Thursday 31 July 2014

Khinh chê, rao nói lỗi người xuất gia là tự hại mình

 
 Đức Thế Tôn từ bi chỉ đường tội phước rõ ràng, mà hàng Phật tử chúng ta bởi quá si mê, nên có nhiều người đã lãng quên; vì lòng tật đố thị phi, gây biết bao khẩu nghiệp!
* Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: "Nếu Phật tử nào, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni; hoặc bảo người rao nói tội lỗi; hoặc từ nhân, từ duyên, từ cách thức, cho đến từ nghiệp, rao nói những tội lỗi trong Phật pháp; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội." Lại nói: "Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm chê điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội." Lại nói: "Chúng sanh mỗi ngày ba nghiệp tạo vô lượng tội, nhứt là khẩu nghiệp." (Đại lược)

Đức Thế Tôn từ bi chỉ đường tội phước rõ ràng, mà hàng Phật tử chúng ta bởi quá si mê, nên có nhiều người đã lãng quên; vì lòng tật đố thị phi, gây biết bao khẩu nghiệp!

* Trong Kinh Đại Tập, Như Lai bảo: "Nếu hàng vua quan đánh mắng người xuất gia giữ giới hoặc phá giới, sẽ mang tội đồng như làm cho trăm ức thân Phật ra huyết. Nếu thấy người mặc áo cà sa, không luận kẻ giữ giới hay phá giới, nên sanh tâm tưởng như Phật."

Kinh Đại Tập đã nói như thế, thì hàng Phật tử xuất gia cho đến tại gia nếu có lầm lỗi, tất sẽ chuốc lấy khổ báo riêng về phần họ, ta chỉ sanh tâm thương xót chớ không nên khinh chê. Niệm tôn trọng thương xót khiến thêm lớn phẩm lành, tâm khinh mạn chê bai, lại đi vạch nói việc thi phi của người, chỉ tổn phước đức mình, và đa mang phần khổ lụy! Cho nên người biết tu, hằng thủ phận, lo xét ngó vào mình để tự sửa chữa. Trái lại, mình còn nhiều lầm lỗi mà không xét nghĩ, lại đi vạch nói chê bai người, là kẻ chưa ý thức về việc tu.

Cổ ngôn có câu: "Ngã khuy nhơn thị họa, nhơn khuy ngã thị phước." Câu này hàm ý nghĩa: "Ta làm tổn người là họa, người làm tổn ta là phước." Đối với người tu, khi bị kẻ khác thị phi khinh báng, nên sanh tâm nghĩ rằng: kẻ ấy là người đem phước đến cho mình. Tại sao thế? - Bởi chúng ta từ vô thỉ đến nay gây ra tội chướng vô biên, nếu bị một lời khinh chê, tất được giảm bớt một phần tội nghiệp. Đó chẳng phải là điều phước lợi cho mình ư? Còn kẻ khinh báng tất sẽ chịu quả khổ, ấy là lẽ dĩ nhiên; bởi họ mê lầm tự chuốc lấy tai họa.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.
nuoc mat ngai muc kien lien muon thuo van con nguyen

Lúc mới bước chân vào cửa đạo, tôi vô cùng xúc động khi đọc kinh Vu Lan Báo Hiếu diễn tả Đức Thế Tôn trên đường hoằng hóa, Ngài đã quỳ lạy đống xương khô bên vệ đường, rồi giải thích cho đệ tử về công ơn cha mẹ. Tôi không cầm được nước mắt, nghĩ rằng Đấng Đạo Sư còn vậy huống chi là chúng ta. Và từ đó cho đến suốt cả quãng đời, tôi chọn đạo Phật là lý tưởng để tôn thờ và noi theo. Bởi lẽ, tín ngưỡng tôn giáo là phải có giá trị nhân bản đích thực. Nếu không bắt nguồn từ nhân bản thì tôn giáo chỉ là ảo vọng xa vời. Hơn nữa sinh ra trong cuộc đời, ai cũng từ lòng cha mẹ mà có, chứ ai tự nhiên mà sinh ra đâu! Nhân bản đích thực ở chỗ đó, tức là con người phải có cội nguồn và như vậy mới được lịch sử chấp nhận.

Khi lớn lên, dần dần tôi đi sâu vào giáo lý của đạo Phật, tôi tìm trong kinh điển những đoạn nói về công ơn sinh thành dưỡng dục để rút ra bài học đạo lý ở đời. Lại một lần nữa tâm tư tôi chấn động mạnh khi đọc đoạn kinh diễn tả Ngài Mục Kiền Liên lúc chứng đạo, điều đầu tiên mà Ngài thực hiện là quan sát trong Tam đồ Lục đạo để tìm mẹ đang ở đâu? Rồi Ngài cứu mẹ thoát khỏi chốn khổ đau và từ đó hình thành lễ Vu Lan Báo Hiếu trải dài trong lịch sử nhân loại gần 3.000 năm. Cũng suốt từ chặng đường dài ấy, biết bao hình ảnh hiếu thuận của chư liệt vị Tổ Sư, của chư Tôn Đức quá khứ và hiện tại, phụng dưỡng và báo hiếu song thân một cách đích thực và hiệu quả. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rung động tâm hồn khi nghe lời Phật dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Gặp thời không có Phật, phụng thờ cha mẹ là phụng thờ Phật.” Ôi cao cả thay! Một tôn giáo của con người.
 
Ngày nay, đọc báo chí, xem truyền hình hàng ngày, chúng ta vô cùng đau xót khi nhìn thấy những đứa con đuổi cha mẹ ra đường để chiếm lấy đất đai nhà cửa, đành đoạn để cha mẹ trở thành kẻ ăn mày cho mình được sung sướng hưởng thụ chỉ vì đồng tiền đượm mùi phi nhân. Tôi tự hỏi tại sao như vậy? Phải chăng tiền bạc vào nhà thì tình nghĩa phải đội nón ra đi! Tất cả rồi được cái gì đây khi mà đạo lý không còn?! Ước gì những đứa con bất hiếu ấy có một phút tỉnh ngộ để thấy rằng cuộc đời dù tiền rừng bạc bể cũng chỉ là ảo ảnh phù du, chỉ có cha mẹ mới là vĩnh cửu.
 
Ai ơi! Mỗi năm đến dịp rằm Vu Lan tháng Bảy, chúng ta hãy thao thức về niềm hiếu hạnh mà nếp sống dân tộc Việt Nam đã gắn liền với đạo Phật. Bên cạnh những giá trị hùng tráng của một nền triết lý siêu việt thì đạo Phật đi vào cuộc sống con người bằng một phong thái dung dị và hòa ái. Quê hương yêu dấu Việt Nam đã đón nhận dòng suối mát của đạo Phật như đón thở khí trời thoải mái và khoáng đạt. Tháng Bảy Vu Lan báo ân cha mẹ, đền đáp tứ trọng ân chính là dịp chứng tỏ tình cảm đạo vị và trái tim tình yêu quê hương. Mong rằng ai đó dừng lại một phút suy nghĩ để tìm ra chân lý muôn đời: “Không có gì cao cả bằng tình cha nghĩa mẹ.” Và tư duy rằng: Bất luận nền đạo đức luân lý nào, bất luận xã hội thời đại nào, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây luôn lấy chữ HIẾU làm đầu. Vì thế phải biết thể hiện lòng hiếu thuận, phải biết gạn đục khơi trong mới tiếp cận cuộc sống Chân - Chân - Thiện - Mỹ, mới xây dựng được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và tương lai.

Chỉ có như vậy thì nghĩa cử của Đức Thế Tôn lạy đống xương khô không trở thành vô nghĩa. Chỉ có như vậy giòng nước mắt của Ngài Mục Kiền Liên không khô cạn trong lòng người. Và cũng chỉ có như vậy cuộc sống của thế nhân mới được ngày càng tốt đẹp. 

Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, xin đốt lên nén hương lòng tôn vinh giòng nước mắt thương cha nhớ mẹ của những ai đang hiện diện trong cuộc đời này để mãi mãi nước mắt Ngài Mục Kiền Liên muôn thuở vẫn còn nguyên.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.

Tại sao pháp tự của tu sỹ Phật giáo thường bắt đầu bằng chử ''Thích''?

 
 Pháp tự của đệ tử nhà Phật thời kỳ đầu không có chữ Thích (ví dụ các ngài Ma-Ha Ca-Diếp, Mục Kiền Liên, Tu-Bồ-Đề… là đại đệ tử của Phật đều không sử dụng chữ Thích).
Khi Phật giáo truyền qua Trung Hoa tới thời nhà Tấn, Ngài Đạo An xướng xuất việc lấy họ Thích làm họ cho người đi xuất gia, rồi từ sự kiện, chính Ngài theo phong tục cổ truyền, trước đó theo học với Ngài Trúc Phật Đồ Trừng ngài Đạo-An lấy luôn tên là Trúc Đạo An và sau vì lấy cớ những người đi xuất gia đều lấy đấng Thích Tôn làm gốc, vì thế Ngài đổi tên là Thích-Đạo-An cho đến sau nữa Ngài Thích Tuệ Viễn nối nghiệp thầy mà cũng xưng là Thích Tuệ Viễn.  Kịp đến thời nhà Đường, Ngài Tu Năng khi dâng sớ lên Vua Đường Cao Tôn để xin cáo từ việc cớ già yếu hay bệnh cũng xưng là Thích Ca Tuệ Năng. Sau đó Phật Giáo truyền qua Việt Nam thông qua đường Trung Hoa (Bắc Tông) nên Việt Nam cũng học theo.
 
Theo sự dịnh nghĩa danh tự thông thường thì chữ Thích có nghĩa: cởi ra, nới ra, giải thích rõ ràng nghĩa sách tỷ dụ như chữ Thích-Hỗ là giải thích cho rõ nghĩa một chữ, một câu: Thích Huấn là giải thích cho rõ những lời huấn giáo.
 
