KINH PHẠM VÕNG
BỒ TÁT GIỚI
Pháp Sư Diễn Bồi giảng bằng tiếng Trung Hoa
TK Thích Minh Trí dịch
Việt
TKN Hiền Tịnh
toát yếu
PL. 2544 - 2001
Khuyên ai cũng nên xem để phát tâm thọ giới Bồ-tát
I. KỆ KHAI SUỐI CAM LỒ
Nay ta Phật Thích
Ca
Cũng như đức Xá
Na
Mỗi
nửa tháng hằng tụng
Ba la đề mộc
xoa.
Ta là Phật đã
thành
Các ngươi, Phật sẽ
thành
Thường tin chắc như
vậy
Giới phẩm đã trọn
vẹn.
Những ai đã có
tâm
Nên dạy thọ trì
giới
Chúng sanh thọ Phật
giới
Đích thật là con
Phật.
Bồ-tát như vi
trần
Nhân giới này thành
Phật.
Đại chúng phải cung
kính
Truyền bá và thọ
trì.
II.
TỰA
Có người cho rằng Bồ-tát giới chỉ căn cứ
vào đại thể, không câu chấp chi tiết. Ý kiến này vô cùng sai lầm. Phải biết giới
Bồ-tát nghiêm cẩn đến mức ngăn cấm ngay từ mống tâm động niệm khởi tư tưởng phi
pháp. Trong khi luật nghi Thanh-văn chỉ trị phạt hai chi thân và miệng. Phòng hộ
trọn vẹn ba nghiệp, phá trừ các kiến chấp, chứng nhập chân lý, mới được gọi là
chân phạm hạnh.
Nhiêu ích hữu tình giới lấy sự cứu tế
chúng sanh làm gốc. Bồ-tát, danh phù hợp với thật, chính ở chỗ phải làm thế nào
lừa lọc mò bắt tất cả chúng sanh trong biển khổ sanh tử đem về cảnh giới
Niết-bàn an ổn.
Mành lưới bảo tràng trong cung Đại Phạm
Thiên Vương. Những đường hồng quang ửng xạ lẫn nhau. Màu sắc bảo châu chói sáng
lẫn nhau, lớp lớp vô tận. Phật dùng để thí dụ vô lượng pháp môn, sự lý kết
chặt.
Có vâng giữ Kim Cang Quang Minh Bảo Giới,
tu tập các pháp lành tăng trưởng Bồ-đề tâm mới được diệu quả thù
thắng.
Bồ Tát Tâm Địa phẩm, quyển thượng giảng
về giai cấp tu chứng, lý trí quán hạnh của 56 ngôi Bồ-tát. Quyển hạ nói về tâm
địa giới pháp (10 trọng + 48
khinh).
Bồ-tát
: Lợi mình lợi người, mục đích thành
Phật.
Tâm địa : Bổn nguyên của mỗi người. Phật chứng tâm
địa này. Bồ-tát tu tâm địa này. Chúng sanh mê muội tâm địa này. Phật đã 8000 lần
qua lại tam giới, mục đích duy nhất là phát minh bổn nguyên tâm địa cho chúng
sanh. Khuyên tất cả bẩm thọ bảo giới Phật tánh làm chỗ tu nhân căn bản, hướng về
Phật quả thẳng tiến.
Tạp nhiễm phiền não chỉ là khách trần. Y
tâm địa giới pháp, từ sơ phát tâm lên đẳng giác, dần dần hoàn mãn muôn pháp
lành, tước bỏ hết ác pháp. Căn bản phiền não : Tham sân si mạn nghi, ác kiến
(biên
kiến, thiên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ). Hàng ngày kiểm điểm để khắc phục :
phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử,
hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh
tri.
Đức Phật vừa thành đạo, lập tức xuất định
nói pháp ở 10 nơi :
1/- Kim Cang Hoa Quang (gốc Bồ-đề)
và Diệu Quang Đường
(cung
trời Tứ Thiên Vương) nói về
thập Tín.
2/- Cung trời Đế Thích, nói thập
Trụ.
3/- Cung trời Diệm Ma, nói 10
Hạnh.
4/- Đâu Suất, nói 10 Hồi Hướng.
5/- Hóa lạc, nói 10 Định.
6/- Tha Hóa Tự Tại, nói 10 Địa.
7/- Sơ thiền, nói 10 Kim Cang.
8/- Nhị thiền, nói 10 Nhẫn.
9/- Tam thiền, nói 10 Nguyện.
10/- Tứ thiền, ở cung Đại Tự Tại Thiên Vương,
giảng nói pháp môn tâm địa mà đức Lư Xá Na đã giảng ở Liên Hoa Đài
Tạng.
Quang minh : phá u ám. Kim Cang : phá hủy tất
cả phiền não. Bảo : quý trọng. Bảo giới xuất sanh vô lượng công đức,
khiến thiện pháp tăng trưởng.
Quang minh là trí đức, nhiếp thiện pháp
giới (viên mãn báo
thân). Kim cang là đoạn đức,
nhiếp luật nghi giới (vô lậu tánh, chứng
thanh tịnh pháp thân). Bảo
giới là ân đức, nhiếp hộ chúng sanh, cứu tế muôn vật, lợi ích khắp hữu tình
(ứng
hóa thân).
Giới pháp này bao hàm nhân quả đại thừa.
Rời quang minh kim cang bảo giới, 30 Tâm (Hiền) và 10 Địa (Thánh) không thể nào thành tựu. Công đức Phật
địa không do đâu phát sanh. Tánh trọng yếu của tâm địa diệu giới cần được nhận
thức rõ ràng. Phật tánh chúng sanh sẵn có, phải nhờ bảo giới này mới hiển lộ.
Nên nói giới là chủng tử của Phật tánh. Kinh Pháp Hoa nói : “Phật chủng tòng
duyên khởi” là ý này. Trì tâm địa diệu giới mới chứng đắc tâm địa pháp
môn.
Chánh
văn : Tất cả ý thức, sắc
tâm, là tình là tâm, đều vào trong phạm vi giới pháp Phật tánh.
Tâm : vọng niệm theo duyên tập khởi. Ý :
tư lường, thức 7 chấp ngã. Thức : thức 6 liễu biệt. Ba thứ này là
phần tinh thần. Sắc : 4 đại vật chất. Ngoài tâm thức không có Phật tánh
riêng biệt. Tất cả hữu tình đều có thể bẩm thọ tâm địa diệu giới.
Đương đương thường hữu nhân cố đương
đương thường trụ pháp thân.
Đương đương : đích thật như vậy.
Nhân và quả đều không lìa tâm địa diệu
giới.
Thường hữu : lúc nào cũng có chân nhân thành
Phật.
Thường trụ : diệu quả vĩnh viễn thường hằng, không thể
do từ bên ngoài mà có. Chính do Phật tánh sẵn đủ, cực lực trang nghiêm khai phát
mà thành.
Quang Minh Kim Cang Bảo Giới là chân nhân
thành Phật, là pháp thân diệu quả thường trụ thanh tịnh.
Nương giới hết vô minh nên ví giới như
mặt trời mặt trăng. Nương giới hết khổ nạn nên ví giới như châu ma
ni.
Bổn tánh không độc ác nên có giới sát
sanh. Bổn tánh không tham nên răn cấm trộm cướp. Bổn tánh chân thật nên không
được nói dối. Sống ngược với tự tánh thì khó trở về. Thuận với tự tánh mới ngộ
nhập.
Giới pháp Phật tánh là nhân tố duy nhất
để thành Phật. Chúng sanh sẵn đủ nhân thù thắng để chứng quả thù thắng. Chỉ vì
mê hoặc không giác ngộ. Đức Phật xót thương tuyên nói giới pháp. Chúng sanh y đó
giữ gìn, siêu phàm nhập thánh, hoàn thành Vô-thượng Phật quả.
Do đâu các Bồ-tát thành Phật ? Xin đáp
quả quyết rằng : Vì giữ đủ 10 giới trọng. Không vâng theo pháp tắc quy luật này,
không thể thành Phật nên kinh văn gọi là giới pháp. Thọ Bồ-tát giới rồi là vào
trường học Bồ-tát. Trong thì y cứ Phật tánh giới thể mà sống. Ngoài thì giới
tướng nghiêm trì.
Ngộ Phật tánh chưa đủ, phải chứng được
Phật tánh. Nghĩa là thật sống với Phật tánh, từng niệm xa rời vô minh. Ngài Xá
Lợi Phất chứng A-la-hán mà không dám xưng mình là Phật tử. Đến hội Pháp Hoa,
Phật giải thích. Ngài mới nhận ra rằng mình có Diệu Pháp Liên Hoa. Nhân đây được
Phật thọ ký.
Kinh
Anh Lạc : Giới pháp lấy
tâm làm thể. Tâm vô tận nên gọi là vô tận giới tạng. Giới tướng có nhiều nhưng
tâm địa diệu giới nhất vị bình đẳng.
Chúng sanh vọng tưởng chấp trước vào giới
tướng mà quên giới thể bổn hữu, giới pháp Phật tánh sẵn đủ. Nếu không bẩm thọ
giới pháp không thể khôi phục bổn nguyên tự tánh thanh tịnh. Vì thế đức Phật nói
vô tận giới tạng.
III. XÁ NA
TRAO GIỚI
Tỳ Lư Xá Na : quang minh biến chiếu.
Lư Xá Na : tịnh mãn : đã đến quả Phật.
Tịnh : Không còn mẩy tơ hư vọng. Mãn :
Công đức thiện pháp viên tròn. Tịnh là đoạn đức. Mãn là trí đức. Tịnh Mãn là
tự thọ dụng thân. Quang minh biến chiếu là tha thọ dụng thân, sát trần tướng
hảo, trong dùng trí quang chiếu chân pháp giới, ngoài dùng thân quang chiếu ứng
đại cơ (Bồ-tát).
Theo kinh Hoa Nghiêm, đức Tỳ Lư Xá Na
(pháp
thân) với đức Lư Xá Na
(báo
thân) đồng một thể. Phật
nhãn thấy chánh báo y báo không hai. Thế giới chúng ta ở, tên là Huyền Hoa Tạng,
hình bông sen 1000 cánh.
Đức Lư Xá Na ngồi trên đài hoa sen nói
giới. Đài là nơi cao hiển. Tâm tánh chúng sanh là bông sen : a) Không dính bùn. b) Nhân quả đồng thời. Thế giới nương tâm
tánh chúng sanh mà hiện cũng y theo tâm tánh chúng sanh mà trụ.
Kinh A Di Đà nói
: Hoa sen vi diệu hương
khiết. Dùng 2 đặc tính biểu thị giới thể tâm địa trước sau tịnh sạch, không bị
một ác pháp nào huân nhiễm.
Trên
1000 cánh có 1000 ứng thân. Mỗi cánh sen có trăm ức cõi. Mỗi cõi một Thích Ca
(hóa
thân).
Nói
theo danh từ hiện nay của nhân gian :
Một thái dương hệ là
1 tiểu thế giới.
1000 thái dương hệ là
1 tiểu thiên thế giới.
1000 tiểu thiên là 1
trung thiên thế giới.
1000 trung thiên là 1
đại thiên thế giới.
Mỗi cánh hoa trong
kinh là 1 đại thiên thế giới.
Nay 1 ức =
10.000.000
Một cánh sen 100 ức =
1.000.000.000
1000 cánh sen có =
1.000.000.000.000 Thích Ca.
CAM LỒ MÔN
KHAI
Có phước gặp diệu dược, tất cả bệnh tật
sẽ tiêu trừ. Dù Phật tánh diệu giới là pháp chúng sanh sẵn đủ nhưng hoặc-nghiệp
từ vô thủy ngăn che như cửa đóng chặt, chúng sanh không hề biết là mình có vô
thượng pháp.
Ba đặc dụng : a) Nhiếp luật nghi giới, linh đơn trị liệu
tất cả ác bệnh khiến được bình an. b) Nhiếp thiện pháp giới. Công đức pháp lành
sung mãn sanh mạng. c) Nhiêu ích hữu tình giới. Chúng sanh đang
bị khổ não bức ngặt được thanh lương mát mẻ.
Giới pháp này không phải lãnh thọ từ bên
ngoài mà vốn sẵn có tại nội tâm. Ơn đức Lư Xá Na phát minh. Tâm địa diệu giới
nơi mỗi chúng sanh được khai hiển.
THÍCH CA TRUYỀN
LẠI
Phước tuệ viên mãn sẽ thành Phật quả là
tánh chất trọng yếu của trì giới. Bậc tu hành giới đức trang nghiêm. Lòng người
khát ngưỡng như ngửa lên được thấy mặt trời rực rỡ khiến cả khung cảnh trở thành
quang sáng tưng bừng. Trì giới là nhân. Thành Phật là quả. Lực dụng của giới
pháp đã đưa vi trần Bồ-tát lên lầu vô thượng giác.
Đức Lư Xá Na đã tụng 10 trọng 48 giới
khinh. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng tụng như thế. Tân học Bồ-tát tất nhiên phải
cung kính thọ trì, ba nghiệp nghiêm cẩn đâu dám xao lãng.
Đức Bổn Sư ân cần dạy nhắc : Chẳng những
bản thân đỉnh đới phụng trì mà phải tận tình truyền bá khiến cho giới pháp lưu
thông suốt đời vị lai vô tận.
KHUYẾN TÍN
Lắng tâm nghe kỹ để mà thâm nhập. 5 giới,
8 giới, 10 giới, 250 giới đều từ tâm địa diệu giới này lưu xuất để thâu nhiếp
chúng sanh trở về bổn nguyên. Tin chắc giới này là chánh nhân thành Phật. Đúng
pháp phụng trì, quyết định tương lai chứng quả Vô-thượng Bồ-đề. Tin chắc nghĩa
là thật hiểu. Biết có tỏ rõ, lòng tin có xác thật mới niệm niệm hộ trì giới
pháp, không dám mảy may hủy phạm.
Muốn củng cố tín tâm đại chúng, đức Thích
Ca sách tấn : “Chớ tự khinh là phàm phu, không dám ước mong quả vị Phật. Ta là
Phật đã thành vì đã trì giới. Bảo đảm các ông là Phật sẽ thành nếu các ông vâng
thọ giới pháp”.
Nếu chỉ hiểu biết qua văn tự lời nói thì
tuy có tin mà không chắc. Người tin chắc thì ý niệm lời nói hành động đều xứng
với Phật tánh, tức là đúng với giới điều. Như thế giới phẩm hẳn trọn
vẹn.
Quan hệ hoàn toàn ở sự tin chắc. Cũng như
thợ lọc vàng sở dĩ chịu khó ngày đêm vất vả chỉ vì biết chắc chắn trong quặng có
vàng. Nhưng cũng phải rõ phương pháp lọc vàng. Phương pháp này là Bồ-tát
giới.
Cung biểu thị oai nghi nghiêm chỉnh bên
ngoài. Kính là tâm ý kiền thành bên trong. Trong ngoài đồng khẩn thiết chí tâm
thâm nhập diệu giới.
KẾT GIỚI TƯỚNG
Nương thể tánh thanh tịnh, đức Phật vạch
đường đi thanh tịnh cho các Bồ-tát. Khác với Thanh-văn giới, ban đầu không có.
Về sau, căn cứ theo nhân duyên phạm tội của các Tỳ-kheo, đức Phật mới tuần tự
kết giới. Đây là tùy căn cơ, mỗi thời mỗi xứ khác nhau. Giới Bồ-tát thì ba đời
mười phương như vậy. Vừa mới thành đạo, Phật liền chế định Bồ-tát đại giới, nêu
cương lãnh của giới là Hiếu Thuận.
Không có cha mẹ, đâu
có thân để hành đạo ; không có sư trưởng, ai người dẫn bước ; không ngôi
Tam-bảo, nương tựa vào đâu ? Bất hiếu với cha mẹ, phản phúc thầy bạn, mất nghiệp
hiếu thuận là không giới tướng, làm sao toàn vẹn giới thể. Hiếu thuận cha mẹ sư
tăng Tam-bảo ngăn tất cả ác thế gian và xuất thế gian.
Có hiếu hạnh ắt chân thật giữ gìn giới
pháp. Đúng pháp giữ giới là thành thật thực hiện hiếu đạo. Cho nên học giới,
việc đầu tiên là hiếu thuận với cha mẹ sư tăng Tam-bảo. Hiếu là nhân thù thắng
của muôn lành.
Thế gian cho xuất gia
là đại bất hiếu. Đâu biết đức Thích Ca nhờ xuất gia mới có phước lên trời Đao
Lợi thỉnh đức Địa Tạng độ cho mẫu hậu. Có xuất gia mới phát minh đạo lý Tứ Đếá
để đưa vua cha Tịnh Phạn và kế mẫu Kiều Đàm Di lên đường xuất thế.
Vu Lan Bồn Sớ có câu :
Khể thủ tam giới chủ
Đại hiếu Thích Ca tôn
Lịch kiếp báo thâm ân
Tích nhân thành chánh giác.
Hiếu là nhân thành Phật thì bất hiếu hẳn
đọa đường ác. Đức Bổn Sư thành đạo, việc đầu tiên là kết giới cho các Bồ-tát tu
học. Lời trước hết là “Hiếu danh vi giới”.
Bổn phận làm con phải phụng dưỡng cha mẹ.
Làm thế nào cho cha mẹ biết tin kính Tam-bảo, thọ trì Phật pháp, tiến tới giải
thoát sanh tử.
Trí tuệ Phật thấy rõ từ vô thủy, trong
vòng luân hồi, ta và chúng sanh đã từng làm cha mẹ lẫn nhau. Kinh Phạm Võng nhấn
mạnh : Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta. Tất cả bò bay máy cựa
đều đã từng cùng chúng ta chia ngọt xẻ đắng trong những kiếp bổng chìm ở đường
sanh tử. Cho nên văn kinh bàng bạc những khuyến dụ hiếu thuận, từ bi
v.v…
Nhiếp luật nghi giới cấm tất cả ác mới
hoàn thành đại hiếu. Sách Nho nói : “Giở chân không được quên ơn cha mẹ. Thốt
lời chẳng dám bội nghĩa cù lao”. Thế nên lời ác không được ra khỏi miệng. Một
hành vi xấu không được hình thành nơi thân. Tránh những phê bình sỉ nhục đến cha
mẹ. Cho nên đối với tất cả chúng sanh không sát sanh, không trộm cắp
v.v…
Đức Khổng Tử nói : “Lập thân nên danh giá
đem vinh hiển cho cha mẹ”. Muốn thực hành bốn chữ quang tông diệu tổ của người
Trung Hoa chỉ có cách y theo nhiếp thiện pháp giới của Bồ-tát, tận lực đem hết
khả năng lợi ích nhân quần xã hội, một lòng hy sinh tư lợi vì người.
Tự chính bản thân để
thực hiện hai chữ hiếu thảo còn cần khổ miệng hết lòng khiển trách răn đe những
ai ăn ở ngỗ nghịch với cha mẹ. Lực dụng tối đại của nhiếp chúng sanh giới chính
là đưa tất cả vào Phật đạo.
Đã giải thích câu
“hiếu
danh vi giới”. Nay giải câu
“diệc
danh chế chỉ”. Chế :
quy định ra, minh định những pháp lành phải thực hiện. Chỉ : ngăn tất
cả ác.
Pháp chế : tác trì : phóng sanh, bố thí
v.v….
Cấm chỉ : chỉ trì : sát sanh, trộm cắp
v.v….
Bài kệ : “Đừng làm việc ác, vâng làm điều
lành. Tự tịnh tâm ý. Đây lời Phật dạy”. Giải thích rất đúng hai chữ chế chỉ
trong Bồ-tát giới.
Hiếu đạo nhà Phật siêu vượt và rộng rãi
hơn thế gian. Vì hướng về Vô-thượng Bồ-đề, khiến cho cha mẹ lìa khổ hoàn toàn,
hưởng vui vĩnh viễn, suốt đời vị lai.
SẮP TUYÊN GIỚI
PHÁP
Vô lượng quang minh
biểu hiện điềm lành từ miệng Phật phóng ra. Có lời nói với các Bồ-tát : “Ngày bố
tát vô cùng trọng yếu”. Để các Bồ-tát tự cảnh giác, không đến nỗi phạm giới mà
không tự biết.
Trong Luật Thiện Kiến, đức Phật hỏi : Làm
thế nào để chánh pháp cửu trụ ? Đức Phật tự đáp : Không hoại pháp bố
tát.
Chẳng những sơ phát
tâm Bồ-tát mà tam hiền thập thánh, lòng tin đã kiên cố, giới hạnh đã viên thành,
đều phải tụng giới. Đây là quy luật quyết định cho những ai đã thọ Bồ-tát
giới.
Đức Phật có viên âm nên gần xa thánh
chúng đủ loài đều nghe hiểu. Tia sáng biểu tượng giới thể bình đẳng thanh tịnh.
Phật đã tự chứng nên miệng phóng quang. Phật tử thọ trì học kỹ. Mai đây chứng
được giới thể này thì cũng được như thế. Biếng nhác không nghiêm cẩn nghe học là
tự thiệt thòi.
Giới pháp này là của tất cả chư Phật,
không riêng một đức Thích Ca, mong chúng sanh siêu phàm nhập thánh. Đương nhiên
mỗi người phải y theo quy củ bố tát để tuệ mạng Như Lai không đoạn
tuyệt.
“Vì thế, giới quang
từ miệng ta phóng ra”. Giới
có công năng diệt ác sanh thiện. Quang có lực dụng chiếu sáng phá
tối.
“Chẳng phải không
nhân duyên”. Nhân là chúng
sanh cơ cảm. Duyên là Như Lai tuyên thuyết. Phàm phu không liễu đạt giới quang
sẵn có của mình. Một mặt hướng ngoại tìm cầu nên Phật đặc biệt tổng phá
:
“Không phải xanh
vàng…” : Không sa vào ảnh
tượng biến kế chấp của phàm phu.
“Không phải lục nhập
sắc tâm…” : Không sa vào
vọng tưởng, tình cảnh nhân thiên.
“Không phải hữu
vô…” : Không sa vào tà chấp
đoạn thường của ngoại đạo.
“Cũng không phải nhân
quả…” : Sự tướng có tu có
chứng của tiểu thừa. Đã siêu vượt tình trần, ly khai kiến chấp, tức là chân nhân
thành Phật. Đương nhiên sẽ chứng nhập pháp thân diệu quả.
Tâm địa giới quang là bổn nguyên chánh
biến tri hải vô tận của chư Phật. Bồ-tát không có tâm địa giới pháp này, không
thể tu học lục độ vạn hạnh. Chúng sanh đã chịu sanh tử từ vô thủy. Nếu sau này
thành Phật, chính nhờ tâm địa giới pháp. Nên các Phật tử phải thọ trì, đọc tụng
và khéo học.
Khéo học nghĩa là gắng sức thực hành.
Không thọ trì không có nhân để thành Phật. Không đọc tụng không thể tăng trưởng.
Đọc tụng suông không thể chứng đắc diệu quả. Phải như pháp hành trì mới được
hưởng công dụng của giới pháp.
