Monday 30 July 2012

Nói xấu người khác: Những hậu quả & cách chuyển hóa.

Nguyên tác: Ni sư THUBTEN CHODRON

Tôi nguyện không nói lỗi lầm của người khác”…Trong truyền thống Phật giáo, đây là một trong những lời nguyện của Bồ tát. Đối với những vị tu sĩ thọ Cụ túc giới, một nguyên tắc tương tự được đề cập đến trong lời phát nguyện là không nói lời phỉ báng. Điều này cũng được nhắc đến trong lời khuyên của Đức Phật đối với tất cả mọi người để tránh 10 bất thiện nghiệp, đó là bất thiện nghiệp thứ năm: nói những lời gây bất hòa, chia rẽ.
Nhiều người có thói quen ưa nói lỗi lầm của người khác. Và đôi khi chính họ không nhận thấy thói quen ấy và chỉ nhận diện được nó sau khi đã nói xong. Vậy thì động cơ ở đằng sau việc nói lỗi lầm của người khác, đằng sau xu hướng muốn hạ thấp người khác là gì? Một trong số những minh sư của tôi, ngài Ngawang Dhargye đã từng nói: “Quý vị ngồi lại với nhau và nói về lỗi lầm của một người khác, về những việc làm sai trái của người đó. Thế rồi quý vị tiếp tục thảo luận về những sai phạm và những phẩm chất tiêu cực của người khác, bởi vì quý vị tự thừa nhận với nhau rằng quý vị là những người tốt nhất trên thế giới”.
Khi tôi nhìn sâu vào bên trong, tôi nhận thấy rằng ngài Ngawang Dhargye đã nói đúng. Bị nung nấu bởi cảm giác bất an, tôi đã nghĩ sai rằng nếu người khác sai, xấu, đầy khuyết điểm, theo phép so sánh, thì tôi phải là người đúng, tốt và có năng lực. Chiến thuật hạ nhục người khác để tạo dựng lòng tự trọng của mình theo cách này rất khó có kết quả.
Lúc chúng ta tức giận người khác cũng là lúc chúng ta thường nói xấu họ. Trong trường hợp này chúng ta có thể nói lỗi của người khác vì một vài nguyên do khác nhau. Đôi khi chúng ta nói xấu người khác để kéo mọi người đứng về phía mình. Chúng ta nghĩ rằng, nếu ta kể cho mọi người nghe về sự tranh luận giữa ta với anh A rồi thuyết phục mọi người rằng anh A sai và mình đúng. Như thế thì mọi người sẽ đứng về phía chúng ta. Chính vì ý nghĩ rằng: “Nếu mọi người nghĩ mình đúng thì chắc hẳn là mình đúng”. Việc tự nghĩ rằng mình đúng như thế ấy là một việc làm kém cõi trong khi chúng ta không chịu dành thời gian để đánh giá một cách trung thực đối với những việc làm và động cơ của chúng ta.
Có khi chúng ta nói xấu người khác vì chúng ta ganh ghét họ. Chúng ta muốn được mọi người tôn trọng và đánh giá cao như người kia vậy. Từ trong sâu thẳm chúng ta nghĩ rằng: “Nếu mọi người thấy những phẩm chất xấu của người mà mình nghĩ là tốt hơn mình thì thay vì tôn trọng và giúp đỡ người đó, họ sẽ khen ngợi và hỗ trợ mình”. Chiêu bài mà chúng ta dùng để giành lấy sự tôn trọng và đánh giá cao của người khác theo cách này có rất khó mang lại hiệu quả.
Nói xấu người khác đem đến những hậu quả gì? Trước hết, chúng ta sẽ được biết đến như là một người thường gây ra sự bất hòa. Người ta sẽ không muốn tâm sự với chúng ta vì họ sợ là chúng ta sẽ nói với người khác, thêm thắt những lời đánh giá của ta khiến cho họ bị xem là không tốt. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi nhận thấy rằng người nào hay nói xấu người khác với tôi thì chắc hẳn họ sẽ đi nói xấu tôi với người khác. Hay nói cách khác, tôi không tin tưởng những ai thường hay phê bình người khác.
Thứ hai, chúng ta phải đối mặt với người bị chúng ta nói xấu khi họ phát hiện ra những gì chúng ta đã nói, và phiền phức hơn là lúc họ nghe được những gì chúng ta đã nói xấu về họ thì những điều đó đã bị phóng đại lên nhiều lần. Người đó có thể nói với người khác về lỗi của mình để trả đũa.
Thứ ba, một số người có thể sẽ bị kích động khi nghe nói về lỗi của người khác. Chẳng hạn, nếu một người ở trong văn phòng hoặc trong nhà máy nói xấu sau lưng người khác, mọi người ở tại nơi làm việc có thể sẽ tức giận và công kích người đã bị nói xấu. Điều này có thể sẽ làm dấy lên việc nói xấu sau lưng người khác ở sở làm và gây ra tình trạng bè phái. Điều này gây tổn hại đến một môi trường làm việc hòa hợp.
Thứ tư, chính bản thân ta cũng không có hạnh phúc khi mình luôn phanh phui lỗi của người khác. Khi chúng ta tập trung vào những điểm tiêu cực, hoặc là những sai lầm, chính tâm của chúng ta cũng không có an vui. Những ý nghĩ rằng người này xấu, người kia không tốt,… thường không có lợi cho tinh thần của chúng ta.
Thứ năm, khi ta nói xấu người khác tức là chúng ta đã gây ra tác nhân để cho người khác nói xấu mình. Điều này có thể xuất hiện ngay trong đời này nếu người mà ta phê bình muốn hạ nhục mình, hoặc có thể xuất hiện trong tương lai khi mình bị người khác buộc tội một cách vô lối hoặc là bị vu oan. Khi chúng ta là người nghe những lời nói thô tục, chúng ta cần nhớ rằng đấy là kết quả từ hành động của chính chúng ta, chúng ta đã tạo ra nhân, nay đã đến lúc phải nhận quả. Chúng ta đã gây ra sự tiêu cực ở trong vũ trụ và trong tâm thức của mình, bây giờ nó trở lại với chúng ta. Không có lý do gì để giận hay buộc tội người khác khi chúng ta là người đã tạo ra nguyên nhân chính yếu đối với rắc rối của mình.
Tuy nhiên, có một số trường hợp có vẻ như là nói lỗi của người khác nhưng lại là cần thiết, nên nói. Mặc dù những trường hợp này rất giống với việc phê bình người khác, nhưng thực ra thì chúng không giống nhau. Điểm khác nhau ở đây là gì? Đấy chính là động cơ của ta. Nói lỗi của người khác thường là có ác tâm ở bên trong và thường bị thúc đẩy bởi động cơ ích kỷ. Bản ngã của ta muốn có được điều gì đó từ việc nói xấu người khác, nó muốn được tốt bằng cách hạ nhục người khác. Ngược lại, sự bàn thảo chính đáng về những lỗi lầm của người khác thường xuất phát từ sự quan tâm giúp đỡ và tâm thương yêu, chúng ta muốn làm rõ sự tình, ngăn chặn nguy hại, hoặc là muốn giúp đỡ. Chẳng hạn như khi chúng ta phải viết thư giới thiệu cho ai đó mà người ấy không được tốt lắm, chúng ta phải trung thực, phải đề cập đến những ưu điểm cũng như nhược điểm của anh ta để cho người chủ tương lai hoặc là chủ nhà của họ có thể quyết định xem người đó có thể làm những gì mà họ mong muốn hay không. Tương tự như vậy, chúng ta có thể phải báo trước về những thói quen của ai đó để cảnh báo những rắc rối có nguy cơ xảy ra. Trong cả hai trường hợp này, động cơ của ta là không phải để phê bình người khác, cũng không phải để thêm thắt những điều mà người đó không có. Chúng ta chỉ muốn đưa ra một lời diễn tả không có thành kiến về những gì chúng ta thấy mà thôi.
Đôi khi ta nghi ngờ rằng việc nhìn nhận của chúng ta về những tiêu cực của một ai đó có thể bị hạn chế, bị định kiến, cho nên ta nói với một người bạn mà người bạn đó không hề biết gì về người kia, nhưng người bạn đó có thể giúp ta nhìn thấy những khía cạnh khác. Điều này đem đến cho ta những ý tưởng, quan điểm có tính xây dựng, tích cực hơn và giúp cho ta biết cách để ứng xử với người kia. Người bạn của ta cũng có thể chỉ cho ta thấy những điểm nút của mình – những sự phản kháng và các vấn đề tế nhị – những điều mà ta đang phóng đại về điểm yếu kém của người khác, nhờ vậy mà ta có thể điều chỉnh cho phù hợp.
Có khi chúng ta không rõ về những việc người khác làm nên nhờ một người bạn – là bạn của mình và người đó – tư vấn để biết thêm về hoàn cảnh người đó, và từ đó đánh giá, ứng xử với họ một cách hợp lý. Hoặc là chúng ta phải tiếp xúc với một người mà mình nghi là họ có vấn đề, nên mình nhờ đến các chuyên gia tư vấn để biết cách ứng xử với người đó. Trong cả hai trường hợp này, chúng ta phải nói cho người bạn hoặc là chuyên gia nghe về những vấn đề, những việc không tốt của người khác, nhưng động cơ của mình là muốn giúp họ và muốn giải quyết sự khó khăn.
Trong một trường hợp khác, một người quen của mình có thể không biết là họ đang có hành vi gây tổn hại người khác hoặc là hành xử theo lối hạ nhục người khác. Để bảo vệ người ấy khỏi phải tai họa do sự thiếu sáng suốt của chính họ gây ra, chúng ta có thể nói cho họ biết rõ điều mà họ làm. Ở đây chúng ta nói không phải với giọng phê bình hay là thái độ xét nét mà nói với lòng thương yêu, nhằm chỉ ra lỗi lầm hoặc sai phạm của người đó để rồi anh ta có thể khắc phục.
Chúng ta thường có thói quen nói lỗi của người khác. Để từ bỏ thói quen này thì chúng ta phải bắt đầu từ việc điều chỉnh thói quen đánh giá người khác. Thay vì đánh giá, phê bình người khác, chúng ta hãy lưu tâm đến những phẩm chất tốt và sự tử tế của người khác. Chúng ta cần phải rèn luyên tâm của mình, chỉ nhìn những điểm tốt, những điều tích cực của người khác. Rèn luyện như thế thì sẽ tạo nên sự khác biệt giữa niềm hạnh phúc, cởi mở và thương yêu của ta với sự buồn khổ, khó gần và khắt khe.
Chúng ta cần phải cố gắng để trau dồi thói quen chú ý vào những điều tốt đẹp, đáng yêu, đáng quý ở nơi người khác. Nếu chúng ta để ý những thứ đó thì chúng ta sẽ không lưu tâm đến những lỗi lầm của họ. Thái độ vui vẻ và lời nói bao dung xuất phát từ việc này sẽ cải thiện những người xung quanh và sẽ nuôi lớn hạnh phúc, sự mãn nguyện và tình thương yêu ở trong ta. Vì thế, chất lượng cuộc sống của ta tùy thuộc vào việc chúng ta tìm thấy lỗi lầm với kinh nghiệm của mình hay là thấy những gì tốt đẹp ở bên trong nó.
Khi chúng ta nhìn thấy lỗi lầm của người khác là chúng ta bỏ lỡ cơ hội để thương yêu. Nó cũng có nghĩa là chúng ta không có khả năng để nuôi dưỡng bản thân một cách hợp lý với những sự hiểu biết chân tình khi chúng ta đem vào tâm mình những độc tố. Khi chúng ta có thói quen xăm soi lỗi của người khác thì chúng ta cũng có xu hướng chỉ nhìn thấy những khuyết điểm, những lỗi lầm của bản thân. Điều này có thể đưa chúng ta đến việc làm giảm giá trị toàn bộ cuộc sống của mình. Thật là bi thảm nếu chúng ta bỏ qua những điều quý giá và cơ hội trong cuộc sống của mình, không nhìn thấy khả năng thành Phật trong bản thân mình. Vì thế, chúng ta phải chấp nhận chính mình như những gì mình đang có trong hiện tại, đồng thời chúng ta cố gắng để trở nên những con người tốt hơn trong tương lai. Nói vậy không có nghĩa là chúng ta làm ngơ trước những lỗi lầm của mình, mà là chúng ta không quá miệt thị về chúng. Chúng ta mừng vì mình được làm người, tự tin về khả năng của mình và tự tin về những giá trị chân thực mà chúng ta đã gầy dựng từ trước đến nay.
Mọi người đều muốn được thương yêu – muốn được mọi người chú ý và thừa nhận những khía cạnh tích cực của bản thân, muốn được quan tâm và tôn trọng. Hầu hết chúng ta đều không muốn bị đánh giá, bị phê bình và từ chối. Việc trau dồi thói quen nhìn thấy những điều tốt đẹp của bản thân và của người khác mà có thể đem lại cho mình và người niềm hạnh phúc, nó cho phép chúng ta cảm nhận và mở rộng tình thương yêu. Từ bỏ thói quen nhìn thấy lỗi lầm sẽ giảm thiểu sự đau khổ cho mình và người. Vấn đề này nên được xem là trọng tâm trong lộ trình tâm linh của chúng ta. Chính vì lý do này mà đức Dalai Lama đã nói: “Tôn giáo của tôi là lòng tốt”. Chúng ta có thể vẫn thấy những điều chưa hoàn thiện của mình và của người khác, nhưng tâm chúng ta hiền dịu hơn, biết chấp nhận và rộng lượng hơn.
Đối lập với việc nói xấu người khác là nói với sự hiểu biết và thương yêu. Những ai đang đi trên lộ trình tâm linh và những ai muốn sống hòa hợp với người khác thì việc phát ngôn với sự hiểu biết và thương yêu là điều rất quan trọng. Khi chúng ta nhìn vào những phẩm chất tốt của người khác, chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Việc thừa nhận những phẩm chất tốt của người khác khiến cho lòng mình cảm thấy hạnh phúc, nó còn tạo ra bầu không khí hài hòa và đem đến cho người khác thông tin phản hồi hữu ích.
Khen ngợi người khác là một việc mà chúng ta cần phải thực tập trong quá trình tu tập của mình. Nếu chúng ta thường nghĩ đến những tài năng, những phẩm chất tốt của người khác thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn và người khác cũng vậy. Chúng ta sẽ tạo được mối quan hệ tốt đẹp với người khác, và gia đình của chúng ta, môi trường làm việc và hoàn cảnh sống của chúng ta sẽ hòa hợp hơn. Chúng ta gieo những hạt giống từ những hành vi tích cực ấy ở trong tâm thức của mình, chúng ta sẽ tạo nhân duyên cho những mối quan hệ hòa ái và cho sự thành tựu những mục đích tâm linh cũng như những mục đích trong cuộc sống đời thường.
Ni sư Thubten Chodron (theo Pháp Vân.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI  PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).31/7/2012. )
XUẤT GIA LÀ XUẤT CÁI GÌ

