Friday 29 November 2013

Tiền Có Khả Năng Thần Thông - Chớ Sai Lầm Nhân Quả
Theo như Hán tự, chữ tiền () là từ chữ kim () và hai chữ qua () giáo mác mà thành. Có bài kệ nói rất hay:
二戈爭金殺氣高
人人因它犯嘮叨 
能善用者超三界
不會用者業難逃.
Nhị qua tranh kim sát khí cao,
Nhơn nhơn nhân tha phạm lao đao.
Năng hội dụng giả siêu tam giới,
Bất hội dụng giả nghiệt nan đào.
Nghĩa là:
Hai giáo tranh tiền sát khí cao,
Người người vì nó chịu lao đao.
Biết dùng thời đặng thoát tam giới.
Không biết dùng khó mà thoát tội.
Qua tức là can qua, giáo mác, là một loại võ khí. Tiền được đúc thành bằng kim loại. Hai người cầm giáo tranh nhau tiền, cho nên tạo thành biết bao cảnh ác nghiệp như giết người, phóng hỏa. Anh tranh, tôi đoạt, sát khí cao ngất tận mây xanh.
Tiền tuy là giả, nhưng ai ai cũng mê mết nó. Không những người thích tiền, mà quỷ cũng thích tiền. Người sống cố tìm đủ mọi cách, phí hết tâm trí để kiếm tiền. Quỷ không có làm việc nên không thể kiếm tiền. Nhưng nó cũng có cách làm tiền, là khiến người ta đốt tiền giấy cho nó. Thật ra, quỷ đâu có cần tiền. Đốt tiền giấy là một loại mê tín, lãng phí tiền bạc, đem tiền thật hóa thành tro bụi. Loại tư tưởng ngu si nầy thật là không thể nói nổi!
Tại Á châu có một thứ phong tục là lúc còn sống, người ta tự đốt thật nhiều tiền giấy cho mình, vì tưởng rằng ở âm phủ có ngân hàng tồn khoán, chờ đến khi chết là họ sẽ được làm quỷ phú hộ. Hoặc giả họ sẽ dùng tiền đó hối lộ Diêm Vương để được giảm nhẹ tội. Họ đâu biết rằng Diêm Vương là một phán quan vô tư, mặt lạnh như tiền, ông chỉ chiếu theo công trạng mà xét xử chứ không nhận bất cứ hối lộ nào. Vì vậy, nếu muốn hối lộ Diêm Vương thì thật là uổng phí cả tâm trí. Nhưng cũng có người nghĩ như thế, cứ tưởng rằng tiền có năng lực thần thông, hễ có tiền thì mọi chuyện đều thông qua như câu nói: “Tiền nhiều có thể sai quỷ kéo cối xay,” đó là lối suy nghĩ hết sức sai lầm. Những người nầy sau khi chết nhất định sẽ đọa địa ngục. Tại sao? Bởi lúc còn sống trên thế gian, nhất định là họ đã làm nhiều chuyện trái với lương tâm. Vì muốn cứu vãn nổi thống khổ của mình sau khi chết, cho nên họ mới đốt thật nhiều tiền giấy. Họ chuẩn bị đưa cho bọn tham ô quan lại những bao lì xì đỏ, xem như để mua chuộc sự dễ dãi vậy. Loại tư tưởng nầy là lừa dối cả chính mình, thật đáng cười thay!
Tiền chi phối người thế gian đến nỗi điên điên đảo đảo, làm những chuyện sai quấy. Bà con lại chẳng chịu nhìn, mà cứ dốc lòng muốn đoạt của lẫn nhau, đến nỗi người thân trở thành người dưng nước lã, thậm chí còn xem như thù địch nữa. Đáng sợ lắm thay! Bởi vì những vấn đề đó, cho nên người tu đạo nên giữ giới tiền bạc (銀錢戒 ngân tiền giới) để khỏi bị quấy nhiễu bởi mấy thứ phiền toái như thế. Sao gọi là giữ giới tiền bạc? Tức là tay không rờ đụng tiền. Đó mới là người Phật tử chân chánh, giữ được luật Phật và chuyên trì tịnh giới. Không những tay không sờ mó tiền, mà tâm ý cũng không nghĩ đến tiền. Nếu biết rằng tiền là vật không sạch sẽ, vì có vi trùng bám vào, cho nên chúng ta hãy nên ném tiền ra khỏi chín tầng mây, coi nó là vật chẳng lành vậy.
Người tu đạo nên vì chúng sanh làm phước điền tăng, thay chúng sanh gieo phước, tiếp nhận sự cúng dường, và không được phan duyên, cũng như không được tham cầu sự cúng dường. Người tu hành chỉ nên tùy duyên, tùy phương tiện chứ không có ý đồ gì khác. Tại sao người xuất gia không thành đạo? Bởi họ không phá nổi hai cửa tài, sắc. Tài khiến người mê hoặc, sắc làm cho người điên đảo. Hai tảng đá chướng ngại nầy cản trở người tu hành, khiến người ta đắm mê không cách gì tự thoát ra được, thậm chí lại còn trôi nổi hùa theo.
Bất luận ai, hễ giữ giới tiền bạc, tự mình nên đặc biệt chú ý và hết sức cẩn thận. Tay không đụng tiền, tâm cũng không nên nghĩ đến tiền. Đừng nên bên ngoài ra vẻ tuân thủ, mà bên trong vẫn ham cầu lợi dưỡng. Nếu ai có tư tưởng và hành vi như thế thì hãy mau sửa đổi, chứ đừng biết rồi mà cứ cố phạm. Những ai dùng phương thức “ngũ tà mạng” (năm nghề bất chánh) để sanh sống, đều không thật sự là Phật tử, mà là trùng trong thân sư tử, mặc áo Phật, nương theo Phật để kiếm ăn. Nói tóm lại, hễ người có tâm phan duyên là tham tài, đều không có tư cách làm đệ tử Phật. Ai ai cũng vì tiền mà không biết nó là nguyên nhân sanh ra biết bao nhiêu phiền phức. Những ai biết dùng tiền để làm nhiều chuyện công đức như: xây trường học, mở nhà thương, làm những việc có ích cho dân chúng, lợi người, lợi mình thì họ sẽ thoát ra tam giới, khỏi bị cái khổ sanh tử luân hồi và đạt đến sự chân lạc của Niết Bàn. Nếu người không biết dùng tiền, chỉ tạo nghiệp ác, làm những việc tổn hại đạo lý thì khó thoát khỏi tam giới và bị đọa địa ngục. Cho nên nói “tài, sắc, danh, thực, thùy là năm cội gốc của địa ngục.” Hãy nhớ kỹ! Hãy nhớ kỹ! Không nên sai lầm về nhân quả. Vì nhân quả không sai chạy một tơ một hào, cũng là định luật bất biến ngàn đời, cho nên hễ quý vị sai lầm về nhân quả tức nhất định sẽ bị quả báo. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Sao Gọi Là Lòng Nhân?

Nhân giả ái nhơn là người có lòng thương yêu mọi người. Chữ nhân nầy nếu đối theo con người mà nói, nhân là sự biểu hiện lòng nhân từ, có tư tưởng tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, gọi là: “Chuyện gì mình không muốn thì đừng đẩy cho người.” Việc gì tự bản thân mình không thể chấp nhận, thì chớ gán cho ai. Nếu gán ép cho người những việc mà tự mình đã không thích, đó là người không có lòng nhân. 
Người có lòng nhân là người chịu thiệt thòi, chịu nhẫn nhục, gọi là: 
“Sơ nhi miễn cưỡng, cửu nhi tự nhiên”
 Nghĩa là lúc đầu mình cảm thấy như gượng gạo, khó chịu, nhưng thời gian lâu dần rồi cũng quen thành tự nhiên, không còn thấy bị miễn cưỡng chút nào.
Chữ nhân nầy nếu nói theo sự việc, là mình cần có lòng nhẫn nại và làm chuyện gì cũng làm cho đến nơi đến chốn. Cho nên nói: “Sự dục cầu tinh, tu dụng khổ công, công phu kỹ đáo, xúc loại bàng thông.” Muốn được việc tốt, cần phải chịu khó, khi công đã đủ, gặp chuyện biết ngay. Bất luận khi làm chuyện gì, chúng ta nhất định phải là: đã làm tốt rồi còn muốn làm cho tốt hơn, làm cho đến lúc toàn thiện toàn mỹ mới thôi. Nhưng phải làm như thế nào mới được đây? Tức là chúng ta phải có khổ công phu. 
Sao gọi là khổ công phu? Tức là một chữ “Nhẫn”.