PHỔ NHIẾP QUẦN
CƠ
Tỳ-kheo Tăng là thành phần trụ trì
Tam-bảo, là phước điền trong thế gian, là sư phạm của nhân thiên, cần bậc pháp
khí thanh tịnh nên thọ giới phải nhiều điều kiện. Bồ-tát giới chỉ cần phát Bồ-đề
tâm và hiểu lời nói của giới sư. Vì bổn nguyên tâm địa ai cũng sẵn nên chúng
sanh nào cũng được thọ.
IV. GIỚI
TƯỚNG
10 giới trọng là bổn nghiệp của Bồ-tát.
Không như pháp, nửa tháng tụng một lần, khó mà bảo tồn bổn nghiệp để lợi ích
chúng sanh. Mất tư cách Bồ-tát, hẳn không có Phật quả tương lai. Tụng giới là
dùng nước pháp tưới chủng tử Phật, khiến luôn tươi nhuận, không bị héo
khô.
A- MƯỜI GIỚI
TRỌNG
1/. GIỚI SÁT SANH
Lý duyên khởi tánh
không của Phật pháp dùng để đối trị bệnh chấp có của phàm phu. Người thông đạt
lý “tánh sát vốn không”, chẳng bao giờ sát sanh. Nếu sát sanh tội cực
nặng.
Giới Thanh-văn đứng đầu cấm dâm dục vì
mục đích duy nhất của Thanh-văn là thoát ly sanh tử. Bồ-tát lấy từ bi lợi tế
chúng sanh làm cơ bản nên giới sát đứng đầu.
a) Chúng sanh là ân nhân thành tựu đại hạnh
cho Bồ-tát. Từng giờ phút phải lo báo ân, đâu có thể trở lại giết
hại.
b) Chúng sanh là cha mẹ quá khứ.
c) Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, đều
là Phật vị lai. Có thể họ thành Phật trước mình, sẽ tế độ cho mình (Trí Độ
Luận).
d) Chúng sanh sợ nhất là mất mạng nên không
sát sanh là thí vô úy. Phóng sanh là kết thiện duyên thâm hậu.
đ) Mình sợ chết sợ khổ, không nên làm ai đau
khổ sợ hãi.
e) Yếu vụ tối đại của Bồ-tát là tiếp cận với
chúng sanh, để dẫn dắt tất cả vào Phật pháp. Nếu trong lòng Bồ-tát ôm niệm giết
hại thì chúng sanh cảm sợ mà xa lìa.
f) Chúng sanh bị những cực hình thống khổ
như cắt cổ, nhổ lông, lột da, cạo vẩy, giẫy giụa trên thớt dưới dao, chịu luộc
nướng thiêu đốt v.v… Phương tiện cứu hộ là chỗ tu học tối yếu của
Bồ-tát.
2/. GIỚI ĂN TRỘM
Giới trên bảo vệ nội sanh mạng. Giới này
bảo vệ ngoại sanh mạng. Người ta bận rộn sớm chiều chỉ để lo có cơm ăn áo mặc
nên yêu quý tiền của vật dụng như mạng sống. Việt Nam ta có câu “đồng tiền liền
khúc ruột”. Đại thừa Phật giáo gánh trách nhiệm hóa độ chúng sanh, bắt buộc
Bồ-tát phải hết sức nghiêm cẩn, không một chút vi phạm giới này, trong mọi hoàn
cảnh, dưới mọi hình thức.
Kinh
Lăng Nghiêm : Không diệt
tâm trộm cắp không thể ra khỏi trần lao. Dù đa trí hiện tiền mà còn trộm cắp
quyết lạc tà đạo.
Trộm cướp đem khổ não cho người, phạm
nhiếp luật nghi giới. Không giúp người được phước được vui, phạm nhiếp thiện
pháp giới. Khiến chúng sanh chán xa Phật pháp, phạm nhiếp chúng sanh
giới.
Kinh
Đại Tập : Một
long nữ mù đỉnh lễ Phật bạch rằng : “Đời trước con đã lén hái trộm của chùa 10
trái xoài để ăn. Xả thân đọa địa ngục. Nay dư báo làm súc sanh đói khát mù lòa.
Trong vẩy hằng bị mạt cắn núc máu. Nay con quy y Phật, mong cầu thoát khổ”. Phật
dạy : Vật bốn phương Tăng, thường trụ Tăng hay hiện tiền Tăng, đều là của thí
chủ thành kính cúng dường, mong cầu phước báu. Hoa trái trong vườn chùa, cơm
cháo thuốc thang giường nệm, tất cả vật dụng của chúng Tăng, tự lén lấy xài dùng
hoặc đem cho bạch y, tội đọa địa ngục A tỳ.
Thà nuốt hòn sắt nóng cháy đỏ,
không nên tự lấy riêng thọ dụng những đồ ăn uống của chúng Tăng. Thà dùng dao
bén tự cắt lóc da thịt để ăn, xuất gia tại gia không được trộm lấy vật dụng của
chúng Tăng. Vị tri sự đem vật của chúng cho bạch y tương lai đồng với kẻ kia
sanh về chỗ khổ.
Phước Tăng Tỳ-kheo thấy nơi đồng vắng một
cây thịt bị vô số trùng bu cắn. Phật dạy : Cây ấy là một vị sư thời quá khứ.
Trùng bu cắn là những người tại gia đã được sư cho ăn dùng của chúng
Tăng.
Kinh
Quán Phật Tam Muội :
Dùng tài vật của chúng Tăng, tội nặng hơn giết hại 84.000 cha mẹ.
Địa ngục vô gián chịu 5 khổ :
quả báo không gián đoạn, thọ khổ không gián đoạn, thời gian không gián đoạn,
mạng sống không gián đoạn, thân hình không gián đoạn (kinh Địa
Tạng nói : Một người cũng mãn đầy. Nhiều người cũng mãn đầy).
3/. GIỚI DÂM DỤC
Những ai không muốn
lặn ngụp trong biển sanh tử, đoạn dục là công phu đứng đầu.
Trí
Độ Luận : Vì sức trói
cột mạnh nên tội ác lớn, ái dục vô hình mà xiềng trói chúng sanh trong lao ngục
tam giới chặt chẽ hơn gông cùm.
Như tất cả các giới,
dâm dục cần 4 điều kiện :
a) Nhân : Tập khí chủng tử sẵn có từ vô
thủy.
b) Duyên : Tiếp xúc 6 trần khả ái, tâm tư nối
tiếp.
c) Pháp : Phương pháp để giải quyết vấn
đề.
d) Nghiệp :
Việc làm thành
tựu.
Như tất cả các giới, dâm dục đủ 3 chướng
: a)
Phiền não chướng : Tâm niệm
ham muốn. b) Nghiệp chướng : Thành tựu sự việc.
c)
Báo chướng : Chánh báo đọa
ba đường ác. Nặng thì cột đồng giường sắt trong địa ngục. Nhẹ thì chịu thân ma
quỷ hay bàng sanh. Dư báo về nhân gian, gia đình xào xáo, quyến thuộc bất hòa.
Quả khổ luân hồi tiếp nối không cùng tận.
Bồ-tát cứu độ chúng
sanh không những cho thọ phước báo an vui mà phải dạy xa lìa gốc chướng đạo, tát
cạn nguồn khổ đau. Đem pháp thanh tịnh khuyên dạy là chỉ cách quán bất tịnh, vô
thường, vô ngã, khổ và không, đưa dần vào trí tuệ Bát Nhã.
Bồ-tát lấy việc độ
sanh làm trách nhiệm. Đưa người ra khỏi biển ái sông mê mới thật là diệu dụng
giáo hóa. Đức Phật đại bi nói pháp môn ly dục tịch tĩnh Niết-bàn. Nếu vi phạm
giới này thuộc về tánh tội.
Nơi chúng sanh đã
chết, thân chưa rã nát, ở 3 đường (miệng, đại tiện,
tiểu tiện) mà hành dâm cũng
phạm căn bản trọng tội.
Giới này đủ 3 tụ :
a/.
Cấm cố tâm dâm dục thuộc về
nhiếp luật nghi giới. b/. Đem pháp thanh tịnh khuyên dạy người là
nhiếp thiện pháp giới. c/. Cứu độ chúng sanh là nhiếp chúng sanh
giới.
Bồ-tát cần nghiêm cẩn
phụng hành.
4. VỌNG NGỮ
Phật có ở chùa. Cư sĩ đến hỏi. Cậu bé La
Hầu La nói Phật đi vắng. Như thế nhiều lần. Người ta bạch lên Phật. Một hôm, rửa
chân xong, Phật hỏi La Hầu La : Nước đã rửa chân có nấu cơm được không ? – Thưa
không vì đã nhơ bẩn. – Đúng thế. Người nói dối là người nhơ xấu, không ai tin
dùng.
La Hầu La đem chậu úp về chỗ cũ. Phật đổ
nước vào chậu úp. Nước trôi tuột đi. Phật hỏi làm sao nước không đọng ở chậu ? –
Vì chậu đã úp, làm sao nước đọng lại được.
– Cũng thế đấy, người không hổ thẹn, thân
miệng đã sống trái với giáo pháp thì thánh đạo làm sao thấm vào tâm ?
Từ đó bé La Hầu La không bao giờ còn dám
nói dối.
Loài người chung sống cần yếu phải tin
nhau, chân thành là yếu tố để thành tựu lòng tin ấy. Chân thành rất quý giá vì
là suối nguồn đạo đức, là điều kiện tiên quyết của sự tu hành. Cũng là cơ bản để
cảm hóa lòng người.
Thân tâm không vọng ngữ là nhiếp luật
nghi giới. Thường sanh chánh ngữ chánh kiến là nhiếp thiện pháp giới. Khiến
chúng sanh chánh ngữ chánh kiến là nhiếp chúng sanh giới. Bồ-tát vọng ngữ liền
mất cả tam tụ tịnh giới.
Quán sổ tức, quán bất tịnh là 2 cửa cam
lồ vào thánh vị. Vọng nói đã chứng đắc cũng phạm đại vọng ngữ. Khoe thiên long
quỷ thần cúng dường, vĩnh ly tam đồ, hết sạch phiền não, đều phạm đại vọng ngữ.
Nếu người nghe không tin, người nói chỉ bị khinh cấu tội. Người nghe lúc ấy chưa
tin. Về sau nghĩ lại mới tin, người nói phạm trọng tội. Người chính nghe không
tin, người đứng ngoài lại tin. Người nói phạm 2 khinh cấu.
Người hỏi : Anh đã chứng A-la-hán rồi
phải không ? Gật đầu (trọng
tội). Im lặng để người hiểu
lầm (khinh cấu
tội).
Các tiểu vọng ngữ, khinh cấu tội. Nhưng
nếu thường xuyên phạm hoặc thích thú nói cũng mất giới thể mà thành tội
trọng.
Nói dối để cứu mạng người thì không
tội.
Bị vu khống, bị dối gạt là dư báo của
vọng ngữ.
Thành thật có 5 lợi ích : mọi người tin
kính, thuyết pháp được chúng sanh nhận lãnh phụng hành, chư thiên quỷ thần ủng
hộ, hơi miệng thơm, ít tật bệnh ở miệng. Sau này thành Phật.
5/. BÁN RƯỢU
Buôn bán rượu phạm
tội trọng. Uống rượu chỉ phạm tội khinh. Người xưa nói : Mở một tiệm rượu tội
bằng lập 10 dâm xá.
Tại gia xuất gia đều
nghiêm cấm. Bồ-tát phát nguyện khai mở trí tuệ, khuyên người hướng thiện, tiến
về con đường quang minh vô thượng Bồ-đề. Sanh khởi trí tuệ minh đạt là biện biệt
được phải quấy thiện ác chánh tà để tiến về chánh giác.
Nay đem hôn mê tán
loạn, ngu muội, đần độn, điên cuồng, hung bạo cho chúng sanh nên phạm căn bản
trọng tội.
Uống rượu tai hại
nghiêm trọng nhưng chỉ bản thân cá nhân chịu nạn nên kết tội khinh cấu. Bán rượu
tổn hại nhiều người nên chế thành giới trọng. Giới cấm bán rượu thuộc về giá
nghiệp, ngăn ngừa cội nguồn tất cả ác hạnh, họa hại vô tận cho thế gian. Người
tại gia bán rượu thuốc không phạm.
Vua Võ Đế nhà Hạ được
nước Trung Hoa suy tôn là đấng minh quân chỉ vì đã có khả năng bỏ rượu ngay khi
thấm thía hương vị ngọt say. Ngài liền sắc lệnh cấm cả nước không được pha chế
nấu rượu, để tránh sau này sẽ có kẻ vì rượu mà khuynh gia bại sản. Lịch sử khắp
thế giới suốt xưa nay đã chứng minh sự thật này.
Làm rượu, bán rượu, uống rượu đều đọa địa
ngục. Chuyển sanh lên dương thế làm kẻ điên khùng. Bồ-tát cần suy ngẫm kỹ về tội
ác thâm trọng và quả báo thống khổ của rượu để răn dạy chúng sanh.
6/. RAO NÓI LỖI LẦM BỐN CHÚNG
Người phát tâm Bồ-đề,
tu Bồ-tát đạo rất hiếm có. Đã không tán thán còn bới lông tìm vết, khiến chánh
giáo Như Lai bị chướng lưu hành.
Phàm làm người trong
thế gian, dù là bậc đã có hàm dưỡng giáo dục học vấn đầy đủ cũng không tránh
khỏi ít nhiều lỗi lầm. Chưa phải thánh hiền, ai đã hoàn toàn không sai quấy ?
Cho nên Phật giáo chủ trương từ bi hỷ xả để cùng nhau xây dựng dần
dần.
Bốn chúng tại gia
xuất gia cùng là thiện hữu núp bóng Tam-bảo. Đồng một giới pháp để phòng hộ thân
tâm. Pháp lữ một đường lối tu học để tăng tấn công đức, hoàn thành mục đích xuất
thế. Chúng ta cần đem hết năng lực hộ trì Tam-bảo, giữ gìn chánh pháp, khiến
giáo lý Phật đà cửu trụ nơi thế gian, lợi ích khắp muôn loài. Muốn được như thế
cần gây tín tâm cho nhân loại. Đức Phật đặt ra điều luật này, cấm tiệt sự rao
nói lỗi lầm của bốn chúng. Tránh những vạch áo cho người xem lưng. Để đừng có
cảnh trùng trong thân sư tử làm hại sư tử.
Lời nói là công cụ
diễn đạt tư tưởng và tình ý, khiến loài người hiểu nhau, hợp tác với nhau làm
chúa tể hoàn cầu. Nếu thuận hòa thì biển đông cũng tát cạn. Nay lại có những
phát ngôn viên truyền bá tin tức, chuyên môn bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu,
thêm ớt thêm muối, chuyển việc nhỏ thành trọng đại. Rồi còn đi đến chỉ không ra
có, chỉ có thành không. Vui miệng vọt lời, thương tổn lòng tự ái. Như kim đâm
vào tai làm sao bảo tồn hảo cảm. Vết thương dao cắt dễ lành, lời nói đau, hận
khó tiêu. Thế là ngôi nhà Phật pháp nứt rạn. Tình bạn hữu biến thành thù
địch.
Kẻ rao nói tội lỗi
bốn chúng là một nhân vật nguy hiểm. Kẻ nhiều miệng lưỡi, bất luận ở giai cấp
nào cũng đáng sợ. Chẳng những người bị rêu rao chịu hậu quả mà còn làm nhục danh
dự tông môn, khiến thánh đạo đang lưu hành bị mang vết. Luận Tát Bà Đa : Rao nói
tội lỗi người xuất gia tức là phá hoại pháp thân Phật. Vì hộ trì cửa đạo, vì ái
tiếc danh dự bốn chúng, đức Phật đặc biệt chế giới điều này để hàng Phật tử xuất
gia tại gia nghiêm cẩn giữ gìn.
Người xuất gia dù phá giới vẫn còn hơn
ngoại đạo. Các tân Tỳ-kheo bên Nhật Bản công khai có vợ con mà hàng Phật tử tại
gia cầu an cầu siêu cho đến cầu học Phật pháp vẫn nương cậy. Trong khi ngoại đạo
dù tài cao đức trọng vẫn không có chánh pháp độ đời. Kinh Đại Bi nói : “Người
xuất gia tay phải bồng con trai, tay trái dắt con gái, từ quán rượu này qua quán
rượu khác. Vì đã có sự huân đào trong Phật pháp, đã gieo trồng thiện căn xuất
thế thì không ngoài hiền kiếp này sẽ nhập Niết-bàn”. Dĩ nhiên là không chùa nào
chấp nhận cho Tỳ-kheo vào quán rượu. Ý kinh muốn nhắc chúng ta rằng : Chỉ cần
một chút cống hiến cho Phật pháp cũng là nhân duyên giải thoát ngày
mai.
Căn cứ vào đối tượng
rao nói mà thành tội nặng nhẹ. Đối các vị lãnh đạo quốc gia, tội thật nặng.
Những vị này hy vọng ở các tôn giáo góp sức cải hóa nhân dân. Nay nghe bản thân
người trong tôn giáo đạo đức chẳng kiện toàn. Vậy tôn giáo này vô ích. Trong
lịch sử, những sự phá diệt Phật pháp đa số đều do động niệm này.
Đối ngoại đạo và
những người ác cảm với Phật giáo mà rao nói lỗi lầm của bốn chúng, tội cũng
không nhẹ. Vì họ đang tìm tài liệu để bài báng Phật pháp. Nay được chính người
trong đạo Phật mạnh mẽ giúp sức, hỏi còn gì may mắn hơn ?
Đối Phật tử tại gia
rao nói. Thật tội nghiệp cho người này. Từ đây thoái thất lòng tin. Trong đồng
đạo, vui miệng kể lỗi người này, kể quấy người kia. Tội không nặng vì không định
tâm ác nhưng cũng không phải là tướng mạo thánh hiền. Động chạm đến danh dự
đương sự hẳn cũng tự chuốc lấy những thù hận khó gỡ.
Căn cứ vào động cơ
thúc đẩy bên trong và lời nói bên ngoài mà phán đoán tội nặng nhẹ : Nói người để
danh lợi về mình ; vì cừu hận dùng lời ác độc ; vì ngu si không biết hậu quả của
lời nói ; tâm vô ký, nhẹ dạ nhẹ miệng, bạ đâu nói đấy.
Bảo người rao nói : a) Vì ném đá giấu tay, nhờ miệng người làm
tổn thất danh giá kẻ cừu địch của mình. b) Biết hai người có oán hờn nhau. Giúp cho
người này một mồi lửa để đốt nhà người kia. Bồ-tát dĩ nhiên phải biết sợ những
thứ tâm niệm này.
Xét 4 việc mà kết tội :
a- Nhân : 3 độc tham, sân, si.
b- Duyên : Tìm lỗi lầm của đối phương làm tài liệu.
c- Cách thức :
Lời nói hay viết văn.
d- Nghiệp :
Mình nói rành rẽ, người nghe
minh bạch.
Rao nói tội trọng thành tội trọng. Rao
nói tội khinh thành tội khinh. Dù tội có thật, kẻ nói cũng ác khẩu. Nếu trước
mặt ngọt ngào sau lưng chê bai, phạm thêm tội hai lưỡi. Nếu tội không có, chồng
thêm tội vu khống.
Chúng sanh nạn nhân có 5 phẩm
:
1- Thượng phẩm : Bồ-tát Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.
Người nói phạm trọng tội.
2- Trung phẩm : Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Người
nói cũng phạm trọng tội.
3- Hạ phẩm : Bồ-tát tại gia. Người nói cũng
phạm trọng tội nhưng không nhất định mất giới thể.
4- Nói tội chúng nhỏ, khinh cấu.
5- Người bị rêu rao phạm trọng tội đã mất
giới thể, người nói khinh cấu tội. Nếu người này giới thể không mất hoặc đã đúng
pháp sám hối hay đã được thọ giới lại. Người nói phạm trọng tội.
Quả báo : Địa ngục rút lưỡi hoặc bị kéo lưỡi ra cho
trâu cày. Sanh về dương gian nhiều đời không lưỡi. Các thứ bất hòa gây
gổ.
Luật
Sadi dạy : Bệnh từ miệng
vào, họa từ miệng ra. Lưỡi con người là cái búa tự chém chặt mình.
Bồ-tát nghe rao nói tội lỗi bốn chúng rất
đau lòng buốt dạ. Huống chi tự miệng đi rao nói. Bổn phận Bồ-tát phải giáo hóa
kẻ ác sanh tín tâm lành đối với đại thừa. Kinh này gọi ngoại đạo và nhị thừa là
kẻ ác. Vì ngoại đạo không tự tin tâm mình là Phật, đem tâm hướng bên ngoài cầu
an vui hết khổ nên đa số bác lý nhân quả. Khác với đường lối của Phật nên gọi là
ngoại đạo.
Nhị thừa là đạo lý thánh nhân vượt thoát
luân hồi sanh tử. Sở dĩ kinh đây gọi là ác vì các hành giả không phát tâm cứu độ
chúng sanh, không tin diệu dụng đại thừa. Vì không tin nên dễ sanh báng, cho
rằng Bồ-tát phá hoại Phật pháp.
Để khỏi chướng ngại việc hoằng dương Phật
pháp và các Phật tử không tán thất tánh đức bản thân, đức Thích Ca Mâu Ni cấm
tiệt sự rao nói. Nhưng ngài vẫn nghiêm khắc bảo tồn nếp sống thanh tịnh của Tăng
đoàn. Không thanh tịnh, không có hòa hợp an vui. Mỗi nửa tháng toàn chúng phải
kiểm điểm, sám hối những lỗi lầm. Ai không tự thấy lỗi, không chịu sửa lỗi sẽ bị
trục xuất. Trong Tăng đoàn, trước giờ bố tát, Tỳ-kheo nào cũng có quyền công
khai cử tội những phi pháp sai luật. Cực lực quở trách để xây dựng được coi là
đại công đức.
Ngoài ra, nếu biết rõ mười mươi sự không
tốt đẹp, ta nên thành thật thẳng thắn nói chuyện ngay với đương sự. Nếu không
kết quả, ta đem thiện ý nói với sư phụ vị ấy, hy vọng sẽ có sự cải hối, để hạt
ngọc châu trở về không vết.
Chẳng những trong khi tức giận phải cẩn
thận mà hàng ngày thuận miệng hả dạ cũng nên đề phòng. Khinh bạc đàm tiếu chuyện
thị phi, khoái rao nói lỗi lầm của người khác, đâu có ngờ đang tự tạo cho mình
một vực thẳm.
Đức khiêm nhường cung kính là một loại
hoa thơm. Lời nói là bạc, im lặng là vàng.
7/. KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Tâm lý khen mình chê người, phàm phu nào
cũng có. Rất hiếm được nghe một người tự phô bày khuyết điểm và tán dương mỹ đức
kẻ khác. Cho nên hòa khí chân thành là một thứ vô cùng quý giá. Bồ-tát từng giờ
từng phút phản tỉnh, đề phòng những tập khí vô minh.
Con người ở trong xã hội có đứng vững hay
không chính do khả năng của mình. Khen chê chỉ là những ảnh hưởng bên ngoài. Tật
đố phỉ báng tác dụng ngược lại thường làm hại chính chủ nhân nó.
