phật như sau:
1. Lạy Phật, đạt được âm thanh vi diệu, lời nói ra đem lại niềm vui và lợi ích cao quý cho nhiều người.
2. Lạy Phật, đạt được tâm định tĩnh, hùng lực và phấn chấn như tiếng hải triều, có khả năng lắng nghe người khác và hóa giải được mọi khó khăn, ưu phiền trong cuộc sống.
3. Lạy Phật, giúp chánh niệm phân minh, hưng khởi trí tuệ; có cái nhìn sâu sắc và không hề phán đoán sự việc nông nổi, sai lầm.
4. Lạy Phật, có tác dụng làm cho khứu giác trở nên thanh trong, mũi thường ngửi mùi hương chiên đàn; giải trừ được xú uế, không khí ô nhiễm và bất tịnh.
5. Lạy Phật, có đầy đủ phước báu trong việc ăn uống. Bất cứ loại thực phẩm và thức uống nào đưa vào miệng cũng đều trở thành thuốc hay, chữa lành muôn bệnh.
6. Lạy Phật, thân phát ra năng lượng tươi mát, lửa tam muội bao trùm, nên khi tiếp xúc với ngoại cảnh không hề bị chi phối, nhiễm trước và mê đắm.
7. Lạy Phật, sức khỏe phát triển, giấc ngủ bình yên, trường thọ; ở đâu, ngày đêm đều được thiên nhơn hộ trì và yên ổn.
8. Lạy Phật, khởi niệm an lành, tâm từ bi càng thêm rộng lớn, diệt trừ được các tâm lý tham ái, phiền giận, cố chấp, mê lầm.
9. Lạy Phật, tâm tư phấn chấn, niềm tin vững chãi trên đường tu tập cầu giải thoát và giác ngộ.
10. Lạy Phật, tài bảo và mọi nhu cầu vật chất trở nên sung mãn, giàu có và biết chăm làm phước, cúng dường, bố thí.
11. Lạy Phật, phước tướng đoan nghiêm, sắc diện đẹp đẽ, tươi nhuận giới đức thanh tịnh.
12. Lạy Phật, giải trừ tận gốc rễ phiền não, oán kết và nghiệp báo oan gia nhiều đời.
Chánh văn của 12 công đức lạy Phật
( Thập nhị công đức lễ kỉnh Như Lai)
"Nhất giả, âm thanh vi diệu
Nhị giả, thính hải triều âm
Tam giả, hằng khai tuệ nhãn
Tứ giả, khứu khải chiên đàn
Ngũ giả, thiệt thưởng kỳ vị
Lục giả, thân xúc bất nhiễm
Thất giả, thể kiện khương ninh
Bát giả, niệm niệm an bình
Cửu giả, hỷ tín cụ túc
Thập giả, tài bảo sung mãn
Thập nhất giả, khí mạo đoan nghiêm
Thập nhị giả, tận giải oán kết."
( Đại Sư Viên Giác trước nghiệm)
c. Lợi ích lạy Phật
Lạy Phật có tác dụng làm cho thân, tâm giao hòa và trở nên nhẹ khỏe. Khi lạy Phật, cốt yếu là phải nhất tâm và tha thiết. Lạy Phật, nên chú ý là đầu, mình, hai tay và hai chân phải nép sát mặt đất để bày tỏ lòng thành kính. Tâm neo hơi thở vào, ra với động tác lên xuống theo âm thanh xướng hiệu Phật hay Bồ tát. Đề mục trong khi lạy Phật là danh hiệu của một hay nhiều vị Phật, Bồ tát. Đối với người mới vào cửa đạo, việc tập tu và ngồi thiền chưa định tâm, thì cách động thân lạy Phật là pháp đối trị vọng niệm, tán tâm rất có tác dụng. Người có đức tin vững và sâu sắc nơi Tam Bảo mà phát nguyện và nhất tâm lạy Phật tinh tấn mỗi ngày, sẽ chứng nghiệm được nhiều điều linh hiển, kỳ diệu.
Đại chúng tại Tu Viện Kim Sơn sử dụng Pháp môn thiền lạy Phật như là nguyên tắc thực tập căn bản và thiết yếu trong đời sống hằng ngày của người xuất gia. Sau mỗi thời ngồi thiền, niệm kinh ta có thể để ra trên 30 phút lạy Phật. Lạy Phật cũng như tham thiền, lúc lạy Phật ta tiếp xúc được với niềm vui sâu sắc, vững chãi và hợp nhất thân tâm trong giây phút hiện tại. Ta có thể chứng nghiệm sự an lạc dễ dàng qua Pháp môn thiền lạy Phật. Vừa thực tập là ta có sự an lạc, thảnh thơi ngay lập tức, không cần chờ đợi thời gian.
Trên phương diện thực tế, sau khi lạy Phật chừng 30 lạy, ta thấy hơi ấm khởi phát toàn thân, khí huyết thông lưu điều hòa, hơi thở nhẹ nhàng, giọng xướng Phật hiệu thanh tao, miệng lưỡi tươi mát và ta có cảm giác dễ chịu vô cùng. Về mặt tâm linh, công năng mầu nhiệm của việc lạy Phật thật bao trùm rộng lớn. Những bệnh khó chữa và khó trừ như phiền giận, nghiệp chướng khảo đảo, cho chí những bệnh nan y thầy thuốc bó tay, bằng vào pháp môn lạy Phật để hồi hướng, sám hối lỗi lầm, chữa trị nghiệp chướng rất có hiệu lực. Đường tu của người xuất gia và phật tử tại gia thường có nhiều chướng duyên, pháp môn lạy Phật trợ lực rất nhiều trong việc quân bình thân tâm, thừa hành phật sự, đem lại niềm vui rất lớn cho bản thân, gia đình và đoàn thể.
Tựu trung, mục đích của việc ngồi thiền là để thân tâm an ổn, phát huy tuệ giác, diệt trừ vọng niệm thì pháp môn lạy Phật là một trợ duyên rất đắc lực cho việc ngồi thiền, định tâm. Người mới tập tham thiền, giữ tâm cho vững chãi, an định theo đề mục chưa hoàn bị, thì phần lạy Phật bổ sung cho việc an tâm và định tâm rất tốt, rất mầu nhiệm.

3. Pháp môn Thiền hành
Một trong những phương pháp để nuôi lớn chánh niệm là thực tập thiền hành. Thiền hành là thực tập chánh niệm trong khi đi bộ. Tại Hoa Kỳ, Canada và các quốc gia Âu Mỹ, mỗi ngày có hàng chục triệu người thực tập thiền quán theo phương pháp đi bộ.

Đi thong thả trong yên lặng, ta có thể đi một mình hay đi chung với nhiều người cùng một lúc. Ý nghĩa sự yên lặng ở đây là không phải chỉ yên lặng nơi lời nói, mà phải yên lặng luôn trong tâm niệm. Tức là đi mà không suy nghĩ gì cả, chỉ theo dõi hơi thở ra, vào và an trú nơi thân tâm trong giây phút hiện tại. Đi mà không mong cầu chỗ tới, chỗ tới là ngay nơi thân và tâm, ngay trong giây phút hiện tại. Nhiều người trong chúng ta có nhiều lo âu, sợ hãi, phiền muộn và khổ đau là vì tâm tư thường rong ruổi về những chuyện quá khứ hoặc những chuyện tương lai. Ta mất hạnh phúc, mất người thân, mất cả ý nghĩa đẹp của cuộc sống, vì ta không biết nhìn, không biết tiếp xúc với cái đẹp và với những gì ta đang có trong phút giây hiện tại. Thiền hành sẽ giúp ta thiết lập sự trầm tĩnh, an ổn và điều hòa nhịp thở của trái tim. Dùng ý thức tiếp xúc với hơi thở để nâng đỡ sự làm việc cần mẫn của trái tim, buồng phổi, lá lách, gan, mật, thận và toàn các bộ phận trong cơ thể của ta là điều rất khoa học và cần thiết. Sở dĩ ngày nay có nhiều người trên thế giới tin tưởng và thực tập theo phương pháp thiền hành của đạo Phật, vì phương pháp thiền hành dễ thực tập đối với mọi trình độ và tuổi tác. Dễ thực tập mà kết quả tươi mát, an lạc cho thân và tâm thì rất lớn, nên phương pháp thiền hành ngày nay đã trở thành một pháp môn phổ thông đối với tất cả những người phật tử và không phật tử trên khắp mọi nơi ở các xã hội đông phương và tây phương.
Trước khi đi thiền hành ta có thể bắt đầu nhẩm đọc bài thi kệ:
Từng bước chân đi, khơi làn gió nhẹ
Từng bước chân đi, khơi dậy niềm vui
Từng bước chân đi, bước theo nhịp thở
Từng bước chân đi, ta về với ta.
Nên đặt ý thức vào mỗi bước chân để tâm ta có thể dễ dàng an trú trong phút giây hiện tại. Chân trái khởi bước trước, chân phải theo sau và thầm niệm: trái, phải, trái, phải. Ta cũng có thể kiểm soát bước chân đi bằng hơi thở ra vào: trái, phải, thở vào; trái, phải, thở ra. Cứ như vậy ta kiểm soát mỗi bước chân và mỗi từng ba hơi thở đều đặn trên đường thiền hành.

Khi thiền hành nên đi chậm rãi, thong thả và giữ yên lặng nếu ta cùng đi với nhiều người. Tuy vậy, khi đi trên đường dài và đối với tuổi trẻ có nhiều năng lượng hoạt động, ta cũng có thể đi nhanh hơn tốc độ bình thường, song vẫn nhớ là luôn luôn kiểm soát hơi thở ra, vào theo mỗi bước chân đi.