Sáng tác: Hòa Thượng Tuyên Hóa

Đức Phật tuy là một vị Thái Tử nước Ấn Độ nhưng đối với phú quí thế gian Ngài lại sinh lòng nhàm chán rất sâu đậm, nên Ngài muốn bỏ ngôi vua để xuất gia tu Đạo. Ngài cũng muốn là cho tất cả chúng sinh biết rằng tất cả mọi pháp của thế gian đều là vọng tưởng.

Thế giới nầy do đâu mà thành ? Là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành và trong tương lai thì cũng sẽ do vọng tưởng của chúng sinh mà tiêu hoại, cho nên có câu: Như thị nhân, như thị quả . (Hễ có nhân thì có quả).

Ở trên thế gian, mọi thứ đều là vô thường biến loạn. Bồ Tát nhàm chán pháp thế gian, Phật lại càng xa lánh pháp thế gian hơn nữa. Ngài không sinh lòng nhiễm ô chấp trước pháp đó. Ngài vĩnh viễn đoạn tuyệt lòng tham ái, dục vọng thế gian. Điều mà người đời tham thì Phật không tham, điều mà người đời ưa thích thì Phật không ưa thích, bởi vì Ngài không có tham ái cho nên Ngài không có phiền não.

Phiền não mà chúng ta có bây giờ là do đâu mà sinh ra ?. Là do tham với ái sinh ra ! Nếu mình không tham thì không có lòng ích kỷ, nếu không có lòng ích kỷ thì mình không có phiền não.

Tại sao phải tham ?. Tại vì mình bị dục niệm chi phối, khiến cho mình phát sinh ra lòng tham ái mà không thể nào thỏa mãn được thì sẽ sinh ra phiền não; có phiền não thì có điên đảo; có điên đảo thì có ô nhiễm. Bây giờ mình tu hạnh thanh tịnh tức là phải làm sao để diệt trừ tất cả mọi thứ ô nhiễm.

Phật lúc nào cũng tìm cách làm lợi ích cho chúng sinh. Lúc ở trong Vương cung thì Phật không tham trước mọi thứ vinh hoa phú quí; lúc xuất gia thì Ngài dẹp bỏ hết những oai nghi của người thế tục, không cùng người khác đấu tranh biện luận, cho nên Ngài đắc được Vô Tranh Tam Muội :

Tranh thị thắng phụ tâm,
Dữ Đạo tương vi bội,
Tiện sinh tứ tướng tâm,
Như hà đắc “Tam Muội ?“.

Dịch là :

Tranh là tâm hơn thua,
Đi ngược lại với Đạo,
Khiến sinh ra bốn tướng;
Làm sao được “Tam Muội“.

Phật an trụ nơi pháp Không Tranh. Ngài hoàn thành hạnh nguyện đã lập khi xưa, đầy đủ vô lượng công đức. Ngài dùng quang minh của Đại Trí huệ để diệt trừ tất cả si mê trên thế gian, phá tan tất cả những sự đen tối vô minh. Ngài là phước điền vô thượng của chúng sinh ở thế gian, lúc nào cũng vì chúng sinh mà tán thán công đức của mười phương ba đời chư Phật, khiến chúng sinh được trồng phước, cầu huệ và vun bồi tất cả thiện căn nơi Tam Bảo. Phật dùng con mắt trí huệ thấy được tất cả đạo lý chân thật, rồi lại vì chúng sinh mà tán thán công đức xuất gia.

Xuất gia“ là xuất “Tam giới gia“ (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) và cũng là xuất Thế tục gia.“Thế tục gia“ là nhà của người đời, ra khỏi nhà người rồi tức là mình không còn quan niệm như người đời nữa.

Xuất gia“ cũng có nghĩa là xuất Phiền não gia. Chúng ta, mỗi người trên thế gian nầy, đều đang ở trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận thì mình cảm thấy rằng ăn bất cứ món ngon vật lạ nào cũng đều không có mùi vị gì cả, cho nên khi mình xuất gia là muốn xuất ra khỏi nhà phiền não.

Xuất gia“ còn có nghĩa là xuất Vô minh gia. “Vô minh“ tức là không có hiểu biết rõ ràng, chuyện gì cũng không thấu suốt, làm chuyện gì cũng điên đảo cả. Do đó phải ra khỏi cái nhà vô minh.

Xuất gia cũng có nhiều động cơ khác nhau. Như ở Trung Hoa, có nhiều người vì lớn tuổi rồi mà không có thân thích để nhờ cậy, cho nên họ xuất gia để về sau có người săn sóc cho dễ dàng. Có kẻ vì hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc vì phạm pháp, giết người nên muốn đổi danh đổi tánh, đổi mặt đổi mày, làm người xuất gia để luật vua không tầm nữa. Có kẻ thì vì khó nuôi nên gia đình quyết định đem cho nhà chùa. Đó là ba loại người xuất gia, có tu hành được hay không thì chưa biết; có thể họ tu được, mà có thể họ chẳng tu được!

Lại có kẻ chân chánh vì vấn đề sinh tử, phát tâm Bồ đề mà xuất gia. Hạng xuất gia như vậy nếu họ không bao giờ thối tâm thì đúng là chân chánh tu hành. Họ vì đau khổ nghĩ đến vấn đề sinh tử mà phát tâm đại Bồ đề, y chiếu theo lời Phật dạy mà tu hành.

Cho nên xuất gia có nhiều tâm trạng và hoàn cảnh khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi thì đừng có phạm lỗi lầm mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa mọi tội lỗi, khôi phục lại tâm thanh tịnh bản hữu của chính mình, vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam giới, ra khỏi nhà phiền não, ra khỏi nhà vô minh, ra khỏi nhà thế tục.
..................................................................

Còn vấn đề vì sao làm người nam, vì sao làm người nữ, thì đó là do ưa thích mà ra. Hễ ai có ý niệm thích làm con gái thì sẽ làm con gái, nếu có tư tưởng thích làm đàn ông thì sau nầy sẽ làm đàn ông. Đó là nghiệp báo mà tự mình tạo ra, tự mình chịu quả, tùy theo nghiệp mà chuyển hóa. Song cũng có người có khả năng chi phối nghiệp quả của chính họ. Họ không bị cảnh giới xoay chuyển, mà trái lại, họ có thể chuyển hóa Càn Khôn, làm cho nghiệp quả cải biến và làm chủ được chính họ.

Nếu mình tùy theo nghiệp thì mình không có năng lực khống chế nó. Nếu mình biết chuyển nghiệp, tức là mình có năng lực khống chế nó. Tại sao Bồ Tát lại phát nguyện ? Là để khống chế giòng lưu chuyển của nghiệp. Các Ngài dùng đại nguyện để mà trụ cột, do đó mới xoay chuyển được nghiệp. Cho nên nói rằng các Ngài có thể chuyển nghiệp mà nghiệp không chuyển được các Ngài; các Ngài có thể chuyển cảnh giới mà cảnh giới không chuyển được các Ngài; các Ngài có thể chuyển quả báo mà quả báo không chuyển được các Ngài !.

Thật ra, có thể khống chế được nghiệp, song phải có trí huệ. Nếu mình chỉ là thứ si mê, vô minh, chuyên làm chuyện điên đảo thì không thể nào khống chế được nó.

Hỏi các vị rằng :“Vì sao các vị muốn làm chuyện điên đảo?“.
Các vị đáp: “Không biết“. Vì không biết cho nên cứ chạy theo nghiệp !.

Bởi vậy cho nên không phải là đàn bà không có khả năng thành Phật, cũng không phải rằng Phật là dương mà quỉ là âm. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng Phật là thuần dương, quỉ là thuần âm và con người là nửa dương nửa âm !.

Không phải nam là hoàn toàn dương và nữ là hoàn toàn âm đâu ! Nếu quả thật người nam là hoàn toàn dương thì chẳng cần kết hôn với người nữ làm gì và nếu người nữ là hoàn toàn âm thì cũng không cần kết hôn với người nam làm gì. Bởi vì, sau khi kết hôn rồi thì sẽ biến thành một nửa âm một nửa dương, không còn thuần âm hay thuần dương nữa.

Tu hành mà tu đến chỗ vô lậu, tức là tới chỗ thuần dương. Nam là dương nhưng trong dương có âm, Nữ là âm nhưng trong âm có dương. Do đó, sau khi kết hôn thì có năng lực sinh con đẻ cái là vì âm dương kết hợp mới biến hóa được. Đó là cảnh giới tương đối.

Không phải rằng nam là hoàn toàn dương hay nữ nhất định là hoàn toàn âm. Trong kinh Dịch có nói rằng :“Nhứt âm nhứt dương, vị chi Đạo. Thiên âm, thiên dương, vị chi tật“.

“Thiên“ nghĩa là cực đoan, hễ thiên âm hay thiên dương thì có bịnh tật, tức là sai lầm rồi. Không có cực đoan thì gọi là Trung, không có biến cải thì gọi là Dung; đó là đạo lý Trung Dung. Do đó, người nam đừng cho rằng mình là hoàn toàn dương, vì nếu thế thì tại sao lại muốn kết hôn ?. Bởi người nam khi kết hôn thì trong dương có âm và người nữ khi kết hôn rồi thì trong âm lại có dương; đó là vấn đề âm dương trao đổi.