Chữ nhẫn (
) ví như hình ảnh của trái tim () đang bị cái dao () cắm vào, cho nên đau nhức vô cùng. Đây có nghĩa là chúng ta phải nhẫn đau, phải chịu khổ, phải nhịn đói, nhịn khát, nhịn gió, nhịn mưa, nhịn nóng, nhịn lạnh, nhịn tất cả. Chúng ta phải nhịn! nhịn! nhịn! Nhẫn nhịn tất cả những chuyện không thể nhẫn nhịn. Đối với hết thảy các việc, chúng ta đều phải chịu khó, chịu khổ mà làm. Chúng ta phải ráng chịu khổ công, khi công phu đầy đủ thì tự nhiên mình sẽ được thành tựu. Đến lúc đó, chúng ta có thể “nghe một mà biết mười.” Chúng ta sẽ khai mở cửa trí tuệ và đối với mọi việc về sự, lý, chúng ta cũng sẽ hoát nhiên quán thông thấu suốt hết, tức nhìn thoáng qua một cái là biết ngay, không có gì chướng ngại cả.
Lại cũng có thể đem các hạt giống chủng tử để nói về chữ nhân nầy. Ví như khi trồng ngũ cốc, chúng ta nhất định phải chọn hạt giống lớn tốt. Bởi vì giống tốt sẽ nẩy mầm mạnh mẽ, khi đến mùa thu mới có thâu hoạch nhiều. Mỗi người nông dân đều hiểu rõ về việc nầy. Nếu chúng ta không chọn giống tốt, không cày cấy, không tưới bón thì mùa thu đến, chúng ta sẽ chẳng thâu hoạch được gì, gọi là: “Cày cấy một phần thì thu hoạch một phần.”
Tình hình các học sinh học tại trường cũng giống như thế. Khi ở trường nếu các em chịu ra công học hành và nghiên cứu hiểu rõ những đạo lý trong sách vở, đương nhiên là sau nầy các em sẽ trở thành các bậc nhân tài hữu dụng. Nhưng nếu các em không cầu hiểu ý giải thâm sâu, chỉ học qua loa cho xong chuyện, đến chừng sau khi tốt nghiệp thì chẳng có nghề nghiệp sở trường gì, cho nên các em sẽ không có khả năng tìm kế mưu sinh. Để rồi các em trở thành gánh nặng cho gia đình, là ký sinh trùng trong xã hội và bị người khinh rẻ.
Hạt giống chủng tử được phân ra làm hai loại là: chủng tử hữu tình và chủng tử vô tình. Chủng tử hữu tình có thể sanh ra bốn loại động vật như: thai, noãn, thấp, hóa. Chủng tử vô tình sẽ sanh ra thảo mộc thực vật và các loại khoáng chất như sắt, đá. 
Chúng sanh hữu tình là loài có tình có tánh. Chúng sanh vô tình là loài không có tình nhưng có tánh, gọi là: “Hữu tình vô tình, đồng viên chủng trí.” Tánh của hữu tình và vô tình thì tương thông với nhau, vì chúng vốn là một. Vô tình là tạm thời vô tình, nếu chúng có thể phản bổn hoàn nguyên trở lại bản thể, chúng cũng sẽ biến thành hữu tình. Nhưng việc nầy không phải dễ dàng vậy đâu, vì chúng phải trải qua một thời gian rất lâu mới có cơ hội phản bổn hoàn nguyên được. Cơ hội đó giống như một hạt bụi rất nhỏ trong ba ngàn đại thiên thế giới đấy. Vả lại cho dù chúng nó có chuyển thành chúng sanh hữu tình đi nữa, chúng cũng đều là loài động vật hạ cấp như con lăng quăng, con trùng, con kiến mà thôi.
Chúng ta tuy là loài hữu tình, nhưng chỉ là tạm thời chứ không phải vĩnh viễn. Nếu như chúng ta không làm người tốt thì linh tánh sẽ biến hóa suy tàn, rồi hóa thành loài thực vật vô tình. Do đó, các cây cổ thụ đều có quỷ thần trú ngụ ở bên trong. Tại sao? Bởi vì cổ thụ và quỷ thần có sự gắn bó tương thông với nhau. Người và quỷ thần cũng gắn bó tương thông với nhau, không có gì ngăn cách. Người tu hành phải hiểu rõ đạo lý nầy, đừng nên đọa lạc làm loài thực vật. Thực vật tuy có tánh, nhưng chúng không dễ gì biến thành loài hữu tình.
Hỡi các em học sinh! Mọi người đều có thể phản bổn hoàn nguyên, đều có thể thành Phật, chỉ cần các em sớm phát Bồ Đề tâm và cố gắng dụng công tu hành; nếu không, đến khi các em bị đọa lạc vào loại vô tình, biến thành loài thực vật rồi mà muốn tu hành thì khó lắm đấy. Lúc đó các em có hối hận cũng đã quá muộn màng!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Có Lòng Tham Sẽ Không Thành Tựu Được Gì.
Người tu hành nên trong sạch như con mắt của mình - không thể dung chứa dù chỉ một hạt cát. Ví như trong mắt quý vị có hạt cát, nhất định quý vị rất khó chịu và lo tìm cách để lấy nó ra ngay. Nếu không, cả thân tâm quý vị cũng chẳng sao yên được. Tu đạo cũng giống như thế. Hạt cát đó là gì? Là lòng tham. Có lòng tham thì mọi việc sẽ bắt đầu biến đổi. Bản lai vốn trong sạch, nhưng một khi trong đầu có ý tham, tức khởi động tác dụng hóa học, biến nước trong sạch thành nước dơ. Như vậy đã không có lợi cho người, trái lại còn hại cho mình nữa.
Người tu hành hễ có một phần thành tâm là có một phần thành tựu và cảm ứng, có mười phần thành tâm, sẽ có mười phần thành tựu và cảm ứng. Khi có được thành tựu và cảm ứng rồi, chúng ta không nên chấp chứa ở trong tâm. Vì là “ưng vô sở trụ” nên chúng ta hãy quên phức nó đi. Mục đích chủ yếu tu đạo của chúng ta là vì muốn liễu sanh thoát tử, chứ không phải vì cầu cảm ứng. Quý vị nên nhớ lấy! Chúng ta tu hành thì không nên có ý đồ, như cầu được thành tựu, muốn được cảm ứng, vì đó là điều sai lầm to lớn. Mọi người nên hiểu cho rõ về điểm nầy. Nếu quý vị chuyên tâm nhất chí tu hành, khi công phu đến mức thành thục rồi, tự nhiên quý vị sẽ được thành tựu và cảm ứng. Nhưng nếu tu hành mà có ý đồ, quý vị vĩnh viễn sẽ không thành đạt gì và cũng không có cảm ứng chi.
Như câu nói: “Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng.” Cảm ứng thì có thể hy vọng, nhưng không nên cầu xin.
Người tu hành nên: “Chỉ hỏi chuyện cày bừa, chứ không hỏi việc thu hoạch.” Bất luận làm việc gì, chúng ta cũng nên tận lực làm và đừng màng đến kết quả sẽ ra sao. Dù như thế nào, mình cũng nên quang minh chánh đại, điểm xuất phát là chỉ vì công chứ không vì tư, không có tâm ích kỷ riêng tư khi làm việc và không tính toán lo rầu về chuyện thành hay bại. Khi làm việc cho công chúng, chúng ta cũng nên như vậy. Chúng ta không nên lo sợ, giống như phía trước đang có sói, còn phía sau thì có cọp. Vì nếu có chuyện xảy ra, ai cũng không dám đứng ra gánh vác, rồi xô đẩy trách nhiệm cho nhau. Chuyện nhỏ mà như vậy, còn chuyện lớn thì cứ suy ra thì sẽ biết.
Đừng có vọng tưởng như người ngu, là không đi học mà muốn được bằng Tiến sĩ; không trồng trọt mà muốn thu hoạch ngũ cốc; không mua vé đua ngựa mà đòi trúng giải nhất. Đâu có chuyện tiện lợi vậy. Như mùa xuân quý vị phải lo gieo giống, cày cấy, tưới nước, bón phân, thì đến mùa thu mới có thâu hoạch được. Cho nên nói: “Một phần cày bừa, được một phần thâu hoạch,” là đạo lý tự nhiên thôi! 
Quý vị hãy chú ý, chớ nên khởi tâm tham cầu, tham thành tựu, tham cảm ứng, vì đó là chuyện mơ mộng, như đi trong cõi mịt mờ và cũng đừng nên tự dối gạt mình. Nếu như không nhận rõ được mục tiêu, bỏ gốc lấy ngọn, là quý vị lãng phí thời gian quý báu của mình mà chẳng được gì, sau có hối hận cũng đã trễ mất!HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Nhẫn Là Bảo Vật Vô Giá. 