Khi đi ta cảm thấy thân nhẹ, khỏe, thảnh thơi, khơi dậy niềm vui và sự tươi mát trong tâm hồn là ta đã tiếp xúc được ít nhiều với công phu thiền hành. Đi thiền hành là không phải đi để tới mà đi là để trở về với hơi thở, với nụ cười, với sự an lạc của ta trong giây phút mà ta đang đi, giây phút hiện tại. Hiện tại là giây phút ta đang có mặt đích thực với sự sống. Nếu tập quán niệm, tỉnh giác trong phút giây hiện tại của việc thiền hành được thành công rồi, thì ta cũng có thể quán niệm, tỉnh giác trong phút giây hiện tại của tất cả mọi đối tượng và sinh hoạt khác trong đời sống của ta.

Tu Viện Kim Sơn có nhiều con đường mòn quanh co trên ba mươi mẫu đất. Cây cảnh ở đây xanh tươi, yên tịnh và tuyệt đẹp nên rất tiện dụng cho việc thực tập thiền hành. Các thân hữu, thiền sinh và khách thập phương đến Tu Viện, hầu như mọi người đều thích tham dự các buổi thực tập thiền hành. Trên các con đường thiền hành, thỉnh thoảng ta có thể dừng chân ngồi nghỉ ngơi để tập những bài thiền ca bên cạnh những tảng đá, bên bờ suối róc rách hay bên bờ hồ an tịnh. Nhờ những con đường thiền hành và khung trời thiên nhiên, thanh tịnh tại Tu Viện này mà thầy viện trưởng và đại chúng đã giúp rất nhiều người vượt qua những khổ đau, tai biến; hàn gắn được những đổ vỡ trong cuộc sống lứa đôi, đem lại nhiều hạnh phúc vui tươi cho gia đình và đoàn thể.

Ta có thể bắt đầu thực tập phương pháp thiền hành ngay trong đời sống của mình vào những ngày nghỉ hoặc những buổi sáng cuối tuần. Ta có thể đi một mình hay cùng với người thân. Ta dạo bước thong thả trong những công viên vắng người, bên bờ suối, ven biển hay trên những vùng núi đồi có cây cảnh tươi mát, khí hậu trong lành.

Trong truyền sử Phật Giáo ghi lại là khi thái tử Tất Đạt Đa vừa sinh ra là mỉm cười và bước đi được bảy bước. Bước chân của thái tử đi đến đâu là có hoa sen nở đến đó. Đó chính là ý nghĩa của thiền hành. Đi mà không lo lắng, không như bị rượt đuổi bởi những toan tính, vọng cầu. Đi với tâm niệm an lành. Đi tới đâu là mang vẻ đẹp, niềm vui và tâm thương yêu đến đó. Đó là bước chân thiền hành của các đức Phật trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Khi về Tu Viện Kim Sơn, quý vị nhớ tham gia những buổi học phật pháp, thực tập thiền hành để có nhiều tỉnh thức, chánh niệm và hạnh phúc.
Sáng nay thức dậy
Từng bước chân đi
Bước chân tĩnh lặng
Hương thơm tràn đầy.
Người đi muôn lối
Ta về nơi đây
Phút giây hiện tại
Tâm tư rạng ngời
Từng bước chân đi
Khơi làn gió nhẹ
Từng bước chân đi
Khơi dậy niềm vui
Từng bước chân đi
Bước theo nhịp thở
Từng bước chân đi
Ta về với ta.
Sáng nay thức dậy
Ngày mới đơm hoa
Bước chân tĩnh lặng
Quê hương hòa bình.
Đời như mây nước
Trôi về muôn phương
Tiếc chi cuộc lữ
Đong đưa muộn phiền.
Từng bước chân đi
Bên vườn nắng hạ
Từng bước chân đi
Gieo hạt mùa lên
Từng bước chân đi
Thiết tha lời nguyền,
Từng bước chân đi
Ta về quê xưa
Sáng nay thức dậy
Nhìn lá thu rơi
Hoát nhiên tỉnh mộng
Chơn như ngàn đời,
Dù cho mưa nắng
Trên đường em đi
Bước theo nhịp thở
Yêu thương tìm về.
Từng bước chân đi
Hoa cười đất mẹ
Từng bước chân đi
Xây dựng ngày mai
Từng bước chân đi
Phút giây mầu nhiệm
Từng bước chân đi
Ta về thênh thang.

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/7/2014.
Bồ Đề Đạt Ma Khai Thi Pháp Môn Niệm Phật .
                               

Trước khi Thiền tông hưng thịnh, Phật giáo Trung Hoa đã có nhiều pháp môn tu, trong đó pháp môn Niệm Phật, phát triển mạnh mẽ và phổ cập từ thời ngài Huệ Viễn (334-416). Đối với người đã am hiểu giáo lý và có kinh nghiệm tâm linh, thì dù Thiền hay Tịnh, đều là phương tiện tu tập để đạt được cứu cánh giải thoát. Thế nhưng, đối với nhiều người, nhất là những người mới học đạo, nền tảng căn bản giáo lý và mục đích tu tập chưa nắm vững, khi đối diện với nhiều pháp môn tu không sao tránh khỏi sự bỡ ngỡ, hoang mang, không biết chọn phương pháp nào để hành trì. Thêm vào đó, hệ quả tất yếu của sự chưa am tường giáo lý là cảm nhận các pháp môn tu dường như có sự xung đột và mâu thuẫn lẫn nhau, càng khiến cho hành giả có khi lại sinh tâm nghi ngờ cả lời Phật dạy. Điều này cũng dễ hiểu, bởi giáo lý mà Đức Phật tuyên thuyết là để đối trị, tùy bệnh cho thuốc, tùy căn cơ trình độ mà có nhiều pháp môn tu tập khác nhau. Không có thuốc nào duy nhất điều trị cho tất cả các bệnh, không có pháp môn nào ứng hợp với mọi căn cơ. Do đó, không có pháp môn nào là cứu cánh, là đệ nhất, chỉ có sự giác ngộ giải thoát mới là đệ nhất cứu cánh.

Thật vậy, khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa xiển dương pháp môn tu Thiền đã khiến cho không ít người cảm thấy pháp môn này có sự xung đột với các pháp môn truyền thống, trong đó có pháp môn Niệm Phật. Hiểu được tâm lý này, Tổ đã viết “Thiếu thất lục môn tập”, ghi lại những lời nói quả quyết chân thật và quan trọng của thiền gia, trong đó có chương mang hình thức luận nghị, giải quyết những nghi vấn về phương pháp tu tập của các pháp môn như Trì giới, Lục độ, Niệm Phật… so với pháp môn tu Thiền. Chẳng hạn, đối với pháp môn Tịnh độ, có người hỏi: “Kinh nói, nếu người nào chí tâm niệm Phật thì ắt sẽ được vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Nếu vậy, chỉ cần một pháp môn này cũng đủ để thành Phật, đâu cần phải quán tâm để tìm cầu giải thoát”. Tức là chỉ cần tu niệm Phật được rồi, đâu cần ngồi quán tâm như pháp môn tu Thiền.

Bồ Đề Đạt Ma giải quyết nghi vấn này như sau: “Niệm Phật là pháp môn tu Chánh niệm. Liễu nghĩa là chánh. Không liễu nghĩa là tà. Chánh niệm thì chắc chắn được vãng sanh. Còn tà niệm thì làm sao mà đến được cõi Phật? Phật nghĩa là giác, tức là kiểm soát được thân tâm, không tạo tác các điều ác. Niệm là nhớ. Nhớ cái gì? Nhớ hành trì giới luật, không phóng dật, luôn tinh tấn. Đó là ý nghĩa của hai chữ niệm Phật. Cho nên, phải biết rằng, niệm là niệm ở nơi tâm, không phải niệm nơi miệng. Cũng giống như nhờ nơm mà bắt được cá, được cá thì bỏ nơm. Nhờ lời mà hiểu ý, được ý thì quên lời. Đã xưng danh niệm Phật thì phải biết phương pháp niệm Phật. Nếu tâm không thật, không tha thiết, miệng chỉ niệm suông, trong tâm tam độc không trừ, nhân ngã đầy lòng, đem cái tâm đầy vô minh tìm cầu Phật ở bên ngoài, thì chỉ uổng công mà thôi”.

“Hai chữ tụng niệm cũng có đạo lý nhiệm mầu lắm. Miệng đọc gọi là tụng, trong tâm nhớ nghĩ gọi là niệm. Cho nên, niệm là phát xuất từ nơi tâm. Đó gọi là cánh cửa đi tới sự giác ngộ viên mãn. Tụng từ nơi miệng là tướng của âm thanh. Chấp ngoài cầu lý, rốt cuộc đều là hư vọng. Vì vậy, trong quá khứ chư Thánh Hiền tu tập pháp môn niệm Phật đều chẳng phải niệm suông bên ngoài miệng mà là niệm ở trong tâm. Tâm là nguồn gốc của tất cả các điều thiện, tâm là chủ nhân của vạn đức. Niết bàn thường lạc sanh ra từ chơn tâm, mà tam giới luân hồi cũng từ tâm mà khởi. Tâm là cánh cửa của thế giới, là bến bờ giải thoát. Đã biết cửa ngõ há nghĩ khó vào, rành bến bãi sao lo chẳng đến?” (Thiếu thất lục môn tập, Đại Chánh tạng, tập 48).