Bây giờ thế nào gọi là “Người“ ?. Người chỉ là cái tên giả. Trước kia tôi đã từng nói nhiều lần rằng lúc ban đầu chữ“người“ được đặt ra để chỉ con người. Nếu lúc đầu dùng chữ “chó“, thì bây giờ mình đã gọi con người là “chó“ rồi !. Cho nên dùng lâu thì thành thói quen, chữ “người“ đó chỉ là một cái tên thôi.

Bây giờ đến câu “Nhất âm nhất dương chi vị Nhân“ nghĩa là một âm một dương là người. Trong dương có âm, trong âm có dương, trong mùa Đông thì có ẩn tàng mùa Hạ, cũng như trong mùa Hạ cũng có ẩn tàng mùa Đông. Trong mùa Đông, tới một lúc nào cũng có sanh ra dương (Đông chí) và trong mùa Hạ, tới một lúc nào đó sẽ sinh ra âm (Hạ chí). Một năm là sự biến hóa của âm dương. Âm mà tới cực điểm thì thành dương, dương mà tới cực điểm thì trở thành âm. Vì vậy, con người sinh ra là dương, chết đi là âm, cũng đồng một đạo lý đó.

Chúng ta gọi mình là “con người“, nhưng lúc ban đầu nếu gọi con người là “con gà“, thì chữ “gà“ đó gọi quen rồi sẽ không ai cho là kỳ quái nữa. Cũng như đặt tên một đứa bé la ̀“chó con“ khi nó lớn lên rồi, nếu ai gọi “chó con“ thì nó biết đó là gọi tên nó. Đó chỉ là cái tên và chỉ là cái tên giả thôi. Người họ Trương thì nói mình là họ Trương. Hỏi anh ta vì sao họ là Trương; thì đáp rằng bởi vì cha họ là Trương. Hỏi ông Nội họ là gì; thì đáp rằng cũng họ Trương. Lại hỏi ông cố, ông tằng, ông tổ họ là gì, ở đâu lại; truy ra tận cùng thì anh chàng đó cũng không biết được tổ tiên của mình là họ gì nữa, bởi vì cái tên giả mà thôi !.

Do đó, đừng nên chấp trước, đừng nói rằng tôi như thế nọ hoặc tôi như thế kia. Bởi vì nói gì rồi cũng có cái “tôi“ trong đó, tức là có lòng ích kỷ. Đã có ích kỷ thì có phiền não. Nếu như không cái “tôi“ thì không có lòng ích kỷ, thế thì còn có gì phiền hà đâu ?

Con người vì sao mà nóng giận ? Là vì cho rằng người khác đối với mình không tốt, khinh mình, xử tệ với mình, rồi sinh ra nóng giận. Nhưng nếu họ làm gì có lợi cho mình thì mình lại vui vẻ,sung sướng. Đó điều là bị vô minh làm cho mình động tâm vậy!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).31/7/2012.


Vì Sao Cần Phải Niệm Phật?


Hòa Thượng Thích Tuyên Hóa

-o0o-

Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung.

Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Ðộ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!

Vì sao chúng ta cần phải vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc? Là vì khi Ðức Phật A Di Ðà ở nhân địa tu hành làm thầy tỳ kheo, Ngài đã từng phát bốn mươi tám đại nguyện mà trong đó có nói rằng:

"Sau khi tôi thành Phật, nếu trong mười phương có chúng sanh nào niệm 'A-Di-Ðà Phật,' danh hiệu của tôi, thì tôi nhất định sẽ tiếp dẫn người đó tới thế giới của tôi, và trong tương lai, vị ấy sẽ được thành Phật. Ở thế giới của tôi, ai ai cũng đều hóa sanh từ hoa sen, nên thân thể của họ hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm."

Bởi Ðức Phật A Di Ðà đã phát nguyện lớn như vậy, nên tất cả chúng sanh đều nên tu Pháp-môn Niệm Phật, một pháp-môn rất hợp với căn cơ của mọi người và cũng rất dễ tu. Trong Kinh còn dạy:

Ðời Mạt Pháp, một ức người tu hành hiếm khi có được một người đắc Ðạo; duy có tu Pháp-môn Niệm Phật là ai cũng được độ thoát.

Ý nói rằng trong số một ức người tu hành, hiếm hoi lắm mới có một người đắc Ðạo; chỉ có Pháp-môn Niệm Phật là có thể giúp mọi người vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và do đó được độ thoát. Ðặc biệt là trong thời Mạt Pháp hiện tại, niệm Phật chính là pháp môn hợp với căn cơ của mọi người nhất.

Song, Âu Mỹ hiện nay không phải đang ở vào thời đại Mạt Pháp mà có thể nói là đang ở vào thời đại Chánh Pháp. Vì sao nói Âu Mỹ đang ở vào thời đại Chánh Pháp? Vì Phật Pháp vừa mới được truyền tới các nước ở phương Tây và hiện đang vào lúc hưng thịnh. Do đó, hiện tại ở Mỹ quốc có rất nhiều người rất thích tham Thiền, tịnh tọa; đó cũng là biểu hiện của Chánh Pháp.

Thời Chánh Pháp, ai cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật. Thời Mạt Pháp mọi người cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật, ở bất cứ thời đại nào mình cũng có thể tu pháp môn này. Nếu như có người đối với các pháp môn khác không thể dụng công được, thì nên tu Pháp Niệm Phật. Thiền-sư Vĩnh Minh Diên Thọ có nói rằng:

Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ,

Do như đái giác hổ.

(Có Thiền, có Tịnh-Ðộ,

Như hổ mọc thêm sừng.)

Những người vừa tham Thiền và vừa niệm Phật thì giống như cọp mà mọc thêm sừng, oai thế vô cùng. Họ có thể:

Hiện thế vi nhân sư,

Tương lai tác Phật Tổ.

(Ðời này làm Thầy mọi người,

Tương lai thành Phật, làm Tổ.)

Do đó, người chân chánh tham Thiền tức là người chân chánh niệm Phật, người chân chánh niệm Phật cũng chính là người chân chánh tham Thiền. Nói sâu một chút nữa, người chân chánh trì Giới chính là người chân chánh tham Thiền, và người chân chánh tham Thiền cũng là người chân chánh trì Giới. Thế thì, người chân chánh giảng Kinh thuyết Pháp, tức là người thật sự vì giảng Kinh mà giảng Kinh, thì cũng là người chân chánh tham Thiền!

Trong Chứng Ðạo Ca, Ðại-sư Vĩnh Gia có nói rằng:

Tông diệc thông, Thuyết diệc thông,

Ðịnh, Huệ viên minh bất trệ không.

(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông,

Ðịnh, Huệ sáng tròn chẳng trệ không.)

Vậy, người vừa biết tham Thiền lại vừa biết giảng Kinh là người thông suốt cả tông lẫn thuyết. Nói sâu một chút nữa, thì người chân chánh trì Chú, chân chánh tu Mật Tông, cũng là người chân chánh tham Thiền. Vì lẽ đó, tuy nói Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh là năm pháp môn, nhưng nếu xét đến ngọn nguồn thì tất cả chỉ là một chứ không phải là sai khác. Nếu giảng sâu thêm chút nữa thì ngay cả "một" cũng chẳng còn, thì làm gì mà có "năm" được chứ? Người chân chánh học Phật Pháp cần phải hiểu điểm này cho rõ ràng.

Những kẻ có khuynh hướng phân chia tông phái thì cho rằng Pháp-môn Niệm Phật cao nhất, còn Tham Thiền là không đúng; cũng có người nói Tham Thiền là pháp cao nhất, còn Niệm Phật là sai lầm, những ai có quan niệm như thế đều là những người chưa hiểu rõ Phật Pháp. Phải biết rằng:

Nhất thiết giai thị Phật Pháp, giai bất khả đắc.

(Tất cả đều là Phật Pháp, đều không thể chứng đắc.)

Ðã "không có pháp gì có thể chứng đắc được," hà tất phải chấp trước thêm những thứ không nên chấp trước, đương không có chuyện lại tìm thêm chuyện, hoặc gây ra chuyện.

Nếu các bạn thật sự hiểu rõ pháp, thì "không có pháp gì có thể chứng đắc được." Song le, đối với những ai không hiểu Phật Pháp mà mình nói rằng cái gì cũng hoàn toàn không có cả thì họ sẽ thất vọng. Do đó, Ðức Phật dạy Quyền Pháp (Giáo pháp quyền biến, tạm thời) để đưa về Thực Pháp (Pháp chân thật) và thuyết giảng Quyền Trí để dẫn về Thực Trí.

Vậy, Thực Trí là gì? Thực Trí là một "quy vô sở đắc," trở về lại chỗ không chứng đắc. Thứ tướng chân thật, không có hình tướng, nhưng cũng chẳng có "không có hình tướng," mới chính là trí huệ chân thật vậy!

Trở lại
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ). 31/7/2012.