Ngoài ra, chữ Thích lại cũng có nghĩa buông thả như trong sách có chữ: “Kiên trì bất thích” tức là giữ vững không buông, và, chữ “Khai thích vô cô” tức là buông tha cho kẻ không tội.
 
Chữ Thích cũng lại còn có nghĩa tiêu tan hết những nỗi sân hận trong lòng như giảng câu “Tâm trung vi chi thích nhiên” phải hiểu rằng trong lòng đã được tiêu tan hết cả phần nào điều sân hận không còn vướng vấp một chút ân hận, não phiền gì nữa.
 
Tuy nhiên, chân nghĩa chữ Thích mà các vị tu hành đặt trước pháp hiệu chỉ có nghĩa đơn thuần là:
 
a) Coi mình là Thích tử, tức là đệ tử của Phật, bởi theo quan niệm Trung Hoa từ đời Tấn cho rằng những ai theo đạo của đức Thích Ca phải nên lấy theo họ Thích mà chữ Thích tức là họ Thích Ca cho dễ xưng hô.
 
b) Một vị tu theo hạnh khoáng nhiên không vướng mắc phiền não thế cảnh.
 
Pháp danh gồm hai chữ: Chữ đầu chỉ sự liên hệ đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó. Chữ thứ hai là do vị Bổn Sư chọn lựa dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh) để tạo thành một chữ kép mang ý nghĩa hay, đẹp và có tính khuyến tu. Do Thích bắt nguồn từ Thích Ca chỉ Phật, rất cao quý nên không được đặt bừa bãi mà chỉ có những người chân tu cao đẹp thật sự mới nên sử dụng pháp danh này.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.

Nhận diện chánh giáo và tà giáo.

 
  Thời đại vàng thau lẫn lộn, người thiếu thiện căn khó mà phân biệt khi chỉ biết nghe và thấy những lời dạy thuận theo sở cầu, sở dục cá nhân. Thà chấp nhận pháp hành tiệm tiến Nhân đạo, Thiên đạo còn hơn là làm dân ma vĩnh viễn trầm luân.
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chánh giáo và tà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chánh và tà?
Trước khi đi vào vấn đề, cần có một điểm chung khi tham gia vào vấn đề phân tích. Nếu cứ mạnh ai nấy bảo lưu ý riêng, không đồng nhất điểm chung thì việc Chánh Tà chỉ là tiếng sét của vịt nghe sấm. Vậy vấn đề đầu tiên của những người đứng trong giáo lý nhà Phật mà nhận xét, tất cả những giáo lý trong và ngoài Phật giáo y cứ trên kinh tạng nhà Phật đó là Tam Pháp Ấn (vô thường - vô ngã - niết bàn và trên pháp hành: Giới (Sila), Định (Samadhi) và Tuệ (Panna). Những giáo lý không đủ yếu tố trên, được coi là tà giáo, ngoại đạo.
Nhưng như thế vẫn chưa được xem là chuẩn. Những thế kỷ mà giữa Nam truyền và Bắc truyền chưa được giao lưu văn hóa của nhau, giáo lý "Nguyên Thủy" xem giáo lý "Phát Triển" là ngoại đạo. Thiền xem Tịnh là Bà La Môn giáo. Tịnh xem Mật của Kim Cang Thừa là tà đạo... mãi đến khi hành trạng được xóa nhòa ranh giới, mỗi tông môn thể hiện cách hành chứng của mình, mới đủ minh chứng tinh thần giải thoát của nhà Phật. Nghĩa là những phương tiện hành trì, do căn cơ khác nhau, chư tổ lập môn khác nhau, do tướng dị biệt, đã tạo một nhận xét bên kia giới tuyến hiểu lầm nhau.
Ví dụ Kim Cang Thừa, so với Thiền, lễ nghi và hành trạng quá ư phức tạp, để rồi, đứng trên tinh thần Kinh Kim Cang: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai", xem lối hành lễ của Mật là âm thanh sắc tướng, vội phủ nhận tính căn bản của tông phong Mật thừa. Có đi sâu vào Kim Cang Thừa mới thấy được tính uyên thâm đi từ sự đến lý, đi từ tướng vào tánh để rồi Tánh Tướng viên dung. Vũ Trụ Tướng được thể hiện qua Ngũ Phương Bát Thức, nhập vào Tỳ Lô Giá Na Tạng. Hành giả hành trì miên mật qua các công đoạn được tẩy rửa nghiệp thức để khai phát tuệ giác.
Cũng thế, theo tinh thần tự giác, Phật giáo phủ nhận một Thần Tượng, một tha lực làm cho hành giả ỷ lại; với tính chuyên cần của một hành giả, giáo lý nhà Phật luôn khích lệ sự nổ lực cá nhân, khác hẳn các tôn giáo Thần quyền. Do vậy, Tịnh tông bị nhìn dưới cái hiểu là Thần giáo, ỷ lại và van xin một đấng giáo chủ. Do tính câu chấp chưa tìm hiểu thấu đáo mà sự ngộ nhận chia rẽ các tông phái phát sinh. Với Tín-Hạnh-Nguyện, Phước Huệ song tu của Tịnh Tông thì không thể bảo là Bà La Môn giáo, vì nó đòi hỏi hành giả nổ lực, tinh cần hơn là van xin ỷ lại.
Nhìn hành tướng đánh giá dễ sai lệch, nhưng mấy ai, do tính bảo thủ pháp hành của mình, không chịu tìm hiểu thấu đáo bổn môn của Tông phong khác trong cùng một tín ngưỡng!
Rõ ràng, Thiền Tịnh Mật đều có đủ những yếu tố của Tam Pháp Ấn và Tam Vô Lậu Học, nhưng hành tướng có sự dị biệt đến độ tương phản nhau.
Chánh và Tà trong cùng một tín ngưỡng:
Nếu y cứ Tam Pháp Ấn hoặc Tam Vô Lậu học để xác định là Chánh - Tà cũng chưa đủ. Ví dụ, kẻ tà tâm dùng kinh điển giáo lý nhà Phật để mưu lợi, lừa đảo… thì kinh điển được kẻ tà tâm sử dụng như thế không thể bảo là Chánh: Tà nhơn hành chánh pháp, chánh pháp thị tà Pháp!
Vì vậy, ngoài cốt tủy của tinh thần giáo lý, còn tùy phương tiện sử dụng và mục đích sử dụng. Ngày nay, Tàu và Việt Nam, phần lớn dùng kinh điển nhà Phật đi xa mục đích giải thoát, và hình tướng tu sĩ cũng bị một số lợi dụng làm hoen ố, đánh mất phẩm giá cao đẹp của hình tướng Như Lai. Thế thì, Chánh và Tà còn phải đứng ở một góc độ khác tinh tế hơn để thẩm định.
Một tu sĩ chân chánh, vì phương tiện độ kẻ sơ cơ, dùng ngoại pháp để độ người về với chánh pháp, thì không thể xem đó là tà pháp: Chánh nhơn hành tà pháp, tà pháp thị chánh pháp.
Dĩ nhiên phương tiện đôi khi đưa hành giả đi xa mục đích ban đầu, để gọi là dĩ huyễn độ chơn, nhưng rồi chơn đã bị huyễn độ trở thành mê tín như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã...
Chánh Tà không cùng tín ngưỡng:
Thời Đức Thế Tôn hiện tiền cũng như ngày nay, bàng môn tả đạo đầy dẫy như cỏ hoang, người muốn đến với giải thoát khó mà phân biệt Chánh Tà. Được trang bị giáo lý qua Tam Pháp Ấn và Tam vô Lậu học cũng chưa chắc đã khỏi bị lầm lạc vào chốn vô minh.
Thí dụ, Ngoại giáo cũng lập cứ trên tinh thần cuộc sống là cõi tạm: "sống tạm thác về". Cõi nầy là khổ đau, không thật, hãy lập công trạng để vinh danh... để làm đẹp lòng giáo chủ, sau khi thác, được hưởng đời đời hạnh phúc an lạc trên cao...
Và cũng có Giới luật khắc khe riêng, có pháp hành riêng, có tuệ tri riêng… Tam Pháp Ấn đó, Tam Vô Lậu Học đó của ngoại giáo làm sao tín đồ môn phái đó được biết Chánh hay Tà?
Những pháp thuộc tục đế như bùa thuật, Năm Ông, Ngũ hành, luyện tinh binh... dễ phân biệt tà thuật; riêng những pháp như Tiên gia, Yoga, đạo thuật... cũng giúp hành giả thoát khỏi trần tục, nhưng chưa hẳn đã giải thoát luân hồi.
Trong lục đạo, từ cõi Nhơn đến cõi Thiên, nếu hành giả không đủ năng lực tự giải thoát luân hồi, thì ngũ giới và thập thiện của nhà Phật cũng giúp tín đồ giải quyết, tránh xa con đường đi xuống cảnh giới thấp. Dĩ nhiên cõi Nhơn và chư Thiên có một phước báu nhất định và còn bị ràng buộc trong sanh tử luân hồi. Nếu đủ phước thì sẽ gặp Phật Pháp tiếp tục tiến tu. Nếu căn cơ sâu dày thì một đời gặp minh sư dứt hẳn sanh tử.
Quan điểm của ngoại giáo vẫn là thoát tục nhưng không nói đến giải thoát, chấm dứt sanh tử luân hồi. Họ vẫn tránh xa ác pháp tội lỗi; không sát sanh và giới luật gần với đạo giải thoát. Vì thế, không thể bảo là Tà giáo, mặc dù chưa đúng chánh đạo hoàn toàn. Họ có khuynh hướng đi lên, nhưng khả năng giới hạn.
Một số hành giả đạt được tâm linh tương tự sự giải thoát của các hành giả Phật giáo. Trạng thái tâm thức lọt vào cảnh giới "không vô biên xứ, thức vô biên xứ" nhưng còn vi tế ngã vì chưa diệt sạch vi tế vô minh, có thần thông. Họ chưa nắm rõ biến trạng của ngũ ấm ma qua 50 trạng thái mà Lăng Nghiêm mô tả, vì thế bị ấm thức lạc dẫn, tự cảm nhận mình là một Phật sống, là chúa tể, là đấng sáng tạo có nhiều quyền năng... Giáo lý đúng là giáo lý giải thoát, nhưng hành trạng lại là vọng tưởng của ấm ma; chính vì thế mà bản thân đã bị lạc dẫn, những tín đồ nương tựa cũng không biết mình đang bị lưới vô minh bủa vây. Đây thật sự là Chánh Tà khó phân.
Tóm lại, vấn đề Chánh - Tà không thể ý cứ vào giáo lý, vào pháp hành mà còn nhiều yếu tố tinh tế khác, yếu tố quan trọng nhất vẫn là vi tế ngã trước quần chúng. Chư Phật, chư Tổ không tự nhận mình là một giáo chủ, chứng tỏ không còn vi tế ngã. Đời sống đạm bạc thanh thoát một phần thể hiện đức giải thoát; không tích trữ, không hưởng thụ. Lời dạy không lưu dấu tục đế như chim bay qua không gian không để lại bóng hình. Dù hành giả của Phật giáo hay ngoại giáo đạt đến vô ngã, vị tha...đều là chánh pháp, ngược lại, đều là Tà pháp.
Thời đại vàng thau lẫn lộn, người thiếu thiện căn khó mà phân biệt khi chỉ biết nghe và thấy những lời dạy thuận theo sở cầu, sở dục cá nhân. Thà chấp nhận pháp hành tiệm tiến Nhân đạo, Thiên đạo còn hơn là làm dân ma vĩnh viễn trầm luân.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.