Lời khai thị này cho thấy tính chất nhất quán của giáo lý Phật Đà, dù tu tập với bất kỳ pháp môn nào, cũng chỉ nhằm đến mục đích duy nhất là thanh tịnh tâm: “Tự thanh tịnh tâm ý/ Là lời chư Phật dạy”. Tu thiền là để thanh tịnh tâm, mà niệm Phật cũng là để thanh tịnh tâm. Muốn cho tâm thanh tịnh thì phải diệt trừ tam độc tham, sân, si. Nếu ngồi thiền mà tâm không chuyển hóa, các phiền não không diệt trừ, tam độc không hóa giải, thì “mài đá chẳng thành gương, ngồi thiền đâu thành Phật”. Cũng vậy, miệng xưng niệm danh hiệu Phật mà tâm thì chẳng tương ưng với tâm niệm của Phật chút nào, vẫn dẫy đầy thị phi nhân ngã, thì cũng như “máy niệm Phật” mà thôi. Cho nên, tu là phải tu tự cái tâm, chuyển đổi cái tâm niệm chúng sanh thành tâm niệm Phật, Thiền cũng vậy mà Tịnh cũng vậy.

Bồ Đề Đạt Ma cho rằng, “Đối với ba cái tâm tham, sân, si, thì trong một cái có hằng hà sa số niệm ác, và mỗi niệm như vậy được coi là một kiếp, vậy thì tam độc tham, sân, si có hằng hà sa số kiếp, cho nên gọi là ba đại a-tăng-kỳ (con số không thể đếm được). Thể tánh chơn như đã bị ba độc này che mất, nếu không vượt qua khỏi ba đại hằng hà sa tâm độc ác này thì làm sao được giải thoát?” (sđd).