Bồ-tát hóa độ chúng sanh phải làm gương
mẫu. Nhất cử nhất động, lời nói việc làm cần hợp pháp tắc. Ganh ghét người hiền,
hãm hại tài năng thì thiện pháp công đức mỗi ngày một tổn giảm. Ác pháp tội lỗi
mỗi ngày sẽ gia tăng. Bồ-tát dẫn dắt chúng sanh đi đường lối này thật là nguy
hiểm cho Phật pháp. Như người chuyên học giáo lý sẵn sàng chê các bậc chuyên tu
là tu mù luyện quáng. Bậc tĩnh tọa được chút công phu chê người chuyên học là ăn
bánh vẽ, đếm tiền hộ trưởng giả. Bổn phận duy trì Phật pháp mà hóa thành bè đảng
ma vương.
Những lời nói khiến
kẻ kia không chỗ đứng, không thể ngóc đầu lên, bị mọi người xa lánh. Sự nghiệp
khó thành công vì chẳng được ai hưởng ứng. Nói với người chưa thọ Bồ-tát giới
thì căn bản trọng tội. Nói với người đã thọ Bồ-tát giới thì khinh cấu tội. Cũng
có nơi cho rằng bất luận nói với ai, hễ cứ dụng tâm ác đều phạm trọng
tội.
Khen mình là do tham danh lợi. Chê người
từ tật đố sân giận mà ra. Động cơ chính yếu vẫn là ngu si. Chê người để hiển lộ
cái hay của mình là dụng tâm đê hèn. Xúi người tự tán hủy tha, bất luận hoàn
cảnh nào, hễ người thọ sai hoàn thành sứ mạng thì Bồ-tát phạm căn bản trọng
tội.
Thanh-văn thừa coi tội khen mình chỉ là
ác thuyết. Chê người tội đọa, tức là hàng thứ 3 trong các tội nặng. Bồ-tát thừa
cho việc tùy vọng tình làm tổn thất chúng sanh, là tội rất nặng.
Giới này gồm cả 2 nghiệp. Là tánh tội vì
tranh danh đoạt lợi gây đau khổ sâu xa. Là giá giới vì Phật đề phòng những tai
hại có thể đưa người đến táng thân bại sản.
Hủy báng người thường, tội đã nặng. Hủy
báng pháp sư hoằng dương chánh giáo, tội càng trọng đại. Kinh Báng Phật kể
chuyện : Pháp sư Biện Tích, một cao Tăng hoằng truyền chánh giáo. Thính chúng
thông thường kể số ngàn muôn. Vì bị một bọn liên kết hủy báng, ngài mất hẳn tín
chúng, phải rời chùa đi cư trú nơi khác. Những kẻ hủy báng xả thân chịu quả vô
cùng bi thảm. Vô lượng kiếp trong địa ngục rút lưỡi. Chuyển thân lên dương gian,
thân này thân khác cứ bị sanh manh. Cho đến đức Phật Thích Ca xuất thế, dù được
xuất gia tu học mà thân tâm cứ đủ thứ tác dụng chướng nạn, đến nỗi hết đời lại
trở về địa ngục.
Kinh Vị Tằng Hữu kể một chuyện khen mình
: Có 5 Tỳ-kheo, hàng ngày luân phiên, 4 người ngồi thiền trong rừng. Một người
đi các nơi rao nói : “Có thánh Tăng giáng đức tại rừng kia. Ai phát tâm lễ bái
cúng dường công đức vô lượng”. Năm người nhờ vậy hưởng thọ sung mãn. Mạng chung
đọa địa ngục. Lên dương thế làm súc sanh trả nợ thí chủ. Đến khi làm người bị dư
báo. Nếu không làm nghề khiêng kiệu thì cũng đi đổ phân thuê cho đàn na xưa. Xem
thế thì biết, lợi dưỡng đúng pháp còn nên xa lánh huống chi dùng thủ đoạn không
chánh đáng mà tìm cầu.
Bồ-tát tuyệt đối phải có 4 pháp :
a) Biết gia đình là lao ngục.
b) Biết danh lợi là xiềng xích.
c) Không đắm nhiễm các vui thế gian.
d) Không ái tiếc thân mạng bốn
đại.
Bồ-tát cần đề phòng 4 việc đọa lạc :
a. Khinh mạn người kém mình.
b. Giả hiện hiền đức.
c. Cư trú ở nơi có nhiều danh lợi như cung
vua thành thị.
d. Bội ân, dua nịnh (đối với các bậc có
ân đức phải trực tâm, thành tâm, cung kính tâm).
Đức Phật cấm khen mình chê người là nói
về phương diện phân biệt nhân ngã, tranh giành hơn thua, mưu cầu danh lợi, bất
chấp sự tổn hại của người. Còn các Bồ-tát đại từ bi vì thương xót chúng sanh, vì
đại nguyện nêu cao pháp tràng mà lớn tiếng phân biệt chánh tà thì công đức không
thể nghĩ bàn. Chẳng thể đem so sánh với ngã kiến phàm phu. Vì mong cho chúng
sanh thoát khổ trầm luân, Bồ-tát nêu lợi ích của Phật pháp, vạch tỏ tà thuyết
của ngoại đạo. Như đức Phật tự đặt ra giáo lý nhị thừa rồi trở lại bài xích để
đưa các đệ tử tiến lên nhất thừa.
HỎI : Bồ-tát
giới bắt buộc bao nhiêu hay tốt nhường cho người. Bao nhiêu nhơ xấu đem về phần
mình. Nếu bản thân Bồ-tát không xấu, nếu chúng sanh vốn thật không tốt thì lời
nói này trở thành hư dối ?
ĐÁP : Ta nên hiểu ý luật dạy thế này : Bồ-tát
phải có tầm tri kiến rộng rãi. Thí dụ chúng sanh đến hủy nhục. Bồ-tát tự nghĩ :
Vì có thân mới có cái đích để cho thiên hạ bêu xấu. Như các hiền thánh chứng quả
vô sanh thì đâu có duyên để cho thiên hạ ác khẩu. Lại vì kiếp trước có tạo
nghiệp hủy báng nên nay mới có quả báo xấu. Mỗi lời hủy báng là một quét sạch
túc nghiệp. Bồ-tát trở lại cám ơn chúng sanh.
Đức Khổng Tử dạy thầy Tử Cống : Những gì
mình không thích chớ đem cho người. Những gì mình ưa thích nên làm cho
người.
Phật cấm các Bồ-tát tuyên dương lỗi xấu
của người mà dạy hằng phô hiển chỗ tốt đẹp của người.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn :
“Bồ-tát phải tận lực xưng dương tán thán người có thiện pháp khiến những ai nghe
được vui mừng, gia tăng tín tâm thanh tịnh”. Lửa tự tán hủy tha thiêu đốt thiện
căn đại thừa tánh giới, khiến Bồ-tát mất tâm từ bi. Chẳng những khen mình chê
người, Bồ-tát giới kết tội nặng mà Bồ-tát hạnh còn phải tùy hỷ công đức thiện
căn của mọi người.
Đức Phật dạy : Đã vào rừng chiên đàn,
phải lấy gỗ trầm hương. Không nên chỉ vơ một nắm lá. Phật tử phải cầu cho bằng
được sự an vui giải thoát. Nếu cầu danh lợi là tự thiêu đốt hết thiện căn lại
còn tạo nghiệp đọa lạc.
Bất cứ trường hợp nào, tâm tật đố khen
mình chê người cũng đáng trách. Hậu quả không lành cả hiện tại và vị lai. Bồ-tát
hàng ngày tự xét. Không để cho loại vi trùng nguy hiểm này xâm nhập vào tâm.
Huống chi còn dung túng cho nó làm thống soái điều khiển thân miệng ý
mình.
8/. BỎN SẺN THÊM MẮNG NHIẾC
Yêu tiếc cất chứa lợi dưỡng, không muốn
bố thí. Tham : ham muốn không chán. Xan : bỏn sẻn bất luận về tiền
của, năng lực hay trí thức.
Lòng người là như vậy. Được thì hoan hỷ
mà cho ra thì luyến tiếc. Phát tâm Bồ-đề là phát nguyện từ nay xả thí nội thân
ngoại tài. Đem vật thế gian hư huyễn đổi lấy thanh tịnh pháp thân.
Bỏn sẻn : tham. Mắng nhiếc : sân. Nếu chỉ
mắng nhiếc mà không bỏn sẻn hoặc chỉ bỏn sẻn mà không mắng nhiếc thì tội khinh
cấu. Mục đích bố thí chẳng những khiến chúng sanh an vui mà cần yếu là được lợi
ích. Nếu chúng sanh yêu sách những thứ vô lý hoặc quá khả năng thì Bồ-tát cứ
thành thật từ chối. Bỏn sẻn tiền của đời đời nghèo thiếu. Bỏn sẻn Phật pháp đời
đời ngu si nên Bồ-tát rất mong bố thí.
9/. SÂN GIẬN KHÔNG THỌ HỐI
Đối với Bồ-tát tội
sân nặng hơn tham vì chướng ngại hạnh nhẫn nhục và phá hoại đức từ bi. Bổn phận
Bồ-tát phải chữa bệnh sân cho chúng sanh, đâu lại tự mình giận họ. Bồ-tát phát
nguyện vào địa ngục chịu khổ thay cho chúng sanh, huống chi lại không chịu đựng
nổi những mê lầm của họ. Không nhẫn được tức là mình chưa tự điều phục được mình
còn mong dạy ai ?
Chúng sanh gây chuyện phi lý cho Bồ-tát
:
1- Vì tiền ác nghiệp của Bồ-tát cảm
ra.
2- Vì ma phiền não ám ảnh, chúng sanh ngu mê
không tự biết. Ngũ trược ác thế toàn những bất như ý. Như người lỡ vào rừng gai.
Chỉ nên một lòng cầu ra thoát, đâu có thời giờ giận trách bọn gai.
Bồ-tát một lòng xuất thế. Vì đã giác tỉnh
nên từ bi thương xót chúng sanh mê khổ trong kiếp sống vô thường vô ngã. Bồ-tát
tu lục độ lấy chúng sanh độc ác làm ân nhân. Ngày đêm chỉ mong đền ân. Về Cực
Lạc rồi, đâu còn ai cần đến Bồ-tát hạnh của mình.
Thân ta, thân người cho đến dao gậy đều
là đất nước gió lửa, tuần nghiệp cảm hiện. Các pháp sanh diệt không ngừng. Trong
đây không người mạ nhục, không người cung kính.
Ba cách tư duy để nhẫn não :
1- Nghiệp lực chiêu cảm tai ương.
2- Sanh mạng là hành khổ, ta người đều
vậy.
3- Còn chấp bốn tướng ta, người, chúng sanh,
thọ giả thì chưa phải là Bồ-tát. Bồ-tát có trí tuệ Bát Nhã, dù thân bị lóc thịt,
tâm vẫn không động. Bồ-tát đã biết đạo lý, đâu còn như thế gian, làm chuyện xúc
não.
Nhị thừa chỉ mong giải thoát còn tu bốn
vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả. Nhà nho lập hạnh quân tử một đời, còn biết dùng đức
báo oán. Người phá vườn ta, ta đem nước tưới vườn cho người. Huống chi Bồ-tát
đại thừa, lấy lợi tha làm bổn nghiệp, lấy cứu khổ làm nhiệm vụ, đâu có phiền hận
ai ?
Người đem bất hạnh đến. Bồ-tát nghĩ đây
là nợ, ta nên vui vẻ trả. Thái độ thân thiết, sắc diện vui hòa, tư cách thiện
cảm, Bồ-tát bao giờ cũng cởi mở trong những quan hệ giao tiếp.
Kẻ sân giận bị gọi là Dược-xoa La-sát,
nào có ai ưa. Sân giận nổi lên, cả ba nghiệp trở thành xấu ác, mở đường trầm
luân. Bồ-tát thận trọng, triệt để vâng Phật, làm cho chúng sanh được căn lành
không tranh chấp, tu tập hiếu thuận từ bi.
Xúc người nổi sân rất dễ, chỉ cần vài lời
kích thích. Khuyên nhẫn nhịn rất khó vì lòng tự ái không dễ hàng phục. Người đời
cho khiêm nhường là hèn nhát nhu nhược.
Lúc đầu chỉ một tranh cãi không đâu. Tiến
đến ẩu đả. Rồi thì thịt nát máu rơi. Cho nên vô tranh là căn bản an lành. Tạo
được không khí hòa vui thì ngay thế gian là Tịnh-độ. Bồ-tát biết tất cả chúng
sanh đều đã từng là cha mẹ lẫn nhau nên tu tâm hiếu thuận.
Thần Kim Cương mắt phẫn nộ mà lòng
Bồ-tát. Ngoài sừng sộ nhưng tâm hiền từ. Miệng quở trách vì lòng thương xót.
Bồ-tát thị hiện tướng sân để hàng phục cang cường chúng sanh, không nên so sánh
với những hạng người còn tẩm ba độc.
Trường hợp cần quở trách, trị phạt, tẩn
xuất mà Bồ-tát dung túng, để họ quá đà, đi đến đọa lạc thì Bồ-tát phạm giới
không dạy sám hối. Trừ những trường hợp thực sự không kết quả, không phải lúc,
thì Bồ-tát đành bỏ qua.
Câu
Xá Luận tụng rằng :
Thượng nhị bất hành sân (cõi trời sắc và vô
sắc không còn sân).
9/. HỦY BÁNG TAM-BẢO
Tà kiến thượng phẩm báng không nhân quả,
không tin Tam-bảo. Trung phẩm không thừa nhận Tam-bảo hơn ngoại đạo. Hạ phẩm bỏ
đại thừa theo tiểu thừa hoặc ngược lại chấp đại thừa báng tiểu thừa, nói Bồ-tát
không cần học tiểu thừa. Riêng chê bai một kinh nào cũng khinh cấu
tội.
Sợ hãi sanh tử, đoạn trừ phiền não,
Thanh-văn không sánh kịp Bồ-tát. Vì Thanh-văn chỉ tự độ. Bồ-tát nguyện độ tất cả
chúng sanh. Đặc điểm của Bồ-tát là một lòng xa lìa sanh tử tuy vẫn ở trong sanh
tử. Giải thoát phiền não mà vẫn lăn lộn đối đầu với chúng sanh đầy phiền
não.
Hủy báng Tam-bảo là thiêu đốt hết thiện
căn công đức của mình, phá hoại tín tâm chúng sanh, tiêu diệt pháp nhãn của
người. Đại ác tri thức này đưa mình và người vào địa ngục A tỳ.
Riêng báng Phật, riêng báng Pháp, riêng
báng Tăng cũng là báng Tam-bảo. Nói trên đời này chỉ có Bồ-tát tương tợ và
Thanh-văn giả mà thôi. Đó là báng Tăng.
Quả báo đời sau không gặp được Tam-bảo.
Phá hoại tuệ mạng của chúng sanh, đoạn tuyệt Phật chủng của chúng sanh nên đọa
ác đạo, chịu các bệnh khổ. Hủy báng chánh pháp khiến chúng sanh mất nơi nương
tựa tức là mất tất cả quả vui, sẽ chịu tất cả khổ.
Thời quá khứ, pháp sư Oai Nghi chuyên học
tiểu thừa, báng đại thừa không phải lời Phật, chết đọa địa ngục. Lên làm người
đui mù, sanh nhà bần tiện tà kiến, không được gần Tam-bảo, không được nghe chánh
pháp.
Giới này đủ cả 2 tánh và giá
tội.
TỔNG KẾT
:
Tâm địa đại giới mà hư tổn
thì dù Phật chủng sẵn có cũng không thể mọc mầm. Nên Bồ-tát cần nghiêm cẩn dù
một mảy nhỏ cũng không dám vi phạm.
B- 48 GIỚI
KHINH
Khinh : nhẹ. Cấu : nhiễm ô bổn nguyên tâm
địa. Nếu không mau sám hối thì chướng đạo quả. Khinh cấu tội cũng gọi là ác tác,
ác thuyết, thất ý, đột cát la. 10 giới trọng không đủ duyên thành nghiệp gọi là
khinh cấu tòng sanh.
Kinh
Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Oai Nghi : Nếu thầy Samôn nói không thèm nghe, hỏi
không như thật đáp, phạm tội trọng cấu. Nếu không tâm khinh mạn giận ghét mà chỉ
vì xao lãng biếng lười thời khinh cấu tội.
1/. KHÔNG CUNG KÍNH THẦY BẠN
Tâm hiếu thuận : ý nghiệp kiền thành. Đứng dậy tiếp
rước lạy chào : thân nghiệp kiền thành. Hỏi thăm : khẩu nghiệp kiền
thành. Bồ-tát từ trong tâm tưởng đến ngoài thái độ đều phải y lời Phật
dạy.
Tôn kính thầy bạn là việc khẩn yếu trong
Bồ-tát giới để hoàn mãn Bồ-tát hạnh. Trừ những trường hợp như đang nghe pháp,
không dám động niệm pháp sư và đại chúng thì không phạm.
Cung kính thầy bạn sẽ thường xuyên được
gặp duyên lành để thành tựu Phật pháp.
2/. UỐNG RƯỢU
Trưởng lão Sa Dà Đà hàng phục độc long
danh tiếng lừng lẫy. Bị rượu say, nằm bẹp một chỗ. Đức Phật hỏi : Lúc này có bắt
cua được không ?
Vua Hoàn Công nước Tề đưa cho Quản Trọng
một chén rượu. Quản Trọng nhận rồi lén đổ đi. Vua hạch tội. Quản Trọng thưa :
Uống rượu say nói những lời lỗi lầm sẽ mất mạng. Nên thà bỏ rượu để giữ thân
mạng.
Trừ trường hợp trọng bệnh, cần rượu làm
thuốc thì khai cho Bồ-tát được uống.
3/. ĂN THỊT
Một con chim bồ câu bị diều hâu đuổi,
chạy tới ngài Xá Lợi Phất vẫn run. Chạy đến bên Phật nó mới an. Phật dạy vì tập
khí sát nghiệp của ngài Xá Lợi Phất hãy còn.
Nhúng tay vào nước sôi, toàn thân ta đau
nhức như muốn nứt. Một cây kim đâm vào thịt, khắp thân ta rùng mình. Cá kia phải
mổ, ôm mối hận. Gà kia sắp chết, khóc dưới dao. Bao nhiêu đau khổ chúng sanh
phải chịu để cung cấp cho ta một miếng ăn. Trong khi chờ đợi Diêm Vương xét xử,
ta hãy suy nghĩ, đoái tâm để ý. Có nên gieo thêm thống khổ cho những loài bạc
phước ấy chăng ?
Tất cả chúng sanh không sát nghiệp, thế
giới nào có động đao binh. Hãy xét xem, chỉ một bát canh, oán sâu tợ biển, hận
như non. Muốn biết nguyên do kiếp đao binh, hãy nghe tiếng kêu trong nhà đồ
tể.
4/. ĂN NĂM MÓN RAU CAY
Tỏi, hành, hẹ, nén, hưng cừ.
Kinh
Lăng Nghiêm dạy : “Ăn
chín sanh dâm, ăn sống sanh sân”. Sanh dâm vì có tác dụng vượng can hỏa. Ăn sống
tăng trưởng sân hận vì làm động can khí. Người ăn bị 2 thứ dâm và sân che đậy
tâm tánh nên ngũ tân cũng liệt vào loại khiến cho tâm thần bị hôn mê.
Kinh
Tỳ Ni Mẫu : Ngài Xá Lợi
Phất bệnh nặng. Y sĩ bảo phải ăn tỏi. Tôn giả bạch Phật. Phật đáp : Vì bệnh cho
phép ăn nhưng phải riêng ở một nơi vắng vẻ. Không được vào phòng Phật nhà Tăng.
Không được sử dụng nhà tắm nhà vệ sinh công cộng. Không được nằm trên đơn nệm
chiếu của chúng. Lành bệnh rồi, 7 ngày sau khi không dùng tỏi nữa, tắm gội giặt
giũ, y áo sạch sẽ, thân không còn mùi tỏi mới được trở về trong
chúng.
Bộ
Tây Vức Ký : Ở Ấn Độ, ai
ăn ngũ tân liền bị đuổi ra khỏi thành.
Giới này cả tiểu thừa đại thừa xuất gia
tại gia đều thọ trì.
5/. KHÔNG DẠY SÁM HỐI
Chánh pháp cửu trụ là do người phụng trì
có đúng hay không. Người thanh tịnh làm gương cho đại chúng noi theo. Nên thân
tâm thanh tịnh vô cùng quan trọng. Chưa đạt ngôi thánh, chưa ai tránh khỏi lỗi
lầm. Vấn đề cần yếu là tự biết lỗi và hết lòng cải hối. Giáo bất nghiêm thầy bị
đọa. Bồ-tát thấy người giỡn cười phi pháp, không dạy sám hối, là phạm
giới.
Kinh
Ưu Bà Tắc Giới : Thà một
ngày đoạn vô lượng sanh mạng, quyết không dung dưỡng những đệ tử ác mình không
thể điều phục.
Kinh
Bồ Tát Thiện Giới : Làm
thầy không răn dạy đệ tử để phá hoại Phật pháp, quyết đọa địa ngục.
Kinh
Niết Bàn : Tỳ-kheo hiền
thiện thấy người phá hoại Phật pháp mà bỏ qua, không cử tội, không trị phạt,
không tẩn xuất. Tỳ-kheo này là giặc trong Phật pháp. Tuyệt đối không được thuận
nhân tình. Mặc người buông lung, không nhắc nhở, chính mình sẽ bị tội, ngôi
Tam-bảo không dung thứ.
Kinh
Thiện Sanh : Thấy người
phạm giới, khởi tâm khinh mạn, phạm tội thất ý. Cử tội phải chân thật, phải
thời, đúng lý, vì lợi ích cho người, với tâm từ bi, thái độ nhu hòa. Không nên
trước đại chúng mà ở trước một đại đức có thể chứng minh cho người kia sám
hối.
Du
Già Bồ Tát Giới : Cử tội
cốt cho người cải hối và đại chúng được thanh tịnh an hòa. Nếu đã không cải hối
lại còn khiến chúng bất an thì không quở trách, không phạm.
Luật
Ma Ha Tăng Kỳ : Nếu có
nạn đến tánh mạng hoặc phạm hạnh thì không nên tự rước lấy phiền phức. Ai nấy
hãy tự lo cứu lửa đang cháy đầu mình.
6/. KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH
PHÁP
Vua Đế Thích hiện thân La-sát, đến trước
Bồ-tát đọc kệ : “Chư hành vô thường là pháp sanh diệt…”. Bồ-tát khẩn thiết thỉnh
La-sát nói tiếp. La-sát không nói được vì đói quá. Bồ-tát năn nỉ : “Xin ngài cố
gắng nói nốt. Tôi xin xả thân cúng dường”. La-sát nói : “Sanh diệt diệt rồi tịch
diệt mới an”. Bồ-tát vội viết bài kệ trên đá, trên cây. Xong rồi tình nguyện nộp
mình cho La-sát ăn thịt. La-sát liền hiện nguyên hình là trời Đế Thích, đỉnh lễ
sám hối và tán thán.