Áp dụng Bát chánh đạo để xây dựng đời sống an lạc, hạnh phúc.

 
 Trong cuộc đời đau khổ trên thế gian này, khi gặp những việc tai biến, những sự bất trắc, những chuyện bất như ý, con người thường có khuynh hướng cầu nguyện van xin tổ tiên ông bà, thánh thần thiên địa, ngọc hoàng thượng đế, Bồ Tát, Phật Tổ, từ bi gia hộ, thương xót cứu giúp, tai qua nạn khỏi, cho được bình yên...
Nhưng thực ra, chúng ta ai ai cũng hiểu rằng việc cầu nguyện chỉ có tác dụng giúp cho con người được an tâm trong giây phút cầu nguyện đó thôi. Có mấy ai cầu gì được nấy? Cầu xin không được đáp ứng, chẳng lẽ thiên địa không bác ái, Bồ Tát không từ bi? Còn Ðức Phật cứu độ chúng sanh bằng cách nào, như thế nào?
 
image
Ðạo Phật không chỉ dạy cầu nguyện như là cứu cánh. Theo quan niệm của Phật giáo, cầu nguyện được xem như những lời chúc lành, những mong muốn thiết tha, với mục đích vị tha bất vị kỷ, vì người không vì mình, một cách phát tâm đại từ bi. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho quốc thới dân an, chúng sanh an lạc. Chúng ta làm được việc tốt gì, có được công đức hay phước báu nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ được mạnh khỏe bình yên, sống lâu trăm tuổi. Song việc đó có được hay không, còn tùy phước duyên của cha mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng nói lên được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là mọi người hãy tự mình tích cực chuyển hóa thân tâm của mình, bằng cách cố gắng học hiểu giáo lý của đạo Phật, đó là ngọn đuốc Chánh Pháp, soi đường chỉ lối, giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau của cuộc đời, khi thực sự đem áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ðó là cách duy nhất thập phương tam thế chư Phật cứu độ chúng sanh. Người Phật Tử chân chánh cần nên nhớ kỹ điều này.
* * *
Theo giáo lý của đạo Phật, con người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời khổ nhiều vui ít, nhưng không tư tưởng tiêu cực, không bi quan yếm thế, không ngán ngẩm chán chường. Trái lại, con người tích cực tìm phương cách để được giác ngộ và giải thoát, không thụ động chấp nhận, không cầu nguyện van xin. Ðể giúp chúng sanh được sống an vui, xả trừ triền phược, cắt đứt trói buộc, dẹp tan phiền não, thoát ly đau khổ, trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật thuyết minh "Bát Chánh Ðạo".
Bát chánh đạo là phương pháp giản dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của chúng sanh, nhằm mục đích cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp đỡ con người bỏ tà đạo theo chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng sanh hướng về, tiến đến một đời sống chí diệu cao siêu, hay ít ra cũng xây dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì vậy, "Bát Chánh Ðạo" còn được gọi là "Bát Thánh Ðạo".
Bát chánh đạo là con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1.- CHÁNH KIẾN:
Trước hết, chúng ta nhận thức mọi sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp trên thế gian, khắp pháp giới, đều do nhân duyên sinh, không trường tồn và sẽ biến diệt. Ðó là "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", hai chánh kiến quan trọng mọi người cần thấu triệt.
A. - Thế nào là chánh kiến? - Chánh kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là con người cần có sự hiểu biết và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh kiến có ích lợi giúp con người không sống trong mê lầm, điên đảo. Người có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không thay đổi trắng đen, không kỳ thị xấu tốt, không phê phán hay dở. Chánh kiến là sự hiểu biết và nhận thức không bị tập quán, thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt, ngăn che và làm sai lạc. Người có chánh kiến hiểu biết tường tận thế nào là chánh tà, chơn ngụy, đại tiểu, thiên viên, nhưng với tâm bình thường, tâm chính trực và tâm bất tùy phân biệt.
a) Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng biết: "Gieo nhân nào gặt quả nấy". Thí dụ như có hột cam gieo xuống đất, gọi là "nhân", cộng thêm nước tưới, ánh sáng, phân bón, công chăm sóc, gọi là "trợ duyên", chúng ta sẽ gặt hái được "quả cam", sau một thời gian nào đó. Không thể nào gieo hột cam ngọt lại gặt quả chanh chua được, hay ngược lại. Lý nhân quả còn được gọi là lý nhân duyên.
* Không bao giờ có quả mà không có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có khói, gieo gió mới gặt bão, sinh sự thì sự sinh. Không thể có chuyện tự nhiên có cái cây mọc lên, mà không có hạt giống trong đất. Không thể có chuyện tự nhiên chúng tới chửi mình, mà mình chẳng có làm gì hết, trong kiếp này hay những kiếp trước! Ðó là chân lý. Ðó là lý nhân quả hay lý nhân duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn từ và ý niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách đất gì hết, chỉ biết trách mình, cho nên không còn phiền não và khổ đau nữa. Trái lại, chúng ta tích cực sửa đổi tâm tánh, làm sao cho mỗi ngày một tốt đẹp hơn, để cuộc đời được sáng sủa hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.
* Việc này sinh ra do việc kia đã sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ, dù quan trọng hay bình thường, mà không do có chuyện khác xảy ra trước đó. Thí dụ như chúng ta có cái bánh để ăn, nguyên do trước đó có bột, có đường và có công thợ, dĩ nhiên cũng do chúng ta có tiền mua. Thí dụ như: Cơ thể phát phì nguyên do ăn uống quá độ. Nghèo túng nguyên do làm biếng. Bệnh tật nguyên do thiếu vệ sinh. Con cái không có tình thương đậm đà nguyên do cha mẹ không thường xuyên chăm sóc, gần gũi. Thiên hạ thù ghét nguyên do lời nói khó nghe. Vợ chồng lục đục nguyên do thiếu sự cảm thông, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
* Muôn sự muôn vật trên thế gian này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi việc không do ông trời, không do một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào tạo ra cả. Có người cho rằng: chính con người sinh ra thượng đế, bởi vì thượng đế chỉ là sản phẩm do con người tưởng tượng mà thôi. Mỗi đạo giáo, mỗi dân tộc, mỗi thời gian, có mỗi quan niệm khác nhau về thượng đế. Thượng đế, nếu có thực, không thể để cho các người thế gian lợi dụng danh nghĩa và phải là đấng chí công vô tư. Tại sao lại có những chuyện: trời thương người này hơn người kia, cho người này sung sướng hơn người kia, người này sinh ra khỏe mạnh, trong cảnh giàu sang, người kia sinh ra tật nguyền, trong cảnh nghèo khó, dân tộc này giàu sang sung sướng, dân tộc khác nghèo nàn khổ cực?
Theo giáo lý của đạo Phật, sở dĩ người này khác người kia về phương diện này hay phương diện nọ, bởi vì mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác nhau, cho nên nhận nghiệp quả khác nhau. Cũng như người làm bánh thì ăn bánh, người nấu chè thì ăn chè. Chính mình làm mình hưởng. Chính mình làm mình chịu. Ðó mới thực là chí công vô tư vậy.
b) Lý vô thường: Chúng ta ai ai cũng biết: "Có sinh ắt có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên thế gian này đều không tồn tại vĩnh viễn. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là bất cứ vật nào có hình tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả núi, tòa nhà, nhỏ như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả đều hư vọng, đều trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Mọi vật sinh ra, trụ thế một thời gian ngắn dài, rồi cũng biến dị và cuối cùng cũng bị diệt mất! Thí dụ như: Cây bông hồng từ hạt giống trong đất sinh ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe hương sắc, ít ngày sau héo úa, tàn lụi, trở thành phân bón cho bông hồng khác sau này. Cuộc đời cứ như thế tiếp diễn không ngừng, đạo Phật gọi là "sự luân hồi", cũng như bánh xe quay mãi, quay mãi vậy.
Hiểu được như vậy, khi của cải vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao, khi con cái lỡ tay đập bể hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu, thậm chí khi người thân đến lúc qua đời, chúng ta sẽ không khổ đau nhiều. Hiểu được như vậy, khi gặp một việc tai biến, một sự bất trắc, một chuyện bất như ý, thậm chí tán gia bại sản, người thân biến thành kẻ thù, chúng ta cũng sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì rồi cũng sẽ qua, có gì tồn tại mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua hơn thua, cái mạng sống này còn không giữ được nữa, huống là thứ gì khác trên đời này? Có ai sống mãi không chết? Có ai trẻ mãi không già? Có ai khỏe mãi không đau? Ðó là lý vô thường. Có câu: Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết. Cuộc đời cứ như thế xoay vần đổi thay, không bao giờ dừng. Thường xuyên quán chiếu, tin sâu "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", cuộc đời của con người sẽ an lạc và hạnh phúc hơn.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sinh. Nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: Muôn sự muôn vật trên thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là sinh. Muôn sự muôn vật do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí dụ như: Một chiếc xe mới được hình thành do tất cả các bộ phận, các phụ tùng ráp lại, tạm gọi là sinh. Ðến khi xe hư, các phụ tùng, các bộ phận được tháo rời ra, chiếc xe không còn nữa, tạm gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại của chúng ta cũng vậy, hình thành do đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là sinh. Sống đời một thời gian nào đó, khi hết nhân duyên, thì cát bụi trở về với cát bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi vì khi đó, chính là lúc chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang chuyển động đó vậy.
B. - Thế nào là tà kiến? - Ngược lại, tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo quan điểm của Phật giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh đều là tự nhiên, không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp, đó là tà kiến và mê tín. Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả nghiệp báo, chủ trương định mệnh, phủ nhận kết quả của hành nghiệp, đó là tà kiến và mê tín. Quan niệm thương ghét khác biệt giữa người và người, giữa người và vật, coi thú vật sinh ra để nuôi sống con người, đó là tà kiến và mê tín.
Cố chấp thành kiến, quan niệm phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi tới kết luận, người nào không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị trừng trị nghiêm khắc, phải bị đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến và mê tín. Chấp theo thần thoại, đồng bóng bói toán, xem sao giải hạn, định hướng nhà cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn cứ, làm bể cái gương, điềm không may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa, mùng năm mười bốn hăm ba của dân ta, con số 13 của dân tây, cho là xui xẻo, đó là tà kiến và mê tín. Ðốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, áo quần, hình nhơn bằng giấy, cho người chết xài dưới âm phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không may đau bệnh, không khám bác sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc, không chịu kiêng cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt uống, nước tiên nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ sinh, cũng đem về uống, đó là tà kiến và mê tín.
Nói chung, những điều gì phản khoa học, trái với chân lý, không theo lý trí, chẳng thể xét suy, không thể kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến và mê tín. Tà kiến và mê tín thường có nơi những người có lòng cố chấp nặng nề, chấp ngã và chấp pháp, dù người bình dân, hay kẻ học thức, ở ngoài thế gian, cũng như trong đạo. Ðức Phật ra đời, thuyết pháp độ sinh, phá màn vô minh, dẹp tan tà kiến, mê tín dị đoan, chỉ nhằm mục đích, khai thị chúng sanh, ngộ nhập trí tuệ bát nhã, trong Kinh Pháp Hoa, gọi là Tri Kiến Phật, để được giác ngộ và giải thoát.
2. - CHÁNH TƯ DUY:
Sách có câu: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn luôn nghĩ tốt, nghĩ đúng, nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm thiện, và nói tốt, nói đúng, nói thiện. Người thiện tâm là người có tâm trí luôn luôn được bình an, thảnh thơi, thư thái.
A. - Thế nào là chánh tư duy? - Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người cần phải nghiệm xét, nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn, hợp với chân lý, không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người. Chúng ta thường xuyên suy nghĩ đến "giới, định, tuệ" để tu tập giải thoát, suy nghĩ nguyên nhân gây đau khổ cho chúng sanh, để giải thích và khuyến tu, suy nghĩ những hành vi lỗi lầm, những lời nói sai trái và những tâm niệm xấu xa của chính mình để sám hối và cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là chánh tư duy. Chư Tổ có dạy: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự". Nghĩa là quay lại chiêm nghiệm, suy xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự của chúng ta. Chánh tư duy có ích lợi giúp con người không sống trong đen tối, không phạm lỗi lầm do mê tín dị đoan.
 