Thấy rõ tâm niệm của chúng sanh niệm niệm thay đổi không dừng, mà toàn là niệm bất thiện như thế, cho nên pháp môn Tịnh độ lấy danh hiệu Phật A Di Đà thay cho mỗi tâm niệm ấy. Đức Phật từng dạy: “Chư Phật Như Lai lấy pháp giới làm thân, vào trong tâm tưởng tất cả chúng sanh. Cho nên, lúc tâm các ngươi niệm Phật, thì tâm ấy là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Chư Phật là biển Chánh biến tri, từ tâm ấy mà sanh ra. Vì vậy, phải một lòng mà niệm Phật. Nếu ai biết niệm Phật, thì phải biết người này là hoa sen báu trong loài người. Đức Quán Thế Âm Bồ tát, Đức Đại Thế Chí Bồ tát là bạn thù thắng của người ấy” (Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, Đại Chánh tang.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/7/2014. 
Luận Phá Tướng
Luận rằng:  
Ví có người hỏi: Nếu muốn cầu đạo phải tu cách nào cho chóng tắt nhất?  
Đáp:  Chỉ có pháp quán tâm nhiếp hết các pháp là chóng tắt nhất.
Hỏi:  Vì sao một pháp nhiếp được hết các pháp?
Đáp:  Vì tâm là nguồn cội của vạn pháp, hết thảy pháp đều từ tâm sanh.  Nếu tỏ được tâm thì vạn pháp đều đủ.  Cũng như cây to, cành lá hoa quả sum suê đều từ gốc cây.  Khi trồng cây phải chú ý săn sóc ở gốc thì cây mới được sanh sôi.  Đốn cây cũng cứ đốn ở gốc thì toàn thân cây đều chết.  Nếu tỏ tâm mà tu thì dụng lực ít mà thành công dễ; chẳng tỏ tâm mà tu phí công vô ích.  Nên biết tất cả thiện ác đều từ tâm, lìa tâm mà tìm Đạo là việc luống công.
Hỏi:  Vì sao quán tâm gọi là cứu cánh?
Đáp:  Bực Đại Bồ-Tát khi thâm nhập vào pháp đại trí huệ, biết được tứ đại vốn rỗng không vô ngã.  Thấy được tự tâm khởi dụng hai mặt khác nhau: một là tâm nhiễm, hai là tâm tịnh.  Hai mặt tâm pháp này tự nhiên vốn đầy đủ.  Tuy nhờ duyên hợp, nhưng hai tướng vẫn làm nhân đối đãi cho nhau.  Tâm tịnh thích làm nhân lành, tâm nhiễm thường ưa nghiệp ác.  Nếu chẳng thọ nhiễm thì gọi là thánh, thoát ly các khổ, chứng cái thật yên vui.   Nếu đọa vào tâm nhiễm thì tạo nhiệp chịu trói buộc, gọi là phàm; trôi lăn trong ba cõi, chịu muôn điều thống khổ.  Vì sao thế?  Vì tâm nhiễm trái chướng với thể Chơn Như.  Nên kinh Thập Ðịa nói: Trong thân chúng sanh có tánh Phật Kim Cang tròn sáng như mặt trời, rộng lớn không bờ mé.  Vì bị mây năm ấm che khuất như đèn bị chậu úp, sáng không hiện được.  
Lại trong kinh Niết Bàn có nói: Hết thảy chúng sanh đều có tánh Phật, vì bị vô minh che khuất nên chẳng được giải thoát, tánh Phật tức là tánh giác đó!  Chỉ tự giác và làm cho kẻ khác giác ngộ.   Giác ngộ rõ suốt thì gọi là giải thoát. 
Nên biết tất cả việc thiện đều lấy "giác" làm gốc.  Nhờ giác mới có thể hiển hiện các cội công đức, đức quả Niết Bàn cũng nhân đây mà thành tựu.  Quán tâm như thế gọi là "liễu".
Hỏi:  Như trên đã nói, tánh Phật chơn như, tất cả công đức đều nương nơi giác làm gốc, chẳng hay cái tâm vô minh lấy đâu làm gốc?
Đáp:  Cái tâm vô minh tuy có 84.000 phiền não tình dục và hà sa các điều ác đều nhân ba độc làm gốc, ba độc là tham sân si đó.  Cái tâm ba độc này tự nó đủ tất cả khả năng làm ác; cũng như cội cây to chỉ có một, nhưng có biết bao cành lá.  Căn cội của ba độc, trong mỗi một cái rễ sanh ra các nghiệp ác vô lượng vô biên không thể tỷ dụ.  Tâm ba độc như thế từ trong bản thể ứng hiện ra sáu căn, cũng gọi là sáu kẻ giặc, tức là sáu thức đó!  Do sáu thức nầy ra vào các căn tham đắm trần cảnh, tạo thành nghiệp ác trái chướng với nhơn thế, nên gọi là sáu kẻ giặc.
Tất cả chúng sanh đều bị ba độc và sáu kẻ giặc nầy làm mê loạn thân tâm, chìm đắm trong sanh tử, luân hồi trong sáu nẻo chịu các đều đau khổ.  Cũng như sông rộng mênh mông, bắt nguồn từ khe suối nhỏ chảy mãi không ngừng, lần ra đến sóng cuộn ba đào, mịt mờ muôn dặm.  Nếu có người lấp được tận nguồn thì dòng suối đều dứt.  Người cầu giải thoát nếu có thể chuyển ba độc làm ba tụ tịnh giới, chuyển sáu kẻ giặc làm sáu Ba-la-mật, tự nhiên lìa dứt tất cả nghiệp khổ.
Hỏi:  Sáu nẻo ba cõi rộng lớn mênh mông, nếu chỉ quán tâm làm sao thoát khỏi biển khổ vô cùng?
Đáp:  Ba cõi nghiệp báo chỉ từ tâm sanh, nếu được vô tâm, tuy ở trong ba cõi nhưng liền thoát ly ba cõi.  Ba cõi tức là ba độc đó.  Tham là cõi Dục, sân là cõi Sắc, si là cõi Vô Sắc, nên gọi là ba cõi.  Từ ba độc này tạo nghiệp nhẹ nặng, thọ báo chẳng đồng, chia ra sáu nẻo nên gọi là sáu thú.
Hỏi:  Sau gọi là nhẹ nặng chia làm sáu nẻo?
Đáp:  Chúng sanh chẳng rõ nhân chánh, quên tâm, tu nghiệp thiện vẫn chưa khỏi ba cõi, sanh về ba nẻo nhẹ.
Hỏi:  Sao gọi là ba nẻo nhẹ?
Đáp:  Vì là mê lầm tu mười điều thiện, vọng cầu khoái lạc chưa khỏi cõi tham, sanh về đường Trời.  Mê giữ năm giới, vọng  khởi ghét yêu, chưa khỏi cõi sân nên sanh về đường người.  Mê chấp theo hữu vi, tin tà cầu phước, chưa khỏi cõi si, nên sanh về nẻo A-tu-la.  Ba loại như thế gọi là đường nhẹ.  
Hỏi:  Sao gọi là ba đường nặng?
Đáp:  Nghĩa là từ tâm ba độc, chỉ tạo nghiệp ác bị đọa vào ba đường nặng. Nếu nghiệp tham nặng thì đọa vào đường ngạ quỷ, nghiệp sân nặng thì đọa vào đường địa ngục, nghiệp si nặng thì đọa vào đường súc sanh.  Ba đường nặng này thông đồng với ba đường nhẹ, cộng thành sáu đường.  Nên biết tất cả nghiệp khổ đều từ tâm sanh.  Nếu có thể nhiếp tâm, lìa tất cả ác thì cái khổ trong ba cõi sáu đường tự nhiên tiêu diệt, lìa khổ là được giải thoát.
Hỏi:  Như chỗ Phật nói: Ta ở trong ba vô lượng kiếp tu vô lượng khó nhọc nay mới thành Phật; đây Ngài chỉ nói quán tâm, chế ngự ba độc thì gọi là giải thoát là tại làm sao?
Đáp:  Lời Phật nói thật không ngoa.  Ba vô lượng kiếp tức là ba độc đó.  Trong cái tâm ba độc này có vô số niệm ác, trong mỗi niệm ác đều là một kiếp cho nên nói ba vô số kiếp.  Tánh chơn như đã bị ba độc che khuất, nếu chẳng siêu cái tâm có ba vô lượng ác độc ấy thì sao gọi là giải thoát!  Nay nếu có thể chuyển cái tâm ba độc này làm ba giải thoát, thế gọi là đã vượt qua được ba vô lượng vô số kiếp. 
Chúng sanh đời sau ngu si căn độn, chẳng rõ cách nói bí mật của Như Lai bèn cho rằng việc thành Phật không thể tin được.  Như thế há chẳng là làm cho người tu nghi lầm thối chuyển đạo Bồ-Đề đó sao!
Hỏi:  Bực đại Bồ-Tát do giữ ba tụ tịnh giới, sáu Ba-la-mật mới được thành Phật.  Nay ngài bảo người tu chỉ quán tâm chẳng tu giới hạnh làm sao thành Phật?
Đáp:  Ba tụ tịnh giới tức là chế ngự cái tâm ba độc đó.  Chế ngự ba độc thành vô lượng pháp thiện tụ.  Chữ tụ gom lại; vô lượng pháp thiện đều tụ nơi tâm nên gọi là ba tụ tịnh giới.  Còn nói sáu Ba-la-mật nghĩa là tịnh sáu căn; vì sáu căn thanh tịnh chẳng nhiễm sáu trần tức là qua được sông phiền não đến bến Bồ Ðề, nên gọi là sáu Ba-la-mật.
Hỏi:  Như kinh nói: Ba tụ tịnh giới là: Nguyện dứt tất cả nghiệp ác; nguyện tu tất cả việc thiện; nguyện độ tất cả chúng sanh.  Nay chỉ nói chế ngự cái tâm ba độc há chẳng không hợp đó sao?
Đáp:  Phật nói điều gì đều là chân thật, bực Đại Bồ-Tát trong nhân tu hành của quá khứ là đối ba độc phát ba thệ nguyện giữ tất cả tịnh giới. 
Đối với tham thì nguyện dứt các điều ác, thường tu các điều thiện.  Ðối với sân thì nguyện độ tất cả chúng sanh, nên thường tu huệ.  Ðối với si nhờ hành trì ba pháp tịnh Giới Định Huệ ấy nên có thể siêu ba độc mà thành Phật.  Các ác tiêu diệt gọi là đoạn.  Vì hay giữ được ba tu tịnh giới thì các thiện đều đủ, gọi đó là tu.  Vì hay dứt ác tu thiện thì vạn hạnh thành tựu, mình người đều lợi, giúp khắp quần sanh, nên gọi là giải thoát.  Thế mới biết giới hạnh để tu ấy chẳng lìa tự tâm. 
Nếu tự tâm thanh tịnh thì tất cả cõi Phật đều thanh tịnh.  Nên kinh nói: Hễ tâm dơ bẩn thì chúng sanh dơ bẩn, hễ tâm trong sạch thì chúng sanh trong sạch.  Muốn được cõi Phật phải tịnh cái tâm, tùy cái tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, ba tụ tịnh giới tự nhiên thành tựu.
Hỏi:  Như kinh nói: Sáu Ba-la-mật cũng gọi là sáu độ.  Nay nói sáu căn thanh tịnh gọi là Ba-la-mật, vậy chỗ dung thông phải như thế nào?
Đáp:  Muốn tu sáu độ phải tịnh sáu căn, trước hàng phục sáu kẻ giặc.  Hễ xả được giặc mắt, đừng đắm theo sắc thì gọi là Bố thí.  Ngăn được giặc tai, đừng đắm theo âm thinh thì gọi là Giữ giới.  Phục được giặc mũi, không đắm theo mùi thì gọi là Nhẫn nhục.  Chế được giặc miệng, không tham theo vị, không đắm theo giọng, không buông lung theo nói năng tạp loạn thì gọi là Tinh tiến.  Hàng được giặc thân, chẳng đắm theo xúc dục, rỗng rang  chẳng động gọi là Thiền định.  Điều phục được giặc ý, chẳng thuận với vô thường, thường tu trí huệ, gọi là Trí Huệ.   Độ nghĩa là chuyên chở.  Sáu độ ví dụ cũng như đò, có thể đưa chúng sanh qua bờ sông bên kia nên gọi là sáu độ.
Hỏi:  Kinh nói đức Thích Ca khi còn làm Bồ-Tát đã từng uống ba đấu sáu thăng sữa mới thành Phật (ba đấu sáu thăng: hơn ba lít rưỡi).  Trước nhờ uống sữa rồi sau mới chứng quả, há chỉ quán tâm mà được giải thoát ư?
Đáp:  Đúng thế!  Đúng thế!  Phải trước uống sữa rồi sau mới thành Phật. Nhưng phải biết sữa có hai thứ.  Thứ sữa Phật uống đây không phải sữa trâu, sữa bò, sữa dê của thế gian đâu, mà là "thanh tịnh pháp nhũ" đó!  Ba đấu tức là ba tụ tịnh giới, sáu thăng là sáu độ.  Thành Phật phải nhờ uống thứ sữa pháp thanh tịnh như thế mới chứng được quả.  Nhưng phải biết đây là cách nói kín.  Nếu hiểu Như Lai uống các thứ sữa vật chất thế gian thì lầm lắm!  Chân Như vốn tự là pháp thân vô lậu bất hoại, lìa hẳn tất cả các cái khổ thế gian, há lại phải nhờ vật chất bất tịnh thế gian để khỏi đói khát!  Trong kinh có nói: Thứ bò nầy chẳng ở cao nguyên, chẳng ở đất thấp, chẳng ăn lúa cám, chẳng cùng loại bò bô nhập bầy, màu lông vàng ánh tía.  Chữ bò ở đây để ám chỉ cho Phật Tỳ Lô Giá Na, vì lòng từ bi rộng lớn thương xót tất cả chúng sanh, nên từ trong pháp thể thanh tịnh xuất hiện ra thứ sữa pháp ba tụ tịnh giới và sáu độ vi diệu như thế để nuôi dưỡng cho tất cả những ai cầu giải thoát.  Cái nghĩa bò và sữa thanh tịnh như thế không những Như Lai uống vào là được thành đạo, mà dẫu cho ai uống vào cũng đều được đạo Vô Thượng Bồ-Đề cả.
Hỏi:  Trong kinh nói: Phật dạy chúng sanh cất chùa, đúc vẽ hình tượng, thắp hương đèn, rải hoa, ngày đêm sáu thời quanh tháp hành đạo, ăn chay lễ bái; làm hết thảy công đức ấy đều được thành đạo.  Nếu chỉ quán tâm nhiếp hết các hạnh, như thế té ra bao nhiêu chuyện kinh nói đều thành hư luống sao?