Dù giới hạnh khuyết điểm mà có thể thuyết
pháp độ sanh, truyền bá lời Phật. Ta phải cúng dường như cúng Phật.
Tiền thân đức Thích Ca Mâu Ni Phật làm
đại quốc vương. Khoét trên thân 1000 lỗ đổ dầu đốt đèn cúng dường bà-la-môn Lao
Độ Sai, để nghe một bài kệ : “Lâu dài sẽ chấm dứt, quá cao ắt đổ sụp, sum họp sẽ
chia ly. Có sanh thì phải tử”.
Biết con đường Phật Nhiên Đăng sắp đi qua
có đoạn bùn nhơ, Bồ-tát liền cởi chiếc áo da nai, trải lên mặt bùn. Vì chưa được
khắp, Bồ-tát nằm bẹp xuống, mở búi xõa tóc trải lên bùn, thỉnh Phật đi
qua.
Kinh
Viên Giác : Tu hành phải
nguyện trọn đời cúng dường thiện tri thức.
7/. KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
Tiểu thừa coi trọng chánh kiến. Đại thừa
coi trọng Bát Nhã. Vì người hướng dẫn không trí tuệ, vô cùng nguy hiểm. Các
thiện hạnh cần trí tuệ như thuyền cần mái chèo. Trăm ngàn kẻ mù lạc đường chỉ
cần một con mắt sáng là được sống.
Nhưng kinh Hoa Nghiêm kệ rằng : “Ví như
kẻ nghèo cùng, ngày đêm đếm báu cho người. Tự mình không nửa tiền. Kẻ đa văn
cũng vậy”. Đây ý khuyên học rồi cần tu. Đa văn là mới có văn tuệ còn phải thêm
tư tuệ và tu tuệ.
Giả sử thế giới toàn lửa đỏ vì nghe Phật
pháp cũng nên qua. Cầu thành Phật đạo độ chúng sanh vượt biển lửa sanh
tử.
Các học xứ có công năng điều hòa ba
nghiệp thân miệng ý, hàng phục tất cả bất thiện. Đa văn biết các pháp, lìa mọi
ác, xả vô nghĩa, được Niết-bàn.
8/. BỎ ĐẠI HƯỚNG TIỂU
Kinh
Hoa Nghiêm : Thà đọa
trong ác thú mà được nghe Phật danh, không muốn sanh thiện đạo mà chẳng biết
Phật pháp.
Kinh
Niết Bàn : Bồ-tát sợ đạo
pháp nhị thừa như người yêu tiếc thân mạng sợ phải xả bỏ thân. Bởi vì phát Bồ-đề
tâm là việc hiếm có khó được.
Đại
Trí Độ Luận, Tổ Long Thọ
cũng nhấn mạnh : Thà khởi tâm dã can (chồn) không sanh nhị thừa ý.
Giới kinh này cũng
chê Thanh-văn pháp là tà. Đây là vì sợ hành giả Bồ-tát thừa đi vào đường tịch
diệt của tiểu thừa, trái bỏ chánh nhân tâm địa diệu giới của mình, thành mất quả
vị Phật. Chớ không phải khinh thường giới pháp Thanh-văn. Cũng không phải nói
Bồ-tát không cần giữ giới pháp Thanh-văn. Thật ra đặc biệt Bồ-tát cần hết sức
nghiêm cẩn giữ gìn thanh tịnh nhiếp luật nghi giới của Thanh-văn để trang nghiêm
thân tâm và giáo hóa nhân quần tu học theo Phật pháp.
Kinh
Địa Tạng Thập Luận :
Bồ-tát cần phải tu học tam thừa, không được kiêu mạn vọng xưng đại thừa mà hủy
báng pháp Thanh-văn Duyên-giác.
Đã xuất gia phải giữ
giới Thanh-văn thanh tịnh, dù là người học pháp đại thừa. Nếu không thì bị gọi
là Tỳ-kheo tặc trụ (giặc trong Phật
pháp). Tội này rất nặng.
Thanh-văn là trụ trì Tăng bảo trong thế gian. Giới hạnh thanh tịnh của Tăng
chúng quan hệ đến sự mất còn của tiền đồ Phật pháp. Làm sao dám xem
thường.
Không giới luật, Tăng bảo đã mất thì Phật
bảo và Pháp bảo cũng không thể tồn tại. Nhân thiên không nơi nương tựa. Cho nên
Bồ-tát phải trọng cả tam tụ giới.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn :
a) Bồ-tát chưa nghiên cứu tinh tường Bồ-tát
tạng mà chuyên học tập Thanh-văn tạng. Thế là trái nghịch.
b) Bồ-tát chưa tinh thông Phật giáo không
được học tập ngoại đạo cùng những sách vở thế gian.
Kinh
Bồ Tát Thiện Giới : Nếu
vì muốn phá tà kiến, hiển dương chánh pháp thì cho một ngày hai thời học Phật
pháp, một thời học ngoại điển. Nếu mê theo ngoại học liền phạm giới.
9/. KHÔNG TRÔNG NOM NGƯỜI BỆNH
Bồ-tát lấy đại bi làm tự thể, lấy cứu khổ
làm bổn phận, thấy tật bệnh phải lo săn sóc cứu chữa. Công đức khán bệnh vô cùng
quan trọng, Bồ-tát chẳng thể lơ là. Phật dạy trong 8 phước điền, bệnh nhân là đệ
nhất. Phải cúng dường như cúng dường Phật.
Bệnh là do bốn đại không an hòa nhưng
cũng có nhiều nguyên nhân khác nên kinh Phạm Võng dạy phải giảng Bồ-tát giới để
cứu hộ các tai nạn và bệnh tật. Tôn giả Xá Lợi Phất nhiều bệnh nhất trong hàng
đệ tử. Phật dạy đó là do trong nhiều kiếp quá khứ ông thường có tâm khinh mạn sư
trưởng cha mẹ.
Triều nhà Đường bên Tàu, Tứ Nham thiền sư
ở thành Thạch Đầu (Nam Kinh bây
giờ), lập một bệnh xá. Ngoài
giờ chăm sóc tắm rửa giặt giũ quét phòng bệnh nhân, ngài còn giảng pháp an ủi,
khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương. Gặp những người đau nhức rên la vì máu
mủ không lưu xuất được, ngài dùng miệng hút, lưỡi liếm. Đến niên hiệu Vĩnh Huy,
thiền sư viên tịch ngay tại bệnh xá. Thi hài để hơn 10 ngày mà dung mạo vẫn tươi
đẹp, không chút thay đổi. Hương thơm ngào ngạt tỏa ra khiến ai cũng tán
thán.
10/. CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
Phòng ngừa manh nha khởi niệm sát sanh.
Kinh
Niết Bàn : Thời mạt
pháp, Ưu-bà-tắc tay cầm đao trượng hộ trì Tam-bảo. Vị này không phạm giới mà
công đức lớn. Quốc vương các quan có trách nhiệm duy trì an ninh trong nước, bảo
hộ sanh mạng và tài sản nhân dân. Vì kiến thiết quốc phòng, phải cất chứa võ
khí. Chỉ những hoàn cảnh thật cần thiết như thế, Phật mới cho phép.
11/. QUỐC SỨ
Bồ-tát không được tới lui qua lại trong
quân trận huống chi còn làm môi giới chiến tranh. Danh lợi như kiếm chém đầu
người. Kẻ ngu ưa thích nên tự hoại hết pháp lành. Bồ-tát hễ mưu tính việc bất
chánh là tà mạng.
Bồ-tát xuất gia được thỉnh đến quân đội
thuyết pháp, an ủi thương phế binh hoặc cầu siêu cho các tử nạn, thì được phép
qua lại trong quân trận. Bồ-tát tại gia lợi dụng hoàn cảnh làm chức vụ ngoại
giao, thuyết phục giới lãnh đạo của hai nước, bãi bỏ binh đao, chấm dứt chiến
tranh, lập mối giao hảo, từ nay thực hiện chính sách hòa bình. Vị quốc sứ này là
sứ giả của Như Lai.
12/. BUÔN BÁN
Cả đại thừa tiểu thừa đều có chế định
không được buôn bán. Chúng ta chớ xem thường. Bồ-tát sợ buôn bán như tránh hầm
lửa huống chi còn buôn bán sanh mạng lục súc. Ở đây Phật chỉ cấm những buôn bán
phi pháp. Bồ-tát tại gia buôn bán lương thiện thì dĩ nhiên không thành vấn
đề.
Kinh
Di Giáo : “Buôn bán,
trồng tỉa, các thứ báu… phải tránh xa như hầm lửa”. Hầm lửa thì ai cũng biết là
nguy hiểm nên vội xa tránh. Còn của báu thì số đông ai cũng thích lăn
vào.
Tát
Bà Đa Luận : “Thà làm đồ
tể, không nên sinh sống bằng nghề buôn bán”. Vì lòng tham dễ đi đến đủ thứ xảo
quyệt. Dối gạt và trộm cắp hàng ngày được trá hình.
Phật không cho buôn bán vật đựng thây
chết. Vì hễ mong được buôn may bán đắt tức là mong có nhiều người chết. Tùy hỷ
việc chết của người phạm khinh cấu tội trong giới sát sanh. Giới tướng tỉ mỉ,
các Phật tử cố gắng phụng hành. Đừng phụ lòng từ bi của đức Phật.
13/. BÁNG HỦY
Phật pháp lưu hành ở thế gian để cứu khổ.
Cần tôn nghiêm phong cách Tăng Ni mong xã hội kính phụng. Chớ buông lung miệng
lưỡi mà gánh chịu quả báo đáng sợ về sau.
Pháp Thanh-văn hủy báng người có lỗi
thật, tội nhẹ hơn vu khống. Pháp Bồ-tát trái lại. Vì pháp Thanh-văn nhằm giữ gìn
cho chính mình. Còn bản hoài của Bồ-tát là từ bi. Chỉ thú của Bồ-tát là tránh
tổn hại cho người. Nếu lỗi lầm có thật mà bị bới móc rao nói thì người này không
còn cơ hội ngóc đầu lên. Còn lỗi lầm không thật, người bị nói hành không tự ti
mặc cảm, dễ tiến tu thánh hạnh.
Chê bai hủy báng phát xuất từ ba độc
tham, sân, si. Rao nói cho tín đồ biết kẻ kia ngập đầy tội ác. Như thế đồ chúng
sẽ ly khai người ấy mà đến với mình. Mình sẽ thâu tóm toàn bộ danh và lợi. Ngay
những bậc ở địa vi cao tột đỉnh mà vẫn tự thấy cần cực lực hủy báng các đối
thủ.
Ngôi Tam-bảo được vững chắc ở thế gian.
Trong nhờ có Tăng Ni đầy đủ giới đức giáo hóa dẫn dắt. Ngoài nhờ có quốc vương
đại thần hộ trì. Nay hủy báng các ngài thì ngôi Tam-bảo làm sao sáng tỏ. Liệt vị
Tăng Ni sẽ bị thế gian coi như ác ma.
Điều tối trọng yếu của giới này là báng
hủy minh sư thiện hữu. Phật dạy : Có hẳn một địa ngục chùy phát để dành cho bọn
đại tặc này. Tội nhân một thân tự mọc ra 4 đầu. Vô số độc trùng bu cắn miệng
lưỡi. Toàn thân như đống lửa cháy mãi không ngừng. Hết báo địa ngục lên dương
gian làm bàng sanh ăn phân uống nước tiểu. Mãn báo súc sanh, tái phục thân
người, sanh nơi biên địa hoang dã, không gặp Phật pháp. Trọn đời ngu si, chịu sự
khinh rẻ. Cứ thế mà đi mãi con đường đọa lạc với những thống khổ vô biên. Đức
Phật ân cần khuyên dạy : “Hủy báng Phật tội còn nhẹ. Hủy báng pháp sư tội thật
nặng. Cho nên Bồ-tát đạo khẩn yếu là hiếu hạnh đối với sư trưởng”.
Trong kinh Thần Biến, Phật dạy Bồ-tát Văn
Thù : “Ác tâm hủy phá hằng hà sa tháp miếu Phật, tội còn nhẹ. Sân tâm hủy báng
pháp sư, tội nặng gấp bội vô lượng a tăng kỳ”.
Luận
Bồ Tát Học : Khinh miệt
mạ nhục Bồ-tát, đọa địa ngục thọ khổ không hẹn ngày ra.
Một bé gái mới 7 tuổi bảo với mẹ : Mẹ ơi,
ông thầy kia giống con quạ mù ! Đức Phật dạy : “Sau này bé phải chịu 500 đời làm
quạ mù”. Bà mẹ cầu Phật tha thứ. Đây là vì nhỏ dại bạ đâu nói đấy chớ không hề
có ác tâm. Phật đáp : Nếu ác tâm thì đọa địa ngục. Như Lai nói như thế vì mắt
Phật thấy rõ quả báo của ác khẩu.
Hủy báng thuộc về tánh tội. Không luận có
thọ giới hay không, cứ hủy báng là tự chiêu cảm ác báo.
Kinh
Báo Ân : Lửa dữ chỉ đốt
một xác thân, ác khẩu thiêu đốt vô lượng đời. Lửa thiêu tài vật, ác khẩu thiêu
đốt bảy thánh tài.
Vĩnh
Gia đại sư huấn từ : Mặc
cho người hủy báng, tha hồ cho họ chê bai. Cầm lửa đốt trời chỉ tự chuốc mệt
nhọc. Ta nên coi như được uống cam lồ để cho tiêu nghiệp.
14/. PHÓNG HỎA
Tỳ-kheo không được cố tâm giẫm đạp cỏ
tươi. Huống chi Bồ-tát lại dùng lửa thiêu đốt cả núi rừng đồng nội. Vừa sát
sanh, vừa hoại quỷ thần thôn, vừa thương tổn tài vật kẻ khác.
Sát sanh còn có chọn lựa, sanh mạng bị
giết có hạn lượng chớ phóng hỏa thì làm sao tính lường.
Kinh nói từ tháng 4 đến tháng 9 là mùa
mưa, sâu kiến trùng dế sanh sản rất nhiều. Những xứ lạnh, mùa đông, côn trùng
nhỏ chui sâu vào lòng đất ngủ yên, đợi đến mùa ấm mới trồi lên mặt đất sinh
hoạt. Những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới phải dè dặt thận trọng quanh năm vì
các sinh vật không có đông miên.
Pháp
sư Diễn Bồi kể chuyện : Một tiều phu thấy một khu rừng có đốm lửa
liền vội vàng dập tắt để tránh hỏa hoạn. Cảm phước báo lên trời làm Đại Phạm
Thiên Vương. Cứu hỏa công đức như vậy thì phóng hỏa đương nhiên tội không thể
nhẹ. Bồ-tát cẩn thận !
15/. KHÔNG HOẰNG DƯƠNG ĐẠI
THỪA
Chánh tín đại thừa : Ác nào cũng dứt được. Lành nào cũng làm
được. Loài nào cũng độ được. Chư Phật là Phật đã thành. Mình là Phật sẽ thành.
Vì tâm mình đồng tâm Phật nên trên cầu Phật quả. Vì tâm mình đồng thể với mười
phương chúng sanh nên nguyện độ tận chúng sanh. Sự giác tỉnh này không được giây
phút xao lãng. Hễ quên liền lạc về nhị thừa. Nhân tu gọi là tâm Bồ-đề. Quả đức
gọi là chánh giác. Từ sơ Địa đến Địa 10 đều lấy đại bi làm gốc.
Trước tiên dạy hàng tân học đọc tụng kinh
luật đại thừa. Kế giảng cho hiểu rõ nghĩa lý, giúp cho họ phát tâm Vô-thượng
Bồ-đề.
Nếu chỉ hiểu rõ giáo lý đại thừa mà không
phát tâm đại Bồ-đề là cuồng tuệ. Nếu chỉ phát tâm Bồ-đề mà không thông đạt giáo
lý đại thừa, chỉ thêm vô minh. Nên hai việc này trợ giúp cho nhau.
Kinh
Vô Úy Thượng Thọ Vấn :
“Phát tâm Bồ-đề phước lớn như hư không. Dùng châu báu đầy hằng sa cõi Phật đem
cúng dường Tam-bảo, được phước vô biên. Người chí thành một phen phát tâm Bồ-đề,
phước đức hơn nhiều không thể tính kể”. Phát tâm rồi phải tu tập hạnh Bồ-đề là
các pháp quán để viên mãn 10 Tín, tiến lên 10 Trụ, 10 Hồi Hướng. Bồ-tát dạy
người tu 30 ngôi Hiền mới gọi là tự lợi lợi tha. Bậc thầy phải cặn kẽ chỉ thứ
lớp lên quả vị Phật để người học khỏi lạc đường (xem kinh Hoa
Nghiêm).
Giới kinh dạy : “Bồ-tát phải thuyết giảng
đúng chánh pháp. Phật tử phải tận tâm học kinh luật oai nghi đại thừa, thông
hiểu nghĩa lý. Hàng tân Bồ-tát từ xa trăm ngàn dặm đến cầu học nên dạy các khổ
hạnh. Rồi sau tuần tự theo căn cơ mỗi người mà giảng chánh pháp cho họ mở thông
tâm ý. Phật tử vì danh lợi, đáng dạy mà không dạy. Hoặc giảng kinh luật một cách
điên đảo, văn tự lộn xộn, không đúng thứ lớp trước sau. Thuyết pháp với tánh
cách hủy báng Tam-bảo, khinh cấu tội”.
16/. VÌ LỢI ĐẢO THUYẾT
Bồ-tát phải học tập đầy đủ để thành tựu
tri kiến. Khi đã có khả năng phải tận tình giáo hóa để cho ai nấy đều được hưởng
thọ sự lợi ích của chánh pháp. Việc truyền đăng không thể đoạn tuyệt. Vì hộ trì
chánh pháp, Bồ-tát hoan hỷ sốt sắng khoái lạc giảng nói, không mỏi nhọc, không
chán nản. Cầu cho chúng sanh tiến tới Vô-thượng Bồ-đề.
Đã thọ Bồ-tát giới, ai cũng phải học kinh
luật đại thừa, thông hiểu nghĩa lý. Sơ tâm phải biết tôn trọng chánh pháp đến
mức hy sinh thân mạng. Có ý chí quyết liệt như Tổ Huệ Khả cầu pháp với Tổ Đạt Ma
mới dũng cảm thắng tiến. Không bị hoàn cảnh khó khăn làm thoái thất tâm
Bồ-đề.
Xả thân, cánh tay, ngón tay để cúng dường
Phật là tâm thượng cầu Phật đạo đến tuyệt đỉnh. Xả thân mạng tay chân bố thí cho
cọp sói các loài quỷ đói rồi giảng nói đại thừa cho hàng tân học ấy mở thông tâm
ý. Đây là nói về tâm hạ hóa chúng sanh đến mức tuyệt đỉnh.
Nên biết chúng ta từ vô thủy chìm đắm
trong sanh tử luân hồi. Nguyên nhân là do đời đời kiếp kiếp đã huân tập vô minh,
chấp thủ thân mạng. Nay dạy hy sinh để thực hiện tinh thần vị tha của đại thừa
(Ma-ha
tát-đỏa Vương Tử đem thân nuôi 5 mẹ con nhà cọp). Tại sao lại khuyên Bồ-tát nên làm như
thế ngay buổi vỡ lòng học Phật ? Mục đích chủ yếu là phá trừ chấp ngã. Thân mạng
còn coi như giẻ rách huống chi tài vật. Nội thí ngoại thí hiển tỏ một tâm chí
vững chắc kiên cố.
Tuyên thuyết chánh pháp không phải dễ
dàng. Trước nói những sự tướng dễ hiểu rồi sau dần dần giảng nói thâm áo. Chúng
sanh tiếp thọ từ thô vào tế, từ cạn đến sâu, dễ nắm được đường lối. Ba môn vô
lậu học cũng trước học giới, sau vào định rồi tuệ giải. Ngôi vị tu tiến cũng
tuần tự từ 10 Tín lên dần 10 Địa. Người học nhờ văn tuệ mở tỏ, tư tuệ khai sáng
mới không bị trệ ngại trong khi tu tập liễu ngộ bổn nguyên tâm địa. Ý hiểu rõ,
biết được nghĩa vị xác thật. Tâm trí đã khai thông thì sự chứng quả đăng vị sẽ
không khó khăn.
Tóm lại, quên mình vì
người là bổn hoài của đại sĩ. Tuyên dương thuận theo chánh giáo là bổn phận của
Bồ-tát. Theo kinh Phạm Võng, trước tiên vì hàng sơ học nói khổ hạnh, trì giới.
Kế nói chánh pháp nghĩa là lý KHÔNG. Phải làm sao cho tâm chí người học kiên
cố vững bền.
Khi nào thì không
phạm ? Biết người kia tà kiến nên pháp sư không dạy khổ hạnh mà cực lực bài xích
khổ hạnh. Hoặc để phá trừ ngu si vọng chấp nên vị thầy chuyên giảng LÝ mà chưa nói đến SỰ.
Theo Du Già Giới Bổn,
có nhiều nhân duyên Bồ-tát từ chối giảng dạy thuyết pháp mà không phạm giới. Thí
dụ : Người cầu không thật lòng, Bồ-tát đang bệnh v.v…
17/. Ỷ THẾ KHẤT CẦU
Kinh
Ngũ Bách Vấn : Một
Tỳ-kheo tham tiền của, khất cầu quá nhiều mà không đúng pháp sử dụng. Mệnh chung
thọ ác báo làm một trái núi toàn thịt rộng vài mươi dặm. Gặp năm mất mùa, dân
chúng xúm nhau đến cắt thịt, mang về cả nhà ăn. Thịt lại mọc ra như cũ. Thiên hạ
tha hồ ăn.
Phật dạy : Ai đã thọ Bồ-tát giới, làm
việc gì cũng vì đại chúng hay vì Phật pháp. Nếu vì hộ trì Phật pháp, muốn Phật
pháp được truyền bá khắp thế gian mà thân cận các quốc vương thì nào có lỗi như
Nam Dương Trung làm quốc sư luôn 3 triều vua nhà Đường, Trừng Quán Thanh Lương
làm thầy cho 7 vị quốc vương. Quan hệ là phải có khả năng đừng mắc bả lợi
danh.
18/. KHÔNG BIẾT MÀ LÀM THẦY
Thầy thuốc không rõ căn bệnh cùng phương
thuốc mà đi trị bệnh thì làm sao bệnh nhân bình an ? Người mù lãnh trách nhiệm
dẫn đường hẳn đưa nhau xuống hố. Bồ-tát tự không tuệ giải, không thông đạt tánh
tướng các pháp, không rành rẽ văn nghĩa kinh luật mà làm thầy thì lấy gì dạy đệ
tử ? Đã không biết đến chánh nhân tâm địa, làm sao thành Phật cực quả
?
Điều tối trọng của Bồ-tát là thành thật,
không giả dối. Thế gian có cái họa lớn là ai cũng thích làm thầy. Có người nương
danh từ hóa độ chúng sanh, kiến lập môn đình cao rộng, tướng ngã mạn lẫy lừng.