Ngày xưa, thời Ðức Phật còn tại thế, có một người con của vị quốc sư, tên là Ma Ha Ca Chiên Diên, đến với Ðức Phật xin được xuất gia tu hành. Ðức Phật hỏi nguyên do nào ông phát tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi vì ông chiêm ngưỡng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi thân tướng Như Lai già yếu, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ hai, ông lại đến xin được xuất gia. Ðức Phật lại hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn trọng pháp âm vi diệu của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi Như Lai không thuyết pháp, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ ba, ông lại đến xin được xuất gia. Ðức Phật cũng hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục chư tăng tu hành nghiêm túc, cẩn mật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi tình cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn phát tâm nữa sao?
 
 
Ba lần xin được xuất gia đều không toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán tam bảo bên ngoài: Phật, Pháp, Tăng. Lần sau cùng, ông đến với Ðức Phật và bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn, từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết pháp, con đã suy nghĩ tường tận chín chắn. Sau đó, đem áp dụng cho bản thân, áp dụng trong gia đình, con thấy có ích lợi thiết thực, tâm được khinh an, gia đạo được yên vui. Cho nên con phát tâm xuất gia để tu hành rốt ráo, cho đến giác ngộ và giải thoát, để tự lợi và lợi tha. Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn rủ lòng từ bi hứa khả. Lần đó, Ðức Phật chấp nhận. Sau này, Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên trở thành vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong tăng đoàn thời Phật.
Lời tác bạch của Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà Phật: Ngài đã nghe Ðức Phật thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một cách chín chắn tường tận, mới đem áp dụng vào đời sống của Ngài và của gia đình. Ðó chính là ba bước "văn, tư, tu" để phát triển trí tuệ bát nhã. Văn có nghĩa là nghe, là học hỏi, là nghiên cứu. Tư có nghĩa là tư duy, là suy nghĩ chân chánh. Tu có nghĩa là sửa đổi, là thực hành, là áp dụng. Còn được gọi là "Tam Tuệ Học" trong Phật giáo. Ba lần đầu, Ngài hướng lòng tôn kính đến tam bảo bên ngoài, nên chưa được chấp nhận.
 
Sau cùng, Ngài biết "phản quan tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết đường hướng tu hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng về bản tánh sáng suốt của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi diệu của tự tâm gọi là Pháp, hướng về bản thể thanh tịnh của tự tâm gọi là Tăng. Do đó Ngài được chấp nhận, bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, con người đến với đạo Phật bằng cửa trí tuệ, chứ không phải bằng niềm tin như các tôn giáo khác. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai". Ðó chính là chánh tư duy vậy.
B. - Thế nào là tư duy bất chánh? - Ngược lại, sự suy nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy bất chánh. Người nào suy nghĩ đến chuyện tà thuật để mê hoặc lòng người, suy nghĩ đến những phương cách sâu độc để hại người hại vật, suy nghĩ đến mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài sắc danh vọng, đều gọi là tư duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy nghĩ đến chuyện lợi mình hại người như vậy, chắc chắn cuộc sống không bình an, luôn luôn bất ổn, hại người nên sợ người hại, gạt người nên sợ người gạt.
3. - CHÁNH NGỮ:
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người". Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh".
A . - Thế nào là chánh ngữ? - Chánh ngữ là lời nói chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời thật thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt; lời nói ngay thẳng hợp lý, hòa nhã, rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung hòa, khuyến tấn và duy nhất. Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có ích lợi, đem lại hòa bình, yên vui cho mọi người mọi nơi. Người giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không thiên vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa.
Cổ nhân có dạy: "Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi nói luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Ðạo bổn vô ngôn thuyết", bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn không thể nói, không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên được, đó chỉ là phương tiện hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là phương tiện. Mặt trăng mới là mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng gọi là thấy đạo, kiến đạo. Cho nên muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay thế này thế nọ.
 
Tục ngữ có câu: "Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Trong xã hội hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu trên, xã hội sẽ an vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái trên thuận dưới hòa, cộng đồng trên kính dưới nhường, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu. Một lời nói nói ra làm cho người nghe hoan hỷ, nụ cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó gọi là chánh ngữ vậy.
B. - Thế nào là tà ngữ? - Ngược lại, lời nói bất chánh hay tà ngữ là lời nói không chánh đáng, phi lý, tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người. Một lời nói ra có khi làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim, có khi ngất xỉu tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay nghiến, nguyền rủa, nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình người khác, đó là lời nói đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy nên hồ, lộng giả thành chơn, có nói không, không nói có.
 