Đã là Phật tử, chúng ta nhất định phải biết nhẫn. Nhẫn cái gì? Là nhẫn nhịn những cái người ta không thể nhẫn. Có người nói: “Tôi thật là nhịn hết nổi rồi!” Nếu chúng ta nhịn hết nổi, tức là không thể “hết” được. Hết cái gì? Là hết nghiệp chướng. Nếu nghiệp không tiêu, tình chưa không, tức là còn có sanh tử. Cho nên nói: “Nghiệp bất trọng, bất sanh Ta-bà. Ái bất đoạn, bất sanh Tịnh độ.” Chừng nào nghiệp tận, tình không, đến lúc đó chúng ta mới hết sanh tử và được giải thoát thật sự.
Người tu hành nên có công phu tu nhẫn nhục. Nhẫn đói, nhẫn khát, chịu gió, chịu mưa, chịu nóng, chịu lạnh, đến nỗi phải nhẫn sự chửi mắng, và nhẫn sự đánh đập luôn. Những cảnh nầy đều là thử thách. Như tôi thường nói: “Tất cả là khảo nghiệm, xem bạn sẽ làm sao? Đối cảnh mà không biết, phải luyện lại từ đầu.” Dù gặp nghịch cảnh như thế nào đi nữa, chúng ta cũng nên tiếp nhận với tâm lý “nghịch lại thuận thọ.” Chúng ta đừng để cảnh giới xoay chuyển, hoặc dựng cờ trắng mà đê đầu xin hàng phục. Người xưa nói: “Việc nhỏ mà không nhịn tức sẽ làm hư chuyện lớn.” Nhẫn nhịn là bảo vật vô giá: “Nhịn giây lát, gió yên sóng lặng; lui một bước, biển rộng trời xanh.” 
Khi đức Phật Thích Ca còn tại thế, có một hôm Ngài đi ngang qua bờ sông và thấy một con dã can (thuộc loài lang sói), muốn ăn thịt con rùa. Nhưng con rùa thì rút đầu, thụt cả chân tay vào trong cái mai, rồi nó nằm yên không động đậy một lúc thật lâu. Dã can vì không có tâm kiên nhẫn nên bỏ đi, còn rùa nhờ có lòng nhẫn nại mà bảo tồn được sanh mạng. Đức Phật nói với Tôn giả A Nan rằng: “Người tu hành cũng nên như vậy.” Bậc cổ đức nói: “Gần đây tôi mới học được cách của con rùa, lúc nào đáng rút đầu thì hãy rút đầu.” 
Trong lúc nóng giận mà quý vị nhịn được, thì quý vị sẽ miễn lo âu cả trăm ngày. Nếu người ta chửi mình, xem như mình đang thưởng thức một bài hát đang thịnh hành. Nếu có người đánh mình, xem như mình đi đường vô ý va vào cột cửa. Nếu quý vị quán tưởng như thế, dù là giáo mác gì cũng tự nhiên biến thành ngọc lụa. Nếu không, ngọn lửa vô minh nổi cơn lôi đình sẽ bốc cao ba trượng, mà phát thành một trận đại chiến. Kết quả hai bên đều bị thương, không những tổn thương tình cảm, lại còn mất cả nhân cách và bị người ta chê bai là mình thiếu tánh điềm tĩnh.
Cho nên nói: “Thọ tận thiên hạ bá ban khí, dưỡng tựu hung trung nhất đoạn xuân,” tức là chịu được hết trăm lần lời chỉ trích của thiên hạ, sẽ nuôi dưỡng thành khúc nhạc xuân trong tâm ta. Chúng ta có thể lấy những lời vàng ý ngọc nầy để làm câu châm ngôn cho mình.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Trước Phá Ngã Chấp - Sau Phá Pháp Chấp .
Sao gọi là ngã chấp? Tức là chấp cái “Tôi” đó. Như nói: đây là thân thể “của tôi,” kia là vật sở hữu “của tôi” đấy. Nói tóm lại, tất cả cũng đều vì cái ngã, mà chúng ta phô bày cái tôi ra phía trước. Bởi vì có tôi, không có người, không hết “ba tâm” quá khứ, hiện tại và vị lai và chưa không “bốn tướng” ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả.
Làm sao để biết chúng ta đã phá được “ngã chấp” hay chưa? Tức là phải xem xét mỗi ngày, từ lúc chúng ta thức dậy, ăn uống, cũng như các sinh hoạt thường ngày, đi đứng nằm ngồi thì sẽ biết. Trong tất cả mọi thứ cử động đó, có phải chúng ta nghĩ đến mình hay là nghĩ đến người khác? Hoặc chúng ta nghĩ đến đạo tràng? Nếu quả là chỉ nghĩ cho chính mình, lo cho mình, thì đó là người có tư tưởng Tiểu thừa - lợi cho mình mà không lợi cho người. Phật đã từng nói rằng, có loại tư tưởng như thế là “mầm khô giống héo.” Tại sao vậy? Bởi người có tư tưởng như thế thì lòng dạ rất nhỏ hẹp, ngã chấp quá nặng nề. Họ chỉ nghĩ, miễn sao cái của mình tốt là được, chứ chẳng màng gì đến cái xấu tốt của kẻ khác.
Cho nên nói: “Ma Ha Tát chẳng màng đến người, Di Đà Phật tự ai nấy lo.” Đó là tông chỉ của kẻ Tiểu thừa. Và họ xem tam giới như nhà lửa, sanh tử như oan gia nên tự lo cho mình thoát sanh tử, chứ không hề quan tâm đến sự sanh tử của chúng sanh.
Nếu chúng ta lo nghĩ đến người khác, vậy là tư tưởng lợi ích cho kẻ khác. Tự mình muốn được giải thoát và cũng muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát. Đó là tư tưởng của Bồ Tát. Nói theo cách khác, là quên mình mà làm lợi cho kẻ khác, tức là hành đạo Bồ Tát. Cho nên nói: “Phật quang phổ chiếu, Pháp vũ quân triêm.” Thực hành đạo Bồ Tát là nên dựa theo tinh thần “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.”
Nếu chúng ta thật lòng nghĩ đến đạo tràng thì nên ủng hộ đạo tràng về mọi phương diện. Chúng ta không nên vì danh, vì lợi hay có bất kỳ một ý đồ nào. Như thế mới đúng thật là ủng hộ đạo tràng. Mỗi ngày chúng ta nên phản tỉnh, tự xem xét lại đi, thời gian mà mình tính toán cho chính mình nhiều hay tính toán cho người khác nhiều, hoặc lo tính cho đạo tràng nhiều. Qua sự hồi quang phản chiếu như thế, chúng ta sẽ biết là mình đã phá được ngã chấp hay chưa. Đây chỉ là một cách nói đơn giản. Nếu nói một cách sâu sắc hơn, tức là hỏi: Có phải ngày nào chúng ta cũng sợ mình bị thiệt thòi? Phải chăng ngày nào cũng lo sợ là mình không được lợi ích gì? Nếu có những ý nghĩ đó thì nên sửa đổi, nếu không thì ráng mà tránh.
Chúng ta cũng nên phản tỉnh và tự xét xem mình có công phu nhẫn nhục hay không. Ví như có người vô duyên, vô cớ mắng mình, hoặc đánh mình, vậy mình có nhẫn nhịn được không? Mình có nổi giận không? Trong lòng mình có ý báo thù không? Nếu có tức là chưa phá được ngã chấp. Nếu không tức là đã phá được ngã chấp rồi. Quý vị hãy nghĩ cho thật kỹ đi: Tất cả các vấn đề và phiền não là từ đâu đến? Thì cũng đều do ngã chấp tác quái đấy thôi. Nếu chúng ta không phá ngã chấp, vậy thì pháp chấp lại sẽ càng không phá nổi. Bậc Tiểu thừa phá được ngã chấp, nhưng chưa phá được pháp chấp. Chỉ có Bồ Tát mới có thể phá trừ cả hai ngã chấp và pháp chấp.
Sau khi phá được ngã chấp rồi, chúng ta phải phá pháp chấp. Sao gọi là pháp chấp? Tức là chúng ta không hiểu rõ pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) do nhân duyên sanh, thành thử chúng ta chấp đó là thật có. Nếu dứt được hết các pháp chấp, tức chúng ta sẽ được viên dung vô ngại và đến cảnh giới nào cũng được tự tại. Khi cả hai ngã chấp và pháp chấp không còn nữa, như thế mới thật là người tu hành chân chánh. Người tu hành chân chánh, bất luận lúc nào, hoàn cảnh nào, tuyệt đối cũng không tính toán cho chính mình. Ngược lại, bao giờ cũng xả mình vì người và hăng hái làm việc nghĩa. Những hành vi của họ đều mang tính chất đại công vô tư, chánh trực và không thiên lệch.
Phật thuyết Tam Tạng và Mười Hai Bộ kinh điển, không đâu là không dạy người phá chấp. Nhưng chúng ta vẫn không nghe theo lời Phật giáo huấn, mà lại muốn làm kẻ phản đồ trong Phật giáo, là vẫn cứ chấp vào cái “Ngã” của mình. Tướng ngã chưa không, tướng nhân chưa không, tướng chúng sanh cũng chưa không, tướng thọ giả lại càng chưa không luôn, mà cứ chấp chặt vào bốn tướng nầy, cho nên chúng ta không thể bỏ được. Đối với đạo lý của ba tâm, chúng ta không thể hiểu, cũng không biết được rõ ràng. Tâm quá khứ vốn không thể có được, tâm hiện tại không thể có được, tâm tương lai cũng không có được luôn. Vì sao? Bởi tâm “quá khứ” đã qua rồi, quý vị đi đâu tìm lại cái tâm ấy đây? Hiện tại vốn không bao giờ dừng, quý vị nói đây là “hiện tại” nhưng “hiện tại” nầy lại đã qua rồi. Hiện tại đã không tồn tại, cho nên nói tâm hiện tại không thể có được. Tâm vị lai cũng không có được, bởi “vị lai” tức là chưa đến, mà chưa đến thì nói đến nó làm gì?
Như Kinh Kim Cang nói:
“Vô ngã tướng, vô nhân tướng,
Vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.”
Lại nói:
“Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc.”
Mấy câu kinh văn nầy, ai ai cũng đều đọc được, nhưng cũng không ai nhớ làm. Tôi hy vọng quý vị sẽ dựa vào mấy câu kinh trên mà dụng công. Một khi “bốn tướng” không còn, “ba tâm” dứt sạch, đó tức là người tu đạo chân chánh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Từ Bi Hỷ Xả Là Cơ Bản Tu Đạo.
Người tu hành nhất định là phải bồi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm. Khi có Tứ Vô Lượng Tâm rồi, mình mới có thể giáo hóa chúng sanh và khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui. Nếu người tu đạo không có Tứ Vô Lượng Tâm, tức là làm ngược lại với đạo và dù có tu đến tám vạn đại kiếp, cũng vẫn còn xa Phật đạo đến cả tám vạn bốn ngàn cây số.
Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
1. Từ là có thể cho niềm vui. Chúng ta có cho chúng sanh niềm vui không? Nếu như không có, đó tức là chúng ta không dùng hết lòng từ của mình. Chúng ta nên tiến đến mục tiêu “vô duyên đại từ,” là dùng lòng từ bi đối xử với những người không có duyên với mình. Chúng ta không những thông cảm với người cùng trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta cũng nên thông cảm với cả loài động vật trong cảnh hoạn nạn nữa. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng ta nên ra tay tiếp đỡ, giúp chúng sanh thoát vòng khổ hải. Đấy là công việc mà Phật tử nên làm. Chúng ta đừng nên có thái độ dửng dưng, chỉ biết đứng nhìn mà không chịu giúp, vì thế là đánh mất tinh thần cứu thế của Phật Giáo. Trái lại, Phật Giáo lấy từ bi làm hoài bão, dùng cửa phương tiện của đạo Phật để tiếp nhận chúng sanh.
2. Bi là có thể bạt trừ khổ não. Chúng ta có thể bạt trừ sự đau khổ của chúng sanh không? Nếu không thể, thì đó là vì chúng ta chưa dùng hết lòng bi của mìmh. Chúng ta nên có tư tưởng “đồng thể đại bi,” cũng tức là thấy người chết chìm như chính mình bị chết chìm, thấy người đói như chính mình bị đói. Phật giáo lấy bi làm tông chỉ, vì bi là lòng lân mẫn, thương xót. Trong khi các nhà Nho nói rằng “bi thiên mẫn nhân” lại cũng phù hợp với ý nghĩa trên. Do đó mà biết rằng tư tưởng của thánh nhân trong thiên hạ đều giống nhau, như cùng xuất phát theo vết bánh xe, không tách rời lòng trắc ẩn xót thương. Phật giáo chủ trương từ bi, Nho giáo đề xướng trung thành và tha thứ. Tâm tâm tương đồng, đấy là cốt tủy của tôn giáo, nếu không thì là dị thuyết của ngoại đạo.
3. Hỷ là tâm vui vẻ. Chúng ta có hoan hỷ vui thích học Phật Pháp không? Chúng ta có sanh ưu sầu, phiền não, hoặc có tâm tư bực dọc không? Nếu quả là có, chúng ta hãy mau sửa đổi, đừng phát sanh tánh tình như thế. Nếu còn chút ít tập khí, rồi dụng công phu từ thất tình lục dục, thì đó là quan niệm sai lầm. Nên hiểu là chúng ta không được tiếp tục có thứ quan niệm sai lầm như thế. Nếu không, chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi hậu quả của nó sẽ ra sao.
4. Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó - làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Làm Thế Nào Ðể Có Ðược Trí Tuệ Hơn Người?
                  
 

Chúng ta phải "mượn cái giả để tu cái chân thật", phải học hỏi trí tuệ hơn người và thần thông khó nghĩ bàn của chư Phật cùng chư Bồ Tát.
Vì sao các ngài có thể đạt tới chỗ trí tuệ hơn người? Làm sao các ngài có thể đạt được thần thông khó nghĩ bàn? Nói một cách tóm tắt, đó là vì khi còn ở nhân địa thì chư Phật và Bồ Tát bao giờ cũng tu hành một cách nghiêm túc, chân thật, và lúc nào cũng  giữ  Giới hết  sức  cẩn thận. Bất luận lúc nào các ngài cũng tự mình nêu gương, đi đứng nằm ngồi đầy đủ oai nghi. Ðối với chúng sanh, thì các ngài không ngại vất vả, sẵn sàng hy sinh, chẳng tiếc thân mạng, mà tuyệt nhiên không bao giờ tự quảng cáo hay khoe khoang công đức mà các ngài đã làm vì lợi ích của chúng sanh. Ðó là vì các ngài xem việc cứu độ chúng sanh là bổn phận và trách nhiệm của chính mình. Chư Phật và chư Bồ Tát đều có tư tưởng:

Thi ân bất cầu báo,
Dữ nhân bất truy hối.
(Ban ơn, không mong đáp,
Cho rồi, không hối tiếc.)