Có người tự cho mình là thông tông giáo, xem rẻ luật học, lạm thâu đồ chúng thật
đông. Thọ giới mà không học không tụng, không biết khai giá trì phạm thì chẳng
những hiện đời mất tên Bồ-tát, mai sau không quả vị mà còn tự chuốc tội báo vào
thân.
Thích làm thầy là công đức hay tội lỗi ?
Là hộ trì hay hủy diệt Phật pháp ? Điều này chỉ ở trí tuệ, đạo đức và tài năng
của đương sự.
Trí
Độ Luận : Tỳ-kheo phải
thông tam tạng, đủ 10 hạ mới được làm thầy. Theo Phạm Võng kinh thì phải trì
Bồ-tát giới ngày đêm sáu thời. Hiểu rõ ý nghĩa lý tánh của giới. Trí tuệ thông
đạt kinh luận dĩ nhiên là cơ bản để truyền pháp lợi sanh. Thân tâm thanh tịnh,
giới hạnh lại càng là cơ bản của đại sĩ nhập thế. Không thể biếng nhác tụng trì
giới luật.
Chỗ chỉ quy của sự trì giới là giải thoát
và thành Phật. Cho nên cần phải hiểu rõ lý tánh của giới. Kinh Thành Thật : “Hết
thảy các pháp môn tu chỉ cốt tỏ ngộ vạn pháp vô sanh, thật tướng như như tịch
tĩnh. Trụ tâm chân thật này không thoái. Hễ vọng khởi liền biết, không theo
vọng. Tâm muôn đức liền đủ, diệu dụng không cùng. Được tâm này rồi, chuyển pháp
luân. Ta người đồng lợi”. Tâm tánh này làm sở y cho vô tác giới thể. Đồng thời
nương vô tác giới thể làm chủng tử thành Phật. Giới thể gồm 2 loại :
1. Tác giới :
Tại giới đàn, ba nghiệp thân
miệng ý đúng pháp đúng luật tạo nên. Nghiệp này có thể thấy và nghe. Khi động
tác của thân miệng diệt rồi, nó cũng diệt theo.
2. Vô tác giới :
Nương duyên tác giới mà phát
sanh. Một khi đã phát sanh thì tương tục còn mãi. Trọn đời ngăn ngừa sai quấy
lỗi lầm, diệt các tội ác, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh.
Nhiều bậc thầy như Tổ Huệ Năng không
thông hiểu văn tự nhưng chân thật giải ngộ. Xưa kia Hòa-thượng Giải Thoát được
nghe một bài kệ, liền tỏ ngộ chân lý như đã liễu đạt ba tạng kinh Phật
:
Pháp tịch diệt thậm thâm
Của mười phương chư Phật
Phương tiện trí làm đèn
Chiếu thấy tâm cảnh giới.
– Ngài Châu Lợi Bàn Đặc Ca được Phật dạy
có một bài kệ mà chứng A-la-hán :
Thấy được lỗi lầm nên hoan hỷ.
Trên đời không sân, thật hạnh phúc
!
Đừng làm tổn hại các chúng
sanh
Sáu trần thế gian đừng ham
muốn.
Thoát ly ái dục và ngã mạn
Mới có thể nếm được an vui.
Vào cảnh tịch diệt là vui
nhất.
Đã không hiểu biết kinh luật, lẽ ra phải
đi học. Nay lại dám đứng làm thầy. Nếu không phải thánh nhân đã tỏ ngộ chân lý
như các Tổ nói trên thì điều trọng yếu trong các điều trọng yếu, pháp sư phải
thông hiểu kinh luật, giới hạnh trang nghiêm.
19/. LƯỠI ĐÔI CHIỀU
Đối với các bậc đức hạnh sanh tâm khinh
báng. Đối với các Bồ-tát đáng lý phải cực lực nghĩ tán hạnh nguyện, tuyên dương
công đức để mười phương chúng sanh hướng về học tập Phật pháp. Giới hủy báng số
13 đã răn cấm việc hãm hại khiến cho người mất danh giá. Giới này ngăn sự ly
gián sanh nghi kỵ đấu tranh. Trong các bạn đồng học phải tạo một không khí phấn
khởi hy vọng. Nếu thấy phát sanh những ý kiến trái nhau, cần vận dụng hết sức
khéo léo của mình để khôi phục hòa khí.
Cần lựa chọn lời nói. Thiếu thận trọng sẽ
mất hòa vui.
Lời
phụ của pháp sư Diễn Bồi : Số thiện lai Tỳ-kheo có đến mấy chục
ngàn mà thiện lai Tỳ-kheo-ni không đầy 10 vị. Ni giới tự biết nghiệp chướng nặng
nề nên vâng theo lời đức Bổn Sư Thích Ca, quán bất tịnh :
1) Tử thi cứng đơ.
2) Sình chướng.
3) Xanh bầm.
4) Nứt loét hôi thối.
5) Máu mủ rỉ chảy.
6) Nát bấy.
7) Dòi bọ lúc nhúc.
8) Thịt da tiêu tan.
9) Xương long rụng mủn thành bột.
10) Thiêu đốt chỉ có ngọn khói bốc trên lửa.
Khoảnh khắc chỉ còn một nắm tro tàn.
Nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà,
ngồi thuyền đại nguyện vãng sanh Tịnh-độ, ung dung lên ngôi bất thoái, mãn Bồ-đề
nguyện như ai.
20/. KHÔNG PHÓNG SANH
Thấy khổ nạn, Bồ-tát phải cứu
tế.
a)
Phóng
sanh.
b)
Cứu trợ các vong
linh.
Tại Trung Hoa, huyện Vu Châu, thôn Căn
Khê, bà họ Lý tuổi ngoài 60, sống cô độc với đứa cháu 7 tuổi. Hai bà cháu đang
mải mê hái trà. Một mãnh hổ từ trong rừng nhảy ra vồ đứa cháu. Bà già hoảng hốt,
quên sợ hãi, chắp tay van xin tha mạng cho cháu. Cọp bất ngờ, đứng dừng lại một
chút, thả đứa bé, nhảy tót vào rừng. Bà già hoàn hồn dắt cháu về nhà.
Cũng tại xứ ấy. Một chủ quán rượu thịt,
ngày nọ, đem tất cả tôm cá lươn rùa v.v…, mua để làm thức ăn cho khách, ra sông
phóng sanh. Từ đó tiệm ăn đóng cửa. Người ta tò mò hỏi duyên cớ. Chủ quán đáp
:
Tôi có một người làm công, mỗi ngày lén
cắp những con vật sống, đem thả ra sông. Một hôm tôi bắt được. Thấy cậu ta vui
mừng sung sướng nhìn con vật bơi đi, tôi giận tức đến cực độ. Sẵn nồi nước sôi
để làm gà, tôi xối xả tất cả lên lưng cậu ta. Cậu ta ngã nhào xuống đất, da
phỏng lòi thịt, trông như heo luộc. Tôi mặc kệ cho kêu la. Thật là đáng kiếp !
Tôm cá của tôi mua làm sao đem đi thả ?
Tôi đi vào nhà. Quay lại thì lạ kìa, vô
số các loài thủy tộc từ sông bò lên, leo khắp lưng cậu. Chúng nằm trên lưng cậu
ta như thuốc thoa phết. Cậu làm công tỉnh dậy, cảm thấy mát mẻ tận xương tủy.
Khỏe khoắn tươi tỉnh, không bao lâu khỏi hẳn. Chứng kiến cảnh ấy, tôi giật mình
: Cứu hộ sanh mạng được báo ân thì giết hại làm sao tránh khỏi báo thù ? Vì thế
tôi quyết định đổi nghề.
Phóng sanh công đức vĩ đại. Để tâm lành
này được kiên cố, Phật dạy chánh quán :
1/- Đời đời ta thọ sanh trong sáu nẻo luân
hồi. Không có một hữu tình nào chưa từng là cha mẹ ta.
Ở thành Xá Vệ, một đại phú trưởng giả
đang cùng vợ con ăn cơm, thấy đức Phật tay cầm bình bát đứng lù lù trước cửa,
mắng rằng : “Samôn không biết hổ thẹn”.
Đức Phật liền dùng thần thông giúp ông
biết việc kiếp trước : Mẹ ông vì luyến ái chưa dứt nên trở về làm vợ ông hiện
tại. Bố ông cũng vì tình nghĩa chưa hết nên sanh trong nhà ông làm thân gà, bị
ông giết thịt trong bữa cơm hôm nay. Con ông chính là quỉ La-sát đầu thai để báo
oán.
Trưởng giả tỉnh ngộ cuộc đời là một bi
hài kịch, vội sụp lạy quy y. Nghe pháp xong, trưởng giả liền chứng sơ quả
Tu-đà-hoàn. Đáng thương cho chúng ta, tầm nhìn quá ngắn. Chỉ biết vọng nhận bốn
đại là thân hiện tại. Quân tử lắm cũng chỉ hiếu thuận với cha mẹ hiện đời. Ngoài
ra khinh mạn lăng nhục, giết chóc. Đâu biết tất cả chúng sanh đều là những người
đã từng yêu thương đùm bọc chúng ta.
2/- Tất cả chúng sanh chính là thân cũ của
ta. Lúc chết bốn đại ly tán, ta gọi là vật bên ngoài. Người chết đem chôn, thân
trở thành đất. Trên đất mọc lên cây lúa. Người ăn gạo nhận làm nội thân. Cứ thế
xoay vần. Thánh nhân biết thân chúng sanh là thân mình.
3/- Học đại thừa Bồ-tát giới, hiểu chân lý
“tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Nên tất cả chúng sanh hiện nay, đủ thắng
duyên, sẽ là vị lai Phật.
4/- Từ bi quán :
a. Sanh duyên từ :
Quan sát những khổ nạn
mà phát tâm cứu vớt.
b. Pháp duyên từ :
Thông đạt ngã không,
pháp không, ta người đồng thể nên mở lòng cứu độ.
c. Vô duyên từ :
Tâm Phật không duyên một
pháp nào mà nhậm vận vẫn ban vui cứu khổ.
Đại Trí Độ Luận quyển 20 giải thích 3
loại từ bi tâm rất rõ ràng. Kinh Pháp Cú nói lợi ích của tâm từ bi :
1)
Phước đức thường theo
bên mình. 2) Thức ngủ bình an. 3) Trời người ủng hộ. 4) Không bị nạn nước lửa đao binh thú độc.
5)
Hiện tại nhiều may mắn.
6)
Lai sanh cõi
lành.
Nếu đem công đức hồi hướng Tây phương thì
sớm thành bậc đại phước đại trí. Hiện thân đi vô lượng thế giới cứu độ chúng
sanh.
Kinh này dạy chúng ta :
1- Thường phóng sanh.
2- Khuyên người phóng sanh.
3- Thấy sát sanh phải cứu hộ.
4- Đem giới Bồ-tát giảng dạy :
a) Giáo hóa cho thế gian biết sợ khổ sanh
tử, cầu Niết-bàn an vui.
b) Hiểu chân lý chư Phật cùng chúng sanh
đồng thể, diệt hết tham sân si, giải thoát luân hồi, trở lại bổn nguyên tâm
địa.
c) Cầu cha mẹ anh em hiện đời bình an, lâm
chung vãng sanh cõi Phật.
d) Thỉnh pháp sư giảng Bồ-tát giới để cầu
siêu tiến cho vong nhân. Việc này ít ai làm nhưng lời Phật dạy rõ ràng ở giới
này. Nếu Bồ-tát không vâng hành thì phạm giới.
Kinh luật có công năng sanh thiện diệt ác
nên tiêu tội được phước. Giảng kinh tư trợ cho người chết nghiệp chướng tiêu
trừ, trí tuệ khai mở. Nếu đọa lạc u đồ thì nhờ công đức giảng kinh, vong giả
sanh về nhân thiên. Nếu có thiện nguyện thì được vãng sanh Tịnh-độ.
Một phen được nghe Bồ-tát giới kinh, vĩnh
viễn thành Phật chủng. Nên biết giới pháp công đức rất lớn.
Không cứu sống sanh mạng, không cầu siêu
độ cho những thần thức đang bị trầm luân, Bồ-tát phạm khinh cấu tội.
Nghiêm trì giới này là đủ tam tụ tịnh
giới.
a- Nhiếp luật nghi giới không tàn nhẫn sát
sanh.
b- Nhiếp thiện pháp giới phương tiện cứu hộ
các thứ khổ nạn cõi âm cõi dương.
c- Nhiếp chúng sanh giới phóng sanh, cầu an,
cầu siêu.
Đem Bồ-tát giới giảng dạy là cứu nhân
khổ. Phóng sanh là cứu quả khổ. Bồ-tát cứu độ chúng sanh là cứu cho rốt ráo hết
khổ. Thỉnh các pháp sư giảng kinh luật đại thừa là cứu sanh độ tử, đưa tất cả về
cảnh giới thánh hiền vĩnh viễn an vui.
21/. KHÔNG BÁO THÙ
Phật pháp từ bi phổ độ, cố gắng thực hiện
oán thân bình đẳng. Vì thế triệt để ngăn cấm chủ trương báo oán của thế gian.
Đức Phật dạy đại chúng bên trong sung mãn nhẫn hạnh, đối ngoại từ bi hỷ xả.
Trường hợp nào cũng biểu lộ tâm niệm ái hộ chúng sanh.
Sân giận là thứ phiền não rất nặng. Bao
nhiêu rối ren đều do thiếu nhẫn nhục phát sanh. Tự lợi lợi tha, tất cả công đức
thiện pháp đều phải đề phòng sự thiêu đốt của lửa sân. Bồ-tát từ nhẫn, bi mẫn,
cốt yếu là không trả thù. Giới luật không bắt người mới học phải dùng đức báo
oán. Việc này khó lắm. Đức Phật biết rằng thái quá là sự khó tuân
hành.
Kinh
Đại Bát Nhã quyển 21 : Ngay trong lúc đấu tranh, Bồ-tát tự giác.
Tại sao ta lại dùng lời ác đáp lại người ? Không nên phá hoại quả Bồ-đề thậm
thâm.
Đại
Bát Nhã quyển 520 :
Bồ-tát dù bị chặt tay chân cũng không sân giận, nói lời thô ác. Vì Bồ-tát cầu
Vô-thượng Bồ-đề, mục đích duy nhất là để cứu khổ ban vui cho tất cả chúng
sanh.
Lời khai thị lâm ly thấm thía tận tủy não
này, tân học Bồ-tát chúng ta phải xem trọng ! Chúng sanh não loạn đến cách nào,
nếu ta không sân hận thì họ chẳng làm gì được. Ví như mặt xấu xí soi vào gương
sáng thì mặt vẫn xấu xí mà gương vẫn sáng ! Nếu bạn nổi giận, nói lời tệ ác, thì
kết quả lỗi lầm, đáng lẽ kẻ kia phải mang, lại thành của bạn.
Vĩnh
Gia đại sư Chứng Đạo Ca rằng : Quán ác ngôn là công đức. Kẻ kia là
thiện tri thức. Nếu vì chê báng khởi tâm oán thân, lấy gì nêu biểu vô sanh từ
nhẫn lực ?
Người thân bị giết nay trả thù cũng không
sống lại được. Chỉ gia tăng mối hận thù. Vua Trường Thọ bị vua Phạm Ma giết.
Trước khi chết dặn con rằng : “Quyết định không nên trả thù. Đem oán báo oán,
thù không chấm dứt. Chỉ có cách không báo thù thì oán hận mới tiêu tan”. Tuy thế
con là Trường Sanh vẫn nuôi chí nguyện phục thù. Cải trang làm kẻ hát rong, được
giới thiệu lọt vào cung vua Phạm Ma. Rồi được tin cẩn. Một hôm cùng vua vào rừng
săn bắn. Nhằm thời tiết nóng bức. Trường Sanh đánh xe vua đến chỗ vắng nghỉ
ngơi. Vua ngủ say. Trường Sanh 2 lần rút gươm định giết vua nhưng nghĩ đến lời
cha dạy lại thôi. Đến lần thứ 3, Trường Sanh đánh thức vua dậy, kể hết sự tình.
Vua cảm động, khen Trường Thọ là thánh nhân, cảm ơn Trường Sanh đã tha mạng, trả
lại nước cho Trường Sanh.
Đức Phật kết luận rằng : Vua quan chuyên
nghiệp kiếm cung mà còn hành ân huệ, khen nhẫn nhục. Cướp nước giết cha mà còn
tha thứ hòa giải được. Huống chi Tỳ-kheo làm sao lại dùng lời nói làm binh khí
đả kích nhau ! Bồ-tát tư duy người sân pháp sân đều không thật có, chứng Bát Nhã
chân không.
22/. KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Không kính trọng bậc có đạo chẳng những
bản thân tổn đức mà còn mắc tội khinh mạn. Bồ-tát tận lực cầu học chánh pháp để
tự hành và hóa tha.
Kinh
Hoa Nghiêm : “Bồ-tát
nghe nói phải nhảy vào hầm lửa mới được học Phật pháp cũng mừng rỡ nhận lời. Vì
học hành Phật đạo sẽ thoát khổ A tỳ địa ngục. Lửa thế gian có thấm vào đâu”.
Bồ-tát cần học để biết đường thành Phật và các phương tiện độ sanh. Tự cao tự
đại cho rằng mình đã hiểu biết thậm thâm, không chịu cầu học thêm, là một tổn
hại nặng nề.
Kinh
Vị Tằng Hữu : Một con dã
can bị sư tử đuổi. Trượt chân rơi xuống giếng. Ba ngày không sao tìm cách lên
được. Hướng lên hư không bạch rằng : “Xin mười phương Phật chứng minh. Con vì
ngu si cố tiếc thân hèn, không bố thí cho sư tử. Đến nỗi nay chết làm thối bẩn
giếng người. Con xin cầu ai sám hối. Nguyện mười phương Phật soi sáng cho con
sạch hết tội nghiệp quá khứ. Nguyện đời sau được gặp minh sư học chánh pháp cho
đến chứng quả Vô-thượng Bồ-đề”.
Thiên đế nghe pháp ngữ này, vội cùng tám
vạn ông trời bay xuống bên giếng : “Chúng tôi ở cõi trời bấy lâu tối tăm. Nay
xin pháp sư từ bi chỉ giáo về Phật pháp”. Dã can đáp : “ Quý vị ở trên cao, tôi
đứng dưới thấp. Thuyết pháp không đúng nghi tắc, kẻ nói người nghe đều cùng có
lỗi”. Trời Đế Thích vội vàng dùng thần thông đưa dã can lên khỏi giếng. Mỗi ông
trời cởi một áo, chồng lên thành một pháp tòa. Thỉnh pháp sư giảng thuyết. Vua
và chúng trời đỉnh lễ dưới chân cầu nghe.
23/. KHINH NGẠO KHÔNG NÓI GIỚI
Giới trên là mạn, thuộc về 6 căn bản
phiền não (tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến). Giới này là
kiêu, đứng trong tiểu tùy phiền não (phạm vi hạn
hẹp).
Kinh dạy : Pháp thủy không thể trụ ở núi
kiêu mạn. Giới trên là không kính bậc thầy. Giới này là khinh hàng sơ
học.
Kinh
Anh Lạc : Giáo hóa một
người thọ Bồ-tát giới, công đức hơn kiến tạo tháp Phật khắp tam thiên đại thiên
thế giới.
Kinh
Hoa Nghiêm : Vì giáo hóa
một chúng sanh, Bồ-tát phải ở địa ngục A tỳ, vô lượng kiếp chịu lửa thiêu,
Bồ-tát vẫn vui mừng như đang ở cảnh an lạc tối thắng.
Không truyền dạy, Bồ-tát phạm :
a)
Nhiếp luật nghi giới vì tự
tăng trưởng ác tâm cho chính mình. b) Nhiếp thiện pháp giới vì trái thiện hạnh
đại sĩ. c) Nhiếp chúng sanh giới vì mất một chúng
sanh mà mình có nhiệm vụ giáo hóa.
Khi phát tâm cầu Bồ-tát giới, phải phát
đại hoằng thệ : đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, độ tất cả chúng sanh. Mong muốn
thiết tha là nguyện. Thệ là quyết định thực hành.
Đức Phật vẫn thường trụ ở khắp mười
phương nên được cung kính đối trước tượng Phật mà thệ nguyện thọ giới. Trước
phải chí thành sám hối nghiệp chướng. Vì tội báo sâu nặng nên không được gặp
thầy truyền trao giới pháp. Sám hối nhiều ngày, kỳ hẹn là thấy được hảo tướng
(hoa
báu, quang minh v.v…).
Luật sư Chân Biểu ở Trung Hoa cầu đức Di
Lặc truyền giới. Trên tảng đá lớn ở đỉnh núi cao, ngày đêm dõng mãnh thiết tha
sám hối. Một tuần sau, thấy đức Địa Tạng hiện thân khích lệ. Luật sư tiếp tục lễ
sám. Đêm thứ 14, bị một ác quỷ xô nhào xuống gộp núi, đồng thời các thứ ma tướng
quái dị dọa nhát. Luật sư càng thiết tha sám hối. Đến ngày thứ 21, đức Di Lặc
cùng thiên chúng quang lâm xuống thạch đàn, truyền trao giới pháp, ban danh là
Chân Biểu.
Chúng ta nay ở thời mạt pháp, ma Phật khó
phân thì cứ sám hối cầu được gặp thầy truyền giới, khỏi cần hảo tướng. Tự nguyện
thọ giới khó đắc giới như cọ cây cầu lửa. Từ thầy thọ giới dễ đắc giới như mồi
đèn lấy lửa. Chỉ cần gặp được đèn sẵn có lửa, lập tức được ánh sáng. Cho nên
giới tử phải tôn trọng cung kính khẩn thiết học đạo, một khi đã gặp được
thầy.
24/. KHÔNG HỌC KINH LUẬT ĐẠI
THỪA
Xa lìa đại thừa, Bồ-tát mất căn bản. Luật
Sadi nói : Bỏ trân bảo lấy ngói gạch là không biết chánh tà. Kính Di Hầu làm vua
Đế Thích là không có trí tuệ xét người. Mang danh Bồ-tát vì đã thọ đại giới và
thực hành đại thừa. Nếu rời đại thừa làm sao chứng Vô-thượng Bồ-đề.
Bồ-tát phải đủ ngũ minh nhưng không được
bỏ gốc là Phật pháp. Nhãn quang sáng suốt đối với vấn đề nào cũng không trệ
ngại, không khư khư chấp chặt nhưng sơ tâm Bồ-tát phải triệt để tuân hành giới
này.
Hàng tân học trước tiên phải thâm tín
cung kính hâm mộ Phật pháp. Y kinh luật tu hành, khế nhập thật lý. Văn huân tu
tập phát khởi chánh kiến. Đại thừa lục độ vạn hạnh lấy chánh kiến làm cơ bản chủ
yếu chỉ đạo.
Do công hạnh chứng lý tánh (chánh tánh : Như
Lai Tạng).
Dẹp sạch vô minh đến đâu, lý tánh hiển lộ
tới đó cũng gọi là Như Lai xuất triền. Bồ-đề quả mãn liền chứng pháp thân.
Nay có Phật để quy y. Có pháp để tu học.