Một lời nói ra có khi làm người khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu khống cáo gian, vu oan giá họa cho người. Một lời nói ra có khi làm người khác lầm lẫn, đó là lời nói không đúng sự thực, không ngay thẳng, thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc, ngụy biện, trau chuốt, với mục đích thủ lợi. Một lời nói ra có khi làm người khác xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời nói dối trá, gây chia rẽ, đâm bị thóc thọc bị gạo, có di hại cho mọi người và muôn vật. Những người có nhiều tự ái, thường khó lòng nhịn được khi nghe những lời nói trái ý, không thuận theo ý mình, thường hay tranh cãi bằng mồm hoặc bằng thư rơi.
Có những lời nói vô nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng hạn như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Lời nói đó thực ra vô nghĩa lý, bởi vì mình không ngu, mình không phải là con bò, cho nên không cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy. Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa, không nên chấp vào lời nói. Ðược như vậy, chúng ta bớt nhiều phiền não trên thế gian này.
4. - CHÁNH NGHIỆP:
Con người thường có ba nghiệp, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần chánh ngữ và ý nghiệp thuộc phần chánh niệm.
A. - Thế nào là chánh nghiệp? - Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân chánh. Nghĩa là con người nên chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách ngay thật, có ích lợi chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có ích lợi giúp con người mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung quanh.
Người giữ gìn chánh nghiệp là người dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động, cử chỉ, cách cư xử của mình, để không làm thương tổn đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc và tánh mạng của mọi người. Người giữ gìn chánh nghiệp là người hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của mọi người và muôn vật, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản của mọi người, không trác táng, tận tâm với chức nghiệp, biết hy sinh để giải thoát khổ đau cho mọi người.
Người giữ gìn chánh nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh. Kinh sách có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là nếu biết giữ gìn tam nghiệp luôn luôn được thanh tịnh, chúng ta cùng với chư Phật, hiện đời sống trong cảnh giới niết bàn, tự tại giải thoát, không phiền não, chẳng khổ đau, không sợ địa ngục, chẳng cầu niết bàn.
B. - Thế nào là tà nghiệp? - Ngược lại, tà nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng, phi lý bất lương, tổn hại mọi người. Ðó là các hành vi sát hại bạo tàn, giết người hại vật coi như trò giải trí, thú vui tiêu khiển, vui thích trên sự đau đớn của con người và của con thú, trộm cắp của cải, chiếm đoạt tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện kiếm tiền, ăn chơi trụy lạc, xa hoa trác táng, khuyến khích người khác xa hoa trác táng, thượng đội hạ đạp, giẫm lên người khác để tiến thân, bất chấp thủ đoạn, sáng tác thư rơi, đe dọa mạng sống, nặc danh khủng bố, tinh thần người khác.
5. - CHÁNH MẠNG:
 
Có một vị thiền sư khi tuổi đã cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi người khác, các đệ tử thấy vậy bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của thầy. Ngày đó, vị thiền sư không làm việc được, nên chẳng chịu ăn uống, và dạy rằng: "Một ngày không làm là một ngày không ăn".
A. - Thế nào là chánh mạng? - Chánh mạng là mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh sống một cách chánh đáng, có đời sống lương thiện, ngay thật, trong sạch, không bạo tàn, không hèn mạt. Chánh mạng có ích lợi giúp con người có cuộc sống bình đẳng, tương kính, không bị rẻ khinh. Người giữ gìn chánh mạng là người sống một cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình, lợi người, không ăn bám ai, cũng chẳng ăn không ngồi rồi. Người theo đúng chánh mạng là người sinh sống theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của mọi người, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực làm việc, không tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng chân chánh, không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không luồn cúi, không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không mê tín dị đoan.
 
B.- Thế nào là tà mạng? - Ngược lại, tà mạng là sinh sống bất lương, gian tham, không chánh đáng, phi lý, phạm pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián tiếp đến mọi người, làm tổn hại chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ thịt, moi óc bẻ sừng, vặt lông làm đồ trang sức, may áo may quần, cúng trăng cúng sao, tiên đoán vận mệnh, xem quẻ bói xăm, coi tuổi tình duyên, tương lai gia đạo, ăn gian nói dối, lường gạt mọi người, giao dịch gạt gẫm, sáng chế vũ khí, giết người hại vật, chế đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn cướp bằng ba năm làm, sống theo lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi, đó là tà mạng.
6. - CHÁNH TINH TẤN:
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy: "Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì khó. Ví như nước chảy mãi, đá cũng phải mòn". Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật có dạy: "Người học đạo phải nên kiên tâm, trì chí, tinh tấn, dũng mãnh, không sợ cảnh khổ trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt thành đạo quả".
A.- Thế nào là chánh tinh tấn? - Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh. Nghĩa là con người siêng năng làm những việc có ích lợi cho mình và cho người. Chánh tinh tấn có ích lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh tịnh, tốt đẹp hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng năng chuyển hóa tâm trí, cải đổi tánh tình.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác.Sách có câu: "Có công mài sắt có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí, nhẫn nại phi thường, trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng, không khuất phục, để đạt cho bằng đượChúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là: Không bao giờ nên làm các điều ác, các điều bất thiện, dù là nhỏ nhặt. Luôn luôn tinh tấn làm tất cả các điều thiện, dù là điều thiện rất nhỏ. Tự thanh tịnh tâm ý của chính mình. Ðó là lời dạy của thập phương tam thế chư Phật. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng siêng năng sám hối, trừ bỏ những lỗi lầm tội ác đã sinh, siêng năng tu tập các pháp lành, ngăn ngừa tội ác chưa sinh, siêng năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát triển việc lành, siêng năng tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm cho phát sinh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi thay, không chút chán chường. c mục đích cao cả của mình. Người tu theo hạnh tinh tấn của Bồ Tát Ðại Thế Chí, làm các việc thiện, cứu người giúp đời, không biết mệt mỏi, không hề nản lòng, không màng tính toán, không chút so đo, không chịu ngừng nghỉ, mặc dù đang gặp nghịch cảnh, đang mắc khổ nạn, đang gặp oán thù, mặc dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng vẫn bình thản. Ðó là chánh tinh tấn vậy.
B.- Thế nào là tinh tấn bất chánh? - Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm những việc bất chánh. Ðó là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm cắp. Có những người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc, sáng tác thư rơi, dua nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa phung phí, phỉ báng mọi người. Cũng có những người siêng năng bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, soi mói đời tư, viết thư nặc danh, ngụy tạo chứng cớ, thưa gởi kiện tụng, làm khổ chúng sanh.
7. - CHÁNH NIỆM:
Trong Kinh Ðại Tập, Ðức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề". Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Không hạnh phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí".
 
A. - Thế nào là chánh niệm? - Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người có những ý niệm chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát. Chánh niệm có ích lợi giúp con người sống trong an ổn, yên vui, không tạp niệm, ngày ăn ngon, tối ngủ yên. Người giữ gìn chánh niệm là người dè dặt với ý nghiệp, luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất nước, ân mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm để sửa đổi. Người giữ gìn chánh niệm là người sống trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Ðể giúp giữ gìn chánh niệm, Ðức Phật có dạy bốn phương pháp tập trung tư tưởng như sau: quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Các pháp quán tưởng này được gọi là "Tứ niệm xứ". Tứ nghĩa là bốn. Niệm nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ nghĩa là nơi chốn.
a) Quán thân bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là tập hợp những thứ bất tịnh, không trong sạch, nhơ nhớp, được bọc ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm. Khi mạnh khỏe thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai nạn, bệnh hoạn, già nua, thân mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm ghiếc, da dẻ nhăn nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu nổi! Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn lại!
 