Đồng thời, các ngài đều có hành vi "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi" - có lòng nhân từ bao la đối với kẻ không có duyên với mình, và thực hành hạnh đại bi bằng cách xem mọi loài là cùng một thể với mình. Chính nhờ tu hành như vậy nên các ngài mới được trí tuệ hơn người và đạt thần thông khó nghĩ bàn.

Khi nghe giảng Kinh, chúng ta cần phải suy ngẫm, "tiêu hóa" các nghĩa lý mình nghe được thì mới có ích; bằng không, thì nghe Kinh tuy nhiều nhưng lại chẳng lãnh hội được những đạo lý trong Kinh, thậm chí đem các nghĩa lý của Kinh mà "đặt đằng sau ót", chẳng nghiên cứu, chẳng suy gẫm; rồi vì chỉ dùng con quỷ "tinh ranh", con sâu "lanh lợi" của riêng mình mà gây ra những chuyện hồ đồ, điên đảo. Làm điều xằng bậy như thế tức là bất hiếu với chư Phật và chư Bồ Tát, và cũng là bất hiếu với tổ tiên, cha mẹ cùng sư trưởng của họ. Thế thì chúng ta phải như thế nào? Chúng ta phải hành trì Phật Pháp một cách đàng hoàng, chân thật, không được lười biếng trễ nãi, không được phóng dật buông lung; dù ở nơi đâu chúng ta cũng nên cẩn thận, lúc nào cũng thận trọng, và phải luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, nghiêm thủ Giới Luật. Ðó là những điều kiện tất yếu mà người tu Ðạo phải tuân theo.

Nếu chúng ta có những tập khí, thói quen không chánh đáng thì nhất định phải sửa đổi. Có lỗi mà không chịu sửa đổi, còn tìm cách che đậy, thì đó chính là "trợ Trụ vi ngược", nghĩa là giúp vua Trụ làm những điều tàn ác, bạo ngược. Ân Trụ Vương, vị vua cuối cùng của nhà Thương (Trung Hoa), vốn là một hôn quân vô đạo; cho nên những người làm điều độc ác thì được gọi là "trợ Trụ vi ngược". Trong số những người tu Ðạo cũng có “Trụ Vương”. Ðó là ai? Chính là Ma Vương! Thấy Phật Pháp trở nên hưng thịnh thì Ma Vương rất khó chịu, bèn dùng trăm phương ngàn kế để phá hoại Phật Pháp, nhiễu loạn đạo tràng. Nếu quý vị có đạo tràng thì Ma Vương tới quấy nhiễu đạo tràng. Nếu quý vị không có đạo tràng thì Ma Vương sẽ quấy nhiễu thân tâm của quý vị, làm cho quý vị thân không an, tâm không ổn; một khi thân tâm bị điên đảo thì quý vị không thể tu hành có thứ lớp theo như giáo pháp được. Ðó là cách phá hoại trực tiếp. Còn cách phá hoại gián tiếp của Ma Vương là lợi dụng đủ thứ cảnh giới để dẫn dụ, mê hoặc, làm cho quý vị không còn Ðịnh lực, thần hồn điên đảo. Vì trúng phải độc kế của Ma Vương nên quý vị đánh mất chân tâm tu Ðạo, đến khi hối hận thì đã trễ! Do đó, người tu Ðạo thì tâm cần phải yên định, vững chãi như núi Tu Di; dù gặp bất kỳ cảnh giới nào cũng không động tâm. Khi ấy, Ma Vương phải đành bó tay, chỉ còn cách quăng giáp tháo chạy mà thôi! HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

Thursday 28 November 2013

Nhân Quả Báo Ứng - Tơ Hào Không Sai.
          

Nam Mô tận hư không biến pháp giới thập phương tam thế thường trụ vô lượng vô tận nhất thiết chư Phật.
Nam Mô tận hư không biến pháp giới thập phương tam thế thường trụ vô lượng vô tận nhất thiết tôn Pháp.
Nam Mô tận hư không biến pháp giới thập phương tam thế thường trụ vô lượng vô tận nhất thiết Hiền Thánh Tăng.
Nam Mô tận hư không biến pháp giới thập phương tam thế thường trụ vô lượng vô tận nhất thiết Ba La Đề Mộc Xoa.
Nam Mô Như Lai: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Đạo Phật chú trọng về nhân quả, vì sự báo ứng tuần hoàn không hề sai lệch một tơ hào. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Trồng nhân lành thì kết quả lành, trồng nhân ác thì kết quả dữ. Nếu mình gieo nhân mắng chưởi người, tức mình sẽ bị kẻ khác đánh đập. Nếu mình gieo nhân đánh người, tương lai sẽ gặt quả báo bị người giết. Cổ nhân nói: “Giết cha người, người sẽ giết cha mình; giết anh người, người sẽ giết anh mình” là vậy. Nhân nào, quả nấy. Chúng sanh như chúng ta đều là sợ quả chứ không sợ nhân. Lúc gieo nhân, chúng ta không chịu cẩn thận, đến khi kết thành quả rồi thì mới lo lắng bồn chồn. Ngược lại, Bồ Tát thời sợ nhân chứ không sợ quả. Bồ Tát rất cẩn thận khi gieo nhân, cho nên khi quả báo đến thì Bồ Tát tình nguyện tiếp nhận quả báo đó, chứ không trốn tránh. Tư tưởng của chúng sanh và Bồ Tát khác nhau là ở chỗ nầy.
Lòng người đại lượng thì phước báo quảng đại, còn nếu tâm lượng hẹp hòi thì phước báo nhỏ nhoi. Lòng đại lượng tức là hạt nhân to lớn, tương lai kết quả sẽ lớn. Chúng ta nên biết rằng: “Tất cả đều do tâm tạo.” Người xưa nói chữ “Tâm” đó như sau:
“Tam điểm như tinh bố, 
Loan câu tự nguyệt nha, 
Phi mao tùng thử khởi, 
Tác Phật dã do tha,”
tức là: 
Ba điểm chấm như một chùm sao, 
Lưỡi câu cong như trăng lưỡi liềm, 
Đội khoác da lông là từ đây, 
Làm Phật được cũng do nó đấy.

Bởi vậy chúng ta đừng nên làm các điều ác, mà hãy làm tất cả việc lành. Thành Phật cũng là do từ một niệm trong tâm. Song, con người không thể quản chế được tự tâm. Mặc dù tâm là ở trong, nhưng nó thường hay chạy ra ngoài. Vọng tưởng có thể đưa chúng ta đi xa đến thiên đường hay địa ngục, hoặc gần thì đến New York hay San Francisco. Chung quy là chúng ta không thể tự quản chế được tâm mình. Tu đạo là tu một niệm ở tự tâm. Nếu chúng ta có thể đem một niệm tâm kiềm chế vào một chỗ và chuyên nhất, vậy tức là vô sự, và khỏi phải bàn gì nữa.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Trì Giới Có Khả Năng Đào Luyện Tự Tánh.
 
Khi thọ giới rồi thì chúng ta cần phải giữ giới. Giới tức là: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, nghĩa là: Không làm các việc xấu và làm tất cả việc lành. Giới cũng là: Chỉ ác phòng phi, nghĩa là: đình chỉ, ngưng làm các việc ác và phòng tránh phạm lầm lỗi. Sau khi thọ giới rồi, chúng ta phải dựa trên căn bản: “Chỉ ác phòng phi, chư ác mạc tác và chúng thiện phụng hành” mà làm theo, đó chính là chúng ta đang giữ giới. Từ trong tư tưởng cho đến hành động, chúng ta đều nên cố gắng tận lực để ngưng làm các điều xấu ác, và cũng đem hết sức mình làm các việc tốt lành để giúp đỡ mọi người. Trong mỗi thời mỗi khắc, nên tự đề phòng những tư tưởng, hành vi không hợp lý, không hợp pháp của mình. Đó là ý nghĩa của giới đấy. Phật tử giữ giới hãy nên chú ý điểm nầy. Như vậy quý vị có thể làm theo được không?
Sau khi quy y Tam Bảo rồi, quý vị lúc nào cũng nên giữ lòng cung kính đối với Phật, Pháp, Tăng. Bởi vì tất cả do tâm tạo, nếu tâm thường cung kính Tam Bảo, lâu dần tự nhiên nó sẽ hợp nhất cùng Tam Bảo thành Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo và Giới Bảo. Quý vị đã quy y Phật, khi gặp tượng Phật thì đều nên cung kính, lễ bái. Kinh Phật cũng nên được để phía trên các sách vở thế tục và đặt ở nơi chốn tôn nghiêm. Tốt nhất là những kinh Phật nên được để ngay ngắn một cách tôn trọng, đừng bỏ trên cầu thang, nơi lối người qua lại, mà nên để ở chỗ sạch sẽ. Giờ khắc nào chúng ta cũng nên tôn kính Phật, Pháp, Tăng và Giới, nhất là trong tâm cũng không nên có chút khinh mạn, xem thường.
Trì giới tức là thanh tịnh tự tánh của mình, là quét sạch hết tất cả những đám mây đen hắc ám trong tự tánh đi; không giữ giới tức là mây đen trùng trùng vô tận. Nếu chúng ta càng không giữ giới, mây đen sẽ càng nhiều thêm, giống hệt như mây đen trên bầu trời vậy. Người không giữ giới, tức là trong tự tánh đang sanh sản đám mây đen ô nhiễm. Mình không giữ giới, thế thì không phải là người khác bị thương, mà chính là tự mình thọ thương, tự tánh của chính mình bị tổn thương thôi. Cho nên chúng ta cần phải nghiêm giữ giới luật. Trì giới là Chánh pháp, không trì giới là Mạt pháp. 
Khi nghe giảng Phật Pháp, chúng ta không cần phải tham nghe cho nhiều. Điều trọng yếu chỉ là dừng việc ác, ngừa tội lỗi, năng biết và năng hành. “Không làm các việc ác, nên làm các điều lành,” là đủ rồi.
Lúc đức Phật sắp nhập Niết Bàn, Tôn giả A Nan đã hỏi Phật bốn vấn đề. Trong đó có một việc mà ông đã hỏi như: Khi Phật còn tại thế thì chúng con lễ bái Phật làm thầy, nhưng Phật nhập Niết Bàn rồi, chúng con nên lấy ai làm thầy? Lúc bấy giờ, Phật đã nói một cách trịnh trọng với chúng đệ tử xuất gia và tại gia rằng: “Lấy giới luật làm thầy.” Cho nên khi chúng ta niệm quy y, đó cũng là niệm quy y giới, tức là lấy giới làm thầy.
Quý vị muốn chân chánh học Phật Pháp thời phải lấy giới làm thầy, chứ không phải nói giới, giới, giới trên miệng lưỡi, mà giới phải ở ngay trong tâm. Người không phạm năm giới thì trong tâm sẽ quang minh xán lạn. Đối với người phạm giới, quý vị nghe họ nói chuyện là biết họ đang có quỷ ở bên trong, khiến họ không thể dương mặt dương mày để nói năng hùng hồn, đúng với lý lẽ. Sau lưng họ chắc có sợi dây để kéo, giống như quỷ đang giựt đuôi họ, làm cho họ e sợ đấy thôi!
Bất luận tôi đi đến đâu, không hiểu tại sao, dù tôi không có đeo súng đạn hay vũ khí gì trên thân, vậy mà những người tà lý, tà khí hễ thấy tôi là họ sợ sệt. Thậm chí họ sợ đến nỗi run rẩy, nơm nớp, ngay cả nói chuyện cũng không dám nói, nhìn cũng không dám nhìn mặt tôi. Hôm nay tôi nói cho quý vị biết là tại sao thế! Bởi vì họ không giữ giới, cả ngày cứ ở trong đám mây đen, ẩn trốn trong chỗ hắc ám tối đen, cho nên mới không thấy được ánh sáng. Không giữ giới là biểu hiện của Mạt pháp. Quý vị muốn hộ trì Chánh Pháp thì phải giữ giới. Giữ giới không phải là bảo người ta giữ, mà tự mình phải giữ. Không giữ giới thì tự tánh bị thương, mà hễ tự tánh bị thương tức là nhiễm ô, đen tối, giống như tấm gương bị rất nhiều bụi bặm che phủ, cho nên nó không thể soi chiếu ai được.
Tự tánh của chúng ta giống như tấm gương trong sáng vậy. Bổn nguyên của chúng ta đều có Đại Viên Kính Trí, Thành Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí. Tự tánh là quang minh vô lượng, sáng tỏ không lường, nhưng vì không giữ giới, thành thử ánh sáng quang minh không xuất hiện được. Cho nên ký ức của chúng ta cũng không tốt, cái gì cũng không tốt cả. Tại sao con người ngu si? Bởi vì không giữ giới. Hiện nay lại còn có những đứa bé tâm trí suy nhược, năng lực thấp kém, đó cũng bởi kiếp trước chúng không giữ giới cho nên mới ngu si như ngựa, như trâu, tuy có thân người nhưng không có trí người, chẳng những ngu si mà còn điên đảo nữa.
Cũng như hôm nay, có người đến hỏi tôi rằng: ông ta là Bồ Tát thuộc cấp địa thứ mấy? Vốn ngay đến bờ rìa của Bồ Tát, ông ta còn chưa rờ tới được, vậy mà lại còn hỏi mình là Bồ Tát cấp địa thứ mấy? Quý vị nói là có đáng thương hay không chớ? Loại người như vậy cũng đều là không giữ giới, cho nên thần kinh mới phát cuồng.
Phật là bậc đại trí tuệ, ai có đại trí tuệ thì sẽ giống y hệt như Phật. Nếu mình không thể thành Phật được tức là vì mình không giữ giới. Đời đời, kiếp kiếp Phật đều giữ giới, giới nhỏ như tơ hào Ngài cũng không phạm. Bởi vậy mà Ngài chứng đắc được thân Phật, có Ba Thân, Bốn Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông. Nếu mỗi người đều có thể “không làm các việc ác, vâng làm tất cả việc lành,” thời đó tức là giữ giới. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Lòng Ích Kỷ Là Tảng Đá Vướng Chân Người Tu Đạo.
 