Có Tăng để làm gương mẫu mà đành héo mầm Bồ-đề, hư giống chánh pháp nên kinh gọi
là đoạn Phật tánh (làm mất giống
Phật). Phật tánh sẵn đủ
trong tâm. Vì thiếu nhân duyên tăng trưởng nên bị lu mờ.
Hoặc học nhị thừa ngoại đạo, thoái tâm
đại thừa rẽ đi đường khác nên gọi là đoạn Phật tánh. Kinh Pháp Hoa cũng nói :
Hành giả đại thừa không nên ở chung với hành giả tiểu thừa.
Bồ-tát phải học tiểu thừa, ngoại đạo, ngũ
minh để đủ phương tiện giáo hóa chúng sanh. Giới này đặc biệt cấm hàng tân học
cùng những người kém trí tuệ để ngăn ngừa sự lạc đường.
Kinh
Bồ-tát Thiện Giới : Vì
phân biệt chân vọng để phá tà kiến, vì cần biết sự thế để độ thế gian v.v….
Bồ-tát được học ngoại điển nhưng đại thừa tiểu thừa đều phải lấy bổn pháp làm
chỗ chính học.
25/. KHÔNG KHÉO HÒA CHÚNG
Thống lý đại chúng cần nhất thiết vô ngại
mà nay đã không khéo điều hòa lại còn khuấy khích kình chống. Biết nhường nhịn
sẽ giải quyết nhiều khó khăn. Bậc lãnh đạo đối với người thì từ bi hỷ xả, hòa
giải xích mích. Với tài vật của Tam-bảo thì yêu tiếc giữ gìn cần kiệm. Nếu toàn
ban chức sự được như thế thì ngôi Tam-bảo hẳn hưng long. Cõi Ta Bà chúng sanh
nổi tiếng cang cường, Bồ-tát không khéo điều phục, dễ phát sanh ác
nghiệp.
Các vị đạo thủ quan hệ là pháp sư, luật
sư, trụ trì, giảng sư, thiền sư, tri khách phải ngọt đắng chung thọ, khổ vui có
nhau. Không nên có một nếp sống cách biệt. Sáu chức vụ, mỗi người làm chủ phần
hành của mình, quan hệ nhất là bảo vệ hòa ấm. Không kịp thời hòa giải những bất
đồng ý kiến, tất nhiên khó chung sống nói chi cùng làm. Mỗi khi có việc xào xáo,
người lãnh đạo không thể thiếu cẩn trọng.
Tăng đoàn có sự tranh cãi. Đôi bên đều
cần thiện chí nhường nhịn. Vị thượng tòa đứng ra dàn xếp cần : 1) Giới hạnh thanh tịnh, đa văn, biết luật.
2)
Thông minh trong hỏi đáp,
lời nói rõ ràng. 3) Có khả năng sáng suốt dứt khoát sự việc.
4)
Không thiên vị, không nể sợ.
5)
Điềm đạm, một lòng từ bi hòa
giải.
Trong các tùng lâm Trung Hoa, cửa vào mỗi
kho đều có đôi liễn :
Yêu tiếc của thường trụ
Như giữ tròng con mắt.
Thà hy sinh thân mạng cá nhân chớ không
lãng phí của Tam-bảo. Bậc thủ lãnh phân phối tài vật hợp lý cần dùng, thông bạch
chúng Tăng các việc. Không nên tự ý tùy tiện bừa bãi. Dùng lộn lạo của Tam-bảo
đọa địa ngục Hỏa Già (gông
lửa). Ví dụ thí chủ cúng
dường trai phạn lại đem xây cất Tăng xá. Chia phần chúng Tăng mà thiên vị, người
có người không, người hậu người bạc, phạm khinh cấu tội.
26/. RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
Làm chủ chùa có bổn phận rộng rãi đối với
khách tăng bốn phương. Pháp vị đồng hưởng mà lợi hòa cũng đồng quân. Tỳ-kheo còn
phải đủ lễ tiếp đãi huống chi Bồ-tát lấy lợi tha làm yếu vụ. Phải làm sao cho
khách tăng, sau khi đi đường mệt nhọc, có thể an tâm hành đạo một khi đã vào
chùa. Nam Hải Ký Quy, Nghĩa Tịnh pháp sư ghi : Các tự viện Ấn Độ có quy luật.
Mỗi khi có khách Tỳ-kheo tới, Tăng chúng tại trụ xứ phải tức khắc đến trước mặt
tỏ lời hoan nghênh : Thiện lai ! Khách cũng phải đáp : Cực thiện lai ! Nếu không
xướng họa như vậy là trái luật nhà chùa. Ấn Độ ngày xưa rất trọng điều này. Các
tùng lâm Trung Hoa cũng chế định : Khách Tăng đến xin trú ngụ, nhất định không
được cự tuyệt. Phải tận tâm chu đáo các nhu dụng, thức ăn chỗ ở v.v…
Phật dạy : “Lợi dưỡng trong chùa là phổ
đồng cho mười phương Tăng”. Không vâng lời Phật tức là bế tắc nhân tình mà đàn
việt tổn phước. Kinh Phật Tạng : “Tướng bạch hào của Như Lai dư phước đức để
cung cấp cho tất cả đệ tử xuất gia thọ dụng”. Vậy chúng Tăng lo gì thiếu thốn.
Nên biết thêm người là thêm phước. Chớ lo đông chúng thiếu ăn. Tâm lượng càng
rộng rãi, sự sinh sống càng dồi dào. Kinh văn đúc kết vấn đề là phải sự sự cung
cấp để khách Tăng cảm thấy được như ý trong khi ở trọ.
Đối với bản thân phải cần kiệm. Đối với
khách Tăng không được bạc đãi, phải một lòng chí thành. Đức Phật chế giới với
những lời ân cần quá mức như trong văn kinh. Hẳn chúng ta là đệ tử chẳng thể coi
thường mà biếng nhác lơ là.
Thí chủ đến thỉnh, dù thỉnh cả đại chúng
hay chỉ hạn định một số. Lợi dưỡng này thông cả mười phương thánh phàm. Đương
nhiên khách Tăng có phần. Vị chủ sự phải bình đẳng.
Kinh
Phạm Võng Sơ Tâm : Nếu
khách Tăng không phần, chúng cựu trụ thọ dụng ăn uống, cứ mỗi miếng một tội. Nếu
nhận tài vật thí chủ cúng dường mà không chia phần cho khách Tăng, cứ tính giá
tiền theo luật mà quy tội. Vì thế người quản chúng trái lời Phật, tội không nhỏ.
Chủ chùa mà chỉ biết ăn, sống không hợp
với nhân tình (súc
sanh). Không đúng pháp hòa
kính lễ nghi của Tăng (không đáng là
Samôn). Trái lời Phật dạy
(không
phải Thích tử). Trái với
luật (khinh cấu
tội).
Trường hợp thí chủ đặc biệt thỉnh riêng
cựu trụ Tăng hoặc ngỏ ý không hoan hỷ thấy vị khách Tăng ấy, thì không
phạm.
Kinh
Tăng Hội : Thời Ca Diếp,
đàn việt cúng dường chúng tăng một món ăn. Chủ chùa cất giấu, đợi khách Tăng đi
rồi mới chia cho đại chúng. Không dè thực phẩm hư hỏng đành bỏ đi. Do nhân duyên
này, mạng chung vị chủ chùa đọa địa ngục phân uế. Tới nay đức Thích Ca Mâu Ni
Phật xuất thế vẫn chưa hết quả báo khổ.
27/. THỌ BIỆT THỈNH
Điều tối yếu trong Tăng đoàn là hòa hợp
như nước với sữa. Đức Phật đã nêu 6 pháp hòa. Trong đây lợi hòa đồng quân có
phần quan trọng của nó. Đức Phật tuyệt đối cấm thọ biệt thỉnh, không muốn thí
chủ có tâm thiên ái, riêng cúng một người, không nghĩ đến mười phương Tăng. Cúng
dường không phổ biến, phước đức rất hạn hẹp. Tăng thọ biệt thỉnh, phá hoại phép
tắc thứ tự thọ thỉnh của Như Lai, tự rước lấy tội xâm đoạt đồ cúng dường mười
phương Tăng.
Kinh
Tỳ-kheo Ứng Cúng Pháp Hạnh : Nếu đệ tử ta thọ biệt thỉnh, nhất định
mất thánh quả, không gọi là Tỳ-kheo. Cũng không nên riêng thọ cúng dường mà
không chia cho chúng Tăng.
Ngoại trừ thỉnh thuyết pháp, truyền giới
hoặc một lý do chánh đáng khác thì không phạm.
Luật dạy : Chúng Tăng được bất cứ lợi
dưỡng gì, trên phải cúng dường Tam-bảo, dưới kính dâng các bậc có ân đức. Rộng
ra bố thí khắp hữu tình. Cho nên thọ biệt thỉnh, chẳng những đã cướp đoạt của
mười phương Tăng mà còn là riêng hưởng vật của 8 phước điền (Phật, thánh nhân,
Hòa-thượng, A-xà-lê, những vị xuất gia, cha, mẹ, bệnh nhân). Tất cả lợi dưỡng nếu sử dụng chung thì
phước đức rất lớn. Nếu riêng dùng cho cá nhân thì mắc tội vô lượng.
Giới này chế cho cả 5 chúng xuất gia.
Cũng áp dụng luôn cho hàng tại gia, không được lấy lợi dưỡng của chúng Tăng thọ
dụng như của mình.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn :
Đàn việt cầu phước tuệ, phát tâm thỉnh Bồ-tát hoặc đến nhà hoặc trong chùa để
cúng dường uống ăn cùng các vật dụng khác. Nếu vì kiêu mạn hay sân giận mà không
tùy thuận, Bồ-tát phạm khinh cấu tội. Nếu chỉ vì lười biếng hoặc vô tâm, hoặc có
lý do chánh đáng, không thọ thỉnh không phạm.
HỎI : Chính
Phật vẫn thọ biệt thỉnh, làm sao lại chế giới cấm Tăng chúng ?
ĐÁP : Bồ-tát Tỳ-kheo phải ở trong quy luật của
Tăng chúng. Phật bảo là vô thượng phước điền. Mỗi thế giới chỉ có một Phật nên
khi thọ thỉnh, đức Thích Ca không đoạt lợi dưỡng của Phật nào.
HỎI : Vậy
Bồ-tát xuất gia phải vâng theo Phạm Võng Tâm Địa Giới Bổn hay Du Già Bồ-tát Giới
Bổn ?
ĐÁP : Vâng theo cả 2. Ở trong chúng, ta vâng
theo Phạm Võng kinh, đúng pháp tắc lục hòa thứ tự thọ thỉnh. Khi ở ngoài đại
giới ta vâng theo Du Già Bồ-tát Giới, để từ bi nhiếp thủ chúng sanh, hoằng thuận
giáo hóa.
Dù trường hợp nào cũng luôn luôn trí tuệ
Bát Nhã hiện tiền, vô ngã vô pháp. Lợi dưỡng ăn uống hay tài vật gì chăng nữa
cũng chẳng phải của ta. Xuất gia là đã đem thân mạng cúng dường Tam-bảo thì nhất
nhất ba nghiệp phải như pháp như luật như lời Phật dạy. Đừng giờ phút nào quên :
Tất cả lợi dưỡng là của mười phương Tăng và của 8 phước điền. Không một thứ gì
là của riêng ta. Giới điều không thọ biệt thỉnh là một sự tướng điển hình.
Bồ-tát Tỳ-kheo phải đỉnh đới vâng trì.
28/. BIỆT THỈNH TĂNG
Không biệt thỉnh ai riêng có quan hệ thân
thích mà không để tâm cúng dường các vị xuất gia khác. Phật tử tại gia thông
thường kén người mình thích mới cúng dường. Đức Phật chế lập giới này để ngăn
chặn sự thiếu bình đẳng. Ai phàm ai thánh, ta đâu có thể phân biệt. Nếu y theo
lời Phật dạy, theo thứ tự thỉnh một vị thì vị này đại diện cả mười phương thánh
phàm Tăng. Nên thí chủ tuy chỉ cúng một vị mà được cả mười phương thánh phàm
Tăng làm phước điền. Lại tâm niệm không lựa chọn, một lòng cúng dường mười
phương Tăng thì phước đức như hư không. Nếu tâm niệm chú ý vào một người thì chỉ
được phước cúng một người ấy.
Luật thỉnh chúng Tăng theo thứ tự, không
phải riêng đức Bổn Sư chế lập mà là giáo pháp của cả 7 Như Lai (Tỳ Bà Thi, Thi Khí,
Tỳ Khí La, Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp, Thích Ca). Tuy vậy, không phạm :
1. Thỉnh Tăng để thuyết pháp, truyền
giới, giáo hóa thì phải chọn bậc đạo cao đức trọng.
2. Tùy thuận quyền lực quốc
vương.
29/. TÀ MẠNG
Phật tử xuất gia có 3 lối sống thanh
tịnh, tránh cho tâm địa không bị 3 độc tham, sân, si ô nhiễm.
1. Khất thực.
2. Thọ dụng thức ăn trong chúng
Tăng.
3. Thí chủ đem đến cúng dường.
Tỳ-kheo tự tay làm món ăn, nếu để cúng
dường đại chúng thì không phạm. Nếu tự nấu nướng cho mình dùng, rất trái ý Phật.
Tỳ-kheo cần khất thực, ai cho gì dùng nấy, không chứa để, không lo toan, không
mưu sống, một lòng rảnh rang để quán vô thường vô ngã. Nhất tâm cởi gỡ ngã ái
ngã mạn, để trưởng dưỡng pháp thân tuệ mạng.
Đại
Trí Độ Luận : Tịnh Mục
Nữ thỉnh vấn tôn giả Xá Lợi Phất về vấn đề tà mạng. Tôn giả đáp : Người xuất gia
làm ruộng, trồng tỉa, làm rẫy, bào chế thuốc v.v… gọi là hạ khẩu thực. Người
xuất gia ngước xem tinh tú, nhật nguyệt gió mưa, phán đoán lợi hại để làm nghề
sinh sống gọi là ngưỡng khẩu thực. Người xuất gia mưu cầu tài lợi bên các nhà
quyền quý, đi sứ bốn phương, gọi là phương khẩu thực. Người xuất gia dùng các
thứ chú thuật, coi bói xem tướng v.v… gọi là tư duy khẩu thực.
Này đại tỷ, Tỳ-kheo khất thực là nếp sống
thanh tịnh duy nhất.
Lại có 5 thứ tà mạng :
1/ Giả hiện tướng khác lạ.
2/ Tự khoe công đức.
3/ Lớn tiếng hiện oai.
4/ Khích động tâm người khiến cúng
dường.
5/ Giả vờ ở rừng sâu núi thẳm hy vọng danh
lợi.
30/. QUẢN LÝ BẠCH Y
Giới này có 3 điều :
1- Không kính hảo thời. Theo cổ truyền, hảo
thời là những ngày tháng thiên thần du hành nhân gian để thưởng thiện phạt ác.
Đức Phật khuyên đặc biệt chú ý đến hảo thời vì lòng người kính sợ chư thiên và
quỷ thần nên cố gắng tu hành. Lấy những ngày cố gắng này làm mẫu mực để tập
thành thói quen. Như thế gian, hiếu hạnh là bổn phận quanh năm và trọn đời nhưng
vẫn cần đặt ra một ngày thầy cô để cổ động nhân tâm. Phật giáo cũng có lễ Vu
Lan, ngày rằm tháng 7, để nhắc nhở con cháu cầu cho cha mẹ thoát ly sanh tử.
Chúng ta lầm nếu cho rằng chỉ những ngày trai mới cần như pháp tu hành. Ngoài ra
có thể tùy ý buông lung tạo tội.
2- Rất sai lầm nếu cho rằng Thanh-văn bắt
buộc nghiêm trì giới luật còn Bồ-tát lợi tha nên tùy nghi phương tiện. Có những
Bồ-tát xum xoe lăng xăng, ra dáng kính quý Tam-bảo lắm lắm. Đâu có dè thân không
đúng giới luật oai nghi. Tự mình đức hạnh không kiện toàn làm sao giáo hóa
thuyết phục chúng sanh ? Miệng nói đạo lý giải thoát vô thường vô ngã mà đời
sống luôn biểu hiện ba độc tham, sân, si. Lời nói việc làm không đi đôi thành ra
đem thân hủy báng Tam-bảo. Người này ý nghiệp không vào khuôn phép tu hành. Như
thế cả ba nghiệp tương phản với chánh pháp cho nên kinh văn gọi là ác
tâm.
3- Đức Phật không muốn có những chuyện trái
ngược. Tại gia làm việc của người xuất gia như đứng làm thầy truyền tam quy, ngũ
giới, đứng chủ chỉ huy các việc trong chùa. Xuất gia làm việc tại gia như kinh
doanh buôn bán, làm ruộng trồng cây v.v… để có lợi dưỡng nuôi chúng.
Muốn Phật pháp hưng thịnh cần khẩn cấp
vạch rõ phương thức hành động cho cả Tăng lẫn tục. Bổn phận xuất gia phải dẫn
dắt hàng tại gia tu hành đúng pháp. Bồ-tát tại gia lấy việc hộ pháp làm nhiệm vụ
chính.
Không làm quản lý cho hàng bạch y :
Công việc của cư sĩ
không phải là bổn phận người xuất gia phải lo liệu.
31/. KHÔNG CỨU CHUỘC
Kinh luật là con mắt của nhân thiên. Tăng
Ni là phước điền của thế gian, là sứ giả duy trì chánh pháp, là người lãnh đạo
tất cả Phật tử, là đạo sư trên đường giải thoát. Bồ-tát là bi mẫu cứu khổ ban
vui, dẫn dắt chúng sanh về Vô-thượng Bồ-đề. Chúng ta không thể để ngôi Tam-bảo
bị hủy nhục mà không tận tình bảo vệ.
32/. TỔN HẠI CHÚNG SANH
Bồ-tát lấy từ bi hỷ xả làm cơ bản, lấy
lục độ vạn hạnh làm phương tiện, lấy bố thí vô úy làm phận sự. Chúng sanh có an
vui Bồ-tát mới an tâm. Nuôi chó để giữ nhà thì cho phép. Nuôi heo để bán cho
người ăn thịt, nuôi mèo để bắt chuột thì cấm.
33/. TÀ NGHIỆP GIÁC
QUÁN
Bồ-tát ngoài thời giờ hữu ích cho chúng
sanh, phải thanh tịnh bặt duyên, dụng công chánh nghiệp xuất thế, không để quang
âm trôi qua luống uổng. Những điều trong giới này cấm là vì tăng trưởng buông
lung, tổn hại thiện nghiệp. Thô phân biệt là giác. Vi tế xem xét là quán. Mống
khởi suy tư là giác. Trầm tư suy nghĩ là quán. Tư duy ích nhân lợi thế là chánh
nghiệp tăng trưởng tâm hướng thượng. Tào lao sáu căn vào các tạp loạn vô ích là
tà nghiệp. Phá hoại đạo pháp, hủy phạm tâm địa giới thể, không gì độc hại hơn
những thứ này. Đã tinh tấn tu phước tuệ thì phải lìa phóng dật, tránh tất cả
những duyên khiến xao lãng tâm Bồ-đề.
Trường hợp thiện quyền, uyển chuyển tình
thế, Bồ-tát tạm thời đồng sự để nhiếp hóa chúng sanh thì được. Như Mạt Lợi phu
nhân uống rượu với vua Ba Tư Nặc để cứu người đầu bếp khỏi bị tử
hình.
34/. TẠM LÌA TÂM BỒ-ĐỀ
Tạm quên tâm Bồ-đề không thể huân tu vạn
đức, không thể hy vọng thành Phật. Bồ-tát niệm niệm không quên bốn hoằng thệ
nguyện.
Làm thế nào giữ gìn tịnh giới như ngọc
minh châu ? – Thường đọc tụng, tìm hiểu khai giá trì phạm. Tâm như kim cương,
không một phiền não phá hoại được, không hoàn cảnh nào khiến vi phạm giới phẩm.
Luật thí dụ một người đeo trái nổi bơi qua biển lớn. Bỗng một La-sát tới năn nỉ
xin trái nổi. Dĩ nhiên là không được. La-sát thiết tha xin một nửa. Cũng không
cho. La-sát van xin ¼. Cuối cùng chỉ xin một châm kim. Cũng
không đồng ý. Tại sao keo kiệt quá vậy ?
Phật tử qua biển sanh tử hoàn toàn nương
vào tịnh giới. Quỷ phiền não bức bách đến đâu cũng không dám tơ hào vi phạm mới
bảo toàn được tuệ mạng. Kinh kể một chuyện có thật : Thời Phật còn tại thế. Bọn
cướp đi ngang qua một khu rừng, thấy một Tỳ-kheo đang hành thiền, sợ bị lộ tông
tích, muốn giết đi cho xong. Một người am hiểu đưa ý kiến : Giới luật Tỳ-kheo
không được bứt cây cỏ sống. Ta chỉ cần cột hai tay họ vào cỏ tranh là xong việc.
Quả thật, Tỳ-kheo đành ngồi im. May sao một quốc vương đi săn ngang qua, hỏi
biết chuyện, mở trói cho Tỳ-kheo, đưa về tịnh xá Phật.
Tín tâm lành đối với đại thừa là tin chắc
mình có Phật tánh chánh nhân, mai sau quyết định sẽ thành Phật quả. Thiếu chánh
tín đại thừa, chẳng những tự độ không trông mong mà lợi tha càng trễ
nải.
a/- Tín tâm lành đối với đại thừa là
Tín.
b/- Hộ trì cấm giới là Hạnh.
c/- Tự biết mình là Phật chưa thành là Giải.
Trí thể bản giác là đại Bồ-đề
tâm.
Một niệm tuy rất ngắn và tạm thời nhưng
nó có thể làm gốc gây thương tổn cho Phật chủng. Để ngăn ngừa ma nghiệp, một
niệm thoái thất Bồ-đề tâm, Bồ-tát phải thận trọng sám hối.
35/. KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Phát nguyện là vấn đề hết sức trọng yếu
để hạnh Bồ-tát không thoái lui. Hạnh có thành thục mới hy vọng quả Phật. Tự vạch
một hướng đi thẳng về đại viên giác diệu trang nghiêm mới không bị ma thâu
nhiếp, tránh những nguy hiểm đọa lạc. Nguyện là lập chí. Thệ là quyết định mạnh
mẽ thực hiện. Bồ-tát phát nguyện :
1. Hiếu thuận với cha mẹ sư tăng
Tam-bảo.
2. Giữ vững giới luật.
3. Gặp thầy hay bạn lành đồng học kinh luật
đại thừa.
4. Tiến tu 10 Tín, 10 Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi
Hướng…
5. Đi trọn vẹn con đường Bồ-đề.
36/. KHÔNG PHÁT THỆ
Vì sức mạnh của tập quán hết sức mãnh
liệt, tội chướng từ vô thủy vẫn có áp lực nặng nề đến bước tiến giải thoát cho
nên Bồ-tát phải lập thệ. Nguyện như thầy dẫn đường khỏi lạc. Thệ như người đi
sau thúc đẩy để bảo đảm không lui sụt. Thệ bảo vệ cho nguyện được kiên cố.