Đáp:  Phật có nói điều gì đều là vô lượng phương tiện vì tất cả chúng sanh ngu tối, căn cơ thấp kém chẳng tỏ nghĩa lý sâu  mầu, nên mới mượn việc thế gian hữu vi để mà thí dụ.  Nếu chẳng lo tu hạnh ở trong, chỉ chạy ra ngoài mà cầu hy vọng được phước thì thật vô lý. 
Nói chùa cũng như nói nơi thanh tịnh.  Nếu dứt trừ ba độc, thường tịnh sáu căn, thân tâm rỗng lặng, trong ngoài thanh tịnh, đó là nghĩa cất chùa. 
Còn nói đúc vẽ hình tượng là nói tất cả chúng sanh mong cầu đạo quả; các hạnh giác để tu là phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai, chớ đâu nói chuyện hữu vi vật chất!  Cho nên người cầu giải thoát phải lấy thân làm lò, dung pháp làm lửa, dùng trí huệ làm thợ khéo, ba tụ tịnh giới sáu độ là khuôn.  Ung đúc chơn như tánh Phật trong thân cho vào khuông giới luật. 
Còn nghĩa thắp hương cũng vậy; là thứ hương Chánh pháp vô vi, xông lên để tẩy sạch các uế nghiệp ác vô minh, hết thảy đều tiêu diệt.  Hương chánh pháp có mấy thứ: 
Một là hương Giới, nghĩa là ý nói hay dứt các ác, hay tu các điều thiện.  
Hai là hương Định, nghĩa là tin sâu Đại thừa, tâm không thối chuyển.  
Ba là hương Huệ, là thường quán sát trở vào trong tự thân tâm.  
Bốn là hương Giải thoát, là dứt hết cả vô minh trói buộc.  
Năm là hương Giải thoát tri kiến, là xét xoi thường tỏ, thông suốt không ngại.  
Năm thứ hương như thế là hương Tối thượng, thế gian không sánh được.  
Phật ở thế gian bảo các đồ đệ dùng lửa trí huệ đốt thứ hương vô giá này để cúng dường mười phương chư Phật.  Chúng sanh ngày nay chẳng hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai, chỉ dùng lửa ngoài mà thắp các hương vật chất thế gian để mong cầu  phước báo  làm kết quả. 
Còn nghĩa rãi hoa cũng vậy, là nói công đức đem Chánh pháp mà giảng dạy lợi ích chúng sanh, thấm nhuần khắp tánh Chơn Như, bố thí trang nghiêm. Thứ hoa công đức nầy Phật thường khen ngợi, cứu cánh hằng còn không bao giờ héo tàn.  Nếu ai rải hoa như thế sẽ được phước báo vô lượng.  Nếu nói Phật dạy chúng sanh cắt xén bông hoa, tổn thương thảo mộc cho được hoa để rải thì thật là vô lý.  Vì sao thế?  Vì người giữ giới thanh tịnh thì tất cả sum la vạn tượng trong trời đất cũng không xúc phạm.  Khi lầm phạm còn có ăn năn huống chi là dạy cố phá tịnh giới, tổn thương vạn vật để cầu phước báo; muốn lợi lại thành hại, há có như thế sao?  
Lại nữa, nói luôn luôn đốt đèn sáng là ý nói cái  tâm Chánh giác tỏ suốt ví cũng như đèn sáng.  Cho nên ai muốn cầu giải thoát phải lấy thân làm đài, tâm là tim, các giới hạnh làm dầu, trí huệ tỏ suốt làm lửa.  Thường thắp đèn Chơn chánh giác, chiếu phá tất cả vô minh ngu tối, hay dùng pháp nầy lần lượt khai thị lẫn nhau tức là một ngọn đèn mồi ra trăm ngàn ngọn; cứ như thế mãi mãi vô cùng, nên gọi là Vô Tận Đăng. 
Xưa có Phật tên là Nhiên Ðăng, ý nghĩa Nhiên Ðăng là thế. 
Chúng sanh ngu si chẳng rõ lối nói phương tiện của Như Lai, luống làm theo sự, đắm chấp việc hữu vi; bèn dùng các thứ đèn, dầu thế gian đốt lên luống soi nhà trống, rồi bảo làm đúng theo kinh, há chẳng lầm lắm sao?  
Vì sao thế?  Vì Phật phóng một đạo hào quang trắng  ở giữa hai chơn mày, có thể chiếu suốt mười tám ngàn cõi nước phương Đông, há đợi nhờ đèn dầu thế gian leo nheo như thế để làm lợi ích!  Gẫm xét cái lý phải chẳng thế sao! 
Lại nữa sáu thời hành đạo nghĩa là nói nơi sáu căn luôn luôn thực hành Phật đạo, tu các hạnh giác.  Điều phục sáu căn, mãi mãi không hở, gọi là sáu thời.  Còn quanh tháp hành đạo, chữ tháp nơi đây làm ám chỉ cho thân tâm đó!  Nghĩa là thường sanh giác huệ tuần sát thân tâm luôn luôn chẳng hở, gọi là quanh tháp.  Các bực Thánh đã qua đều nhờ thực hành cách ấy mà được Niết Bàn.  Người đời nay chẳng rõ lý nầy, chẳng thực hành nơi tâm, chỉ chấp trở ra mà tìm, đem cái thân chướng ngại đi quanh tháp thế gian ngày đêm lũ lượt, luống uổng nhọc công, đối với Chơn tánh không chút lợi ích. 
Còn nói ăn chay phải càng thêm để ý, nếu chẳng rõ lý nầy thì càng nhọc công vô ích.  Chữ chay ở chữ Hán là chữ Trai, mà chữ Trai lại từ chữ Tề mà biến, nhưng chữ Tề cũng như nghĩa chữ Bình.  Nghĩa là tề bình thân tâm, chẳng để tán loạn.  Chữ ăn nơi đây cũng như nghĩa chữ giữ.  Nghĩa là giữ các giới hạnh, đúng pháp tu hành.  Ở ngoài phải ngăn ngừa sáu tình, ở trong phải chế ngự ba độc, siêng giác sát, tịnh thân tâm, biết rõ nghĩa nầy mới gọi là ăn chay.
Lại nữa, chữ ăn ở đây có năm nghĩa:
1.      Một, ăn là vui với pháp, nghĩa là giữ y chánh pháp hoan hỷ vâng làm.
2.      Hai, ăn là vui với Thiền định, nghĩa là trong ngoài lặng suốt, thân tâm vui đẹp.
3.      Ba là ăn bằng suy nghĩ, nghĩa là thường nghĩ chư Phật lòng miệng như nhau.
4.      Bốn là ăn bằng nguyện, nghĩa là đi đứng nằm ngồi thường cầu nguyện lành.
5.      Năm là ăn bằng giải thoát, nghĩa là tâm thường thanh tịnh, chẳng nhiễm tục trần.
Năm nghĩa ăn nầy gọi là ăn chay.  Nếu ai chẳng nhận năm nghĩa chay tịnh nầy mà tự hào là ăn chay đều là làm việc vô lý.  Cần nhất phải dứt cho được cái ăn mê muội.  Nếu phải va chạm gọi là phá trai.  Nếu đã phá trai sao gọi là được phước?  Đời có người mê chẳng rõ lý này, thân tâm phóng túng theo các nghiệp ác, tham dục buông tình, chẳng biết xấu hổ.  Chỉ ăn được ba thứ rau cải rồi tự hào là ăn chay thì thật là phi lý. 
Còn nói lễ lạy theo phép thì ở trong phải tỏ thông lý thể, ở ngoài thì tùy sự quyền thông.  Lý có khi phải hiện, có khi phải ẩn.  Biết được nghĩa như thế mới gọi là y theo pháp.  Vả chăng, lễ nghĩa là kỉnh, lạy nghĩa là phục.  Nghĩa là cung kỉnh chơn tánh, hàng phục vô minh; đó là lễ bái.  Nếu có thể dứt trừ lòng ác, thiện niệm hằng giữ; tuy chẳng hiện tướng, nhưng đó mới thật là lễ lạy.  
Tướng là pháp tướng, Thế Tôn muốn làm cho người đời tỏ lòng khiêm tốn cũng dạy lễ lạy.  Nên ở trong khuất phục, ngoài hiện khiêm cung; nêu cái bên ngoài để rõ bên trong, tánh tướng như nhau.  Nếu không căn cứ trên lý pháp, chỉ chấp tướng bề ngoài mà cầu, trong thì mở cửa ba độc, thường làm nghiệp ác, ngoài làm ra tướng ghê gớm, trá hiện oai nghi, chẳng khỏi luân hồi, há thành công đức?
Hỏi:  Như kinh Ôn Thất nói: Tắm gội chúng tăng phước đức vô lượng.  Đó rõ ràng dựa vào sự pháp mới thành công đức; nếu là quán tâm có thể tương ưng được sao?
Đáp:  Nói tắm gội chúng tăng cũng chỉ là một thứ ẩn ngữ, chớ phải đâu bảo làm theo sự tướng thế gian!  Đức Thế Tôn thường vì các đệ tử mà giảng kinh Ôn Thất để cho thọ trì phép tắm gội, nên mượn việc thế gian để ví dụ.  Mật nói công đức của cúng dường sau đây: 1 là nước trong, 2 là nhúm lửa, 3 là xà phòng (chất tẩy), 4 là bàn chải, 5 là phấn bột, 6 là dầu ướp, 7 là áo lót.  Dùng 7 việc này để ví dụ cho 7 pháp.  Tất cả chúng sanh theo 7 pháp tắm gội trang nghiêm này, thì có thể trừ được tâm độc vô minh dơ bẩn.  Bảy pháp ấy là:
1.      Dùng tịnh giới gội rửa mê lầm, cũng như dùng nước trong gội rửa bụi bặm.
2.      Dùng trí huệ quán sát, trong ngoài sáng suốt cũng như nhúm lửa nấu nước trong.
3.      Lừa lọc các điều ác, cũng như xà phòng rửa sạch dơ bẩn.
4.      Chơn thật dứt trừ vọng tưởng, cũng như bàn chải hay làm sạch miệng hôi.
5.      Chánh tín quyết định không nghi cũng như phấn bột dùng để xoa trong ngoài thân có thể ngăn ngừa các chứng phong ngoại cảm.
6.      Nhu hoà nhẫn nhục, cũng như dầu ướp là thông nhuậm mặt da.
7.      Biết hổ thẹn ăn năn các nghiệp ác, cũng như áo lót mình để che khuất bớt các chỗ bất tiện trong cơ thể.
Hạng tỳ kheo lúc đó thông minh lanh lợi đều ngộ ý nhanh, theo chỗ nói mà tu hành, công đức thành tựu, đều chứng quả thánh.  Chúng sanh đời nay không rõ tự sự, đem nước thế gian để tắm rửa cái thân tứ đại mà tự cho làm theo kinh, như thế há chẳng lầm lắm sao!  Vả lại, tánh Phật chơn như đâu phải thứ có hình; phiền não bợn nhơ bổn lai không tướng.  Há có thể đem nước vật chất để gội rửa cái thân vô vi được sao?  Trên sự chẳng tương ưng làm sao ngộ được đạo!
Hỏi:  Kinh nói chỉ chí tâm niệm Phật tất được vãng sanh về cõi Cực Lạc, chỉ một môn nầy là được thành Phật, đâu cần phải quán tâm để cầu giải thoát?
Đáp:  Niệm Phật nghĩa là phải niệm chánh.  Nghĩa rốt ráo mới là nghĩa chánh, chẳng rốt ráo là tà.  Nếu niệm chánh tất được vãng sanh, niệm tà làm sao đến được! 
Phật nghĩa là giác, nghĩa là giác sát thân đừng để khởi ác.  Niệm nghĩa là nhớ, nghĩa là giữ giới hạnh, đừng vọng tinh tiến.  Cần rõ nghĩa như thế mới gọi là niệm.  Nên biết niệm ở nơi tâm, chớ chẳng phải ở miệng, mượn ngôn ngữ để cầu ý, được ý phải quên lời. 
Đã nói niệm danh hiệu Phật cũng phải biết cái đạo niệm Phật.  
Nếu tâm không thật, miệng niệm danh hiệu suông, ba độc lẫy lừng, chấp mình chấp người cả bụng; dùng cái tâm vô minh vọng cầu thấy Phật luống uổng tốn công. 
Ðến như tụng với niệm cũng khác nhau.  Ở miệng gọi là tụng, ở tâm gọi là niệm.  Nên biết niệm từ tâm khởi, gọi là môn giác hạnh.  Còn tụng ở miệng là tướng âm thanh, chấp tướng cầu lý thì thật là không phải. 
Phải biết các Thánh xưa tu hành đều không phải nói bên ngoài, mà luôn luôn phải lấy tâm làm chủ, vì tâm là nguồn cội vạn pháp, tâm là chủ của muôn đức, vắng lặng thường vui đều bởi ngừng vọng. 
Ba cõi luân hồi cũng từ tâm khởi, tâm là cửa của cuộc  đời, tâm là bờ giải thoát.  Biết được cửa tâm rồi lo gì khó thành!  
Người nay thấy biết nông nổi, chỉ biết sự tướng làm công, hao phí của cải, tốn thương vạn loại.  Luống công xây đắp, gom nhóm vật liệu, vẽ vời rằn ri đem hết tâm lực, tốn mình mê  người, chưa biết tỉnh ngộ có đâu sợ khó!  Hễ thấy việc hữu vi thì nôn nao mê đắm, còn nói đến vô tướng thì trơ trơ như mê.  Chỉ tham kết quả nhỏ nhen hiện tại, chớ  biết đâu cái  khổ biển cả sau này.  Tu học như thế luống công nhọc sức, trái chánh theo tà, vọng nói được phước.  Nếu chỉ có thể nhiếp tâm soi trở vào trong, giác sát ở ngoài cho tỏ, dứt trừ ba độc, đóng hết sáu cửa giặc đừng cho nhiễu loạn; tự nhiên vô lượng công đức, bao thứ trang nghiêm, vô số pháp môn đều được thành tựu, siêu phàm chứng thánh, tận mặt sát một bên, ngộ trong giây lát, đâu đến nỗi khó khăn! 
Môn chơn thiệt nhiệm mầu đâu thể nào trình bày hết.  Nơi đây chỉ thuật sơ về quán tâm, nói rõ ra chút ít vậy thôi.
[ Kệ rằng: ]
Ta vốn cầu tâm tâm tự gìn,
Cầu tâm chẳng được để tâm minh.
Tánh Phật chẳng từ ngoài tâm được,
Tâm sanh chính là lúc tội sanh  