b) Quán thọ thị khổ: Nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ. Do tâm tham lam, con người thọ nhận đủ thứ vật chất của cải để vinh thân phì gia, không cần biết của thọ nhận chính hay tà, bo bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận đủ thứ lời nói khó nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức tối, bất an, sinh lòng thù oán. Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng mười năm báo thù không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he thưa kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người, dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện rất đơn giản, thực hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
c) Quán tâm vô thường: Nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền thiện lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài, kinh sách gọi là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa tai thì vui thích. Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức tối. Nếu chỉ chạy theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, con người tạo tác không biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
Trong kinh sách có câu: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm của chúng ta không còn dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm của chúng ta sẽ được khinh an, tự tại, niết bàn và thiền định rồi đó vậy.
d) Quán pháp vô ngã: Nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản thể nhứt định, gọi là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự vật vật trên cuộc đời, không có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng chuyển biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi cũng qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp của thế gian. Chẳng hạn như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", hoặc "Sau cơn mưa trời lại sáng".
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Chư pháp tùng nhân duyên sanh. Chư pháp tùng nhân duyên diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sinh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có cái gì, vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm với người. Người ta chửi mãi mõi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt! Ðừng đưa cái bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO", ra hứng những ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy đó!
B. - Thế nào là tà niệm, tạp niệm, vọng niệm? - Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không chánh đáng, vọng niệm là những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm lung tung linh tinh lang tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi người để phê bình chỉ trích, nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù, nhớ nghĩ ngũ dục: tiền tài, nhan sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy miên, luôn nhớ nghĩ đến những thành tích xấu xa, gian giảo, để tự hào tự đắc, đó gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.
Chư Tổ có dạy: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là: Bên trong, chúng ta cố gắng khắc phục tâm niệm lăng xăng lộn xộn, giữ gìn chánh niệm, chăn giữ ý nghiệp, đó mới là công phu tu tập đúng Chánh Pháp. Bên ngoài, chúng ta giữ gìn chánh ngữ, canh chừng khẩu nghiệp, không tranh cãi, không hơn thua, đó là đức độ của người tu theo đạo Phật. Cho dù có bị phỉ báng, có gặp nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh thản nhiên, ngoài mặt cũng như trong lòng, không khởi lên bất cứ tâm niệm gì cả.
8. - CHÁNH ĐỊNH:
Muốn được cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của chính mình. Khắc phục tâm ý và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của người tu theo đạo Phật. Chế ngự được, khắc phục được tâm viên ý mã, tức là tâm như con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót lung tung, chúng ta mới đạt được chánh định, đó là cảnh giới niết bàn, an nhiên tự tại, không khổ đau, chẳng phiền não.
A. - Thế nào là chánh định? - Chánh định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa là con người tập trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý, hợp lẽ phải. Người đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên trước bát phong của cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người phát triển trí tuệ, mau tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí của con người thường xuyên lăng xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung, linh tinh lang tang, không có dừng nghỉ, từ đông sang tây, từ cổ chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ thế giới năm châu đến phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến hang cùng ngõ hẹp, hết chuyện gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa chuyện nay, thương ghét tốt xấu, thị phi phải quấy. Tất cả những chuyện như vậy làm cho tâm của chúng ta luôn luôn loạn động. Tâm loạn động thì trí bất an. Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ðể giúp con người đạt được chánh định, Ðức Phật dạy các pháp quán tưởng sau đây:
a) Quán sổ tức: Nghĩa là quán tưởng bằng cách đếm hơi thở ra hơi thở vào, để đối trị tâm loạn động. Ðến khi thuần thục, chỉ cần theo dõi hơi thở, không cần đếm số như lúc mới bắt đầu, đó gọi là tùy tức quán. Sách có câu: "Thở vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười".
b) Quán bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là một tập hợp những thứ bất tịnh, không có gì đáng quan trọng, khi chết thân mình chỉ còn là một cái thây ma không ai dám đến gần, kể cả những người thân thiết nhất trên đời, để đối trị tâm tham dục.
c) Quán từ bi: Nghĩa là quán tưởng mọi người đều bình đẳng, đều có Phật Tánh như nhau, đều đáng thương như nhau, thương người như thể thương thân, để diệt trừ tâm sân hận, thù hằn, oán hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ. Không thể chỉ vì một chút tự ái nhỏ nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó, có thể tạo nghiệp oán thù, kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác", cho dù với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do gì!
d) Quán nhân duyên: Nghĩa là quán tưởng tất cả muôn pháp đều do nhân duyên sinh ra, cho nên giả hợp, không bền vững, không tồn tại vĩnh viễn, để đoạn trừ si mê, chấp ngã và chấp pháp. Muốn thực hành pháp quán này, cần thấu triệt và tin sâu "Lý Nhân Quả" hay "Lý Nhân Duyên".
e) Quán giới phân biệt: Nghĩa là quán tưởng lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức, tất cả đều giả tạm, không thực. Lục căn, là sáu cơ quan của thân, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với lục trần, là sáu cảnh trên trần đời, bao gồm: sắc tướng, âm thinh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc, ký ức. Sự tiếp xúc đó gây nên những cảm giác, những ấn tượng, gọi là lục thức. Trong kinh sách, lục căn, lục thức và lục trần gọi chung là thập bát giới.
Thí dụ như mắt trông thấy sắc là viên kim cương, bèn sinh lòng ham thích. Sự ham thích đó chỉ giả tạm, không nên theo. Bây giờ thấy thích, về sau có thể không còn thích nữa. Nhưng nếu theo nó, thì chúng ta phải lo tranh giành, lo kiếm tiền, làm việc quần quật, đầu tắt mặt tối, từ sáng sớm đến khuya lơ, để mua sắm cho bằng được, cho nên cực khổ tấm thân, mệt nhọc trí óc. Thí dụ như tai nghe thấy tiếng khen thì khoái chí, thích ý, tối ngủ không được, cứ nhớ tới hoài. Nếu tai nghe thấy tiếng chê tiếng chửi, thì đâm ra bực dọc tức tối, càng khó ngủ hơn, cho nên tấm thân cực khổ trăm bề. Trong kinh sách, có bài kệ như sau:
Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính, thôi được thì tốt) Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không. (không mắc, lơ được thì hay) Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (bình thản, tâm được khinh an) Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát, khỏi phiền não và khổ đau)
B. - Thế nào là tà định hay tà thiền? - Ngược lại, tà định hay tà thiền là sự bình tĩnh trong việc làm tổn hại đến mọi người, lạnh lùng tàn nhẫn khi thấy người khốn khổ đớn đau, không chút xót thương, không hề tình cảm. Những người tu tập thiền định để luyện trường sanh bất tử, thiền định để dối gạt người, đều không phải là chánh định.
* * *
Tóm lại, Bát Chánh Ðạo là pháp môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông dụng cho bất cứ ai, không cứ phải là Phật Tử, trên thế gian này, muốn xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa, muốn sống trong an lạc và hạnh phúc. Bát chánh đạo giúp con người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên hành vi bất chánh, ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng, sống theo tà đạo, làm việc bất lương. Trái lại, nếu con người biết tu theo bát chánh đạo thì sẽ chuyển hóa được những sự bất chánh nói trên, kiến tạo được một đời sống chân chánh, ích lợi, an lạc và hạnh phúc.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.
Ta không vào Địa Ngục thì ai sẽ vào đây” (Kinh Địa Tạng).
 