Nguyện như cầm dây cương. Thệ như roi thúc giục.
Bồ-tát lập bốn hoằng thệ :
1) Xa lìa dục nhiễm.
2) Giữ mình chân chánh xứng thọ cung kính
cúng dường.
3) Sáu căn trong sạch.
4) Độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật
đạo.
37/. VÀO NƠI HIỂM NẠN
Đầu đà : Nạo sạch phiền não ẩn tàng trong tâm từ
vô thủy. Tăng trưởng thiện căn công đức. Hồi hướng Vô-thượng Bồ-đề.
12 hạnh đầu đà :
1) Ở nơi thanh vắng.
2) Khất thực.
3) Y phấn tảo.
4) Ngày một bữa ngọ.
5) Không uống nước phi thời.
6) Không ăn đến no.
7) Ở ngoài gò mả.
8) Ở gốc cây.
9) Ở nơi không mái che.
10) Thường ngồi không nằm.
11) Thứ lớp khất thực.
12) Không chứa y dư.
Hạnh đầu đà không bắt buộc, tùy nguyện
mỗi người.
Hy sinh chỉ khi nào cần thiết. Còn ỷ mình
cao đạo, dấn thân vào chỗ tai nạn, chịu khổ vô ích là ngu si. Những nơi nhiều
kiến muỗi ruồi, không đủ vệ sinh cũng là hiểm nạn.
38/. TRÁI TÔN TI THỨ TỰ
Căn cứ giới lạp nhiều ít mà phân chia cao
thấp. Trường hợp không phạm :
a- Đại chúng đã an tọa đâu đấy. Dù là người
trên nhưng đến sau nên nhũn nhặn ngồi dưới.
b- Pháp sư bắt buộc phải ngồi tòa
cao.
c- Vô tình bất ngờ.
Có người ngại : Phật pháp lưu hành trong
thế gian mà đảo lộn trật tự cha con vua tôi thì đời sống sẽ mất bình an. Đáp :
Tinh thần đại nghĩa trung hiếu không đâu hơn Phật giáo. Nhưng tối yếu phải tôn
trọng giới pháp. Trường hợp quốc vương cha mẹ còn cố chấp thì đạo làm con và bề
tôi phải tùy duyên cho ổn thỏa. Phật đặt ra giới luật người xuất gia không đỉnh
lễ cha mẹ vua quan chính là vì sợ tổn đức cho người tại gia.
Giới này cả 7 chúng, đại thừa tiểu thừa
đều vâng giữ. Kinh
Thiện Sanh : Ưu-bà-tắc
đi trước người xuất gia đã thọ giới, mắc tội thất ý.
39/. KHÔNG TU PHƯỚC TUỆ
Chim cần hai cánh, xe cần hai bánh. Người
tu cần phước tuệ. Có phước như thuyền có chèo, có tuệ như thuyền có lái, không
thể thiếu một.
Kinh
kể chuyện : Một A-la-hán
được sự cúng dường quá thiếu thốn thậm chí cơm không đủ no. Phật dạy : Đây là vì
quá khứ ngài kém tu phước.
Đồng thời vua có con voi, cho ăn ở sung
sướng lại còn anh lạc trang nghiêm. Phật dạy kiếp trước nó có tu hành nhưng chỉ
để tâm về sự tướng, không có trí tuệ giác tỉnh. Làm nhiều phước duyên nhưng giữ
giới luật không đúng ý nghĩa nên đọa làm bàng sanh.
Tài thí là tu phước, pháp thí là tu
tuệ.
Bồ-tát khuyến hóa các Phật tử làm phước,
cẩn thận chớ có cưỡng ép. Lui tới thường xuyên quấy rầy. Người ta thoái tín tâm.
Mượn việc công để lợi ích riêng tư là giặc trong cửa Phật.
Tu phước mà có tuệ, hằng quán tam luân
không tịch, mới thật là Bồ-tát hạnh. Cho nên kinh văn dạy : “Phải giảng nói kinh
luật đại thừa” để khai tuệ
cho chúng sanh. Kinh luật đại thừa xuất sanh tất cả các thiện pháp môn nên có
thể cứu sanh độ tử, lưỡng lợi âm dương, trị liệu tất cả thân bệnh tâm bệnh, cứu
gỡ hết thảy hiểm nghèo. Nếu hay đọc tụng giảng nói thì bất luận hoàn cảnh nào,
ta người đều lợi ích.
40/. KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN
GIỚI
Truyền trao giới pháp, nhiếp thủ chúng
sanh vào đại đạo, là trách nhiệm của Bồ-tát.
Trong sự không lựa chọn vẫn phải có lựa
chọn. Không cho người đã phạm một trong 7 nghịch thọ giới. Phải đã phát Bồ-đề
tâm, hiểu lời nói của giới sư, y phục hoại sắc.
41/. VÌ LỢI LÀM THẦY
Tự mình không tài đức mà miễn cưỡng làm
thầy để cầu danh lợi.
Muốn thọ Bồ-tát giới, điểm chính yếu phải
thông hiểu giáo pháp đại thừa, tin tâm mình có thể thành Phật. Muôn pháp lành từ
đây phát sanh. Phải nhớ rằng : Không thiện tri thức dạy bảo thì dù có sẵn Phật
tánh cũng không thể thành Phật.
Bậc thầy phải rành rẽ con đường Bồ-đề để
dẫn bước hậu lai :
1.
Thập Tín.
2.
Thập phát thú tâm : Tập chủng tánh
: 10 Trụ. Do tu pháp không quán, trí tuệ khai phát thành nhất thiết trí,
chứng bất thoái (Trụ).
3.
Trưỡng dưỡng tánh
: Tánh
chủng tánh: 10 Hạnh. Trưởng dưỡng tâm từ chân đế vào tục đế, lợi
ích tất cả chúng sanh, tiến tu giả quán, phân biệt chủng tánh sai khác của chúng
sanh trong 10 pháp giới, trưởng dưỡng thánh thai, thấy lý tục đế, pháp nhãn khai
phát, thành đạo chủng trí. Thập trụ ở trên ngộ lý chân đế. Từ đây thú hướng tu
hành nên gọi là Hạnh.
4.
Bất khả
hoaïi tánh
: Đaïo
chủng tánh : 10 Hồi Hướng : 10 Kim Cương tâm. Tu pháp quán trung
đạo, nhậm vận thi thiết vô công dụng đạo (không dùng công
phu. Việc này phàm trí suy tư không thể hội. Tạm thí dụ như người đánh máy chữ
hay đi xe đạp. Lúc mới tập phải lưu ý dụng công. Đã thuần thục không cần dụng
công). Hạnh nguyện, sự lý
đều dung thông, lưu nhập trong pháp giới. Đem sự tu hướng về lý tánh nên gọi là
hồi hướng. Lý tánh bền như kim cương nên gọi là bất khả hoại. Chánh tu
(đạo)
phát sanh Phật quả nên gọi
là đạo chủng tánh.
5.
Chánh pháp tánh : Thánh chủng tánh:
Chánh giác tánh : thập Địa + đẳng giác + diệu giác. Từ sơ Địa trở đi, quán trung
đạo, dùng trí đoạn nghi hoặc. Mỗi Địa phá một phần vô minh. Đến kim cương vị trừ
sạch vô minh là thành Phật.
Bồ-tát pháp sư cần hiểu rõ những tánh nói
trên nhất là những quán haïnh đa thiểu. Tập chủng tánh tu
không quán ít đến trưởng dưỡng tánh tu không quán nhiều. Tánh chủng tánh tu giả
quán ít đến bất khả hoại tánh mới nhiều. Đạo chủng tánh tu trung quán ít đến
chánh pháp tánh mới tu nhiều.
Cũng có nơi cho rằng : Từ sơ Địa đến Địa
4 quán vô tướng ít hữu tướng nhiều. Từ Địa 5 đến Địa 7 tu hữu tướng ít vô tướng
nhiều. Từ Địa 8 đến đẳng giác thuần vô tướng quán.
Xuất nhập : xuất định và nhập định.
Sơ
thiền : giác + quán + hỷ
+ lạc + nhất tâm = 5 chi.
Nhị
thiền : nội tịnh
(+ hỷ +
lạc + nhất tâm).
Tam
thiền : xả + niệm + huệ
(+ lạc
+ nhất tâm).
Tứ
thiền : không khổ không
vui (+
xả).
Tổng cộng có 10 pháp
duïng trong thiền quán. Bốn thiền là
thiền định thế gian nhưng nương đây tiến vào thánh vị nên Bồ-tát cần thông hiểu
để tự lợi lợi tha.
Không hiểu giới tướng khinh trọng trì
phạm thì không thể quyết nghi xuất tội. Không hiểu đệ nhất nghĩa đế thì mù mờ
nơi giới lý (thể tánh của
giới), không thể phát chân
tín giải. Không hiểu tập chủng tánh v.v… thời mù mịt nơi định cộng giới, không
thể tu chứng quả vị.
42/. VÌ KẺ ÁC NÓI GIỚI
Thông hiểu giới luật mà vì danh lợi giảng
nói cho những người không tin, không ưa Phật pháp.
Đức Phật vì đệ tử chế định giới luật nên
giới luật chỉ cần dùng cho sự sinh hoạt trong nội bộ. Đem ra giảng nói với người
ngoài chẳng những vô ích mà còn gây những phỉ báng, mua tội cho chúng sanh, đem
bất lợi cho đạo pháp. Bồ-tát phải có trí tuệ biết ai là pháp khí mới cho nghe
giới luật.
Giới Tỳ-kheo tuyệt đối cấm người chưa thọ
giới không được xem và nghe. Bồ-tát giới, người chưa thọ không được tham dự nghe
ngày bố tát. Còn những trường hợp giảng ý nghĩa của giới thì được nghe cũng được
xem giới bổn. Nhưng phải xét người.
43/. CỐ KHỞI TÂM PHẠM GIỚI
Vô ý lỡ phạm tuy không thể nói là vô tội
nhưng rất nhẹ. Cố ý vi phạm giới luật, không hổ thẹn. Tự mình đã không giải
quyết được sự sa đọa, làm sao còn có thể là phước điền cho các thí chủ ? Cho nên
mỗi khi vi phạm phải chí thành khẩn thiết sám hối.
Câu
Xá Luận : Người phạm căn
bản trọng tội không cho ăn một miếng nhỏ thực phẩm của đại chúng. Không cho gót
chân được đặt vào chỗ cư ngụ của đại chúng.
Đại
Trí Độ Luận : Mỗi giới
Bồ-tát có 10 thiên thần theo ủng hộ. Bồ-tát đầy đủ giới phẩm, vua Đế Thích và
chư thiên theo hầu. Nếu hủy phạm thì có đại quỷ luôn án trước mặt, khiến mất an
ổn, gặp nhiều tai nạn.
Cũng như ở nhân gian, người có địa vị tôn
quý ngựa xe lính hầu luôn ở bên mình. Một khi đã trái phạm phép nước thì liền bị
tống giam, ngày đêm có ngục tốt canh giữ. Ngục tốt chẳng những kèm hãm khiến
người ấy mất tự do lại còn không chút vì nể, mắng nhiếc là gã bợm
giặc.
Bọn trộm cướp tuy là đại ác nhưng được
nghe giảng về tội phước, có khi cũng biết kinh sợ. Còn những người nương hình
tướng xuất gia, tiếp thọ của cúng dường mà không nghiêm cẩn giới luật, bị mắng
là bợm giặc, ai bảo là không đúng ?
Người phá giới, oai nghi không phấn chấn,
suy tướng hiện tiền nên tất cả chúng sanh đều không muốn nhìn ngó huống nữa là
sống chung.
Luật Thanh-văn không kết tội hủy giới thọ
tín thí, cũng không kết tội phạm giới trong tâm niệm. Chỉ khi nào hiện tướng ở
thân miệng mới kể là thật sự phạm giới. Bồ-tát phải giữ gìn nội tâm nghiêm mật,
khởi tâm động niệm mỗi giây mỗi phút phải tự cảnh tỉnh.
Hãy nghe công hạnh người xưa : Tổ Hành
Nhạc trọn đời mặc một áo bông vải thô xấu. Tổ Thiên Thai 40 năm một chiếc nạp y.
Tổ Vĩnh Gia không mặc áo tơ tằm. Tổ Kinh Khê trong thất chỉ một cái đơn. Quý
ngài thâm hiểu đại thừa nên mới có nếp sống y ly như vậy.
44/. CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
Pháp bảo là mẹ chư Phật. Quả Vô-thượng
Bồ-đề từ kinh luật xuất sanh. Tôn trọng diệu pháp mới y đây tiến tu. Hành vi mới
cố gắng thể hợp chánh đạo. Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, đều nương cậy
ở kinh điển. Làm sao không cung kính cúng dường ? Tuệ mạng Như Lai hoàn toàn nằm
trong tam tạng, không cúng dường kinh điển còn cúng Phật ở đâu ? Nhất tâm thọ
trì đọc tụng kinh luật đại thừa là đệ nhất cúng dường. Xả thân học đạo, tận tình
truyền bá lưu thông, giảng nói không chán mỏi là biết đền ơn Phật.
Bồ-tát phải vâng theo 5 việc : thọ trì,
đọc tụng, lưu thông, cúng dường, như pháp thực hành. Hiện nay kỹ thuật ấn loát
rất tiến bộ, Phật tử xuất gia tại gia ấn tống kinh luật là phương tiện tối thắng
để cúng dường pháp bảo.
45/. KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
Bồ-đề tâm là động lực thành Phật nên
Bồ-tát phải giáo hóa chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Kinh Pháp Hoa : “Nếu đem tiểu
thừa giáo hóa là ta bỏn sẻn”. Thường khởi tâm đại bi. Thiết tha liên tục cứu khổ
chúng sanh. Lấy việc này làm khẩn thiết.
Phật Pháp Tăng là phước điền quý báu. Một
thiên tử ở cõi trời Đao Lợi biết mệnh chung sẽ đọa làm heo, vội quy y Phật liền
thoát thân heo, sanh làm con nhà trưởng giả. Chúng sanh nào cầu thoát sanh tử
cũng phải quy y Tam-bảo.
Tỳ-kheo tụng kinh trong rừng. Một con
chim nghe âm thanh, rất ngưỡng mộ. Đang mải nghe, chim bị bắn chết. Thần thức
lên trời Đao Lợi, thiên nhãn biết kiếp trước mình là chim ở chỗ ấy. Vội đem hoa
hương tới chỗ Tỳ-kheo. Tỳ-kheo giảng pháp yếu. Ông trời liền chứng
Tu-đà-hoàn.
Phật nói pháp ở thành Ba La Nại. Một đàn
nhạn đáp xuống nghe, bị thợ săn bủa lưới. Xả thân, cả đàn sanh lên trời. 500
thiên tử xuống nhân gian, cúng dường Phật, nghe pháp, tất cả đều chứng
Tu-đà-hoàn.
Luật dạy Bồ-tát mỗi khi gặp bất luận con
gà hay con kiến, liền tâm nghĩ miệng nói : “Các ngươi phát Bồ-đề tâm”. Đây là
dùng tâm lực kêu gọi sự thức tỉnh.
Trong kinh Kim Quang Minh, Lưu Thủy
trưởng giả thấy một cái ao cạn nước, hàng vạn con cá lâm nguy. Ông vội mượn voi
của vua, chở nước cấp cứu. Thấy đàn cá sung sướng bơi lội, ông cảm hứng hô lớn
danh hiệu đức Bảo Thắng Như Lai những mong cho cá nhờ thần lực Phật thoát
khổ.
Tưởng như xong việc thì thôi. Không dè
một bữa kia, ánh sáng chói lòa từ trên trời rọi xuống. 10.000 thiên tử tự xưng
là hậu thân của đàn cá, đem các thứ châu báu đến quỳ lạy tạ ân.
Luật
Sadi kể chuyện : Ngài Xá
Lợi Phất đi khất thực, gặp một con chó bị chủ chặt chân ném xuống hố. Ngài cho
nó ăn cơm. Chó vẫy đuôi mừng. Ngài giảng pháp cho nó nghe. Thân đói khát phải
chết nhưng pháp hỷ nuôi dưỡng tinh thần. Chó sanh vào nhà ông trưởng giả được
tên Quân Đề. Bảy tuổi, đứng chơi ở cửa. Ngài Xá Lợi Phất đi qua. Ân tình đã ghi
sâu trong tạng thức nên chú bé quấn quýt mời ngài vào nhà, xin cha mẹ cúng dường
và nhất định theo ngài Xá Lợi Phất xuất gia. Về sau chú bé chứng quả
A-la-hán.
Người kể chuyện sau
này tên Hải Triều Âm ở tịnh thất Linh Quang, thôn Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng :
Vào khoảng năm 1985, trong
nhà có rất nhiều chuột, mỗi tối tôi để cho họ một chén cơm ở góc nhà. Sáng nào
cũng hết sạch. Không bao giờ chuột gặm nhấm kinh sách, quần áo chăn mùng cho đến
trái cây ở trên bàn Phật. Năm này sang năm khác. Chỉ cứ cái thùng đựng giấy bỏ,
là họ thường tới lui, cắp giấy đem về lót ổ nuôi con. Tôi ngồi ngay tại bàn đọc
sách. Họ thản nhiên đi lại như biết chắc thùng giấy này tha hồ ta có quyền sử
dụng.
Sư cô Thanh Đức, một đệ tử ở Sài Gòn lên
thăm, nghỉ một đêm. Chiều hôm sau, bỗng Sư cô la thất thanh : “Chuột cắn hết
tiền của con rồi”. Sư cô đem lên Phú An 200.000 đồng (hồi đó là món tiền
lớn) định mua đất để làm cốc
ở riêng một mình. Sợ Thầy biết nên đem giấu trong một tấm y. Cả ba tấm y để
trong túi. Túi y giấu trong đống chăn mùng, xếp cả trong một cái tủ không có
cánh đóng mở. Tất cả chăn mùng vẫn y nguyên. Túi không bị rách. Ba tấm y an
lành. Nắm tiền nát bấy không còn vớt vát sử dụng được lấy một đồng.
Nhớ hồi xưa, tôi nhập thất tại một ngôi
nhà trong khuôn viên chùa Vạn Đức ở Thủ Đức. Vùng đó có nhiều chó. Tôi xin bà
giáo Khôi phát tâm thuê một người thổi cơm. Cứ 4 giờ chiều là mấy chục con chó
từ các nơi đổ về đầy sân. Mỗi con chỉ một tô cơm không. Ăn xong ra về. Dù mưa
bão vẫn đến. Tự biết phận ăn nhờ, không hề cắn sủa nhau.
Gạo để ở trước chánh điện. Hàng ngày tôi
trì chú Dược Sư cầu nguyện cho những con vật này sớm được giải thoát. Chợt một
hôm, vài chú chuột rụt rè từ cửa sổ vào tới bao gạo. Tôi nghĩ : “Đã bố thí thì
chó hay chuột đều có phần”. Nên tôi cứ mặc. Thế là cả họ nhà chuột xô nhau tới.
Có con ăn rồi về. Có đứa ở lại luôn. Chúng tôi hòa bình chung sống một thời gian
dài. Cho tới một hôm, như thường lệ, tôi để mâm cơm trước mặt, xới sẵn một chén
cơm. Tôi chắp tay nhắm mắt đọc bài cúng dường. Đọc xong, tôi mở mắt ra, thấy một
chú chuột ngồi ngay trên chén cơm, hai tay bốc ăn ngon lành. Tôi xua chú chạy và
trong lòng tự nghĩ : “Thế này thì quá lắm, không thể được”. Từ hôm ấy, trong
thất không còn một con chuột. Chúng lặng lẽ bỏ đi lúc nào không hay. Từ đấy
không một con nào quay trở lại dù là tạ gạo vẫn mở ngỏ trước chánh điện.
Lại một thời gian lâu lắm về sau, một hôm
tôi xuống bếp. Cô thị giả thổi cơm. Chỗ ống khói có tiếng mèo kêu. Tôi vội bảo
thị giả đun chỗ khác. Vì chỗ ấy chắc có con mèo hoang nào bị hun. Từ đó mỗi bữa
tôi để ở chỗ ấy một chén cơm. Ngày nào cũng hết sạch. Rồi một ngày kia, tôi bỗng
thấy ngay trong phòng tôi, nép trong xó cửa một con mèo và 3 con nhỏ xíu. Luật
Bồ-tát giới cấm không được nuôi mèo chồn nên tôi phiền lắm, rất không muốn mẹ
con nó ở đó. Ra vào, tôi vẫn trông thấy mẹ con nó núp dưới hốc cửa nem nép sợ
hãi. Cho tới một hôm, đứng trước tủ, tay mở cửa tủ, nhìn ra chỗ mẹ con nó ẩn
núp, trong tâm tôi nghĩ rằng : “Thôi, đành phạm giới luật. Nuôi mẹ con nó vậy.
Chúng nó khổ thế kia, nỡ nào !” Tay tôi chưa rời cánh tủ, 3 con mèo con đã chạy
ra, bổ nhào vào chân tôi.
Rõ ràng trực giác của loài vật rất mạnh.
Tâm Phật, tâm mình và tâm chúng sanh không hề gián cách. Tâm Bồ-tát tha thiết
quyết có ảnh hưởng lớn tới chúng sanh. Đức Phật sai ngài Mục Kiền Liên đến một
thành nọ giáo hóa, dân chúng vui vẻ răm rắp quy y. Phật kể chuyện : Một kiếp xa
xưa, một tiều phu đẵn củi trong rừng, động phải một tổ ong. Cả đàn bay ra. Ông
tiều vừa chạy vừa la : “Khi ta đắc đạo, quyết sẽ độ cho các ngươi đồng giải
thoát”. Ông tiều phu là Mục Kiền Liên ngày nay. Đàn ong là dân thành kia. Vì tâm
độ chúng sanh đã thuần nên Phật tử cứ gặp loài nào là phát tâm tế độ. Quên cả
đau khổ bị ong đốt, nghiệp lực thánh thiện của ông tiều đã mở ra nhân duyên
khiến cả thành chịu sự giáo hóa.
46/. KHÔNG ĐÚNG NGHI THỨC THUYẾT
PHÁP
Pháp sư phải ngồi tòa cao. Dạy người cung
kính trong khi nghe pháp là việc trọng yếu. Coi thường Phật pháp chiêu vời những
quả báo nguy hiểm. Luật Tỳ-kheo rất kỹ về nghi thức thuyết pháp. Đối với pháp sư
phải hiếu thuận như đối với cha mẹ. Kính thầy, trọng pháp, mới có thâm
nhập.
47/. CHẾ HẠN PHI PHÁP
Tự ỷ uy thế, phá hoại Phật pháp. Hoặc
nương cậy quyền thế, làm tổn hoại Tam-bảo, khiến thuyền chánh pháp bị đắm chìm,
ánh sáng trí tuệ bị che lấp.
Không cho xuất gia thọ giới là phá hoại
Tăng bảo. Không cho tạo lập hình tượng là tiêu diệt Phật bảo. Không cho ấn hành
kinh điển là tiêu diệt Pháp bảo. Thế gian mất nơi nương tựa, trở thành hắc ám và
tội ác. Thật là đáng sợ.