Ta vốn cầu tâm chẳng cầu Phật
Rõ biết ba cõi rỗng không suốt.
Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm,
Chỉ tâm này, tâm này là Phật   .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/7/2014.
Luận Ngộ Tánh.
Vả chăng, Đạo là lấy vắng lặng làm thể.  Tu là lấy lìa tướng làm tông.  Nên kinh nói: Vắng lặng là Bồ-Đề, vì dứt hết các tướng.  Phật có nghĩa là giác.  Người có tâm giác được Đạo Bồ-Đề nên gọi là Phật.  Kinh nói: Lìa tất cả các tướng là danh hiệu chư Phật.  Thế mới biết: Có tướng là tướng mà không tướng.  Không thể dùng mắt thấy, chỉ có thể dùng trí biết. 
Ai nghe pháp này mà sanh một niệm lòng tin, phải biết người đó đã phát tâm đại thừa, siêu ba cõi.  Ba cõi tức là tham, sân, si.  Đổi tham sân si ra thành giới, định, huệ tức gọi là siêu ba cõi.
Nhưng tánh của tham, sân, si cũng không thật, chỉ tùy thuận chúng sanh mà nói vậy thôi.  Nếu ai có thể soi trở vào trong thì thấy rõ tánh của tham, sân, si tức là tánh Phật.  Ngoài tham, sân, si không có tánh Phật nào khác.  Kinh nói: Chư Phật từ xưa đến nay thường ở trong ba độc để nuôi lớn pháp giải thoát mà thành Thế Tôn.  Ba độc là tham, sân, si đó.
Nói đại thừa, Tối thượng thừa đều là nói chỗ sở hành của Bồ-Tát.  Không chỗ thừa, không chỗ chẳng thừa.  Suốt ngày thừa, mà chưa từng thừa, đó là Phật thừa.  Kinh nói: "Không thừa là Phật thừa đó". 
Nếu ai biết được sáu căn không thật, năm uẩn giả danh, khắp thân tìm cầu hết thảy đều không có chỗ nhất định.  Phải biết người đó rõ được nghĩa Phật nói.  Kinh nói: Hang ổ của năm uẩn là Thiền viện.  Soi trở vào trong được tỏ ngộ là môn đại Thừa, há chẳng rõ lắm sao!  Chẳng chứa tất cả pháp gọi là Thiền định.  Nếu rõ được câu này thì đi đứng nằm ngồi đều là Thiền định.
Biết tâm là không, gọi là thấy Phật.  Vì sao thế?  Vì mười phương chư Phật đều là vô tâm.  
Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật.  
Lìa chấp thân chẳng tiếc gọi là đại bố thí.  
Lìa các động tịnh gọi là đại tọa thiền.  
Vì sao thế?  Vì phàm phu một niềm chấp động, Tiểu thừa một niềm chấp định.  Nếu vượt khỏi cái tọa thiền của Tiểu thừa và phàm phu thì gọi là đại tọa thiền.  Nếu nhận được như thế thì tất cả các tướng chẳng tìm cũng tự rõ, tất cả các bịnh chẳng trị cũng tự khỏi.  Đó là nhờ sức đại thiền định.
Phàm ai đem tâm mà cầu pháp đều là mê, chẳng đem tâm cầu pháp là ngộ.  
Chẳng đắm chấp văn tự gọi là giải thoát.  Chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.  Lìa khỏi sanh tử gọi là xuất gia.  Chẳng thọ báo sau này gọi là Đắc Đạo.  Chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết Bàn.  Chẳng kẹt trong vô minh gọi là Đại Trí Huệ.  Ðến chỗ không phiền não gọi là Bát Niết Bàn.  Đến chỗ không có tướng tâm gọi là qua bờ bên kia. 
Khi mê thì có bờ bên đây.  Khi ngộ rồi thì bờ bên đây cũng không có.  Vì sao thế?  Vì phàm phu một niềm chấp bên đây, nếu tỏ ngộ được pháp Tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ bên đây cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả đây kia vậy.  Nếu thấy bờ bên kia chẳng khác hơn bờ bên đây, cái tâm của người ấy đã được cái định vô thiền.
Phiền não gọi là chúng sanh, tỏ ngộ gọi là Bồ Ðề, cũng chẳng một chẳng khác, chỉ khác nhau ở mê ngộ.  
Khi mê có thế gian để ra khỏi, khi ngộ không có thế gian để ra. 
Trong pháp bình đẳng chẳng thấy phàm phu khác với thánh nhơn.  
Kinh nói: Pháp bình đẳng nghĩa là phàm phu không thể nhập, Nhị thừa không thể hành.  Chỉ có bực đại Bồ-Tát và chư Phật Như Lai có thể hành mà thôi.  
Nếu thấy sanh khác với tử, động khác với tĩnh, đều gọi là chẳng bình đẳng.  
Chẳng thấy phiền não khác với Niết Bàn, thế mới gọi là bình đẳng.  
Vì sao thế?  Vì phiền não và Niết Bàn cùng một tánh không.  Cho nên người Nhị thừa vọng dứt trừ phiền não, vọng nhập Niết Bàn, tự tạo Niết Bàn để trói buộc.  Còn Bồ-Tát biết được tánh phiền não vốn không, nên chẳng lìa không, thường ở Niết Bàn.  Niết Bàn nghĩa là khơi mà chẳng sanh, tịch mà chẳng chết, vượt khỏi sanh tử là Bát Niết Bàn.  Tâm không có đi và đến là nhập Niết Bàn.  Thế mới biết Niết Bàn tức là tâm không.
Chư Phật nhập Niết Bàn là ở chỗ không vọng tưởng, Bồ-Tát vào đạo tràng là không tham sân si vậy.  Tham là cõi Dục, sân là cõi Sắc, si là cõi Vô sắc. 
Nếu một niệm tâm sanh liền vào ba cõi, một niệm tâm diệt là ra ba cõi.  
Thế mới biết: Ba cõi sanh diệt, vạn pháp có không đều do một tâm.  Phàm nói một pháp là cũng giống như đập ngói gạch, chẻ tre vô tình.  
Nếu biết được tâm chỉ là giả danh, tạm gọi chớ không có tướng, thì liền biết cái tâm của tự mình cũng không phải có, không phải không.  
Vì sao thế?  Vì phàm phu một niềm sanh tâm gọi là có, Tiểu thừa một niềm diệt tâm gọi là không.  Còn Bồ-Tát và Phật chưa từng sanh tâm cũng chưa từng diệt tâm, cho nên gọi là không phải có không phải không.  Chỗ này cũng gọi là Trung Đạo. 
Thế mới biết: Chấp tâm học pháp thì cả tâm lẫn pháp đều mê.  Đừng chấp tâm mà học pháp thì cả tâm và pháp đều ngộ.  
Phàm mê nghĩa là mê ở trong ngộ, ngộ là ngộ ở trong mê.
Con người chánh kiến biết được tâm vốn rỗng không liền siêu mê ngộ.  
Như thế mới gọi là thấy biết đúng.  
Sắc chẳng tự sắc, do tâm nên có sắc.  
Tâm chẳng tự tâm, do sắc nên có tâm.  
Thế mới biết tâm và sắc, cả hai cùng nương nhau sanh diệt.
Có là có ở trong không.  Không là không ở trong có.  Thế gọi là thấy đúng.  
Vả chăng, nếu thật thấy là không chỗ chẳng thấy, cũng không chỗ thấy.  
Tuy thấy khắp mười phương, nhưng chưa từng có thấy.  Vì sao thế?  Vì không chỗ thấy, vì thấy được cái không thấy, vì thấy không phải thấy.  Cái mà phàm phu gọi là thấy ấy đều là vọng tưởng cả.
Nếu vắng lặng không chỗ thấy mới gọi là thấy thật.  
Tâm và cảnh đối nhau, cái thấy trong đó phát sanh.  
Nếu trong chẳng khởi tâm thì ngoài chẳng sanh cảnh, cảnh và tâm đều vắng lặng, như thế ấy mới gọi là thấy thật.  
Chẳng thấy tất cả các pháp mới gọi là được Đạo.  Chẳng biết tất cả các pháp mới gọi là tỏ pháp. 
Vì sao thế ?  Vì thấy cùng chẳng thấy đều là chẳng thấy.
Hiểu cùng chẳng hiểu đều là chẳng hiểu.  
Cái thấy không phải thấy mới gọi là thật thấy.  Cái hiểu không hiểu mới gọi là hiểu rộng lớn.
Vả chăng, thấy đúng nghĩa là không phải cái thấy có thấy, mà là cái thấy trong không thấy.  Thật hiểu nghĩa là không phải cái hiểu trong có tướng, mà là cái hiểu trong không có tướng.  Phàm hễ có cái bị biết đều là gọi là chẳng biết.  Không có cái bị biết mới gọi là thật biết.  Kinh nói: Chẳng bỏ trí huệ gọi là ngu si.  Nếu tâm là không, hiểu cùng chẳng hiểu đều là thật cả.  Nếu tâm là có, hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng.
Nếu tỏ ngộ thì pháp theo người.  Nếu chẳng tỏ ngộ thì người theo pháp.  
Nếu pháp theo người thì phi pháp trở thành pháp, hết thảy pháp đều chơn.  Nếu người theo pháp thì pháp trở thành phi pháp, hết thảy pháp đều trở thành vọng.  
Cho nên thánh nhơn chẳng đem tâm mà cầu pháp, cũng chẳng đem pháp mà cầu tâm, cũng chẳng đem tâm mà cầu tâm, đem pháp cầu pháp.  Cho nên tâm chẳng sanh pháp, pháp chẳng sanh tâm.  Tâm pháp thường vắng lặng nên thường ở trong định.  
Tâm chúng sanh sanh thì pháp Phật diệt.  Tâm chúng sanh diệt thành pháp Phật sanh.  
Nếu đã biết tất cả pháp đều chẳng có tự tánh riêng, thế gọi là người có Đạo.  Biết tâm chẳng thuộc về của riêng của các pháp.  Đó là người thường ở Đạo tràng.
Khi mê có tội, ngộ rồi không tội.  Vì sao thế ?  Vì thể tánh tội vốn không?  
Kinh nói: Các pháp không có tự tánh riêng, thật dụng chớ nghi, nghi liền thành tội.  
Vì sao thế?  Vì tội do nghi hoặc mà sanh.  
Nếu rõ được như vậy thì tội nghiệp đời trước liền tiêu diệt.  
Khi mê thì sáu thức năm ấm đều là pháp phiền não sanh tử.  Khi ngộ thì sáu thức năm ấm đều là pháp Niết Bàn không sanh tử.
Người học đạo chớ nên tìm Đạo ở ngoài.  Vì sao thế?  Vì biết tâm là Đạo.  
Nếu khi được tâm, không có tâm có thể được.  Nếu khi được Đạo, không có Đạo có thể được.
Nếu nói đem tâm cầu đạo mà được, thì gọi là tà kiến.
Khi mê có Phật có pháp.  Khi ngộ không Phật không pháp.  
Vì sao thế?  Vì ngộ tức là Phật, là pháp.  Vả chăng tu nghĩa là diệt cái thấy có thân riêng thì Đạo thành.  Cũng như hột giống nứt vỏ thì cây nẩy mầm.
Cái thân sanh tử nghiệp báo luôn luôn vô thường; là pháp không nhất định, chỉ tùy niệm mà tu, cũng không nên chán sanh tử hay thích sanh tử.  Chỉ làm sao trong tâm đừng vọng tưởng, thì khi sống nhập được Hữu-Dư Niết Bàn, khi chết vào được Vô sanh Pháp Nhẫn.
Khi mắt thấy sắc chẳng nhiễm sắc, tai nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng thì đều là giải thoát.  Mắt chẳng đắm sắc thì mắt là cửa lễ, tai cũng vậy. 
Nói tóm lại, khi thấy sắc mà thấy được đến tánh của sắc thì không nhiễm, thường giải thoát.  Nếu mắc kẹt ở tướng của sắc là thường bị trói buộc.  Nếu chẳng bị phiền não bị trói buộc thì gọi là giải thoát, chớ không có giải thoát nào khác hơn.  