Người tu đạo như chúng ta dễ phát tâm dũng mãnh, nhưng khó mà lập chí cho vĩnh cửu lâu dài. Đó cũng là nói, phát tâm nhất thời, ai cũng có thể làm được đến nơi đến chốn. Nhưng nếu ngày ngày mà năng chiếu soi chí nguyện và tông chỉ của mình để làm theo, tức là điều không dễ làm.
Bởi vì con người không thể giữ tâm được thường hằng bất biến. Dẫu biết rõ tu hành vốn là việc tốt, nhưng sau một thời gian lâu thì chúng ta lại giải đãi lười biếng. Chúng ta quên mất tâm đạo, rồi để lòng tự tư ích kỷ của mình nắm hết quyền hành. Người tu đạo nếu dứt trừ được lòng ích kỷ, thì sẽ không có vấn đề gì và phiền phức gì cũng không còn. Nếu quý vị không có tâm ích kỷ, quý vị cũng sẽ không tranh, sẽ không tham, và sẽ không có mong cầu. Quý vị cũng sẽ không có cái ngã to lớn, cũng sẽ không nghĩ đến lợi lạc cho riêng mình và càng sẽ không vọng ngữ.
Vì sao chúng ta có quá nhiều tật xấu như thế? Là bởi cái tâm tự tư ích kỷ tác quái đó. Kẻ thù của người tu đạo là ai? Thật ra, kẻ thù thật sự không phải là Ma Vương, mà là tâm tự tư ích kỷ. Tâm ích kỷ của mình chính là ác tri thức của ta. Nó khiến cho chúng ta quên mất tâm đạo. Một khi lòng ích kỷ riêng tư nổi lên, nhất cử, nhất động, từng lời nói, từng việc làm của mình cũng đều là ích kỷ. Bởi vậy mình làm việc gì cũng không thành công, làm chuyện gì cũng bị hư hại. Mà nếu có thành công thì cũng là hư vọng, bởi sự thành công đó không phải là mình đạt được từ trí tuệ, công đức chân thật.
Con người vì sao không có trí tuệ chân chánh? Cũng bởi có lòng tự tư ích kỷ, cho nên từ thủy tới chung, người ta không thể đạt được trí tuệ chân chánh. Thời gian lâu dần, người tu hành bị thối lui tâm đạo, rồi quên mất chí nguyện phát tâm ban đầu của họ. Cho nên họ cứ trì kéo, dây dưa không dứt khoát hẳn hoi. Đó chính là đại chướng ngại của người tu đạo. Đại chướng ngại đó từ đâu mà sanh ra? Là từ lòng ích kỷ phát sanh. Nếu quý vị có thể giác ngộ được những câu nói trên và đuổi mấy con trùng lười biếng giải đãi chạy hết, như thế quý vị sẽ đạt được mối thu hoạch to lớn.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Vận Chuyển Càn Khôn - Thủ Trì Giới Luật.
 
Dù hiện nay đang là thời kỳ Mạt pháp, nhưng các Phật tử nên phát khởi tinh thần và lập chí nguyện Kim Cang bất hoại của mình, ngõ hầu chuyển Mạt pháp thành Chánh pháp. Chúng ta nên làm một người Phật tử chân chánh. Nếu mọi người đều chân thật làm theo, tức sẽ chuyển được Mạt pháp thành Chánh pháp. Còn nếu tín đồ Phật Giáo không biết nhận thức, không thật tâm hành trì Phật Pháp, thế thì ngay cả Chánh pháp cũng sẽ chuyển thành Mạt pháp. Vì sao vậy? Vì hễ người chánh thì pháp sẽ chánh, người nghiêng lệch thì pháp cũng sẽ nghiêng lệch. Người nghiêng lệch là người không đi theo con đường chánh lộ. Họ không giữ giới luật, nhưng lại đi tìm chỗ sơ hở của giới luật. Cũng giống như pháp luật là để duy trì an ninh cho xã hội, nhưng có một số người chuyên tìm kẻ hở của luật pháp để làm những việc phạm pháp. Như vậy ngay cả pháp luật cũng không còn tồn tại, cho nên thế giới mới bị ảnh hưởng mà bại hoại.
Thân là Phật tử, nếu chúng ta không thật lòng vì Phật giáo mà nỗ lực công tác và hy sinh, thế thì Phật giáo làm sao phát dương quảng đại cho được? Chúng ta muốn phát dương Phật giáo, chứ không phải muốn học mấy bài chú, học có được thần thông, học Mật Tông, hoặc học những thứ kỳ quái lạ lùng, hoặc học quỷ nhập thân, lên đồng, hoặc học vẽ bùa, vẽ ngải. Cho nên điều trọng yếu nhất là phải học giới luật của Phật đã lưu lại. Nếu chúng ta có thể y theo giáo điều mà tu hành, vậy là Chánh pháp sẽ trụ thế. Nếu ai nấy cũng không giữ giới luật của Phật thì đó là Mạt pháp. Vì “Nhất thiết duy tâm tạo,” tất cả đều do tâm tạo ra, cho nên pháp là ở ngay trong tâm con người. Tại sao con người lại đi đến thời kỳ Mạt pháp? Bởi vì nhiều người phạm giới, ít kẻ giữ giới; người biết giới luật thì nhiều, nhưng kẻ hiểu rõ giới luật thì ít, nên khiến người ta mơ hồ lẫn lộn. Quý vị bảo là người đó hiểu rõ, nhưng ông ta lại không hoàn toàn hiểu rõ. Nếu quý vị nói ông ta không hiểu rõ, nhưng ổng lại biết chút ít ở bề ngoài, chỉ hiểu lơ mơ một phần nào đó thôi.
Giới luật là gì? Là “chỉ ác phòng phi,” tức là dừng ác ngăn lỗi, là giúp chúng ta không làm mọi điều ác, và ngăn ngừa tất cả lỗi lầm. Cũng tức là “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” không làm các việc ác, mà làm tất cả việc lành.
Mọi người đều hiểu Năm giới của Phật dạy là trọng yếu. Vả lại giới luật cũng có mối quan hệ thân thiết với mỗi cá nhân chúng ta. Nếu quý vị giữ quy củ, không phóng dật, buông lung tức là tự tánh của quý vị đang gia tăng thêm trí huệ. Giữ giới luật thì có thể phát sanh định, một khi sanh định tức là có trí huệ. Nếu không giữ giới thời không có định, mà hễ không định thì sẽ không có trí huệ. Giữ giới ví như bầu trời quang đãng, vạn dặm không gợn mây. Nếu không giữ giới: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu, làm bậy nói càn, đó cũng ví như trên không trung đang trong sáng lại xuất hiện đám mây đen. Hễ một khi mây đen xuất hiện thì nó sẽ che khuất mặt trời, vậy là quý vị sẽ không thấy được ánh sáng. Không thấy được ánh sáng quang minh, đó chính là đen tối hắc ám; mà hắc ám chính là ngu si vô minh. Đến nỗi mất cả thân người, rồi chui vào bụng heo làm heo, vào bụng trâu làm trâu, vào bụng ngựa làm ngựa. Đó đều là do những thành tựu khoa học, những thành quả của sự thí nghiệm trong công xưởng hóa học của tự tánh con người.
Người giữ giới là người thanh tịnh được tự tánh và quét sạch hết cái đen tối trong tự tánh. Người không giữ giới thời sẽ có trùng trùng vô tận những đám mây đen. Một ngày không giữ giới, là một ngày sanh thêm nhiều mây đen.
Người không giữ giới, bởi tự tánh của họ đang sanh mây đen ô nhiễm. Nếu quý vị không giữ giới luật thì đâu phải là người khác bị thương, mà chính tự tánh của quý vị bị thương tổn đấy. Cho nên quý vị nhất định phải nghiêm trì giới luật. 
Quý vị có thể giữ giới được thì là Chánh pháp, còn không giữ giới tức là Mạt pháp.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Sanh Tử Như: Ngủ, Thức – Nhưng Vẫn Niệm A Di Ðà .
 
Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta sanh ra rồi tử, tử rồi lại sanh, giống như con người thức rồi lại ngủ, ngủ rồi lại thức. Tối đến đi ngủ thì giống như người chết. Ðến sáng thức dậy, giống như người mới sanh ra. Chẳng qua chuyện sanh tử nầy thì ngắn ngủi, còn cuộc đời thọ mạng của chúng ta, so ra thì dài hơn một chút.
Song, sanh tử thì cũng giống như chuyện ngủ, thức mà thôi. Vì sao? Bởi chúng ta có lúc hồ đồ mê muội, có lúc minh bạch sáng suốt. Minh bạch tức là sanh, hồ đồ tức là tử. Cho nên, nếu chúng ta có một niệm sáng suốt, và với niệm đó là mình đang sống; hễ có một niệm mê muội, với niệm đó là mình như đã chết. Ðó là thời gian ngắn ngủi tạm bợ của cuộc sanh tử. Bất luận thời gian sanh tử dù ngắn thì cũng vậy, dài cũng vậy, cũng đều là luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, nổi trôi chìm hụp chẳng yên. Có lúc chúng ta được sanh vào nhà giàu sang phú quý, có lúc lại sanh vào nhà nghèo hèn bần tiện. Có lúc chúng ta sanh làm trâu, làm ngựa, làm súc sanh, có lúc làm ngạ quỷ, hoặc xuống địa ngục. Ðây đều là những kiếp luân hồi, nổi trôi bất định trong biển khổ sanh tử, vì sự sanh tử tuần hoàn nầy không chấm dứt, không khi nào hết được.
Ðức Phật Thích Ca vì quá tội nghiệp chúng sanh, cho nên Ngài chờ không nổi nữa mà “bất vấn tự thuyết,” không ai hỏi mà Ngài tự nói ra Pháp Môn Tịnh Ðộ nầy. Pháp Môn Tịnh Ðộ là pháp môn phương tiện rất dễ dụng công. Ðường đi rất ngay thẳng, chỉ cần chúng ta niệm Nam Mô A Di Ðà Phật với lòng tin, lòng phát nguyện và tâm thực hành là đủ rồi.
Cho nên tín, nguyện, hành là ba món tư lương, là ba thứ lộ phí cần thiết để chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. 
Thứ nhất, chúng ta phải tin Ðức Phật A Di Ðà, tin Thế Giới Cực Lạc, tin pháp môn niệm Phật có thể đưa chúng ta đến cõi Cực Lạc để diện kiến đức Phật A Di Ðà. Chúng ta phải có lòng tin. Chớ nên nói: Tôi chưa thấy điều đó, mà cũng không có chứng cớ gì nên tôi không thể nào tin được. Chúng ta chỉ cần có lòng tin, còn ngoài ra không cần gì khác cả. Kế đến là sự phát nguyện gặp đức Phật A Di Ðà, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, nguyện tu pháp môn niệm Phật. Sau khi đã phát nguyện, chúng ta phải y chiếu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật mà tu hành. Chúng ta phải lão thật niệm Phật, tức là phải niệm Phật một cách thật thà. Niệm thật nhiều rồi, chúng ta mới có thể trở thành một khối, nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật Tam Muội. Như thế chúng ta nhất định sẽ được sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế giới Ta Bà là cõi muôn cảnh khổ nung nấu vây quanh, đầy dẫy vạn điều dữ ác, cùng những mưu tính hãm hại lẫn nhau, không có lúc nào bình an. Ở cõi Tây Phương Cực Lạc thì chẳng hề xảy ra những chuyện phiền não hay có vấn đề gì. Bởi vậy chúng ta phải mong cầu được sanh về cõi Cực Lạc, được diện kiến đức Phật A Di Ðà, được hóa sanh từ liên hoa và đạt được quả vị bất thoái chuyển. Bất thoái chuyển là: vị bất thoái, niệm bất thoái và hành bất thoái. Vị bất thoái là chứng được quả vị không thoái đọa. Niệm bất thoái chuyển là tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, thời khắc nào tâm cũng không thoái chuyển. Hành bất thoái tức tu hành theo pháp môn nầy mình cũng không thoái chuyển.
Khi quý vị chứng đắc được tam bất thối nầy, tương lai nhất định sẽ thành Phật. Một khi chúng ta có được ba món tư lương: tín, nguyện, hành rồi, thời rất dễ cho ta đi trên con đường diện kiến đức Phật A Di Ðà ở cõi Cực Lạc, bởi vì đó là nguyện lực của đức Phật A Di Ðà. Trong mười phương thế giới, nếu có chúng sanh nào thành tâm niệm danh hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật, thời người đó lúc lâm chung sẽ được đức Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn về cõi Phật.
Khi niệm Phật cũng như là mình đánh điện tín đến Thế Giới Cực Lạc vậy. Chúng ta niệm Phật một câu là đánh một cái điện tín, niệm Phật hai câu là đánh hai cái điện tín. Mỗi ngày chúng ta đều đánh điện đến đức Phật A Di Ðà, đức Phật A Di Ðà ở cõi Cực Lạc cũng có ra-đa, cũng có máy nhận điện tín. Vậy máy ra-đa, máy nhận điện tín là cái gì? Thì là ao sen thất bảo đó. Quý vị niệm Phật một câu, hoa sen lớn lên một chút. Nếu quý vị niệm niệm đều là A Di Ðà Phật, như vậy hoa sen sẽ to lớn dần như bánh xe. Chờ đến lúc quý vị sanh về cõi Cực Lạc, nhất linh Phật tánh của quý vị và nhất linh chân tánh của quý vị sẽ đến hoa sen nầy mà hóa sanh. Khi hoa sen nở, Phật tánh của quý vị cũng sẽ xuất hiện. Cho nên nói:
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thoái Bồ Tát vi bạn lữ.
Chúng ta mong muốn sẽ được hoa sen thượng phẩm thượng sanh làm cha mẹ. Khi hoa sen nở là chúng ta thấy được đức Phật A Di Ðà và ngộ nhập được vô sanh pháp nhẫn. Lúc bấy giờ chúng ta chứng được bất sanh bất diệt, thoát khỏi sanh tử, được cùng làm bạn với chư vị Bồ Tát bất thoái. Khi chúng ta đến Thế Giới Cực Lạc, bằng hữu và quyến thuộc của chúng ta đều là bạn với các vị Ðại Bồ Tát. Cho nên chúng ta ngày ngày cùng nhau giảng kinh thuyết pháp, đều cùng hướng về phía trước mà tiến tới. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
Thật Thà Niệm Phật .
 