Sunday 29 July 2012

Phật tử Việt Nam có ngày truyền thống báo hiếu vào rằm tháng bảy hằng năm. Đó là một ngày kết thúc một mùa hạ tu tập trí tuệ và từ bi vô ngã của chư Tăng và Phật tử. Chúng tôi gọi ngày hiếu truyền thống ấy là ngày đẹp nhất của nghĩa sống, tình người. Bởi vì trong ngày hôm ấy con tim nói lên tiếng nói đích thực của nó, tiếng nói mà trần gian mong tìm. Thật là ý nghĩa, mùa giải thoát của chư Tăng lại kết thúc với sự mở đầu của tiếng nói ấy. Bước đầu tiên đi ra khỏi phiền não lại là bước đầu tiên đi vào tình người và nghĩa sống thiêng liêng của con người.
Như con tim nắm giữ sinh mệnh một cơ thể, thì người ta nắm giữ sinh mệnh của nghĩa sống, là linh hồn của văn hóa nhân loại. Có thể nào có một nền văn hóa con người mà không ca ngợi tình người mở đầu là tình mẹ con, cha con?
Ở nước ta, hai dòng văn học la dân gian và trí thức đều nhiệt tình ca ngợi hiếu đức. Người mẹ đã nuôi dưỡng, ấp ủ con từ đầu nguồn cuộc sống bằng cả tinh thần và thể chất của mình, với sự chia xẻ trách nhiệm ân cần dạy dỗ của người cha. Người mẹ đã truyền cho con những dòng sữa ngọt ngào với trọn tình yêu thương: đã mớm cháo cơm với tâm tư trìu mến, cho con từng cử chỉ âu yếm, từng ánh mắt khích lệ, cho con những lời ru tình người ướp vào tâm hồn trong trắng từ thuở còn nằm nôi, đã dìu dắt từng bước đi, từng ngày học cho đến khi khôn lớn. Hầu như toàn bộ hành trang vào đời của người con là thuộc về bố mẹ. Tình sâu nghĩa nặng đó đã được nhân dân ta cảm nhận sâu sắc và đã hát thành những lời ca dao của truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Như là:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người ta phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
v.v…
Đó là gia tài tình người mà bố mẹ đã trao cho người con từ đầu nguồn cuộc sống
Các ý thức về các mối liên hệ tình người khác đều nảy mầm từ tình phụ tử và mẫu tử.. Các ý thức về trách nhiệm, bổn phận, lương tâm, vị tha và công bằng hẳn là được đánh thức dậy từ thái độ biết ơn, đáp đền các ân nghĩa của cuộc sống mà khởi đầu là đáp đền ân nghĩa mẹ cha. Lớn lên, khi nhận thức và kinh nghiệm sống trưởng thành, người con nhận rõ ra tình thương cha mẹ không phải chỉ là ân nghĩa lớn mà còn là lẽ sống của mình. Ca dao lại hát:
Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Còn cha còn mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đàn đứt dây.
Vì ân nghĩa mẹ cha là lẽ sống, là cao quý, thiêng liêng, nên nhân dân Việt Nam xem việc hiếu thảo có giá trị ngang bằng với giải thoát tự thân:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha, kính mẹ cũng là đi tu.
Hàng trí thức dân tộc cũng đề cao hiếu thảo như thi hào Nguyễn Du và nhà trí sĩ Nguyễn Trãi. Thi hào Nguyễn Du đã đặt nàng Kiều trước một sự chọn lựa nghĩa sống giữa lòng hiếu kính đối với mẹ cha và cuộc đời tình cảm lứa đôi nhiều hứa hẹn hạnh phúc của nàng, thành hôn với Kim Trọng. Nàng đã quyết định vì chữ hiếu mà bán mình chuộc cha, một chọn lựa nói lên nét truyền thống đặt nặng hiếu đức của dân tộc. Nguyễn Trãi thì giáo dục tình người mở đầu là đạo hiếu rằng:
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc,
Xem cháo. cơm, thang thuốc mọi bề.
Ra vào thăm hỏi thường khi,
Người đà vô sự ta thì an tâm.
Truyền thống tình người, đạo đức của dân tộc Việt Nam là thế. Phương chi khi Phật giáo, với giáo lý đầy từ bi, nhân ái, xem trọng chữ hiếu đặt chân lên xứ sở nầy, liền được nhân dân ta chấp nhận, và đã chung sống gắn bó với dân tộc trên suốt cuộc hành trình gần hai mươi thế kỷ.
Phật giáo đã dạy những gì về hiếu đạo?
- Kinh Phân Biệt (Bắc tạng) ghi:
“Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên, người muốn học đạo không thể không tinh tấn hiếu với mẹ cha.
- Kinh Nhẫn Nhục ghi:
“Điều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác tối cao là bất hiếu”.
- Kinh Tăng Chi I, trang 75, ghi:
“Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được: Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy suốt đời, vứa đấm bóp vừa hầu hạ… cũng chưa làm đủ để đáp đền ơn mẹ cha”.
- Kinh Đảnh Lễ Sáu Phương, Trường Bộ I, gọi mối liên hệ giữa mẹ cha và con cái là mối liên hệ thiêng liêng đáng được tôn kính, đảnh lễ. Người con có bổn phận đáp đền bằng những việc làm thiết thực như:
- Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ khi cần.
- Chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc.
- Giữ gìn gia phong, danh dự gia đình.
- Giữ gìn tài sản của cha mẹ.
- Phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.
- Lo tang lễ cha mẹ đúng phong tục, khi cha mẹ mất.
- Khích lệ và giới thiệu đạo giải thoát, chánh kiến đến cha mẹ.
Kinh Hạnh Phúc (Nam tạng) ghi:
“Phụng dưỡng mẹ và cha là vận may tối thượng”
Truyền thống giáo lý Nam truyền và Bắc truyền đều xếp tội ác giết cha, giết mẹ vào năm tội lớn nhất đời gọi là năm “cực trọng tội” hay “ngũ nghịch tội”.
Như thế, tâm hiếu là tâm tu că? bản, từ đó các tâm thiện và tâm giải thoát phát triển, nhất là đối với hàng Phật tử tại gia.
Thật hiển nhiên rằng một người không hiếu kính đối với mẹ cha thì khó có thể là một người cư xử đầy tình người đối với những người khác, đối với nhân quần,xã hội. Hiếu hạnh rõ là đức hạnh đứng hàng đầu của những đức hạnh của con người.
Từ tâm hiếu thảo, tình người được giáo dục và nuôi dưỡng. Trong thể nghiệm đời sống hiện thực, tình người ấy thể hiện qua người bạn đời chí thiết gọi là tình, qua anh chị em ruột gọi là lễ, qua bà con, mọi người gọi là nghĩa và nhân, qua xứ sở gọi là trung. Cũng từ tình người đẹp đẽ ấy mà có tình cảm quốc tế và tình yêu cuộc sống. Khi tình cảm ấy biểu lộ ra hành vi để xây dựng tốt các mối tương giao xã hội, xây dựng an lạc, hạnh phúc cho gia đình, tập thể thì gọi là hành vi đạo đ?#7913;c. Nội dung của đạo đức đúng là tình người chân thật đó. Con suối tình người ấy chảy vào văn hóa, giáo dục tạo nên các nền văn hóa, giáo dục nhân bản. Trong nền văn hóa nhân bản nầy không có mâu thuẫn từ thực chất của hiếu, tình, trung, nghĩa, bởi vì thực chất của hiếu, tình, trung, nghĩa chỉ là cùng một tình người cao đẹp ấy. Người có mặt tâm hiếu, là có nhân, có tình, trung, nghĩa. Như tâm hiếu của Kiều chính là tấm lòng trinh bạch của nàng mà bụi bặm của mười lăm năm đoạn trườ?g cũng không thể làm hoen ố. Vì thế mà thi hào Nguyễn Du viết:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay.
Và, vì thế mà cụ Nguyễn Phi Khanh đã dạy tiên sinh Nguyễn Trãi khi theo chân Cụ khóc lóc trên đường Cụ bị áp tải ra Bắc Hà rằng:
“Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Mựa là cứ phải đi theo cha khóc lóc như đàn bà mới là hiếu sao”. (Nguyễn Trãi Toàn Tập, Hà Nội, 1976, tr. 14)
Ngày nay xã hội ta nói là “hiếu với dân, trung với nước”. Quan niệm như thế là có giá trị nhân bản hơn các giá trị có tính cách ước lệ khác về hiếu, trung, tình, nghĩa – cái giá trị ước lệ đẩy đưa con người trong nhiều trường hợp đến các mâu thuẫn bế tắc, để rồi kết thúc bằng các hình thức tự vận đầy bi thương.
Nay chúng ta thử tìm hiểu chữ hiếu trong Phật giáo đã có những cống hiến nào khác cho dân tộc ta, và mở ra những phương trời mới nào?
Về mặt ơn nghĩa mẹ cha, ngoài các công ơn mà xã hội ghi nhận, Phật giáo còn ghi nhận thêm một ơn nghĩa lớn khác: Cha mẹ đã đưa con vào đời, nhờ đó mà người con có nhân duyên học đạo, hiểu đạo và hành đạo giải thoát khổ.
Về mặt đáp đền, ngoài những trách nhiệm, bổn phận làm con mà người đời ghi nhận, Phật giáo còn ghi nhận thêm một trách nhiệm, bổn phận quan trọng khác: Giới thiệu Chánh pháp đến với mẹ cha, giúp mẹ cha đi ra khỏi hết mọi thứ khổ đau.
Đức Phật dạy:
“Những ai đền ơn cha mẹbằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ Kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam Bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam Bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến, cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha”.
(Tăng Chi I, tr. 75)
Như thế, ở đây hiếu hạnh có cùng hướng đi với giải thoát của chánh pháp.
Tại sao việc đem chánh kiến, chánh tín đến cho me,?cha lại có thể đáp đền ơn nghĩa nặng ấy?
Tại đây, Phật giáo mở ra một hướng nhận thức mới cho đời. Không ai có thể phủ nhận rằng mọi người đều có khát vọng hạnh phúc, và sống là đi tìm hạnh phúc tại trần gian.