Người khéo quán sắc, sắc chẳng sanh tâm, tâm chẳng sanh sắc, thì sắc và tâm đều thanh tịnh.
Khi không vọng tưởng thì một tâm là một cõi Phật.  Khi vọng tưởng khởi thì một tâm là một cõi địa ngục.  
Chúng sanh làm ra vọng tưởng, lấy tâm sanh tâm nên thường ở địa ngục.  Bồ-Tát quán sát vọng tưởng chẳng lấy tâm sanh tâm, nên thường ở cõi Phật. 
Nếu chẳng lấy tâm sanh tâm thì tâm đều nhập vào không, niệm niệm đều qui về tịnh, từ một cõi Phật đến một cõi Phật.  
Nếu lấy tâm sanh tâm thì tâm tâm chẳng tịnh, niệm niệm đều qui về động, từ một địa ngục qua một địa ngục. 
Khi một niệm tâm khởi thì liền có hai nghiệp thiện ác, có thiên đàng địa ngục.  Nếu một niệm tâm chẳng khởi thì hai nghiệp liền dứt, thiên đường địa ngục cũng không.  
Vì "thể" vốn không phải có, không phải không.  Ở phàm là có, ở thánh là không.
Thánh nhơn nhờ tâm "không" nên trong lòng rỗng rang, cung trời đất đồng lượng.  
Đây đều là chứng trong Đại Đạo, không phải cảnh giới của Tiểu thừa và phàm phu.  Khi tâm được Niết bàn cũng không có Niết bàn có thể được.  Vì sao thế?  Vì tâm là Niết bàn.  Nếu ngoài tâm còn thấy có Niết bàn, thế gọi là đã nhiễm tà kiến.
Phải biết tất cả phiền não đều là hột giống tâm của Như Lai; vì nhờ có phiền não mà được trí huệ.  
Chỉ có thể nói phiền não sanh Như Lai, nhưng không thể nói phiền não là Như Lai.  Nên tự tâm là ruộng nương, phiền não là hột giống, trí huệ là nảy mầm; còn Như Lai để dụ như kết quả lúa thóc.
Phật ở trong tâm như hương trong cây, giác mục hết rồi thì lõi hương tự hiện, phiền não hết rồi thì Phật tâm tự hiện cũng như vậy.  
Cho nên biết ngoài cây không hương, ngoài tâm không Phật.  Nếu ngoài cây có hương tức là hương chỗ khác, ngoài tâm có Phật tức là Phật từ ngoài; là không phải Phật [của mình].
Trong lòng chứa ba độc là cõi uế, trong lòng không ba độc là cõi tịnh.  Kinh nói: Nếu cõi nước dơ bẩn ác độc đầy dẫy mà muốn chư Phật xuất hiện thì không thể có bao giờ; mà dơ bẩn ác độc là tham sân si mê muội đó.
Chư Phật Thế Tôn chính là cái tâm giác ngộ.  Nếu giác ngộ thì tất cả nói năng đều là Pháp Phật.  Nếu không nói mà nói thì suốt ngày nói đều là Đạo.  
Nếu chấp nói năng thì dầu suốt ngày nín thinh cũng là phi Đạo.  
Cho nên Như Lai nói mà không trái với nín, nín chẳng trái với nói; nói nín không lìa.  Nếu ngộ được nghĩa nói và nín đây là vào được chánh định.  Nếu nói đúng lúc, nói cũng là giải thoát.  Nếu chẳng phải lúc, dẫu nín cũng là trói buộc.  Cho nên: nói cũng lìa tướng, nói cũng gọi là giải thoát.  Nếu chấp tướng, dẫu nín cũng là trói buộc.  Vả chăng, bổn tánh vốn giải thoát, văn tự không thể đến trói buộc được.  Pháp không cao thấp, nếu thấy có cao thấp là không phải pháp rồi.
Phi pháp là đò, pháp là người.  Người nương đò để qua sông thì phi pháp tức là pháp.  Nói theo thế tục thì có nam nữ sang hèn, theo đạo thì không có nam nữ sang hèn.  Cho nên Thiên Nữ ngộ đạo chẳng đổi thân nữ, Xa Nặc thức tỉnh chẳng đổi danh xưng.
Như thế không phải sanh hèn nam nữ đều từ một tướng đó sao?  Thiên nữ suốt mười hai năm tìm tướng nữ cứu cánh không thể được, thì biết suốt mười hai năm tìm tướng nam cũng không thể được.  Cái nghĩa mười hai năm là sáu căn sáu trần đó.  Lìa tâm không Phật, lìa Phật không tâm.  Cũng như lìa nước không giá [băng], lìa giá [băng] không nước.
Phàm nói lìa tâm là không phải chạy trốn cái tâm.  Chỉ đừng chấp ở phần tướng của tâm mà thôi.  Kinh nói: Chẳng thấy tướng gọi là thấy Phật, tức là lìa tướng tâm đó.  Nói lìa Phật không tâm nghĩa là nói Phật từ tâm hiện, tâm có thể sanh Phật.  Phật tuy từ tâm sanh, nhưng tâm chưa từng sanh ra Phật.  Cũng như cá sanh ra từ nước chớ không phải nước đẻ ra cá.  Muốn xem cá, chưa thấy cá đã thấy nước.  Muốn quán Phật, chưa thấy Phật đã thấy tâm.  Thế mới biết khi thấy cá là quên nước, khi thấy Phật là quên tâm.  Nếu chẳng quên tâm là còn bị tâm mê hoặc.  
Chúng sanh với Bồ-Đề cũng như giá [băng] với nước.  Bị ba độc làm rối loạn thì gọi là chúng sanh, được ba giải thoát thanh tịnh thì gọi là Bồ-đề.  Cũng như nước bị mùa Đông làm đặc lại thì gọi là giá [băng], bị mùa Hạ làm lỏng ra thì gọi là nước.  Nếu bỏ giá [băng] đi thì không có nước nào khác, nếu bỏ chúng sanh đi cũng không có Bồ-Đề nào khác.
Nên biết tánh giá [băng] là tánh nước; tánh nước là tánh giá [băng].  Tánh chúng sanh là tánh Bồ-đề, chúng sanh và Bồ-Đề đồng một thể tánh cũng như Ô Đầu và Phụ Tử cùng một gốc, chỉ vì thời tiết chẳng đồng.  Mê ngộ khác cảnh nên có hai tên chúng sanh và Bồ-đề.
Cho nên rắn hoá thành rồng mà chẳng đổi vảy, phàm biến thành thánh mà chẳng đổi mặt, chỉ người biết tâm thì trí soi trở vào trong, biết thân thì giới giữ bên ngoài.
Chúng sanh độ Phật, Phật độ chúng sanh, thế gọi là bình đẳng.  Chúng sanh độ Phật nghĩa là nhờ phiền não sanh tỏ ngộ; Phật độ chúng sanh nghĩa là tỏ ngộ rồi diệt phiền não.  Thế mới biết không phiền não không lấy đâu sanh tỏ ngộ, không phải thức tỉnh không lấy đâu diệt phiền não.  
Khi mê là chúng sanh độ Phật, khi ngộ là Phật độ chúng sanh.  
Vì sao thế?  Vì Phật chẳng tự thành, đều do chúng sanh độ cả.  
Chư Phật lấy vô minh làm cha, tham ái làm mẹ.  Vô minh và tham ái đều là biệt danh của chúng sanh.  Chúng sanh và vô minh cũng như tay trái và tay phải chớ không phải hai người.
Khi mê là mắc kẹt bờ bên đây, khi ngộ là qua được bờ bên kia.  Nếu biết tâm không chẳng chấp tướng thì lìa mê ngộ, đã là mê ngộ thì không có bên đây bên kia nữa.  Như Lai chẳng ở bên đây cũng chẳng ở bên kia, chẳng ở giữa dòng.  Vì sao thế?  Vì ở giữa dòng là Tiểu thừa, ở bên đây là phàm phu, bên kia nghĩa là Bồ-đề.
Phật có ba thân là Hoá thân, Báo thân và Pháp thân.  Hoá thân cũng gọi là Ứng thân. Nếu chúng sanh thường làm điều thiện tức là Hoá thân.  Khi hiện tu trí huệ là Báo thân.  Hiện giác vô vi là Pháp thân.  Thường hiện 10 phương tùy nghi cứu tế, đó là Hoá thân phật.  Nếu dứt mê hoặc tức là Tuyết Sơn thành đạo là Báo thân Phật.  Không nói năng, không làm, không được, rỗng rang thường trụ là Pháp thân Phật.  
Nếu luận chí lý một Phật còn không có thay làm gì có ba!  Nói ba là y cứ theo người đời mà nói, người có ba bực: Người bực hạ vọng cầu phước lực, vọng thấy Hoá thân Phật.  Người bực trung trí vọng dứt phiền não, vọng thấy Báo thân Phật.  Người bực thượng trí vọng chứng Bồ-Đề vọng thấy Pháp thân Phật.  Người bực thượng thượng trí soi trở vào trong tròn lặng tỏ tánh Phật, chẳng đợi trừ tâm mà được trí Phật.  Biết ba thân và vạn pháp đều không thể chấp, không thể nói.  Ðó là tâm giải thoát viên thành đạo cả.  Kinh nói: Phật chẳng thuyết pháp, chẳng độ chúng sanh, chẳng chứng Bồ-Đề là nghĩa thế.
Chúng sanh tạo nghiệp.  Nghiệp chẳng tạo chúng sanh.  Đời này tạo nghiệp, đời sau thọ báo, quyết định không sai.  Chỉ có bực chí nhơn nơi thân này chẳng tạo các nghiệp nên chẳng thọ báo.  Kinh nói: Chẳng tạo các nghiệp tự nhiên được Đạo, há chẳng đúng sao?  Người hay tạo nghiệp, nghiệp chẳng hay tạo người.  Người nếu tạo nghiệp, nghiệp và người cùng sanh.  Người nếu chẳng tạo nghiệp, nghiệp và người đều dứt.  Thế mới biết, nghiệp do người tạo, người theo nghiệp sanh.  Nếu người chẳng tạo nghiệp, thì nghiệp không theo mà sanh người.  Cũng như người hay hoằng đạo, mà đạo chẳng hay hoằng người. Phàm phu đời nay thường tạo nghiệp, vọng nói không báo, há phải không khổ đâu!  Nếu luận chí lý thì tâm trước tạo, tâm sau thọ báo thì sao thoát được!  
Nếu tâm trước chẳng tạo thì tâm sau chẳng thọ báo, thì lấy đâu vọng thấy nghiệp báo?  Kinh nói: Ai tin có Phật mà nói Phật có khổ hạnh, đó là tà kiến; nói Phật bị quả báo cây thương vàng và ăn lúa ngưạ, đó gọi là đức tin chẳng đủ, gọi là Nhất-xiển-đề.  Ai tỏ được pháp thánh thì gọi là thánh nhơn, tỏ pháp phàm thì gọi là phàm phu.  Chỉ có thể bỏ pháp phàm theo pháp thánh, là phàm phu thành thánh vậy. 
Thế gian ngu mê, chỉ muốn cầu làm thánh nhơn, mà chẳng tin cái tâm tỏ ngộ là thánh nhơn.  Kinh nói: Những kẻ không trí đừng cho nghe kinh này.  Kinh nói: Tâm là pháp.  Người không trí chẳng tin tâm tỏ ngộ pháp trở thành thánh nhơn; nên chỉ muốn tìm cầu bên ngoài, ngưỡng mộ hình tượng màu sắc v.v... đều bị đọa vào tà kiến, tâm sanh cuồng loạn.  
Kinh nói: "Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Như Lai". 
Tám muôn bốn ngàn pháp môn đều do tâm khởi.  Nếu tướng tâm thanh tịnh như hư không liền thoát ly thân tâm vậy.  Tám muôn bốn ngàn phiền não là căn bịnh.  Phàm phu khi sống lại lo chết, khi no lại lo đói, đều gọi là đại mê hoặc. 
Cho nên thánh nhơn chẳng lo trước, chẳng nghĩ sau, không đắm hiện tại, niệm niệm đều qui Đạo.  
Nếu ai chưa ngộ được lý này, thì nên sớm tìm đường lành trời người, đừng để mất hết cả hai.
[ Ðêm ngồi kệ rằng: ]
Canh một ngồi ngay bắt kiết già,
Tinh thần lặng chiếu rỗng đồng hư.
Lũy kiếp đến nay không sanh điệt,
Ðâu cần sanh diệt diệt Vô Dư.
Vạn pháp chung qui đều như huyễn,
Bổn tâm tự rỗng đâu dụng trừ
Nếu biết tâm tánh phi hình tượng,
Lặng yên chẳng động tự chơn như.
 