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
“Trong thời đại Mạt Pháp, ức người tu hành, hiếm lắm mới có một người đắc đạo, duy chỉ nhờ niệm Phật mà được độ.” Trong thời đại Mạt Pháp, dù có trăm triệu người tu hành cũng chưa chắc có được một người đắc đạo. May nhờ có pháp môn Niệm Phật, mà chúng ta có thể thoát khỏi vòng sanh tử, ly khổ đắc lạc và vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta bất hạnh sanh vào thời ma cường pháp nhược, nhằm vào thời Mạt Pháp xa cách Phật quá lâu. Tuy nhiên, trong cảnh bất hạnh, chúng ta lại may mắn gặp được pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm Phật là vừa tiết kiệm tiền, lại không tổn phí tinh thần, vừa dễ dàng, lại còn thuận tiện. Nhân vì niệm Phật, chúng ta sẽ thành Phật.
Vì sao niệm Phật sẽ thành Phật? Bởi từ vô lượng kiếp trước, đức Phật A Di Ðà đã phát bốn mươi tám đại nguyện. Và trong bốn mươi tám nguyện đó, có một nguyện bảo rằng: “Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ta, mà không sanh về cõi Cực Lạc, ta thề sẽ không thành Chánh Giác.” Ðức Phật A Di Ðà phát ra những nguyện lực nầy, nguyện nguyện đều là nhiếp thọ chúng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, nhưng chỉ với điều kiện là chúng sanh phải có lòng tin. Tin là thật có đức Phật A Di Ðà đang ngự tại cõi Tây phương Cực Lạc, mà phát nguyện sẽ sanh về cõi Cực Lạc để làm đệ tử của Ngài, và thật lòng tha thiết xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật. Chúng ta phải có tín, nguyện và hành, một khi đầy đủ ba thứ tư lương nầy, tất sẽ sanh về Tây Phương.
Thế giới Cực Lạc không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui và không có ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Mặc dù nơi đó có bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, chim cộng mạng; nhưng những giống chim đó đều do đức A Di Ðà vì muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa ra. Ðây là do cảnh giới biến hóa ra, chứ không phải thật có súc sanh. Cực Lạc thế giới không có vạn khổ nung nấu, cùng muôn điều ác, ngập tràn phiền não như cõi Ta-bà.
Cõi Cực Lạc ngày đêm sáu thời đều diễn thuyết diệu pháp, niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Nhưng nếu muốn sanh về cõi Cực Lạc thì chúng ta phải niệm Phật một cách thành thật. Chúng ta không thể không thật thà niệm. Thật thà niệm là mình nhất tâm niệm Phật, và không màng đến chuyện mình sẽ thành Phật hay không thành Phật, cũng không màng về việc mình sẽ vãng sanh hay không vãng sanh, mà chỉ dụng công niệm Phật ngay tại lúc nầy. Niệm Phật, niệm cho được chuyên nhất thành thục và nhất tâm bất loạn. Ðến lúc sắp lâm chung, Phật A Di Ðà nhất định sẽ tiếp dẫn chúng ta về cõi Ngài.
Tại sao đức Phật Di Ðà lại đến tiếp đón những người bình thường như chúng ta? Ðiều nầy rất là khó tin. Không sai! Ðây chính là pháp khó tin. Cho nên không người thưa hỏi mà đức Phật Thích Ca lại tự nói ra Kinh A Di Ðà. Bởi vì không ai biết, cũng không ai tin pháp nầy, cho nên đức Phật Thích Ca với tấm lòng từ bi, tha thiết đã nói cho chúng sanh thời Mạt pháp chúng ta biết tu hành theo con đường tắt ở thời Mạt pháp đây.
Thật thà niệm Phật là miệng niệm Phật, tâm cũng niệm Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi chúng ta cũng đều niệm A Di Ðà Phật. Khẩu niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, thân hành trì theo hạnh của Phật A Di Ðà. Sao gọi là hạnh? Giống như hiện nay chúng ta đang dự Phật Thất. Bất luận là bận như thế nào, chúng ta cũng phải buông bỏ để tham gia Phật Thất, và phải niệm cho được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn tức là niệm nầy tiếp theo niệm kia, niệm niệm tương tục. Không phải là mình niệm được một lúc rồi thấy mệt mỏi, lại muốn bỏ đi nghỉ. Người mà lười biếng như thế thì không thể nào đắc được Niệm Phật Tam Muội. Ðó gọi là không thật thà niệm Phật.
Thật thà niệm Phật tức là nhất tâm, nhất ý niệm Phật. Lúc niệm Phật, những chuyện như ăn uống, mặc áo, đi ngủ mình đều quên hết. Ăn cơm, mặc áo, ngủ nghỉ vốn là chuyện thường tình, đời sống con người không thể rời bỏ được; mỗi con người ngày ngày đều không thể thiếu những điều đó. Nhưng khi niệm Phật mà có thể quên được ba chuyện đó, thế thì chúng ta không biết là mình ăn uống, mặc áo hay ngủ nghỉ gì cả, đó mới chính là thật thà niệm Phật. Nếu chúng ta biết lúc nào mình phải đi ăn cơm, đó không phải là thật thà niệm Phật. Hoặc biết là mình muốn mặc thêm áo khi trời lạnh, đó không phải là thật thà niệm Phật. Hoặc khi ngủ không đủ giấc thì mình muốn đi nghỉ, đó không phải là thật thà niệm Phật.
Thật thà niệm Phật là bất luận đi đứng nằm ngồi gì, mình cũng chỉ biết có sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật.” Quý vị niệm thành một chuỗi liên miên không đứt đoạn; cho đến tiếng nước chảy cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật,” tiếng gió thổi cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, tiếng chim kêu cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật.” Phải niệm cho đến khi Nam Mô A Di Ðà Phật và tự chính mình không thể tách rời nhau. Niệm cho đến ngoài “Nam Mô A Di Ðà Phật” không còn cái tôi, ngoài cái tôi lại cũng không còn “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Tiếng niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” của tôi và tôi hợp thành một. Bấy giờ, gió thổi cũng không thấu qua, mưa rơi cũng không lọt vào, thế là chúng ta đạt được Niệm Phật Tam Muội. Nước chảy, gió động đều là diễn thuyết diệu pháp, niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật,” đó chính là Thật Thà Niệm Phật.
Giả như nước chảy biết là nước chảy, gió động biết là gió động, hoặc nhìn ngang ngó dọc, xem các nơi có động tĩnh gì, đó tức là mình không thật thà niệm Phật. Nếu vừa niệm Phật, vừa nhìn trước ngó sau như muốn ăn trộm đồ, đó chính là mình không thật thà niệm Phật.
Thật thà niệm Phật là niệm nào đều biết niệm đó, niệm tư tại tư, không có vọng tưởng gì, cũng không nghĩ ngợi gì đến ăn ngon hoặc uống trà, chuyện gì cũng quên hết. Ðây không có bí quyết gì, chỉ cần quản chế tâm mình trụ lại và đừng vọng tưởng thì đó là thật thà niệm Phật. Nếu quý vị không khống chế được tâm mà cứ lo vọng tưởng, thế thì không phải là thật thà niệm Phật. Khi quý vị đề khởi chánh niệm, đó tức là thật thà niệm Phật. Nếu quý vị cứ nghĩ ngợi lung tung và khởi tà niệm, thế là không thật thà niệm Phật.
Cho nên niệm Phật một cách thật thà là điều vi diệu không thể nói. Nếu quý vị thật biết niệm Phật thời sẽ đạt được đại Tự Tại, không người, không ta, không chúng sanh, không thọ giả, và chỉ có tiếng Nam Mô A Di Ðà Phật mà thôi!
Nói là Pháp, hành là Ðạo. Chỉ nói mà không hành là như đếm tiền của người, mình không được lợi ích chút nào. Hôm nay tôi nói đạo lý nầy, nếu quý vị hiểu rõ rồi thì phải thật thà niệm Phật, thật thà dự Phật Thất. Ðây là thời gian quý báu nhất trong cuộc đời chúng ta, vậy đừng để nó trôi qua một cách luống uổng. Tôi hy vọng quý vị sẽ nỗ lực niệm Phật, đem cả ba tâm: kiên trì, chí thành, và thường hằng của mình ra để niệm Phật và dự Phật Thất.   HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.                      