Nhưng hầu như hạnh phúc luôn luôn ở ngoài tầm tay của con người. Trước cuộc biến dịch, vô thường, nỗi khổ của bệnh, già, chết vẫn còn đó. Người con không thể bằng các phương tiện vật chất mà có thể đem lại cho cha mẹ an vui và hạnh phúc, ngoại trừ Chánh pháp. Chỉ có Chánh pháp, trí tuệ mới giúp cha mẹ xa lìa tham, sân, si, tác nhân của mọi phiền não khổ đau. Chỉ có Chánh pháp chỉ rõ gốc của khổ đau là chính các niệm tưởng hữu ngã trong tâm mình để loại bỏ. Chỉ có Chánh pháp mới cống hiến cho cha mẹ một nếp sống đạo đức an trú vững chắc với giới đức, và tuệ đức, từng bước đi ra khỏi khổ đau và từng bước đi vào hạnh phúc của tâm hồn trong hiện tại và tại đây. Đem lại cho cha mẹ con đường vào hạnh phúc lâu dài như thế mới thật là chí hiếu. Hạnh phúc ấy là kết quả của nỗ lực loại trừ tâm chấp ngã, vị kỷ, đó là con đường sống vị tha, vô ngã, con đường sống hạnh phúc của tha nhân, gia đình và xã hội. Bằng con đường nầy, qua kinh nghiệm, con người sẽ khám phá ra rằng:
- Hạnh phúc là mục tiêu cao thượng ở đời.
- Con đường sống đạo đức là con đường dẫn tới hạnh phúc cho mình và người trong từng bước đi, hay chính đạo đức ấy là hạnh phúc.
- Hạnh phúc đồng nghĩa với vị tha vô ngã, do đó bổn phận trách nhiệm đối với hạnh phúc tự thân trở thành bổn phận, trách nhiệm đối với hạnh phúc của tha nhân, tập thể, nhân quần và xã hội. Phạm vi hoạt động vị tha càng lớn, càng đem lại nhiều hạnh phúc và hạnh phúc lâu dài. Khi lòng vị tha mở rộng đến mọi người thì bấy giờ hạnh phúc của ta chính là hạnh phúc của mọi người, và ngược lại hạnh phúc của mọi người chính là hạnh phúc của chính ta. Tại đây, không có mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể hay giữa tập thể với cá nhân.
Quan niệm về chữ Hiếu và tình Người như thế sẽ dẫn đến một thái độ sống của người Phật tử xem bổn phận đối với gia đình xã hội, quốc gia là bổn phận đối với tự thân và hạnh phúc của tự thân. Đây chính là điều mà các nhà đạo đức đang tìm đến. Cái nhìn từ bi vô ngã và trí tuệ vô ngã của Phật giáo như thế đã tiếp thêm sức sống cho con tim dân tộc và khơi nguồn thêm cho dòng thác nhân bản của dân tộc Việt Nam chảy mạnh vào nghĩa sống vô cùng.
Chúng ta có thể tạm ngưng ngang đây để kết luận rằng Phật giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam có chung một hướng nhìn của con tim mở đầu là lòng hiếu thảo. Hai thực thể lịch sử ấy sẽ có điều kiện để tiếp tục gắn bó suốt dòng lịch sử lâu dài.
Ngày nay, có nhiều ý kiến cho rằng con người đang đi vào thế kỷ của văn minh đạo đức và tình người, sau khi đã thể nghiệm các hậu quả đầy tác hại của hận thù, áp bức và hệ quả chiến tranh của chúng. Vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Aristote – một triết gia Hy Lạp đã nói:
“Hạnh phúc là sự pháp triển hoàn toàn đầy đủ các đ?#7913;c tính của con người” .
Đến thế kỷ mười bảy, Tây lịch, Spinoza – triết gia Do Thái – viết:
“Hạnh phúc là mục đích của mọi hành động …” (Ilid, tr. 228)
Banzeladze, một nhà đạo đức người Nga, 1973, viết:
“Vấn đề về lý tưởng tối cao và ý nghĩa của cuộc sống thực chất là vấn đề hạnh phúc”
Các quan niệm trên đều nhuốm màu nhân bản. Nhưng đấy cũng mới chỉ là những tư tưởng chưa phải là con đường thể nghiệm hạnh phúc trong hiện tại. Phật giáo, với toàn thể giáo lý nhằm đoạn tận khổ đau, là con đường sống từng bước dẫn đến hạnh phúc, đi từng bước đi hạnh phúc của tình người hướng đến vô hạn. Phật giáo hé mở cho thời đại thấy con đường đạo đức mà thời đại mong chờ. Điểm mong chờ thứ nhất là gốc người (nhân bản):
- Đức Phật khuyên con người “trở về nương tựa mình, nương tựa Pháp, không nương tựa một nơi nào khác” (Dhp, XII, tr. 4)
Điểm mong chờ thứ hai là tình thương:
- Đức Phật dạy, “Ta ra đời vì an lạc, lợi ích cho Chư Thiên và loài Người, vì lòng thương tưởng đời” (trong nhiều kinh)
Điểm mong chờ thứ ba là chỉ hướng sống đi vào hạnh phúc ngay trong hiện tại, tại đây:
Đức Phật đã chỉ rõ gốc của mọi phiền não, khổ đau là tham, sân và si. Mà tham, sân và si khởi dậy từ lòng chấp thủ các ngã tướng, nên con đường đi vào hạnh phúc là con đường dập tắt các ngã tướng. Kết quả đó con người có đủ điều kiện để thực hiện ngay trong hiện tại và tại đây. Con người hoàn toàn chịu trách nhiệm cho chính tự thân trong việc thực hiện con đường, mà không do một đấng thiêng liêng nào can thiệp vào.
Điểm mong chờ thứ tư là tôn trọng sự sống của mọi loài chúng sinh và xây dựng hòa bình, an lạc cho thế giới:
Pháp tu tập bố thí và trì giới của Phật giáo được xây dựng trên căn bản lòng từ bi, bảo vệ sự sống cho các loài hữu tình. Bàng bạc khắp kinh tạng Phật giáo, không có lời dạy nào của Đức Phật đi lệt ra ngoài mục tiêu ấy. Bài kệ tóm tắt về giáo lý Phật giáo nêu rõ mục đích ấy rằng:
Từ bỏ các điều ác,
Làm tất cả điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Là lời chư Phật dạy.
(Dhp. 183)
Từ bỏ các điều ác là ý nghĩa rời xa tham ái và sân hận, bởi động cơ của các hành động ác hại là tham ái, sân hận và si mê. Đây cũng là nội dung của đạo đức Phật giáo.
Làm tất cả điều lành là ý nghĩa xây dựng an lạc, hạnh phúc cho mình và mọi người, là nuôi dưỡng lòng không tham ái. lòng từ bi. Ở đây, đạo đức được biểu hiện ở cấp độ cao hơn, tích cực hơn.
Giữ tâm ý thanh tịnh là ý nghĩa thiết lập vững chắc an lạc, hạnh phúc, giải thoát cho tự thân và cho tha nhân. Đây là nội dung của định học và tuệ học của Phật giáo.
Nếu hiểu tình người, lòng nhân ái, vị tha, từ bi, hạnh phúc chân thật và trí tuệ là nội dung của đạo đức, thì toàn bộ giáo lý Phật giáo là một hệ thống đạo đức rất là nhân bản và rất là hiện thực.
Như thế Phật giáo là một con đường sống nhân bản đích thực. phát triển giá trị nhân bản đến vô hạn và toàn vẹn. Phật giáo không đi vào một hư tưởng nào. Giá trị nhân bản ấy cũng được nhân dân ta ca ngợi:
Dầu xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
(Truyện Kiều, Quan Âm Thị Kính va Ca dao Việt Nam)
Thương người như thể thương thân.
(Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi)
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
(Ca dao Việt Nam)
Chừng nào con người còn khát vọng hạnh phúc, chừng đó tình người và đạo đức nhân bản còn là giá trị chuẩn, và các giá trị khác phải xoay xung quanh nó; chừng đó giáo lý từ bi, vô ngã, vị tha của Phật giáo còn rực sáng ở đời, dựng xây niềm tin cho đời, và ngày Vu Lan – ngày hiếu – truyền thống phải là ngày rất đẹp, rất đáng trân trọng: điều thiện sẽ ngự trái tim, và trái tim có trí tuệ sẽ ngự trị vă? hóa trên trái đất.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/7/2012.
Trong tháng 7 âm lịch, đạo Phật không chỉ có ngày đại lễ “Vu lan” mà còn có lễ tiết lớn khác, đó là ngày “Địa tạng Bồ Tát thành đạo” vào ngày 30-7.
Ngày lễ này thường được gọi chung là “Địa Tạng Vương Bồ TÁt Tiết Nhật”. Theo kinh Phật, đức địa tạng Bồ Tát đã đản sinh sau khi đức Thích Ca nhập Niết bàn và trước khi đức Di Lặc giáng thế. Hai từ “Địa Tạng” : “Địa” nghĩa là “đất”, “Tạng” còn đọc là “tàng” nghĩa là ” cất giấu, ẩn chứa”, Phật hiệu của đức Bồ Tát hàm ý ví ngài với đại địa bao la, nơi ẩn chứa vô vàn thiện căn. Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là hiện thân của sự cứu khổ, Ngài được đức Thích Ca uỷ cho trọng trách “Giáo hóa lục đạo chúng sinh” để muôn loài khỏi rơi vào chốn trầm luân khổ hải và cử làm “U Minh giáo chủ”, cai quản âm gian , Ngài đã nguyện trước Phật Tổ : “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!”. Do đó, Ngài thường xuất hiện ở chốn nhân gian và nơi âm giới để tìm phương cách tế độ chúng sinh, không chịu an hưởng ở nơi Cực Lạc thế giới, dù rằng với công đức vô lượng của Ngài, Ngài đã được đức Phật Tổ ban cho Phật hiệu.
Cũng theo sách Phật, đức Địa Tạng Bồ Tát từng giáng sinh tại nước Tân La (nay là Triều Tiên) vào năm thứ 4 thời Hiếu Chiếu vương trị vì (năm 695 Tây lịch) là con em của vương thất nước này. Như các sách “Cửu Hoa sơn chí”, “Thần Tăng truyện”…đã chép, đức Địa Tạng Bồ Tát họ Kim, tên là Kiều Giác, Ngài thông minh đỉnh ngộ, lòng dạ thiện lương ngay từ khi còn tấm bé, năm lên 5 tuổi Ngài đã thích đi chùa lễ Phật và rất mộ đạo. Năm Ngài 25 tuổi, Ngài có một học vấn cao, trí tuệ siêu phàm, được mọi người yêu quí, nể vì, đường công danh rộng mở trước mắt, nhưng Ngài không màng tới , quyết xin cha mẹ cho được xuất gia, tu hành tại nơi cửa Phật. Do một lòng tu tập, đạo học của Ngài rất mau tịnh tiến, được sư trụ trì và các sư thầy vô cùng yêu mến, nhưng Ngài không cho như thế là đủ, vẫn miệt mài học tập, sách không mấy khi rời tay. Vào năm thứ 28 đời vua Thánh Đức nước Tân La (729 Tây lịch), một hôm, Ngài tình cờ nghe thấy mấy thương nhân vào chùa lễ Phật, nói với Đại sư trụ trì, ta5i bên nước Trung Hoa từng có một vị Hòa thượng là Đường Tam Tạng,vượt bao gian hiểm sang Thiên Trúc thỉnh về rất nhiều kinh Phật và dịch ra chữ Hán, nhờ đó mà đạo Phật ở nước này rất hưng vượng, Ngài bèn tha thiết cầu xin Đại sư trụ trì cho được rời chùa, vượt biển sang Trung Hoa để tu học, nghiên cứu kinh Phật.