 Do những công hạnh nhiệm màu đã phản chiếu gần như toàn bộ những tư tưởng, áo nghĩa uyên thâm của Quán Âm nơi phẩm Phổ Môn thị hiện, nên Bồ tát Trì Địa được là vị đứng lên giữa đại chúng để chốt gọn lại về pháp môn vi diệu và thù thắng này
image
Em có thói quen hay lạy sám hối vào những ngày cuối tuần. Một lần em hỏi ta rằng, lạy sám hối có thật sự diệt được hết nghiệp ác và tội lỗi không? Ta nói, nếu em có thể lạy thấp hơn chút nữa thì sẽ có công năng như thế. Em nhìn ta nhíu mày, cứ như là ta đang nói đùa vậy, bởi vì em vốn là một người con Bụt rất thành tâm, có lạy nào mà năm vốc của em không sát đất đâu chứ. Ta không chịu nổi sự dễ thương nơi cái nhíu mày dường như trách cứ ấy.
- Ừ, thì nếu em có thể ở thấp như đất thì tất cả tội lỗi và nghiệp quả đều được tiêu trừ.
Em còn nhíu mày nhiều hơn và biểu lộ sự trách cứ nhiều hơn nữa.
- Thôi sáng mai, ta và em cứ quay lại nơi đồng cỏ, rồi từ đó, ta sẽ tìm ra cách để được ở thấp như đất vậy…
Và sáng hôm ấy, em lần nữa lại theo ta lang thang trên cánh đồng cỏ xanh, chim hót, mây trời và gió lộng. Em còn nhớ người thợ gốm ở quê mình không? Ông lão nghệ nhân già nua với đôi mắt kèm nhèm nhưng đôi tay thì linh hoạt và điêu luyện vô cùng. Cũng nơi đôi bàn tay ấy mà những cái lu, cái khạp cho đến chén dĩa tinh xảo đều được ra đời. Nếu đất có một hình tướng riêng biệt thì làm sao ông lão ấy có thể nặn đất trở thành những công cụ kia. Cho nên ta có thể xem VÔ TƯỚNG như là một đặc tính đầu tiên của đất vậy. Mà em hãy nhìn rộng ra cả pháp giới này, có pháp nào là có tướng trạng cụ thể đâu? Như chiếc lá khi vàng úa thì rơi xuống tan lại trong đất, và trả hơi nước nhỏ bé cho đám mây. Nên ta nói rằng chiếc lá có mặt trong đám mây, trong ánh nắng, trong cơn mưa, trong đất và trong vạn pháp. Như hạt muối đi vào trong biển, thì cả đại dương kia có chỗ nào mà không có mặt của hạt muối bé bỏng ấy đâu. Em đừng vội cho rằng tinh thể muối là có hình tướng cụ thể khi phóng to qua lăng kính trong phòng thí nghiệm. Vì hình tướng đó cũng giống như chiếc lá kia thôi. Vì VÔ TƯỚNG nên muối mới tan được trong đại dương, nên lá trở thành bất nhị với vạn pháp. Mà chính em, ta và tha nhân đây cũng là không có hình hài cụ thể. Cái thân xác chúng ta đang đây giống như hiện tướng của tinh thể muối vậy. Và thân này, thấy vậy nhưng lại như là hoa nắng bên thềm, thấy là có nhưng không thể nắm bắt, cầm giữ được. Và vì pháp giới là vô tướng, nên mới thị hiện ra được núi, đồi, cỏ cây, chim chóc, muôn loài mà chỉ với 4 nguyên liệu cơn bản là tứ đại mà thôi. Không những ở pháp giới chúng sanh, mà tâm ta cũng mang tính chất như vạn pháp. Những vọng tưởng, cảm thọ, phiền não cho đến ngay cả an lạc, tịch mịch, hoan hỷ cũng đều là vô tướng. Bởi vì nếu không mang tính chất ấy thì làm sao thì làm sao có trùng trùng điệp điệp những thị hiện của tâm trong mỗi sát na sanh diệt. Hay nói theo Kinh Hoa Nghiêm thì vạn pháp VÔ TÁC, tức là có bản thể thường trụ, chân nguyên bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất lai bất vãng. Do muốn phá đi cái chấp tướng của chúng sanh, nên Bụt Thích Ca mới dạy về Bồ tát Quán Âm không có tướng trạng mà chỉ là thị hiện hình tướng để nói pháp độ người. Và Quán Âm cũng chính là quán chiếu về tính chất VÔ TÁC, về Như Lai thể tánh của vạn pháp. Cho nên việc tạo tượng Bụt và Bồ tát rồi lập đàn hô thần nhập tượng, lại cho đó là chùa linh, tượng báu hay Bụt và Bồ tát ban phước, rồi đem chư vị trở thành tà thần quỷ vật để cầu xin mê tín hoang đường, bùa chú mà không quán về Như Lai tự tánh thì xem như là đang phỉ báng Chư Bụt và Bồ tát vậy.
Năm trước, cũng vào những mùa gió này, em và ta nhặt được một con chim nhỏ bị chết lọt thỏm giữa cánh đồng cỏ. Ta đã giúp em đào một cái hố nhỏ dưới cội cây, lót vào đó ít lá như là một huyệt mộ cho con chim xấu số. Hôm nay, khi đi lang thang ngang qua nơi ấy, em ngậm ngùi nói rằng, chắc giờ đây xác của chim đã tan vào và hòa làm một với đất rồi. Kì diệu quá. Hằng ngày ta bỏ vào trong đất biết bao nhiêu là thứ từ rác rến cho đến những thứ tưởng như sạch sẽ nhất. Đất có phiền hà gì đâu, phân biệt gì đâu. Đất cứ lặng lẽ mở lòng ra đón nhận và chuyển hóa. Và đó cũng là TỰ TÁNH VÔ PHÂN BIỆT của đại địa vậy. Em đã thấy rồi đó, tất cả sanh tử, sạch dơ chỉ là ý niệm về Nhị Nguyên. Đại địa không kẹt vào nhị nguyên nên mới an nhiên mà ôm trọn vạn pháp vào lòng. Nếu chúng ta không kẹt vào nhị nguyên thì vượt được hết thảy mọi đau khổ của thể gian thứ mà đến từ cái chấp mê lầm về đôi bờ ý niệm. Trong em, ta và chúng sanh ai mà không có những nội kết sâu thẳm. Và những nội kết ấy hành hạ, dằn vặt chúng ta đau đớn vô cùng. Từ nỗi đau day dẳn ở nội tâm, nó chuyển thành những khối u, những tế bào bất trị nơi thân này. Chúng thâm hiểm lắm. Như khối ung thư phải có những phương tiện y học tiên tiến mới thấy ra được sự hiện diện của chúng, thì nội kết cũng vậy. Cái sân hận mà em đang đối trị và nghĩ rằng đã diệt được tận gốc bằng những chuyến đi từ thiện, bố thí, cúng dường, sám hối chỉ giống như em đang nhổ cỏ nhưng không nhổ tận gốc. Kể cả khi em ngắm tượng Bụt, viếng Chùa, tụng vạn bộ Pháp Hoa Kinh, niệm vô lượng danh hiệu Bụt thì cũng không thể chạm đến được cái nội kết thâm hiểm trong em và cái an lạc những phương tiện ấy mang lại chỉ là tạm bợ. Bởi vì nó vi tế vô cùng nên em phải quán chiếu sâu sắc vào tâm thức thì mới mong nhìn thấy và phát hiện được nội kết. Ngay cả khi em bắt tay với kẻ thù và nói với hắn rằng em đã tha thứ cho hắn thì kỳ thực chỉ là dối lừa của nội kết.
Người ta hay nói với nhau cách diệt nội kết là “LẮNG NGHE ĐỂ HIỂU, NHÌN LẠI ĐỂ THƯƠNG”. Em cứ nghĩ đơn giản rằng phải nghe kẻ thù giải bày tâm sự, và nhìn lại vấn đề cho sáng tỏ nên thấy hắn đáng thương vì bị vô minh che lấp. Nhưng nó cũng giống như cách mà y khoa cắt bỏ cái khối u vậy. Cắt chỗ này thì mấy năm sau chỗ khác sẽ di căn. Bởi lẽ nội kết vẫn còn. Chúng ta có mặt trên cõi này đây là vì những nghiệp quả đã gieo, vì những ân lẫn oán cần phải trả vay. Mà trong vô lượng kiếp số như thế, liệu em có thể tìm hết tất cả kẻ thù ở ngoài kia để nghe tâm sự của họ, và nhìn lại nội tình của từng vụ việc không? Cho nên, phải lắng nghe, quán chiếu sân hận, lẫn yêu thương để hiểu rằng chúng là tác phẩm của TÂM PHÂN BIỆT. Giống như nhìn vào nhữngsóng tan tan hợp hợp để thấy sanh tử chỉ là ý niệm. Và sự chấp vào NHỊ NGUYÊN LÀ NỘI KẾT SÂU THẲM NHẤT TRONG MỖI CHÚNG TA. Từ cái thấy đó, nên nhìn lại tất cả những ý niệm của mình trong vô lượng kiếp, thấy tự mình là nạn nhân của chính mình nên khởi tâm thương xót. Mà chúng sanh ngoài kia đang kẻ cười người khóc thì có khác gì với ta đâu. Nên hiểu và thương ta như vậy rồi thì mới hiểu và thương được chúng sanh. Khi đã lìa được đôi bờ sở chấp thì nghiệp vẫn còn đó nhưng kẻ nhận nghiệp đã không còn. Vì chuyện to lớn của đời là sanh tử mà còn xem như “đắp chăn đông, cởi áo hạ” thì còn gì có thể lay chuyển được tâm của hành giả đây ? Nên Bụt nói, vượt hết mọi khổ ách tức là vượt được cái thấy bị kẹt giữa những ý niệm. Mà Quán Âm là quán về tự tánh vô phân biệt, là tánh nguyên bản của vạn pháp là vô tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm. Vì không phân biệt như thế nên tâm hành giả mới thấy chân tướng của nội kết, hay đất mới có thể chuyển hóa được thân vô tướng của vạn pháp. Cho nên không ai có thể tha thứ cho ai mà chỉ có thể tha thứ cho chính mình. Chư Bụt và Bồ tát mười phương cũng không thể GIẢI NGHIỆP CHO BẤT CỨ CHÚNG SANH NÀO. Bụt Thích Ca tuy thành đạo mà thân vẫn chịu sanh, lão, bệnh, tử. nhưng tâm của Bụt không trụ nơi sanh, lão, bệnh, tử ấy vì đã không còn sở chấp. Do vậy, nghiệp không phải nơi thân mà cội gốc là ở tâm. Chư Bụt cũng y nơi tâm mà nói pháp. Nhưng chúng sanh lại lấy pháp ấy mà đem trang trí nơi thân nên hai đường thẳng song song chẳng gặp nhau bao giờ. Cho nên hãy dùng cái tánh nghe tự thân để nghe ra được thanh âm tự tánh nơi ta cũng như vạn pháp. Thứ âm thanh ấy là vô thủy, vô chung mà không tiếng thế gian nào có thể lấn át được:
“Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia”
Tiếng sóng biển là không ngừng nghỉ và cũng không có bất cứ cái âm thanh nhạc cụ nào là có thể làm át đi được. Nên hải triều âm được ví như âm thanh nguyên bản của vạn pháp.
Khi đã thấy như vậy rồi, em hãy nhìn ra xung quanh đồng cỏ xem. Đất có phân biệt khi cung cấp chất mùn cho cây cao hay thân cỏ đâu? Em có thấy vạn vật trên hành tinh này đang sống phụ thuộc vào đất từ gián tiếp đến trực tiếp không? Như cỏ lấy chất dinh dưỡng từ đất, nai ăn lấy cỏ, và hùm beo lại sống bằng thịt nai. Cho nên nói, đất thấy là tầm thường như vậy nhưng lại nuôi sống được tất cả hữu tình. Vì hạnh của đất là TỪ BI VÔ PHÂN BIỆT. Mà đó cũng là hoa trái của Như Lai tự tánh, của Quán Âm hay là của hành giả đã nghe được âm ba chưa bao giờ vắng mặt trong vạn pháp. Vì không còn chấp vào hình tướng, thể trạng, của chúng sanh nên từ bi mới có thể lan tỏa và ôm trọn lấy vạn pháp. Là không còn sự phân biệt giữa kẻ bố thí, người nhận bố thí, và của bố thí. Thì đó mới chính thực là bố thí vậy. Cũng như Tịnh Độ tông, niệm Bụt Di Đà cho đến khi trở về VÔ NIỆM thì mới chính là niệm. Hay nói cách khác, là trụ nơi vô niệm để quán chiếu rằng niệm hay vô niệm cũng chỉ là phân biệt của TÂM NHỊ NGUYÊN. Các pháp bố thí, cúng dường chỉ phương tiện độ đời, chứ tuyệt đối không phải là cứu cánh của người tu. Cho nên tu không phải là đi từ thiện bởi vì nếu không bỏ xuống được sở chấp thì mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm cũng chỉ là đảo điên mà thôi. Chư Bụt vì đã vượt được đôi bờ nên dù nghĩ gì, nói gì, làm gì cũng đều PHẬT SỰ lợi lạc cho hữu tình. Nếu ta không chuyển được yêu thương trở thành Từ Bi vô phân biệt, và bản thân không trở về với tự tánh thì bố thí theo kiểu phàm phu ấy chỉ làm dày lên cái chấp ngã của người cho, và thị phi của người nhận. Nói như vậy, không phải là ta đánh đổ hết những công việc thiện nguyện nhưng khẳng định rằng song song đó phải lấy việc quán chiếu nội tâm làm việc hàng đầu. Đừng nhặt nhạnh những phước nhỏ mà quên rằng mình đang nắm giữ kho tàng vô giá. Như người cùng tử lo tha phương cầu thực, bữa đói bữa no vì loanh quanh nên mới không nhận ra viên ngọc quý mà người bạn lành đã may sẵn trong túi áo rách bươm của mình. Lòng tốt là một trong những báu vật của thế gian. Nhưng pháp của Bụt là pháp xuất thế gian, nên lòng tốt trong đạo Bụt phải được nuôi dưỡng trong tâm vô phân biệt thì mới trở thành Từ Bi. Vì đại địa không phân biệt chúng sanh cũng không thấy được mình đang nuôi cả chúng sanh nên thành tựu được như vậy. Vì không phân biệt thì từ bi mới hiển bày. Nếu bố thí, cúng dường mà tự tâm còn thấy chướng ngại thì đó chỉ được gọi là từ thiện và góp tiền, góp sức xây chùa mà thôi. Mà thân là chùa, tâm là Như Lai, vô lượng cảm thọ, phiền não, cho đến hỷ lạc đều là chư tăng thì em ơi, còn nơi nào đáng để quay về hơn là TỰ THÂN của chính mình nữa chứ?
Đừng nói rằng Đại Thừa là cỗ xe lớn nên gom tất cả mọi chúng sanh lên xe và chở đi, nhưng người lái xe không tự mở mắt nhìn đường mà lại bị che lấp bởi chấp niệm phân biệt thì tai nạn tiềm tàng còn gây ra sự thảm khốc và đau xót gấp vạn lần những cỗ xe nhỏ. Nên muốn hiểu được liễu nghĩa Đại thừa và tùy nghi thị hiện phương tiện độ đời thì trước tiên phải thấy được và vượt được NHỊ NGUYÊN.
Khi còn thấy là từ thiện, là cúng dường thì đã không còn là Phật sự rồi. Nên
“Từ nhãn thị chúng sanh
Phước tụ hải vô lượng”
Tâm không còn ý niệm về từ thiện, cúng dường nữa mà chỉ như là đất dâng trọn mình cho cỏ cây, vạn vật sanh tồn, trú ngụ và cậy nhờ. Nên mới được chư Bụt trong ba đời không ngừng tán thán rằng:
“Quán Âm bậc Tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy”.
Và như thế, trên bề mặt của đất tuy hố sâu, gò đống, núi đồi nhưng đó chỉ là những thị hiện trên bề mặt của đất, chứ kỳ thật tận cùng sâu thẳm của đất là bằng đều, không cao không thấp. Đó cũng là tự tánh Như Lai nơi chúng sanh là bằng nhau không khác. Mà cũng chính là chỗ GIÁC NGỘ của Chư Bụt là tương đồng. Chúng sanh có thể chậm lụt, khiếm khuyết về thân cũng như về trí thông minh nhưng khi đã chịu quay về Tự tánh thì sự chứng đắc cũng ngang bằng chư Bụt. Cho nên nói rằng, Bồ tát Thường Bất Khinh cũng chính là âm thanh của vạn pháp đang nhắc nhở hành giả về NHƯ LAI VIÊN GIÁC DIỆU TÂM mà hành giả vì chạy loanh quanh và ôm giữ ý niệm về hạnh phúc, và đau khổ , cộng với nỗi sợ hãi về sanh tử nên đã gạt phăng đi, đã quên bẵng đi lời nhắc nhở nhiệm màu ấy. Thậm chí còn cho là khùng điên, rồi ra tay đánh đập, đuổi đi giống như khi chúng sanh nhận vọng làm tâm, nghe chỗ tột cùng của tự tánh lại sanh tâm hoang mang, rồi cho là vô lý vậy. Nhưng Bồ tát Thường Bất Khinh cũng không bao giờ nhụt chí, cũng như Quán Âm thị hiện không dứt ở mười phương, như Hải Triều Âm hay tiếng vang tự tánh của vạn pháp không bao ngơi nghỉ. Và ngay trong đời hiện tại, dù cho Thường Bất Khinh có là tiền thân của Bụt Thích Ca đi chăng nữa. thì Bụt vẫn không ngừng tuyên thuyết và nhắc nhở chúng sanh phải lắng lòng để nghe cho được cái âm thanh vi diệu của Tự tánh.
Với những đặc tính như vậy, nên không có khoáng sản quý giá nào trên thế gian lại nằm ngoài lòng đất. Như kim cương, ngọc quý, và vàng bạc đều phải được hun đúc trong đất. Đó chính là lời khẳng định, chư Bụt hay trí tuệ của Chư Bụt chỉ được phát khởi nơi tâm đã không cỏn chướng ngại về ngã chấp, sở chấp, vượt khỏi đôi bờ tử sanh. Mà theo kinh Phổ Môn thì là tâm của hành giả khi đã nghe được âm ba vi diệu nơi tự tánh.
Em ạ, để nói rõ, tính đếm về công hạnh và đặc điểm của đất thì không thể cùng tận bởi vì Đại Địa nơi Phổ Môn là hình ảnh của vị Bồ tát Trì Địa. “Trì” là ôm lấy, bảo vệ, và vun bồi. Mà như Bụt Thích Ca đã nhấn mạnh, không thể tính đếm được công hạnh của một vị Bồ tát, nên chỉ có thể lược nói. Nên những tính chất và đặc điểm trên chỉ là những thứ mà tâm phàm phu hạn hẹp của ta có thể quán chiếu được. Em đã thấy rồi đó, nếu muốn sám hối thật sự thì phải như là đất thì từ đó mới thể nhập được bất sanh bất diệt. Như đã nói, sám hối không phải là để diệt nghiệp mà là phương tiện để cho chúng sanh quán chiếu, quay về tự tánh. Đó gọi “hồi đầu thị ngạn” vậy. Khi đã thấy và sống được với Như Lai tánh thì dù nghiệp còn, hay không còn cũng không là điều quan trọng nữa.
Do những công hạnh nhiệm màu đã phản chiếu gần như toàn bộ những tư tưởng, áo nghĩa uyên thâm của Quán Âm nơi phẩm Phổ Môn thị hiện, nên Bồ tát Trì Địa được là vị đứng lên giữa đại chúng để chốt gọn lại về pháp môn vi diệu và thù thắng này:
“Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT đạo nghiệp tự tại, PHỔ MÔN thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít”
Ta có thể diễn nghĩa thành: Kính thư Bụt. Nếu trrong pháp hội này, ai đã nghe, tin và thực hành theo những pháp môn quán chiếu về tự tánh đề từ đó phá đi ý niệm về NHỊ NGUYÊN thì người ấy có công đức vô lượng vô biên, có thể sánh cùng chư Bụt vậy.
Mà trong chúng hội Pháp Hoa, thì có vị Bồ tát nào xứng đáng để làm công việc là phản ánh lên toàn công đức, trí tuệ của Bồ tát Quán Âm hơn là Ngài Trì Địa chứ?
Em và ta đã cùng nhau đi trọn một vòng quanh cánh đồng Phổ Môn, nay mình phải quay về nhà thôi, trời đã tối rồi. Trên đường về, ta hãy dùng tiếng bất sanh bất diệt mà ca ngợi trí tuệ bất khả tư nghì của chư Bụt, vì những áo nghĩa nơi Phổ Môn cũng nhiều như cây cỏ, và vạn vật xung quanh ta vậy. Thế mà, Bụt lại có thể giảng nói tất cả pháp bất khả thuyết ấy thông qua ẩn dụ của Quán Âm và những chi tiết, hình ảnh hết sức tinh tế và ẩn tàng nơi phẩm kinh này.
Hãy đem thiên thu vào trong hơi thở. Đem tận nghiệp của ba đời vào trong một niệm. Thì em sẽ thấy được Quán Âm. Hãy trì cho đến khi thấy không còn trì nữa thì mới thật là TRÌ. Hãy niệm cho đến khi còn thấy niệm nữa thì đó mới chính NIỆM.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bụt
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.