Wednesday 27 November 2013

Giới, Định, Tuệ - Tâm Tự Tại
Hòa Thượng Tuyên Hóa
 
 
Nói đến “Giới, Định, Tuệ”, thế nào gọi là “Giới”? Thế nào gọi là “Tuệ”? Thế nào gọi là “Định”?
(1)      GIỚI: chính là “chỉ ác phòng phi” (ngưng dứt điều ác, phòng ngừa lỗi quấy), được dùng để đối trị tâm tham của quý vị. Tâm tham sẽ làm phát sanh ra niệm ác, đi tham đắm những tài vật không nên tham. Vì sao lại phát sanh loại tâm tham này? Vì không biết gì về giới. Giới chính là ngưng dứt điều ác, phòng ngừa lỗi quấy, Giới dạy cho quý vị biết đủ, biết dừng, không được tham vọng; nếu quý vị biết hành trì giới luật thì có thể đánh bại tâm tham, chiến thắng được tâm tham.
(2)      ĐỊNH: chính là “định lực”. Nếu quý vị không có định lực sẽ dễ sinh tâm sân, nhìn ai cũng thấy sai, nhìn việc gì cũng thấy không đúng. Có xảy ra chuyện gì cũng cho là quấy; thấy tất cả mọi người đều sai; khi không có ai hoặc không có việc gì thì tự mình thấy chính mình cũng sai nốt, tự nổi nóng với bản thân. Thậm chí chỉ nổi nóng với mình thì không nói, đằng nầy còn tự mình đánh mình; tự mình vả bên miệng trái một cái, người đó nghĩ: “còn bên miệng phải cũng phải đánh, nếu không nó sẽ ghen tỵ”.  
Thế nào gọi là “ghen tỵ” (吃醋)? Đây là một công án rất thú vị của người Trung Hoa. Vào thời nhà Đường có một vị vua, Ngài có một vị quan đại thần; vị quan đại thần nầy vô cùng sợ vợ. Người vợ đã dùng cách nào mà làm vị quan nầy sợ đến thế? Buổi tối vị quan về trễ một chút là bị vợ bắt quỳ gối trước giường. Vốn là một vị đại thần mỗi lần  gặp hoàng đế đều phải khấu đầu lễ lạy; mỗi lần về nhà trễ còn phải quỳ trước mặt vợ. Qùy cho đến khi nào vợ bảo “đứng dậy”, vị quan mới dám đứng dậy; còn nếu vợ chưa hạ “thánh chỉ”, chưa nói câu “đứng dậy”, có nghĩa là vẫn chưa cho phép chồng đứng lên.
Quan hệ giữa vị đại thần nầy và vua rất tốt, cho nên vị đại thần bèn đem sự việc kể lại cho vua nghe, vua bảo: “Trẫm có cách có thể trị được vợ của khanh, làm cho bà ta từ đây về sau không quản thúc khanh nữa!” Vị đại thần vui mừng thưa: “Hoàng thượng có cách gì vậy?” “Khanh không cần hỏi! Trẫm nhất định có cách giúp khanh trị được vợ của mình!”
Thế là hoàng đế liền hạ một đạo thánh chỉ, cho gọi phu nhân của vị đại thần vào cung; vị phu nhân nầy giống như con cọp, “một con cọp cái” đi vào hoàng cung, hoàng đế liền nói với bà: “Khanh đó! Vì sao chồng của khanh đi về trễ một chút, khanh liền bắt chồng quỳ gối trước giường? Làm như vậy là không đúng! Huống hồ chồng của khanh lại không có quan hệ lôi thôi với những người phụ nữ khác; nhưng cho dù có quan hệ đi nữa, khanh cũng không nên quản thúc chồng như thế! Nếu như từ đây về sau khanh chịu sửa đổi, không quản thúc chồng nữa, thì trẫm xem như không có chuyện gì, tha cho khanh vô tội; còn như khanh vẫn cứ kềm hãm chồng của mình, không để cho ông ấy được tự do, thì trẫm sẽ xử khanh tội chết, ở đây trẫm có một chén thuốc độc, khanh sẽ phải uống nó!”  
Quý vị biết vị phu nhân kia đã xử trí ra sao không? Người đàn bà nầy thật có dũng khí, đã trả lời vua một cách rất dũng cảm rằng: “Thế cũng tốt! Thần bằng lòng chết ngay trước mặt bệ hạ!” thế là bà cầm lấy chén thuốc độc uống ngay. Trong chén nầy vốn không phải là thuốc độc, mà là dấm; vua cố ý nói chén dấm nầy là chén thuốc độc để xem phu nhân có dám uống hay không. Người đàn bà nầy thật là dũng cảm, không cần suy nghĩ gì liền bưng lấy uống ngay! Thà chết chứ không chịu thả lỏng chồng; cuối cùng may mắn đó là một chén dấm, uống vào trong bụng bất quá bị chua một trận là cùng, chứ không hề nguy hiểm gì đến tánh mạng.
Thế là từ đó về sau, Trung Hoa có thêm công án “uống dấm” nầy; ý nghĩa của nó là: vợ giữ chồng, giữ rất chặt, cho đến thà chết chứ không thả lỏng, nhất định phải giữ chặt lấy chồng.  Điều đó cho thấy người có tánh nóng nảy, không có ai bên cạnh, người đó không chịu nổi chính mình, tự mình đánh mình. Vì sao vậy? Vì tánh nóng của người đó quá lớn, không có người bên cạnh để đánh thì đánh chính bản thân mình vậy. Tại sao lại đánh mình? Tại người đó không có định lực! Cho nên cần phải tu định. Người tu định có được định lực thì sẽ không có tâm sân; vì sao quý vị có tâm sân hận, nóng nảy, nổi cáu lớn như thế? Đó là bởi vì quý vị không có định lực.
(3)      TUỆ: Vì sao quý vị ngu si? Vì quý vị không có trí tuệ. Suốt ngày toàn khởi vọng tưởng, bị tâm vọng tưởng chi phối không ngừng; đó là vì không có trí tuệ, cho nên việc gì cũng không nhận rõ. Người có trí tuệ được gọi là “sự lai tắc ứng, sự khứ tắc tịnh”, việc gì đến thì tùy thuận theo đó mà làm; xong việc, hết việc rồi thì để cho tâm được rảnh rang, không để cho sự việc mãi chi phối tâm mình, như cách nói “tâm vi hình dịch” không để cho tâm mãi làm nô lệ cho thân. Vì sao vậy? Vì quý vị không có trí tuệ, không đủ khả năng làm chủ bản thân, trái lại còn bị nó chi phối. Nếu như có trí tuệ thật sự thì tất cả những việc xảy đến quý vị đều có thể nắm lấy mấu chốt để giải quyết (迎刃而解) —giống như cầm lấy con dao bén, bất luận có việc gì xảy đến  đều dùng mũi dao thật sắc xuyên thủng qua chúng! Đây gọi là “nắm lấy mấu chốt để giải quyết”, xử lý vấn đề.
Chúng ta là người học Phật pháp phải nhận định rõ ràng tất cả mọi sự việc. Hôm nay tôi nghe Quả Chương dạy Hoa văn cho chúng ta nói rằng: “Người không hiểu rõ Phật pháp quả là người ngu si nhất; người hiểu rõ Phật pháp mới là người có trí tuệ”. Đây thật là lời cách ngôn, rất có đạo lý! Vậy chúng ta là người có trí tuệ thì không ngu si; người ngu si thì không có trí tuệ.
Tôi còn muốn nói với quý vị một câu chân thật là: Cái “ngu si” đó quý vị biết nó có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là “trí tuệ”! “Nói lên như thế, có thể sẽ có người cho rằng tôi giảng hàm hồ! Cái gì mà ngu si chính là trí tuệ, trí tuệ chính là ngu si? Thế thì tại sao còn phải học trí tuệ, mà không cần đến ngu si?” Qúy vị không nên xét cách nói nầy của tôi theo lẽ thường tình. Điều tôi muốn nói là “bản thể của ngu si” có thể trở thành trí tuệ; chứ không phải nói rời xa cái ngu si nầy mà đi tìm trí tuệ nào khác. Trí tuệ nầy vốn có ở trong cái ngu si của quý vị, chỉ là quý vị chưa biết sử dụng nó. Nếu quý vị biết sử dụng thì nó chính là trí tuệ; không biết sử dụng thì nó chính là ngu si. Điểm mấu chốt chính là ở chỗ nầy!
Định nói ở trên cũng chính là sân; sân cũng chính là định. Nếu quý vị thật sự muốn có được định thì ở ngay nơi chỗ sân hận nầy có thể biến thành định lực. Nếu quý vị thật sự muốn giữ giới thì ngay chỗ tham muốn cũng có thể biến thành giới mà không phải đi tìm cầu ở bên ngoài. Những cái nầy đều có đủ trong tự tánh của quý vị, nếu quý vị biết sử dụng thì nó chính là “Giới, Định, Tuệ”; nếu quý vị không biết sử dụng thì nó chính là “tham, sân, si”. Điều mầu nhiệm chính là ở điểm nầy; cái quý vị không hiểu rõ cũng chính ở điểm nầy.
“Đạt đến trình độ làm được lợi ích cho bản thân” (Đãi đắc kỷ lợi): “đãi” nên giảng là “cập”, có nghĩa là “đến”. Đãi đắc kỷ lợi chính là đạt đến trình độ làm được lợi ích cho bản thân. Thế nào là làm được lợi ích cho bản thân? Vì những vị A la Hán nầy “đã dứt hết các lậu, không còn bị phiền não”.
Vì sao chúng ta không làm được lợi ích cho bản thân? Chính là vì chúng ta còn chạy theo sự được mất; nếu như bây giờ không còn bất kỳ lậu hoặc và phiền não nào thì lúc bấy giờ mới được gọi là “đạt được lợi ích cho bản thân”. Lợi ích thực sự là gì? Tự mình thật sự hiểu rõ đó chính là đạt được trí tuệ chân chánh; người không có trí tuệ sẽ không đạt được lợi ích thật sự. Có được trí tuệ, chứng đắc quả vị A la hán, đây mới được gọi là “đạt được lợi ích tự thân”. “Kỷ lợi” chính là “tự mình đã giác ngộ”, cũng gọi là “tự giác” hay “tự lợi”. Qúy vị lại có thể đem đạo lý mình đã giác ngộ đi giáo hóa cho tất cả chúng sanh thì gọi là “lợi tha” hay “giác tha”, cho nên thường nói chung là “tự lợi lợi tha, tự giác giác tha”. Hiện tại số đại A la hán nầy đều đã đạt được tự giác nhưng chưa thể giác tha, cho nên chỉ có “tự mình lợi ích cho chính mình” chứ chưa “làm lợi ích được cho người khác”.
“Không còn sự trói buộc vào trong các cõi” (Tận chư hữu kiết): Tận là không còn; không còn cái gì? Không còn “sự trói buộc” vào trong “các cõi”. Cái gì gọi là sự trói buộc vào trong các cõi? Các cõi đó là cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới; ba cõi nầy còn gọi là “tam hữu”. “Tam giới, tam hữu” nầy nếu chia chẻ ra lại có “hai mươi lăm cõi” nữa. Hai mươi lăm cõi trong tam giới chính là:
Bốn châu bốn ác thú, sáu cõi dục Phạm thiên;
Bốn thiền bốn không xứ, Vô Tưởng Ngũ Na Hàm.
“Bốn châu, bốn ác thú”. Bốn châu là Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Giá châu, Bắc Câu Lô châu. Bốn ác thú là  loài A tu la, loài ở trong địa ngục, loài ngạ quỷ, loài súc sanh; những nơi nầy xấu nhất cho nên gọi là cõi ác. Tại sao gọi là “hữu”?  đó là “cõi có tạo nghiệp”, có tạo ra những tội nghiệp nầy. Bốn châu và bốn cõi ác kể trên đều ở trong dục giới.
“Sáu cõi dục, Phạm Thiên” là sáu cõi trời dục giới và cõi Phạm Thiên thứ sáu của sắc giới. Tổng cộng có bảy, cộng với tám cái trên thành mười lăm. Sáu từng trời cõi dục là cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Đao Lợi, cõi trời Dạ Ma, cõi trời Đâu Suất, cõi trời Hóa Lạc, cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
“Bốn thiền, bốn không xứ”. Bốn từng thiền ở cõi trời sắc giới là cõi trời Sơ thiền, cõi trời Nhị thiền, cõi trời Tam thiền và cõi trời Tứ thiền. Có người không hiểu rõ Phật pháp cho rằng mình đã đạt đến Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền là ghê gớm lắm; kỳ thật người đó vẫn còn ở trong hai mươi lăm cõi của tam giới, căn bản vẫn chưa thể nói là có được thành quả gì, nếu nói về vấn đề tu đạo thì đã xa lại càng xa. Thế nhưng lại có một số sư phụ hàm hồ bảo với mọi người rằng đây là một loại cảnh giới cao nhất.
Giống như tỳ kheo Vô Văn lấy từng thiền thứ tư làm quả vị thứ tư, vị ấy đạt đến cõi trời Tứ thiền lại cho rằng mình đạt được quả vị thứ tư; về sau, khi vị ấy bị đọa lạc lại hủy báng Phật rằng: “Phật nói người chứng được quả vị thứ tư sẽ không còn sanh tử, tại sao bây giờ tôi lại bị đọa?” Vị ấy vừa hủy báng Phật như thế liền đọa vào bốn ác thú, vĩnh viễn không ra khỏi. Không chỉ một mình vị ấy đọa vào địa ngục mà mấy vạn đệ tử của vị ấy cũng đọa vào địa ngục theo thầy, nên nói:
Không rõ truyền không biết, cả hai đều mờ mịt;
Sư phụ đọa địa ngục, đệ tử cùng theo gót.
(mộng đổng truyền mộng đổng, nhất truyền lưỡng bất đổng;
Sư phụ hạ địa ngục, đồ đệ vãng lý củng).
Đệ tử cũng đọa vào địa ngục theo Thầy, sư phụ bèn hỏi đệ tử: “Các ngươi đến đây làm gì?” Đệ tử thưa rằng: “Thưa Sư phụ, Thầy đã đến nơi nầy, chúng con đương nhiên là phải theo với Thầy!” Sư phụ vừa nghe xong kinh ngạc: “Ồ, làm thế nào mình lại dẫn đệ tử vào trong địa ngục?” Bản thân các đệ tử cũng không hiểu mình đã đến đây bằng cách nào. Quý vị nói xem việc nầy thật là…Những người đệ tử nầy quả là thương mến sư phụ của mình nhất, sư phụ đọa địa ngục, bọn họ cũng theo vào; thật đáng thương vô cùng!
Bốn không xứ chính là cõi trời Không Vô Biên xứ, cõi trời Thức Vô Biên xứ, cõi trời Vô Sở Hữu xứ, cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ của vô sắc giới.
“Vô Tưởng, Ngũ Bất Hoàn” là cõi trời Vô Tưởng của sắc giới và cõi trời Ngũ Bất Hoàn. Cõi trời Ngũ Bất Hoàn là một cõi trời khác có tên gọi là Ngũ Bất Hoàn chứ không phải là năm cõi trời.
“Bốn châu, bốn ác thú” là tám cái; “sáu cõi dục, Phạm Thiên” là bảy cái; bảy cộng với tám thành mười lăm. “Bốn thiền, bốn Không xứ” là tám cái; thêm vào “cõi trời Vô Tưởng” và “cõi trời Ngũ Bất Hoàn” thành ra mười cái. Mười lăm cộng với mười thành hai mươi lăm. Đây là hai mươi lăm cõi trong tam giới.
Không còn sự trói buộc trong các cõi chính là siêu vượt tam giới, không còn ở trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới, cho nên nói là “ siêu vượt ra ngoài tam giới, không ở trong ngũ hành”, như thế mới thật sự gọi là liễu thoát sanh tử.
“Tâm được tự tại”: lúc bấy giờ trong tâm của các vị đại A la hán nầy vô cùng an vui; tự tại là an vui. Không còn tự tại nào bằng, không còn an vui nào bằng! Cho nên vì sao bồ tát Quán Tự Tại được gọi là “Quán Tự Tại?” Chính là Ngài ngồi ở chỗ đó, suốt ngày đều được an vui, tự tại vô cùng, không hề có chút phiền não, tâm đạt được tự do thật sự! Do Ngài đạt được trí tuệ chân chánh cho nên có được sự an vui vô cùng. Niềm an vui nầy là niềm an vui thật sự lưu xuất từ nội tâm, chứ không phải cố ý làm ra vẻ mừng vui cười ha hả. Niềm vui thật sự ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài. Qúy vị không nên cho rằng suốt ngày cười ha hả mới là vui, mà trái lại đó chính là phiền não! Đó chính là điên đảo! Vì sao vậy? Qúy vị nhìn thấy sự việc mình ưa thích thì liền bị lôi cuốn theo niềm ưa thích đó (bị cảnh giới lay chuyển). Đó là vì quý vị không có định lực cho nên mới bị sự ưa thích lôi cuốn, cười vui ha hả. Đó có cái gì là an vui thật sự không? Không hề có! Cho nên mới nói đó là điên đảo. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.28/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.