Ngài lìa nước triều tiên, trãi qua vô vàn sóng gió nguy hiểm, tới nước Trung Hoa vào năm Khai Nguyên thứ 18 (730 Tây lịch) đời Đường Minh Hoàng (tức Đường Huyền Tông). Tại Trung Hoa, Ngài nghe đồn ở huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy có ngọn Cửu Hỏa Sơn, cảnh sắc rất đẹp, nổi tiếng với những truyền thuyết về Phật giáo, bèn tìm tới, quả nhiên thấy đúng như lời thiên hạ đồn đại; lại thấy ở ngõ Cửu Hoa, dưới ngọn Phù Dung phong thuộc núi Cửu Hoa có một tòa cổ am, tương truyền do một nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ) là Hoà thượng Bôi Độ xây dựng lên vào năm Long An thứ 5 nhà Đông Tấn (401 Tây lịch) để tu hành, hiện vị lão tăng trụ trì ở am này vừa mới viên tịch, am còn bỏ trống, Ngài liền đến xin quan huyện Thanh Dương cho được cư ngụ tại am ấy để tu hành. Tại am này, Ngài chịu đói chịu lạnh, đọc và nghiền ngẫm kinh Phật,đạo học của Ngài tinh tiến vượt bậc, Ngài trở thành nhà sư rất uyên bác về Phật học, danh tiếng vang dội khắp cõi Trung Nguyên, được nhiều tín đồ mến mộ, tìm tới nghe Ngài giảng kinh.
Năm Chí Đức thứ 2 đời Đường Túc Tông (757 Tây lịch), một vị thân sĩ giàu có ở huyện Thanh Dương là Gia Cát Tiết, vì mến mộ Ngài, đã bỏ tiền của ra xây dựng chùa. Năm Kiến Trung thứ 2 đời Đường Đức Tông (781 Tây lịch), viên thái thú Trì Châu là Trương Nham Hậu, thấy Ngài đạo hạnh cao sâu, đem lòng cảm mến, lại thấy khách thập phương đổ tới hành hương ngày một thêm đông, mà chùa thì nhỏ không đủ cho khách lui tới, bèn dâng sớ về triều đình cho dùng công quĩ để xây dựng lại chùa cho to, đẹp hơn. Chùa xây dựng xong, vô cùng to rô5ng, đẹp đẽ. Quan thái thú họ Trương lại xin Ngài đặt tên mới cho chùa. Ngài dựa vào một điển cố trong kinh Pháp Hoa: “Một hôm, đức Thích Ca cùng một đệ tử đi truyền đạo, trên đường bỗng bị núi cao chắn lối. Bấy giờ, người đệ tử đang bị đói lả, ý muốn quay về, đức Thích Ca thấy vậy, bèn chỉ tay về phía trước nói: “Ở kia có một toà thành, chúng ta có thể tới đó hóa trai”; đặt tên chùa là “Hoá Thành” và tên này được dùng mãi tới ngày nay.
Từ khi lên ngôi đại tự Hóa Thành xây dựng xong, song song với bề thế to lớn, nguy nga của ngôi chùa, số lượng khách thâp phương càng thêm đông đảo,ngôi chùa trở thành một trong bốn danh thắng lớn của Trung Hoa thời ấy.
Năm Trinh Nguyên thứ 10 đời Đường Đức Tông (794 Tây lịch), Ngài đã 99 tuổi, nhưng sức khỏe vẫn dồi dào, tinh thần minh mẫn. Một hôm, đang ngồi thiền định, Ngài bổng mơ hồ nghe thấy có tiếng vời gọi thiêng liêng từ cõi xa thẳm vọng tới Nam đài ở phía Nam núi Cửu Hoa, nói cho hay rồi vui vẽ dặn dò hậu sự, truyền y bát, tích trượng cho ngườ kế tục, đoạn bảo đệ tử đặt vào một cái chum lớn,ngồi ung dung mà viên tịch. Ba năm sau,theo lời dặn của Ngài, các đệ tử-trước sự chứng kiến của rất đông thiện nam, tín nữ- đã khui mở nắp chum để rước nhục thân Ngài ra nhập tháp. khi nắp chum mở ra, nhục thân của Ngài rất mềm, sắc diện vẫn tươi như sống, thoang thoảng mùi thơm, không hề hư rữa. Lúc các đệ tử nhấc nhục thân Ngài ra khỏi chum, các khớp xương Ngài vẫn không cứng lại, chuyển động nghe phát ra tiếng kêu “rổn rảng” tựa chuỗi xích vàng rung chuyển. Căn cứ vào điều đã ghi chép trong kinh Phật, mọi người đều hiểu rằng, sau khi đức Thích Ca viên tịch 1500 năm, đây là hiện tượng “Bồ Tát chuyển thể”, bèn rước nhục thân của Ngài vào tháp.Ngọn tháp tàng giữ nhục thân Ngài là một ngọn tháp bằng đá ba tầng, cất trên “kim địa”. Đêm ấy, đúng vào giờ tý, tháp bỗng tỏa hào quang, sáng rực một vùng, người dân thời ấy gọi là “viên quang” (ánh sáng của sự viên mãn), còn các Tăng, Ni thì gọi đó là “thần quang thể”, (ánh sáng thần kì, màu sắc rực rỡ). Vì vậy, khu Nam Đài (không rõ vì sao gọi là “Tây đài”) được gọi là “Thần Quang Linh”, ngọn tháp đó được gọi lá “Nhục Thân bảo tháp”.
Năm Trinh Nguyên thứ 13, đời Đường Đức Tông (797 Tây lịch) sau khi nhục thân của đức Bồ Tát giáng thế được nhập tháp đá, hoàng đế Đức Tông, do cảm mếnđức sáng của Ngài, đã đích thân ban chiếu truyềnxuất công quĩ, xây trùm lên “Nhục Thân bảo tháp” một ngôi điện, đặt tên là “nhục Thân bảo diện”. Kể từ đó “Nhục Thân bảo điện” được các triều đại kế tiếp nhau tu sữa nhiều lần. Đặc biệt trong hai triều Minh, Thanh, “Nhục Thân bảo điện” đã được tu sữa và xây dựng với một quy mô lớn hơn nhiều. Vào khoảng những năm Vạn Lịch đời Minh (1573-1619 Tây lịch), triều đình đã cấp kinh phí cho xây dựng lại “Nhục Thân bảo điện” thật nguy nga, tráng lệ và ban danh hiệu “Hộ Quốc Nhục Thân bảo điện”. Năm Hàm Phong thứ 7 triều Thanh (1857 Tây lịch), tòa điện này vì nằm trong vùng giao tranh ác liệt giữa quân nhà Mãn Thanh và nghỉa quân Thái Bình Thiên Quốc, đã bị tàn phá nặng nề.Phải đến những năm thuộc niên hiệu Đông Trị nhà Thanh (1862-1874) mới được triều đình cho trùng tu lại, đây là tòa “Nhục Thân bảo điện” hiện có.
Tòa đại điện nổi danh này nằm trong cảnh giới của ngôi cổ tự “Hoá Thành”, toạ lạc giữa một vùng núi non hùng vĩ của “Thần Quang Lĩnh” thuộc rặng “Cứu Hỏa Sơn” là một trong bốn đại danh thắng của Phật giáo Trung Hoa nói riêng và của đất nước Trung hoa nói chung, gồm: Cửu Hoa Sơn, Ngũ Đài Sơn, Nga Mi sơn và Phổ Đà sơn. Để lên tới “Nhục thân bảo điện” phải vượt qua 84 bậc thềm đá từ thấp lên cao ở trước điện, dọc theo hai bên các bậc thềm đá có đóng cọc sắt, giăng dây xích sắt để bảo vệ khách lên điện và giúp khách có chỗ vịnh tay.
Tòa “Nhục Thân bảo điện” toạ lạc trên một mặt bằng vuông vức, mỗi cạnh dài 15m, điện cao 18m. Đỉnh điện lợp ngói đúc bă2ng sắt. Các hành lang ở quanh điện được chống đỡ bởi 24 cây cột đá, tăng thêm vẻ uy nghi cho tòa đại điện. các lường đỡ những đầu cao hình cánh phượng cong vút lên của mái điện và các cột kèo…của điện đều được chạm, khắc, vẽ hình các hoa văn thật tinh xảo, sơn son thiếp vàng hoặc tô màu rất là lộng lẫy. Ở cửa trước của điện có treo một tấm biển lớn bằmg sứ màu xanh, nổi bật 4 chữ Hán đại tự : “Nhục Thân Bảo Điện”. Tại bên hồi lang của điện có treo một tấm biển màu nhủ, khắc 5 chữ lớn :”Đông Nam Đệ Nhất Sơn”. Cửa sau của đuện cũng treo một tấm biển giống y tấm biển treo ở trước điện. Bên trong tòa “Nhục Thân bảo điện” được lát bằng đá bạch ngọc. Chính giữa điện là ngọn tháp gỗ đặt trên nền cũng là đá bạch ngọc, tháp gỗ nà gồm có 7 tầng, tháp cao 17m, hình bát giác. Mặt ngoài của tháp gỗ, mỗi tầng 8 mặt đều có khám thờ, trong khám có tượng đức Địa Tạng Bồ Tát thếp kim nhũ trông rất sống động. Bên trong các tầng tháp gỗ đều có ghép bộ “Địa Tạng Bản Nguyện kính” bằng mực kim nhũ , nét chữ vô cùng tinh luyện. Tại tầng dưới cùng của ngọn tháp gỗ là ngọn tháp đá 3 tầng,nơi đặt nhục thân của đửc Bồ Tát giáng thế Kim Kiều Giác, ở mặt chính của tháp đá có treo một ngọn đèn lưu ly hình bát giác chạm trỗ rất tinh mĩ, vốn là một cổ vật hiếm có. Ngoài ra, bên trong “Nhục Thân bảo điện” còn trưng bày rất nhiều bảo vật quí giá, do các vua chúa nhiều đời ban tặng như: “Si Long kim ẩn” đúc vào đời Đường, niên hiệu Chí Đức, do Đường Túc Tông ban tặng; “Long ẩn” đúc vào niên hiệu Vạn Lịch, do Minh Thần Tông ban tặng v.v…và rất nhiều cổ vật được đặt chế bằng vàng, ngọc, đá quí, đồng…cùng các cổ bản kinh sách.
Ở bên ngoài “Nhục Thân bảo điện” còn có nhiều công trình kiến trúc phụ như: các dãy Tăng phòng, khách phòng, thiền phòng và các phòng “Triển lãm văn vật” …Tại phía sau điện có một tòa “dao đài” bằng đá, hình bán nguyệt, trên đài đặt 3 cái đỉnh sắt rất lớn, chạm khẳc vô cùng khéo đẹp: bên đài còn một toà “Cổ Hoa viên” nơi này được gọi là “Bố Kim Thắng địa”, tương truyền xưa kia vào các ngaỳ “Địa Tạng Bồ Tát đản sinh”,”Địa Tạng Bồ Tát thành đạo”, thiện nam, tín nữ thập phương thường tụ tập lại đây dâng hương lễ Phật và cúng dường phẩm vật vô cùng tấp nập.
Theo sách “Địa Tạng Bồ Tát hành trạng’, như đã phát lời nguyện trước đức Phật Tổ, đức địa tạng Bồ Tát không ngừng hóa thân để cứu độ chúng sinh, Ngài thân dư vạn biến , nhưng tâm bất biến, trong lòng không lúc nào ngơi nghĩ tới khổ đau của chúng sinh.Hôm nay, trước 2 ngày lễ lớn kỷ niệm ngày “đản sinh” và “thành đạo” của Ngài, hướng tưởng tới công đức vô lượng của đấng Bồ Tát, chúng ta nguyện theo ý hướng của Ngài thiết tha làm lành tránh dữ, trải rộng tấm lòng Bồ Tát Của Ngài rộng khắp muôn nơi, đó mới chính là những nén “tâm hương” chúng ta cung kính dâng lên Bồ Tát.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).30/7/2012.