Niềm tin đúng đắn vào chánh pháp.

 
  Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến thị trấn của các người Kàlàmà tên là Kesaputta. Các người Kàlàmà ở Kesaputta được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích ca đã đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama: “Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ... Với thắng trí, Ngài tự...

 
(Kinh Tăng Chi Bộ CHƯƠNG III: CHƯƠNG BA PHÁP.
 
 
1.- Như vầy tôi nghe.
 
Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến thị trấn của các người Kàlàmà tên là Kesaputta. Các người Kàlàmà ở Kesaputta được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích ca đã đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama: “Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ... Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bàla-môn, các loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Lành thay, nếu chúng tôi được
yết kiến một vị A-la-hán như vậy”.
 
2.- Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta bạch Thế Tôn:
- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?”
 
3. - Ðương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những nghi ngờ! Ðương nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi lên phân vân.
 
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với
định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng!
 
4. - Các Ông nghĩ thế nào, này Kàlàmà! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy
là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
 
5. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn..
 
6. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
- Người này có si, này các Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
 
7. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
- Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.
 
8. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: “Chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.
 
9.Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này Kàlàmà, hãy từ đạt đến và an trú!
 
10.- Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
 
11. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên
như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không sân, này các Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
 
12. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
- Người này không si, này các Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho người ấy bất hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
 
13. - Các Ông nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Là thiện, bạch Thế Tôn.
- Các pháp này là có tội hay không có tội?
- Không có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?
- Ðược người trí tán thán, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.
 
14. - Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: “Chớ có tin vì nghe theo truyền thuyết; chớ có tin vì nghe theo truyền thống, chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.
 
15.- Này các Kàlàmà, vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với từ, an trú biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân; với tâm câu hữu với bi, an trú biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân; với tâm câu hữu với hỉ, an trú biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với hỉ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân; với tâm câu hữu với xả, an trú biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, như vậy phía trên, phía dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Thánh đệ tử ấy, nàycác Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ủi.
 
16. –“Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên cõi thiện, cõi trời, coi đời này”; đây là an ủi thứ nhất vị ấy có được. “Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não, được an lạc”; đây là an ủi thứ hai vị ấy có được. Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được”; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được. “Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh”; đây là an ủi thứ tư vị ấy có được. Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ủi này.
 
17. - Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ủi: “Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này”;
đây là an ủi thứ nhất vị ấy có được. “Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não, được an lạc”; đây là an ủi thứ hai vị ấy có được. Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được”; đây là an ủi thứ ba vị ấy có được. “Nếu
việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện, ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh”; đây là an ủi thứ tư vị ấy có được. Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ủi này.
 
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại
những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.BAT CHANH DAO.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.AUSTRALIA,SYDNEY.31/7/2014.