Canh hai thần lắng chuyển suốt trong,
Chẳng khởi ước mơ, chỉ một lòng.
Sum la vạn tượng, đều qui Đạo,
Há chấp có không để bịnh chung!
Các pháp bổn lai không Không có,
Phàm phu vọng tưởng luận cuồng ngông.
Nếu tâm chẳng khởi sanh hai pháp,
Còn nói làm chi thánh khác phàm.
 
Canh ba lòng lặng tợ hư không,
Trùm khắp mười phương đều suốt thông.
Núi sông gành đá không sao chướng,
Hằng sa thế giới sẵn ở trong.
Thế giới chơn như cùng bổn tánh,
Cũng không không tánh tức dung thông.
Phải đâu chư Phật là như thế,
Hữu tình muôn loại thảy đều đồng.
 
Canh tư không diệt cũng không sanh,
Hư không pháp giới đẳng bình như nhau.
Ðến khi khởi diệt được nào,
Có không sáng tối làm sao tỏ tường!
Không thấy là cái thấy Thế Tôn,
Không tên không được là tên Phật mình.
Ai có tỏ ngộ biết liền,
Chúng sanh mê muội còn nguyên đui mù.
 
Canh năm Bát Nhã chiếu vô biên,
Một niệm chẳng khởi ba ngàn suốt qua.
Chơn như bình đẳng muốn thấy là...
Tịnh tâm không loạn trước mắt ta hiện liền.
Ðạo mầu tâm khó suy lường,
Chớ nên tìm kiếm cho thêm mệt thần.
Nếu hay vô niệm là chơn,
Tìm cầu càng cách hết đường thấy nghe. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.1/7/2014.