Friday 27 July 2012

Ý nghĩa Om Mani Padme Hum

Om Mani Padme Hum
(Án Ma Ni Bát Di Hồng)
Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.
Om: Quy mệnh
Mani: Viên ngọc như ý
Padme: Bên trong hoa sen
Hum: Tự ngã thành tựu
Theo âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.
Thông thường người ta không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “Ngọc quý” biểu hiện cho Bồ-đề tâm (bodhicitta). “Hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là tương ứng với sáu cõi tái sinh của dục giới.
Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.
Trong phạm vi tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.
Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bồ Tát, hoặc thần thánh. Ví dụ, OM MANI PADME HUM ( ÁN MA – NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi Ngài Quán Âm (Chenrezig). Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, Ngài có tên gọi riêng. Những tên này là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của Ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức này được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của Ngài; như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách này, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị thần ; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.
Thần chú OM MANI PADME HUM đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bồ Tát Quan Âm được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUM.
- OM: tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm này.
- MANI: nghĩa là châu báu
- PADME: phát âm theo Sankrit, hoặc PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa hoa sen
- HUM: tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.
- MANI: nói về châu báu mà Bồ Tát Quan Âm cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên Ngài Bồ Tát Quán Âm xuyên qua những phẩm hạnh của Ngài.
Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên Ngài Bồ Tát Quán Âm. Mặt khác, khi niệm câu chú OM MANI PADME HUM thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú này là sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bồ Tát. Trong cách nhìn này, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị Bồ Tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả.
Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.
Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi:
- OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời ;
- MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la
- NI, cánh cửa cõi người
- PAD, cánh cửa cõi súc sanh
- ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ;
- HUM, cánh cửa cõi địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa :
- OM thanh tịnh hóa bản thân ;
- MA thanh tịnh hóa lời nói ;
- NI thanh tịnh hóa tâm thức ;
- PAD thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn ;
- ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ;
- HUM thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện :
- OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ;
- MA lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ;
- NI lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật ;
- PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật ;
- ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ;
- HUM gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.
Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa :
- OM, liên hệ đến sự rộng lượng ;
- MA, đạo đức ;
- NI, kiên trì, nhẫn nhịn,
- PAD, chuyên cần,
- ME, chú tâm,
- HUM, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia:
- OM, liên hệ đến Ratnasambhava ( Bảo – Sanh Phật)
- MA, Amaghasiddi ( Bất – Không – Thành – Tựu Phật)
- NI, Vajradhara ( Kim Cương Trì/ Phổ – Hiền Bồ Tát)
- PAD, Vairocana ( Lô – Xá – Na Phật)
- ME, Amitabha ( A – Di – Đà Phật)
- HUM, Akshobya ( A – Súc – Bệ Phật)
Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ:
- OM = Trí tuệ thanh thản, an bình
- MA = trí tuệ hoạt động
- NI = trí tuệ tự tái sanh
- PAD = trí tuệ pháp giới
- ME = trí tuệ phân biệt
- HUM = trí tuệ như gương.
Ở Tây Tạng, mọi người thường tụng niệm thần chú của Ngài Quan Âm. Sự đơn giản và phổ thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của thần chú, và còn có giá trị to lớn hơn. Điều này được thể hiện trong câu nói khôi hài sau :
Ở đoạn khởi đầu, không có đau khổ vì không biết,
Ở đoạn giữa, không có lòng tự kiêu vì hiểu biết,
Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú.
Không có sự hiểu biết về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa học khác là sự đau khổ, bởi vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng và chấp nhận nhiều mệt mỏi để học hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn ngủi đã đủ để học thuộc thần chú của Ngài Quan Âm. Không cần đối diện với đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết. Bởi vì vậy, “Ở đoạn đầu không có đau khổ vì không biết”
Một người sau mấy năm học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng hoặc chức vị ở xã hội, và họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ giỏi hơn tất cả những người khác. Thần chú đơn giản của ngài Quan Âm giúp cho một người tránh rơi vào tình trạng nói trên. Như vậy, “Ở đoạn giữa, không kiêu ngạo khi hiểu biết”.
Cuối cùng, nếu chúng ta không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta thâu thập được trong y học, chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác có thể dần dà bị mai một. Nhưng không thể nào quên được sáu âm tiết câu chú. OM MANI PADME HUM. Vậy, “Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú”.
Cũng vậy, từ những bài ghi chú của tôi: “Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho Chúng Sinh”
- OM là màu TRẮNG ;
- MA, màu XANH LÁ CÂY ;
- NI , màu VÀNG ;
- PAD, màu XANH DA TRỜI ;
- ME, màu ĐỎ ;
- HUM, màu ĐEN.
Câu chú có thể được tóm tắt như sau: “Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hóa, Vị bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thoát khỏi những nỗi đau khổ của chúng sinh trong sáu cõi”.
OM MANI PADME HUMbản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về các vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu và tự do cao cả.
Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé Hum. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu Ngài Liên Hoa Sinh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mệnh của dân tộc này. Có câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này, OM MANI PADME HUM.
Tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn Thái Tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chánh giác khi mà tất cả ngàn Thái Tử chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, Ngài phát nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.
Đầu tiên, Ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy Ngài tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù Ngài đã cứu vô số chúng sinh thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho Ngài đau buồn vô tận, trong một lúc Ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ đại mà Ngài đã phát, và thân thể Ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt vọng, Ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho Ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của Đại bi chân thực. Trong hình thức này, Ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sinh. Tâm đại bi của Ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và Ngài lại phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con nguyện không thành Chánh giác khi tất cả chúng sinh chưa thành”.
Tương truyền rằng vì đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước nướt mắt đã rơi từ đôi mắt Ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara . Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.
Theo kinh điển đại thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho Ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sinh tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư Thiên tung hoa xuống ca ngợi hai Ngài, quả đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.
Có câu thơ về Ngài ý nghĩa như sau:
“Quán Thế Âm như vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng ấy, đóa sen từ bi – loại hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh khôi” .
Giáo lý giải thích rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị, dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ, nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ.
Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên
Bởi thế, khi ta tụng thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi. Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật bệnh.
Thường có chủng tự HRIH của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các Ngài.
Kalu Rinpoche viết:
Một cách khác để giải thích thần chú này là:
OM là tính chất của thân giác ngộ,
MANI PADME tiêu biểu ngữ giác ngộ,
HUM tiêu biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng ẩn trong âm thanh của thần chú này.
Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tiến thiền định thì năng lực chuyển hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản thân bằng phương pháp ấy.
Đối với những người đã quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tính gầm thét như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm”.
Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói: “Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết bàn”.
Những lợi ích của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì thật vô biên, giống như bầu trời bao la vô hạn.
Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết là Om Mani Padme Hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch thoát khỏi sự tham luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum – thần chú sáu – âm này là tinh tuý của toàn bộ Giáo Pháp – thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó không hoàn toàn đơn giản. Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập tới cốt lõi của những lợi lạc vô biên của nó.
Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hoá sự gãy bể bốn giới nguyện gốc của Biệt Giải thoát và năm nghiệp tiêu cực không bị đứt đoạn.(*)
Trong các tantra cũng đề cập rằng nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để được sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc chết được thấy Đức Phật và ánh sáng xuất hiện trên bầu trời; chư Thiên cúng dường bạn; và không bao giờ bị tái sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ hay súc sinh. Bạn sẽ được tái sinh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay như một hiện thể tái sanh tốt lành.
Khi một người trì tụng mười chuỗi thần chú một ngày bơi lội, dù trong sông, biển hay một vài sinh loài sống trong nước nào khác, nước chạm vào thân người đó cũng sẽ được ban phước.
Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên (cửu huyền thất tổ) của người đó cũng không bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú, thân được ban phước bởi những người trì tụng thần chú và quán tưởng thân họ trong sắc tướng của thân linh thánh như Đức Quán Thế Âm. Vì thế, thân thể trở nên rất mạnh mẽ, tràn đầy ân phước đến nỗi nó tác động tới tâm thức cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy sẽ không bị tái sinh trong một cõi thấp.
Vì thế, khi một người mà mỗi ngày từng trì tụng mười chuỗi Om Mani Padme Hum đi xuống sông hay biển, nước chạm vào thân người ấy được ban phước, và sau đó chất nước được ban phước đó sẽ tịnh hoá hàng tỉ tỉ chúng sinh trong nước. Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi nơi các cõi thấp. Việc ấy thật lợi lạc đến mức khó tin.
Khi một người như thế đi xuống một con đường, gió chạm vào thân người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng, nghiệp tiêu cực của chúng được tịnh hoá và nhờ đó chúng có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi một người như thế xúc chạm vào thân người khác, nghiệp tiêu cực của những người đó cũng được tịnh hoá.
Việc một người như thế nhìn ngắm thì thật đầy ý nghĩa; việc được nhìn và xúc chạm trở thành một phương tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hoá nghiệp tiêu cực của họ. Bất kỳ sinh loài nào uống nước trong đó một người như thế từng bơi lội cũng được tịnh hoá.
Chúng ta có may mắn lạ lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền định về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là một phương pháp dễ dàng để tịnh hoá bất kỳ nghiệp tiêu cực nào mà ta từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa.
Bởi chúng ta từng gặp được Phật Pháp và đặc biệt là phương pháp này – sự thực hành Đức Phật Bi Mẫn và trì tụng thần chú của Ngài – nó thật dễ dàng để tịnh hoá nghiệp tiêu cực và tích tập công đức rộng lớn và do đó thành tựu sự Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn không ngờ.
Như thế, chẳng còn gì ngu dại hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội vĩ đại này. Nói chung, chúng ta liên tục xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế, mọi hành vi được làm với bản ngã và tâm thức nhiễm ô ba độc tham, sân và si tạo nên nghiệp tiêu cực, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì ngu xuẩn hơn việc sử dụng thân người toàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ.
Ở những nơi như Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ, và Ladakh đã có một truyền thống tốt đẹp lâu đời là thực hiện khoá nhập thất Đức Phật Bi Mẫn và trì tụng 100 triệu thần chú Om Mani Padme Hum. Khoá nhập thất được tổ chức ở Viện Chenrezig là kỳ nhập thất như thế lần đầu tiên được tiến hành ở Tây phương và khoá nhập thất đầu tiên trong tổ chức FPMT (Hội Bảo vệ Truyền thống Đại thừa). Việc này xảy ra ở đó mỗi năm một lần – mỗi năm chỉ một lần!
Nếu bạn bị dày vò bởi tội lỗi trong đời mình, bạn có thể khắc phục cảm xúc đó bằng sự tịnh hoá khi tham dự khoá nhập thất này. Khoá nhập thất không chỉ trì tụng các thần chú với các sadhana, mà cũng bao gồm cả việc trì giữ Tám Giới luật Đại Thừa, nếu không mỗi ngày thì ít nhất cũng thường xuyên. Bất kỳ công đức nào mà bạn tích tập trong ngày đó sẽ tăng trưởng gấp 100.000 lần. Việc này trở nên một phương pháp dễ dàng và nhanh chóng để tịnh hoá, tích tập công đức bao la, thành tựu sự Giác ngộ và giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi và mau chóng đưa họ tới sự Giác ngộ.
Được tham dự một kỳ nhập thất mani (Thần chú Sáu-Âm) là một điều may mắn khó tin. Cho dù bạn không thể hiện diện trong toàn bộ khoá nhập thất, bạn cũng có thể tham dự hai tháng, một tháng hay ít nhất một vài tuần. Thậm chí bạn có thể chỉ nhập thất một tuần. Tôi đặc biệt hy vọng rằng khoá nhập thất này sẽ được tổ chức tại Mông Cổ, bởi thực phẩm chính của họ là thịt và quá nhiều thú vật bị giết mỗi ngày ở đó. Thực hành này trợ giúp để tịnh hoá điều đó. Sau khi các ngôi chùa của chúng tôi ở Mông Cổ được xây dựng xong, tôi hy vọng rằng hàng ngàn người sẽ tham dự các kỳ nhập thất mani tại đó. Dần dần, tôi mong muốn khoá nhập thất này cũng được tổ chức ở nhiều nơi khác tại phương Tây.
Khoá nhập thất này cũng ban phước cho quốc gia ở đó nó được tổ chức và đem lại rất nhiều sự an lạc, hạnh phúc và thịnh vượng.
Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách thiền định về Bồ Đề Tâm, bạn vẫn cần thọ nhận những ân phước đặc biệt của vị Bổn Tôn, Đức Phật Bi mẫn. Bạn nhận những ban phước này bằng cách thực hiện việc thiền định và trì tụng mà chúng tôi thực hành trong khoá nhập thất Mani. Như thế, việc trì tụng Om Mani Padme Hum là một phương pháp thể nhập Bồ Đề Tâm – để chuyển hoá tâm bạn thành Bồ Đề Tâm và làm cho việc bạn thiền định về Bồ Đề Tâm được hiệu quả.
Nói chung, theo kinh nghiệm của tôi, ở trụ xứ của tôi tại Solu Khumbu trong rặng Hymalayas tại Nepal, có những người sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum nhưng không có chút ý niệm nào về tánh Không – ngay cả trên chữ nghĩa. Mặc dù họ không thể đọc và thậm chí không biết vần abc, họ có một lòng sùng mộ vĩ đại đối với lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm và sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum. Những người như thế có một trái tim nồng nhiệt, hết sức thiện tâm, vô cùng bi mẫn. Đây là một bằng chúng từ kinh nghiệm của tôi rằng nó hữu hiệu trong việc chuyển hoá tâm thức thành một trái tim tốt lành và bi mẫn.
Không có Bồ Đề Tâm, bạn không thể đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Bạn không thể thực hiện những công việc toàn hảo cho tất cả chúng sinh; và bạn không thể thành tựu những phẩm tính toàn thiện về những sự chứng ngộ và ngừng dứt, thậm chí cho chính bạn.
Như thế, mọi người sẽ rất được hoan nghênh khi tham dự khoá nhập thất 100 triệu thần chú Om Mani Padme Hum.
(*) Đây là những nghiệp nặng tới nỗi chúng lập tức chín mùi thành một tái sinh trong cõi địa ngục khi nghiệp đời này cạn kiệt.
Năm nghiệp là: giết mẹ, giết cha, làm thân Phật chảy máu, giết A La Hán và gây chia rẽ trong Tăng Đoàn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH CHAN TANH.( SADI-NI ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).28/7/2012.
Cứ mỗi độ thu về, chúng ta lại có dịp cử hành lễ Vu Lan báo hiếu. Báo hiếu là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Ðông cũng như Tây, xưa cũng như nay, những người con hiếu không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng cách thể hiện tấm lòng cụ thể tùy theo trình độ văn minh và phong tục tập quán của mỗi dân tộc mà có những khác biệt.
Ở Việt Nam ta, nhờ ảnh hưởng tinh thần kinh Vu Lan Bồn, mà ngày Rằm tháng Bảy hàng năm đã trở thành ngày hội truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc. Ðây là cơ hội quý báu để những người con hiếu thảo báo đáp một phần nào công ơn trời bể của hai đấng sinh thành.
A – Công ơn Cha Mẹ được ca ngợi:
I. – Qua kinh điển
Theo truyền thống văn học Trung Quốc có lẽ Kinh Thi là bản kinh trình bày công ơn của mẹ khá khúc chiết. Nó tóm tắt công đức của mẹ thành chín điểm, gọi là chín chữ cù lao. Ðó là “Sinh nở, nâng đỡ, vỗ về, dạy dỗ, cho bú, nuôi lớn, trong nôm, nuông chiều, che chở”. (Sinh, cúc, phủ, dục, súc, trưởng, cố, phục, phúc).
Thế nhưng, kinh điển Phật giáo lại trình bày công ơn cha mẹ và phương pháp báo ân còn cụ thể và rốt ráo hơn. Chẳng hạn, kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Ðức Phật kể đến mười công đức của mẹ đối với con.
1. – Chín tháng cưu mang khó nhọc
2. – Sợ hãi, đau đớn khi sinh
3. – Nuôi con cam đành cực khổ
4. – Nuốt cay, mớm ngọt cho con
5. – Chịu ướt, nhường ráo cho con
6. – Sú nước, nhai cơm cho con
7. – Vui giặt đồ dơ cho con
8. – Thương nhớ khi con xa nhà
9. – Có thể tạo tội vì con
10. – Nhịn đói cho con được no
Trong kinh Tâm Ðịa Quán, đức Phật ví dụ công ơn cha mẹ như núi cao biển rộng:
“Ân cha lành cao như núi Thái
Ðức mẹ hiền sâu tợ biển khơi
Dù cho dâng trọn một đời
Cũng không trả hết ân người sinh ta”.
Ðức Phật còn thuyết giảng cho đồ chúng biết công đức cao cả của mẹ hiền: “Nầy các thầy Tỳ kheo, sữa mẹ mà các thầy đã bú khi lang thang trong ba cõi luân hồi, còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”. (Kinh Tương Ưng II, 208).
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, Ðức Phật cũng kể đến công ơn sâu dày của cha mẹ, và khuyên con thảo phải báo hiếu ơn sâu: “Nầy các Tỳ kheo, nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi xa nghìn dặm, cung phụng đủ mọi thức ăn, đồ mặc, chăn nệm và thuốc thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa, cũng chưa trả được ân sâu. Các thầy phải hiểu rằng, ân cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, làm cho ta trưởng thành. Vì thế mà biết ân đó rất khó trả. Nầy các Tỳ kheo, có hai việc làm cho phàm phu được công đức lớn, được quả báo lớn, đó là phụng sự cha và phụng sự mẹ. (Tăng Nhất A Hàm, D. II, 601).
Côâng ơn cha mẹ trọng đại như vậy, cho nên không có tội ác nào bằng tội bất hiếu, như trên trong kinh Nhẫn Nhục mô tả:
“Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu,
Cùng tột điều ác, không gì hơn bất hiếu”.
II. Qua ca dao tục ngữ
Có lẽ ca dao tục ngữ là loại hình văn học có sức thuyết phục nhất dùng để mô tả tình cảm chân thành của những người con hiếu thảo đối với công ơn dưỡng dục bể trời của hai đấng sinh thành. Từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.
Tình mẹ thương con đậm đà như chuối ba hương, dẻo thơm như xôi nếp một và ngọt ngào như đường mía lau:
“Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp ngọt như đường mía lau”.
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
“Ðố ai đếm được lá rừng,
Ðố ai đếm được mấy từng trời cao
Ðố ai đếm được những vì sao,
Ðố ai đếm được công lao mẫu từ”.
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
“Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình”.
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Người con trong lúc tuổi trẻ cấp sách đến trường, phải đua tranh với bè bạn, thi thố tài năng dưới mái học đường, tuy có vất vả, nhưng chẳng có nghĩa lý gì so với sự đảm đang tần tảo, chìu chồng nuôi con của mẹ hiền, khiến cho gia đạo thuận hòa, con cái nên người. Chính người mẹ đã dự vào cuộc thi của trường đời đó là một cuộc thi đầy cam go, thử thách.
Vào những đêm thu, con không ngủ được vì trái nắng, trở trời, mẹ hiền phải thức thâu đêm để đưa võng ru con:
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ năm canh”.
III. – Qua những bài hát
Các nhạc sĩ là những người có tâm hồn nhạy cảm, dào dạt, nên thường diễn tả hình ảnh của bà mẹ rất sống động và hiện thực. Những bà mẹ sống với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, chất phác. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:
“Mẹ Việt Nam không son, không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn,
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng”.
(Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)
Hình ảnh của mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:
“Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi…
Như đóa hoa không mặt trời
Như tuổi thơ không nụ cười
Như đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
Mẹ là dòng suối dịu hiền.
Mẹ là bài hát thần tiên,
Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.
Mẹ là lọn mía ngọt ngào,
mẹ là nải chuối, buồng cau,
Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu,
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời”.
Và một bản nhạc khác diễn tả:
“Vì song thân có công sanh thành:
Sinh con tái tê lòng đau.
Nuôi con sánh công cù lao.
Sinh con ví ân trời cao.
Sinh con máu đào xiết bao!”.
Vào những đêm khuya nhớ mẹ, người con xa nhà, trông về quê cũ tưởng tượng hình ảnh mẹ hiền đang tựa cửa trông con:
“Ðêm khuya trăng mơ, mắt trông về trong cõi xa mờ.
Nơi xa xăm kia, tôi say nhìn quê cũ dấu yêu
Ôi tình quê hương, nơi chốn xưa có người mẹ hiền,
Tóc màu hoa bạc, chiều chiều mắt hoen mờ vì con…”.
Vì thương nhớ mẹ đơn chiết ở nơi quê hương xa xôi, nên khi gặp bạn bè trở lại quê nhà, con sẽ gởi lời thăm mẹ, và hứa với mẹ luôn luôn khắc ghi những lời mẹ khuyên dạy:
“Ai đi về phía quê tôi, làm ơn cho nhắn vài lời nhớ thương.
Xa xôi buồn nhớ quê hương, mẹ già một nắng hai sương mõi mòn.
Ra đi một sáng tinh sương. Mẹ ơi con vẫn nhớ lời mẹ khuyên”
B. – Báo đáp công ơn Cha Mẹ
I. – Qua kinh điển
Trong kinh Thi Ca La Việt, Ðức Phật kể đến năm bổn phận của con đối với cha mẹ:
1. – Cung kính và vâng lời cha mẹ.
2. – Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu
3. – Giữ gìn thanh danh và truyền thống gia đình
4. – Bảo quản tài sản do cha mẹ để lại
5. – Lo tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua đời
(Trường Bộ Kinh IV, 188)
Kẻ nào làm tròn các bổn phận trên đây mới xứng đáng là người con hiếu thảo. Rồi Ðức Phật đề cập đến bốn trách nhiệm mà người con phải làm hướng dẫn cha mẹ sống theo chánh pháp:
1. – Nếu cha mẹ không có niềm tin, khuyến khích cha mẹ phát tâm tin tưởng Tam Bảo.
2. – Nếu cha mẹ xan tham, khuyên cha mẹ phát tâm bố thí
3. – Nếu cha mẹ làm ác, khuyên cha mẹ hướng về đường thiện
4. – Nếu cha mẹ theo tà kiến, khuyên cha mẹ theo chánh kiến.
(Tăng Chi Bộ Kinh IA, 59)
Chúng ta lại thấy trong Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân. Ðức Phật cũng dạy những người con hiếu, những Phật tử chân chính cần phải thực hiện sáu bổn phận sau đây:
1. – Giữ gìn Tam Quy ngũ giới
2. – Thường học hỏi và đọc tụng kinh điển
3. – Siêng năng lễ Phật sám hối
4. – Thường cúng dường Tam Bảo
5. – Bố thí làm phước, hồi hướng công đức cho cha mẹ
6. – Cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ
Có nhiều phương thức để báo ân cha mẹ, như đức Phật đã kể lại hai tiền thân của Ngài trong kinh Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân:
- Trường hợp thứ nhất, Ngài là một Thái tử tên là Tu Xà Ðề, đã tự lóc thịt mình dâng cha mẹ đỡ lòng, trong lúc chạy giặc hết cả lương thực.
- Trường hợp thứ hai, Ngài tên là Thái tử Nhẫn Nhục đã hiến đôi mắt mình để làm thuốc cứu cha thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo.
Ngoài ra một bài kệ trong Kinh Tăng Chi còn mô tả:
“Cha mẹ là Phạm Thiên, là đạo sư đời trước,
Xứng đáng được cúng dường. Vì thương yêu con cháu…
Do vậy bậc hiền trí, Ðảnh lễ và tôn trọng
Dâng thức ăn, nước uống; vải mặc và giường nằm.
Thoa bóp cả thân thể. Tắm rửa cả tay chân,
Với việc làm như vậy; đối với mẹ và cha.
Ðời này nhiều người khen; Ðời sau hưởng thiên lạc”.
(Tăng Chi Bộ Kinh I, 124).
Dâng đồ ăn, đồ mặc, tôn trọng và đảnh lễ, đương nhiên là cách báo hiếu rất phổ thông nhưng đặc biệt hơn cả là báo hiếu theo tinh thần kinh Vu Lan Bồn. Qua kinh này. Ðức Phật dạy những người con hiếu nên làm theo gương của tôn giả Mục Kiền Liên. Nhân dịp rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân và cũng là ngày Tự tứ, Chư Phật hoan hỷ, Phật tử nên sắm sửa trai soạn và các thứ nhu yếu dâng lên cúng dường chúng Tăng, nhờ Chư Tăng chú nguyện để cầu siêu độ cho cha mẹ quá khứ và lục thân quyến thuộc nhiều đời. Hình ảnh của Tôn giả Mục Kiền Liên dâng cơm cho mẹ đã được một thi sĩ mô tả bằng những lời thơ thật cảm động:
“Ðây bát cơm đầy nặng ước mong,
Mẹ ôí! Ðây ngọc với đây vàng,
Ðây tình con đọng trong tha thiết,
Ơn nghĩa sinh thành chưa trả xong”.
II. – Qua ca dao tục ngữ
Giờ đây qua ca dao tục ngữ, một hình thức phô diễn rất phong phú, tự nhiên và thực tế của nhân gian, hình thức này cũng thường đề cập đến cách báo hiếu của con đối với cha mẹ.
Thông thường tuổi thọ con người dài hay ngắn là tùy theo hạnh nghiệp, không ai có quyền làm tăng thêm hay giảm bớt, nhưng vì quá thương cha mẹ, những người con hiếu hằng đêm thường thành tâm cầu nguyện Phật trời cho cha mẹ trường thọ để cha mẹ được sống mãi bên con:
“Ðêm đêm khẩn nguyện Phật trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Thế nhưng muốn được gần gũi cha mẹ thì con phải có bổn phận:
“Muốn cho gần mẹ gần cha,
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền”.
Hay là:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
Khi ở xa quê hương, người con hiếu luôn thương nhớ hai đấng sinh thành và không quên gởi về những nhu yếu mà cha mẹ thường dùng:
“Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Nếu ở gần cha mẹ thì con phải chìu theo sự ưa thích của cha mẹ mà dâng những món ngon, vật lạ:
“Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Ðói lòng ăn đọt chà là
Ðể cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.
Con cái hiếu thảo với cha mẹ ruột là sự thường tình, nhưng chàng rễ có hiếu với cha mẹ thật là điều hy hữu. Thế nhưng, việc này cũng đã từng xảy ra. Khi người vợ bạc bẻo, lỗi đạo phu thê, rẽ sang thuyền khác, người chồng vẫn sống độc thân, nuôi cha mẹ vợ trọn đời mà không quản gì khó nhọc:
“Chữ dâu hiền con gái
Cậu rễ thảo con trai
Bậu dù quên nghĩa trúc mai.
Qua kính thờ song nhạc, há nài công lao!”
Người đời thường bảo “thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn”. Cho nên khi vợ chồng hòa thuận sẽ làm được nhiều điều hữu ích. Do đó, chẳng những tạo được một gia đình hạnh phúc, mà còn khiến cho cha mẹ vui lòng, nhờ thế, được người đời hết lời khen ngợi:
“Em thì đi cấy ruộng đồng
Anh đi cắt lúa để chung một nhà
Ðem về phụng dưỡng mẹ cha.
Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền”
III. – Qua thơ văn
Một người con hiếu khi thấy mình càng ngày càng khôn lớn, thì cha mẹ càng trở nên già yếu, động lòng hiếu tử, nữ thi sĩ Trinh Tiên đã ước nguyện giảm bớt tuổi mình để cha mẹ được tăng thêm tuổi thọ:
“Con nguyện dâng bớt tuổi thọ mười năm,
Mười năm ấy dẫu vàng son gấm vóc
Mười năm ấy dù hương vàng châu ngọc,
Phủ che đời danh vọng cũng không ham.
Con vui chi mấy khó cảnh trần gian
Khi cha mẹ sức mòn theo hạnh nghiệp”.
(Chánh Tín, 31)
Truyện Kiều là một tuyệt tác của dân tộc. Tố Như Tiên Sinh đã dốc hết tâm lực “Máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy” mà soạn ra tác phẩm ấy. Ðoạn cảm động nhất là tiên sinh tả cảnh tượng Thúy Kiều bán mình chuộc cha:
“Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tùng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình, bên hiếu bên nào nặng hơn.
Ðể lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình
Rẻ cho để thiếp bán mình chuộc cha”.
Ðứng giữa hai sự lựa chọn bên tình bên hiếu, người conb gái không thể giữ vẹn cả hai, Kiều quyết định hy sinh tình yêu để báo đáp thâm ân cha mẹ. Thực là một sự lựa chọn khá thương tâm, đầy cao thượng, khiến cho ai xem đến cũng phải cảm thương, kính phục.
-oOo-
Xuyên qua những trình bày trên đây, tất cả đều nhằm minh họa công ơn cha mẹ là lớn lao cao cả. Do đó, phận làm con phải báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục, vì đây là nghĩa vụ thiêng liêâng nhất trong những nghĩa vụ làm người.
Tựu trung có hai cách báo hiếu: Theo thế thường và theo Phật giáo. Theo thế thường, khi cha mẹ còn sinh tiền, con cái phải chu cấp đầy đủ những nhu yếu vật chất để cha mẹ được an vui, khi cha mẹ qua đời, con cái phải phụng thờ và thực hiện những di chúc để lại. Cách báo hiếu như vậy tuy cũng tốt đẹp, đáng quý, nhưng có lẽ chưa được trọn vẹn như cách báo hiếu mà Ðức Phật đã dạy. Theo Phật giáo, khi cha mẹ còn hiện tiền, con cái không những cung phụng đầy đủ và nhu yếu vật chất mà còn phải chăm sóc cha mẹ về phương diện tinh thần. Nếu cha mẹ làm điều ác, phải khuyên cha mẹ làm điều thiện, nếu cha mẹ theo tà kiến, phải khuyên cha mẹ theo chánh kiến, hướng dẫn cha mẹ tạo nhân lành để hưởng được quả báo an vui. Vì thế, người con không những báo hiếu cha mẹ hiện tại, mà còn báo hiếu cha mẹ trong nhiều đời quá khứ, không những trả ơn cha mẹ trong một kiếp mà còn trả ơn cha mẹ trong vĩnh kiếp. Thiết tưởng đó là cách báo hiếu đúng với chánh pháp và rốt ráo hơn cả.

HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH CHAN TANH.( SADI-NI ).28/7/2012.CHUC MUNG SINH NHAT.TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).