Tiến thêm bước nữa, đặt các chức quan hạn
chế hoạt động tôn giáo. Lập sổ bộ ghi chép danh sách chúng Tăng. Triệt để hạn
chế còn nói gì đến tôn kính.
Kinh
Phó Pháp Tạng : Xà Dụ Na
tôn giả vào thành khất thực, nhìn lên cây thấy một con chim. Ngài cười nói với
thị giả : “Một kiếp xưa, ta muốn xuất gia. Đứa con lên 6 tuổi ôm chặt lấy chân
kêu khóc. Vì nó mà ta không được toại nguyện. Tới nay đã trải qua 91 kiếp, nó đã
chịu không biết bao nhiêu thống khổ. Nay mới gặp nhau. Ta cảm thương mà không
biết làm sao cứu vớt”.
Kinh
Lão Nữ Nhân : Một bà già
vừa nghe chánh pháp liền khai ngộ. Phật thọ ký cho lâm chung vãng sanh cõi Phật
A Di Đà. Ai nấy ngạc nhiên. Phật giải thích : Đây là mẹ ta thời quá khứ. Đức
Phật Câu Lưu Tôn xuất thế, ta muốn xuất gia. Bà quyết định ngăn cản nên đã chịu
khổ bấy nay.
Kẻ quyền quý ở thế gian chẳng nên bạc đãi
Tăng nhân. Tăng nhân cũng cần tinh thần vô úy, chớ làm tay sai cho họ.
Quan thái thú ở Hàng
Châu tên Bạch Cư Dị vào núi thỉnh pháp. Ô Sào thiền sư dạy : Chư ác mạc tác,
chúng thiện phụng hành. Quan phiền trách : Câu nói ấy thì trẻ nít cũng biết. Sư
đáp : Trẻ nít nói được nhưng ông già 80 chưa làm được. Quan thái thú từ đó trở
thành một Phật tử thuần thành.
Vua Đường Thái Tông 3
lần hạ chiếu thỉnh Tứ Tổ Đạo Tín về kinh đô. Tổ đều chối từ. Lần thứ tư, vua sai
sứ nghênh thỉnh với sắc lịnh nếu không tuân thì chém. Tổ khẳng khái đưa cổ ra
dưới lưỡi gươm sáng ngời. Sứ giả không dám hạ thủ, trở về tâu vua. Vua kính phục
gởi lễ vật rất hậu cúng Tổ. Từ đấy không dám quấy nhiễu Tổ nữa.
Người lãnh đạo quốc
gia vì hộ pháp trừng trị những hư đốn trong các chùa, đã không phạm giới còn
được vô lượng công đức.
48/. PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Giới trên răn hàng
Bồ-tát tại gia không được phá hoại Phật pháp. Giới này đức Phật ngăn cấm hàng
xuất gia. Rường cột trong Phật pháp mà lại vì tài lợi cá nhân, phá hại đồng đạo,
tổn thương chánh pháp. Bên trong phá hòa hợp chúng, bên ngoài đoạn tuyệt lòng
kính tin Tam-bảo của người đời.
Nghe một tiếng hủy
báng Tam-bảo, Bồ-tát đau đớn như hàng trăm ngọn giáo đâm vào tim. Dao gậy đánh
chém đau đớn muôn phần nhưng chỉ một thân ta đau. Hủy diệt chánh pháp làm cho vô
lượng chúng sanh mất tín tâm, chìm trong biển khổ luân hồi, biết đến bao giờ mới
có ngày giải thoát.
Kinh
Đại Tập : Người xuất gia
cạo đầu đắp y là đã có dấu ấn Niết-bàn. Dù không nghiêm trì giới cấm, nếu còn có
tâm tin kính Tam-bảo, còn có thể nói pháp cho hàng nhân thiên. Nếu đánh đập hay
đoạt đồ tư dưỡng sanh mạng cũng là móc con mắt tuệ của thế gian.
TỔNG KẾT
Không những hàng tân học phải nghiêm mật
thọ trì mà quá khứ hiện tại vị lai Bồ-tát đều phải tụng đọc. Mục đích thọ giáo
pháp là cầu giải thoát. Không tinh tấn tức là đã quên bổn nguyện.
Kinh
Xuất Diệu : Mùa nắng ao
nước sắp cạn mà đàn cá không biết vẫn nhởn nhơ. Loài người cũng vậy. Già chết
đến nơi. Chẳng ai bận lòng. Chỉ mải lo đầu ruồi tai ếch, mãi tìm thú vui tạm bợ.
Đức Phật ân cần nhắc nhở chúng ta phải từng giờ từng phút y theo chánh pháp,
siêng năng thật hành.
KẾT KHUYẾN LƯU THÔNG
Phẩm Tâm Địa đoạn đầu nói về giới thể
(giới
tánh). Đoạn sau rành rẽ giới
tướng. Chúng ta đã nhiều đời trồng thiện căn sâu dầy mới được gặp nên phải thận
trọng phụng trì. Đức Lư Xá Na đã tu tập cả trăm kiếp mới chứng được tâm địa này.
Chư Phật quá khứ hiện tại vị lai đều thọ trì và truyền lại cho các Bồ-tát. Đây
là bổn nguyên tâm địa của chư Phật. Chúng sanh mê muội cứ tham chấp thân cảnh hư
vọng, sanh các phiền não tham sân si, mở ra các nghiệp hữu lậu mà chịu khổ mãi
trong đường luân hồi sanh tử.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật tùy thuận theo
chư Phật, tụng 10 trọng 48 giới khinh, mở đường cho chúng sanh nhận được tâm
Phật của mình. Tương lai sẽ cùng đức Lư Xá Na ở đài sen ngàn cánh. Đời đời thoát
ba ác đạo và tám tai nạn.
Ngàn trăm ức Thích Ca ở ngàn trăm ức thế
giới cũng đồng giảng như vậy. (Từ cung đại tự tại
thiên vương đến dưới gốc Bồ-đề, thuyết pháp 10 chỗ.)
Tâm taïng. Thông nghĩa :
Trong pháp giới, tâm thể bản
giác hàm chứa tất cả pháp. Biệt nghĩa :
30 tâm trong ngôi vị tam
hiền.
Địa Taïng. Thông nghĩa :
Tâm thể các pháp bình đẳng
không hai, xuất sanh tất cả thiện pháp công đức. Biệt nghĩa :
10 Địa.
Giới taïng : Thông nghĩa :
Tâm thể xa lìa tất cả lỗi
lầm, đầy đủ oai nghi. Biệt nghĩa :
10 trọng 48
khinh.
Vô lượng haïnh
nguyện taïng : Thông nghĩa :
Từ tâm thể phát sanh. Thực
hành các thiện pháp gọi là hạnh. Thiện niệm giữ gìn hạnh ấy gọi là nguyện. Vô
lượng hạnh như biển cả không cùng. Vô lượng nguyện như hư không không tận nên
gọi là tạng (lục độ vạn
hạnh).
Nhân quả Phật tánh thường
truï taïng : Nhân là chỗ tu hành. Quả là chỗ chứng
đắc. Nhân quả đều tại tâm thể Phật tánh không sanh không diệt. Tự tánh bao trùm
phàm thánh, suốt xưa nay, khắp pháp giới nên gọi là tạng.
Tâm tạng, địa tạng, giới tạng chính là
Bồ-tát tâm địa giới này. Đại hạnh đại nguyện do giới này phát sanh. Chánh nhân
chánh quả do giới này mà được. Thường trụ Phật tánh do giới này mà
chứng.
Tất cả chư Phật giảng thuyết vô lượng
pháp tạng như thế đã xong. Chúng sanh trong thế giới này và ngàn trăm ức thế
giới kia đều hoan hỷ phụng hành. Cơ giáo khế hợp hoàn hảo.
VĂN KẾT. Rời giới thể, không tỏ ngộ giới tánh,
chỉ trì giới tướng, không gọi là chân thật thọ trì. Điều này rất quan trọng nên
dầu khó dầu sâu, người tu phải cầu tỏ ngộ. Vì thế Bồ-tát giới gọi là tâm địa
pháp môn. Tâm địa tức là bổn tâm tự tánh của mình. Chính từ chân tâm bổn tánh mà
có Bồ-tát giới này. Thọ trì Bồ-tát giới là ương giống Phật tánh. Muốn mai đây
thành cây, đơm bông bi trí, kết quả Bồ-đề, phải : 1) Phát tâm thành Phật. 2) Tin mình có tánh Phật. 3) Tin rằng đã có tánh Phật mà chăm tu thì
thế nào cũng thành Phật. 4) Dõng mãnh thực hành lời Phật
Tổ.
TRÌ PHÁP ĐƯỢC LỢI ÍCH
Tâm địa đại giới phải đủ định tuệ mới có
thể phụng trì. Định lực mạnh, không bị sự vật chuyển động, giữ gìn giới hạnh
trước sau không dời đổi. Tuệ lực mạnh đoạn hoặc chứng chân, viên dung sự lý vô
ngại. Chẳng những tương lai quyết định thành Phật mà hiện tại còn được hưởng 5
lợi ích :
1). Cùng khí phần chư Phật giao tiếp, nối nắm
tuệ mạng chư Phật nên ma quỷ xa lìa, thánh đạo tăng trưởng, nối thịnh Phật
chủng.
2). Oai lực của giới đức khiến chánh kiến
phân minh, nội tâm vững vàng, không bị những thống khổ lúc lâm chung khủng bố,
định tuệ tự tại an lạc.
3). Tăng thượng duyên vô cùng trọng yếu là
pháp lữ hiền thiện để cùng tiến bước trên đường Vô-thượng Bồ-đề.
4). Giới phẩm trọn vẹn, công đức đầy đủ.
5). Xứng tánh khởi tu, phước đức do trí tuệ
được viên mãn. Toàn tu hiển tánh, tuệ nhờ phước đức được viên minh.
Bộ
Hợp Chú : Tánh giới tức
chánh nhân lý thể, chính là pháp thân đức. Nghiêm trì giới tướng tức duyên nhân
phước thiện, chính là giải thoát đức. Ngộ tánh của giới tức là liễu nhân trí
tuệ. Chính là Bát Nhã đức.
Thọ giới này là vào hàng chư
Phật.
KHUYÊN QUÁN GIỚI
THỂ. Bổn nguyên tâm địa thuộc trung đạo liễu
nghĩa, không lý luận. Nên phàm phu chấp tướng dĩ nhiên không thể được diệu giới
pháp này. Nhị thừa thủ chứng Niết-bàn, diệt thọ chấp không. Dĩ nhiên cũng không
gieo giống được.
Bổn nguyên tâm địa, chúng sanh và Phật
bình đẳng. Đúng lý phàm phu và nhị thừa đều có thể tín thọ gieo giống. Sở dĩ họ
vô phần vì không biết quán thật tướng.
Muốn nẩy mầm Bồ-đề phải quan sát các pháp
tánh không tịch. Vô tướng nên gọi là thật tướng tức là tâm thể bổn nguyên viên
mãn thanh tịnh.
Cần trang nghiêm tâm địa bằng 2 phương
tiện :
a/. Quan sát thuộc về lý gọi là trí tuệ trang
nghiêm.
b/. Trì giới thuộc về sự, gọi là công đức
trang nghiêm. Phải cần song song lý sự. Như người rửa tay, đồng thời cả hai, kỳ
cọ lẫn nhau cùng sạch, không cái nào trước cái nào sau. Tuệ giải và diệu hạnh,
Bồ-tát tuần tự như pháp khéo học tập mới có thể chân thật tương ưng.
Kệ rằng : Nơi học nơi vô học,
Chớ mống tưởng phân biệt.
Toàn tánh khởi tu là vô học mà luôn học.
Toàn tu tại tánh là luôn học mà vẫn vô học. Đạt thật tướng chân tánh nên trong
nhất tâm đủ cả vạn hạnh.
Nghĩa là nếu động niệm phân biệt tức
thuộc về tác dụng hoạt động hữu vi của tâm thức. Không phải là Bát Nhã chân trí
vô phân biệt thì làm sao vào trung đạo đệ nhất nghĩa đế (đây là đệ nhất đạo)
để khỏi bị lạc về nhị thừa
(cũng
gọi pháp đại thừa). Nên biết
đây là xứng tánh tu học nên học với vô học như chim bay trong hư không, làm gì
có dấu vết để kiếm tìm.
Quán chiếu Bát Nhã dùng trí vô phân biệt
chiếu lý cảnh giới. Đây là thật trí y thật tướng. Như trong kinh Lăng Nghiêm,
đức Quán Thế Âm phản văn, nghe (thủy giác)
tánh nghe (bổn giác)
gỡ 6 kết giải 5 ấm
(hết
thảy lỗi hý luận đều từ đây dứt sạch), chứng tịch diệt.
Tịch diệt hiện tiền là cảnh giới căn bản
trí (vô
thượng trí của Phật chỉ do đây mà thành).
KHUYẾN HỘ GIỚI TƯỚNG
“Vì thế nên Phật tử
phải phát tâm dõng mãnh, nghiêm trì giới của Phật tròn sạch như minh
châu”. Nhờ sự trì với tâm
trí sáng suốt, phát tuệ đạt tánh thể thành lý trì.
Lư Xá Na có 3 nghĩa : khiết tịnh, viên
mãn, quang minh. Nay Phật tử hộ trì kim cương quang minh bảo giới trong tâm địa.
Bộ Pháp Ẩn giải thích 3 nghĩa như sau :
1. Khiết tịnh, sạch hết ác pháp, thuộc nhiếp
luật nghi giới.
2. Viên mãn tất cả thiện pháp, thuộc nhiếp
thiện pháp giới.
3. Quang minh soi khắp chúng sanh, thuộc
nhiếp chúng sanh giới.
HỒI HƯỚNG
:
Thích Ca Mâu Ni Phật tùy
thuận chư Phật, giảng tâm địa đại giới cho chúng sanh đồng được nhất thiết chủng
trí.
Học giả đại thừa trước hết phát Bồ-đề
tâm, thọ Bồ-tát giới.
Bồ-tát giới là con đường tối yếu của chư
Phật cho nên chư Phật đồng tuyên dương. Bồ-tát giới là nghiêm sư của các thánh
hiền nên các thánh hiền cùng thực hành.
Bố tát : trưởng tịnh. Trưởng
: Nuôi lớn thiện căn.
Tịnh
: Rửa sạch nghiệp
chướng. Cứ mỗi nửa tháng, những ai đã thọ Bồ-tát giới phải tụng giới bổn, để tự
kiểm điểm. Hễ có sơ sót phải sám hối. Bất luận xuất gia tại gia đều phải tuân
hành.
Pháp sư nguyện mong tất cả Phật tử, hiện
diện và không hiện diện, đều hết sức cố gắng và cố gắng.
BỒ TÁT KIM CANG BẢO GIỚI
Là chánh hạnh bất khả phân ly suốt dọc
con đường Bồ-đề.
Thập
Tín : 10 ngôi tu tập để
viên mãn chánh tín.
Thập
Trụ : tu tập để hoàn
toàn sống với Phật tánh.
Thập
Hạnh : tu tập thực hiện
diệu dụng của tánh Phật.
Thập
Hồi Hướng : chuyển vạn
hạnh hướng về Bồ-đề, chân như và chúng sanh.
Bốn
gia hạnh : vào trung đạo
giữa Tâm và Phật.
Thập
Địa : mỗi ngôi chứng một
phần Pháp-thân, 10 ngôi hoàn mãn thánh quả.
Đẳng
giác : thủy giác và bản
giác hợp nhất.
Diệu
giác : cùng huyền, cực
diệu, không thể nghĩ bàn, thành vô thượng đạo.
PHẠM VÕNG
Con
đường thành Phật dài xa, đức Phật đã vạch rõ bản đồ trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh
Phật mỗi thứ nói về một chi tiết nhưng thành nghĩa cho nhau. Như rèm lưới cửa
cung Phạm Thiên Vương. Mỗi mắt lưới một hạt châu. Vô lượng ánh sáng giao nhau.
Toàn thể là hình ảnh sự nghiệp giáo hóa của đức Phật tại cõi Ta Bà. Cho nên Phật
tử thệ nguyện học vô lượng pháp môn mà thật ra chỉ học về chân tâm bản tánh của
mình.
Học
tâm tánh bản gốc, lại nghiên cứu pháp tánh tùy duyên mới vào thật giáo viên
dung. Pháp tướng tông (Duy thức) riêng vụ về tùy duyên. Vô tướng tông
Bát nhã) riêng vụ về bất biến. Hai môn song dung vô ngại là tùy thuận
viên dung pháp tánh.
Kinh
nói thí dụ sẩm sờ voi. Người mới học của mỗi tông chẳng thể thấy cả con voi
(thật tướng). Nhưng cũng không thể rời chỗ tay sờ mà tìm được voi. Mỗi
tông chỗ lập pháp đều hợp thánh lý. Hiếp tôn giả nói : “Y đây tu hành chẳng ai
không lợi ích”. Nếu cứ quyết định con voi là cái quạt mà phỉ báng chê bai những
ai tin con voi là cái cột tức đọa thiên kiến. Chẳng những tự chuốc quả báo hiểm
nguy mà cũng kinh Bách Dụ kể chuyện : Thầy lâm bệnh, phân công cho đệ tử A xoa
bóp chân phải, đệ tử B xoa bóp chân trái. Kề cận bên nhau, nhỏ to trò chuyện.
Mỗi lần A tỏ ý phản đối B thì đấm chân trái một cái. B phát cáu, đấm chân phải
trả thù. Kết cuộc đôi bên đều hả dạ, chỉ có ông thầày bị gẫy cả hai
chân.
Nếu
chỉ khuôn theo sở thích định kiến của riêng mình mà đả kích, đập cho bằng gẫy
pháp môn tu của người khác, thì ngôi Tam-bảo thật khó đứng vững.
Vì
thế bước đầu vào đạo Phật phải qua thập Tín. Rồi mới tam Hiền (10 Trụ + 10
Hạnh + 10 Hồi Hướng), thập Thánh (10 Địa). Tam Hiền thập Thánh là
chương trình tu học thật sự. Như các lớp đại học thế gian. Còn thập Tín là lớp
bổ túc, sửa soạn chuẩn bị để đủ tư cách làm học trò. Trong nhà đạo, sơ tâm
Bồ-tát phải học hỏi nghiên cùng mới hy vọng sáng tỏ trừ nghi để thành chánh tín.
Dùng 10 thậm thâm quán pháp chiếu soi chân đế, tục đế. Hiểu rõ tin sâu là khả
năng sanh nhân quả Phật.
Tin
hiểu cái gì ? Tin Phật thường trụ ở khắp mười phương viên dung vạn pháp. Tin
mình có Phật tánh. Thật tướng vốn đồng. Hai chữ “ở khắp” có nghĩa tổng biến và
viên biến. Tổng khắp như quần sao trên bầu trời (hóa thân). Viên biến như
hương thơm hòa ngát hư không (pháp thân). Mỗi sự tức khắp vô biên mà
chẳng hoại bản tướng như ánh sáng mặt trời ở khắp không gian mà một hình tròn
vẫn rõ hiện.
Thí
dụ : đèn chiếu sáng. Thầy giáo giảng. Học trò thấy chữ, nghe giảng, hiểu nghĩa.
Cả 3 sự việc viên dung trong tâm địa học trò. Cái viên dung vô ngại này thành sự
sinh hoạt hàng ngày của sáu căn. Tâm địa mỗi người là tánh giác vốn vẫn thường
trụ ở khắp pháp giới. Bồ-tát thập Tín cần biện rõ lý bình đẳng tuyệt tướng
(Như Lai Tạng diệu chân như tánh) mà không hoại những sự tướng thế gian
(viên dung).
Biết
sự gọi là Tri. Biết lý gọi là Ngộ. Đối với bậc lý sự đã vô ngại thì tri và ngộ
không hai. Mỗi thấy nghe đều là Văn Thù (căn bản trí). Mỗi cử động đều là
hạnh Phổ Hiền (hậu đắc trí).
Thập
Tín là bước đầu để đi lên, là căn bản các thánh vị. Thân có chỗ đứng là nhờ bàn
chân. Bước đầu đã đúng thì cứ thế mà đến nơi đến chốn.
Dù
tự lợi hay lợi tha, trước hết phải cầu minh đạt. Chỉ cần mở mắt ra, tìm hiểu
giáo lý. Biết đường và đi đúng đường là điều kiện thiết yếu. Đạo Phật là con
đường giác tỉnh, đưa đến vô thượng chánh giác. Ngôi nào cũng phải nhờ trí tuệ
dẫn đường. Kim Cương Bảo Giới là chánh hạnh. Trí tuệ là trợ đạo. Nương đèn chánh
giáo, văn tuệ khai minh giải. Tu tuệ sanh chân trí. Giọt nước mong manh, với sức
tiếp tục lâu dài, sẽ có khả năng làm thủng đá.
Phật
tử có vị giải thoát, có vị sanh thiên, có người đọa lạc. Phật phước điền bình
đẳng. Chỉ vì chí nguyện khác nhau mà quả báo khác nhau. Nguyện dẫn đường tu như
mắt dẫn thân đi. Không nguyện nào quý hơn nguyện thành Phật. Đây là nhân thù
thắng. Tam tạng giáo lý là thuốc trị tất cả độc, là mặt trời chiếu khắp, là
duyên thù thắng. Đủ nhân duyên tốt đẹp như thế, ta hãy nỗ lực trân trọng học
tập.
Phật
giác ngộ một pháp duy nhất là Như Lai Tạng diệu chân như tánh. Bồ-tát không
định, không thể có tuệ. Muốn định, tâm phải trụ một cảnh. Tâm phải rót một cảnh
mới năng nhập lý. Nhưng kinh lại dạy : “Trong cánh đồng mông mênh những sanh
cùng tử này, có cây Bồ-đề thọ vương. Nếu không có nước đại bi tưới gốc rễ chúng
sanh thì không bao giờ nở hoa Bồ-tát để kết quả Phật. Cho nên Bồ-đề thuộc về
chúng sanh. Tất cả các Bồ-tát phải biết nghĩa này”. Như vậy thì tâm bắt buộc
phải đối vô lượng cảnh. Bồ-tát kiếp này sang kiếp khác, hân hoan trong sự nghiệp
đem huyễn pháp thức tỉnh huyễn chúng sanh trở về sống với Phật tánh kim cương
bất hoại của mình.
Muốn
thật lòng tinh tấn tu công đức Phật, tân học Bồ-tát phải dùng 4 niệm xứ, khai
tuệ vô ngã, vô pháp. Biết tất cả tướng vô tướng, sanh vô sanh. Tâm cảnh cùng
vong, trụ vô phân biệt mới mong nhập pháp tánh. Tam luân không tịch mà hằng giáo
hóa. Trí Bi thành nhau. Biết như thế, tin hiểu thâm sâu thật nghĩa, Bồ-tát khởi
hạnh chứng chân, trước sau đều thật.
Trong
hộ nội tâm tránh các nhân duyên xấu, kết hợp các nhân duyên lành. Ngoài xả thân
hộ pháp. Vì ngôi Tam-bảo là cửa giải thoát duy nhất của muôn
loài.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).15/3/2012.TAM THANH.
No comments:
Post a Comment