Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được:
1. - Thời gian
2. - Lời nói
3. - Cơ hội
Ba điều trong đời không được đánh mất:
1. - Sự thanh thản
2. - Hy vọng
3. - Lòng trung thực
Ba thứ có giá trị nhất trong đời:
1. - Tình yêu
2. - Lòng tự tin
3. - Gia đình và Bạn bè
Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được
1. - Giấc mơ
2. - Thành công
3. - Tài sản
Ba điều trong đời làm hỏng một con người:
1. - Rượu
2. - Lòng tự cao
3. - Sự giận dữ
Ba điều làm nên giá trị một con người:
1. - Siêng năng
2. - Chân thành
3. - Thành đạtDễ và Khó
- Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi hàn gắn vết thương đó.
- Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ cho mình.
- Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.
- Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.
- Dễ là khi nghĩ xấu về người khác, nhưng khó là khi cho họ niềm tin.
- Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.
- Dễ là khi nằm mơ hàng đêm, nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.
- Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã …HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.30/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Thursday, 29 November 2012
3 điều quan trọng trong cuộc sống!!!
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
LƯỢC GIẢNG
ŚŪRAMGAMA-SŪTRA
Tuyên Hoá Thượng .
Tuyên Hoá Thượng .
GIẢI THÍCH TỔNG QUÁT
ĐỀ KINH
“Kinh Đại Phật Đảnh Như
Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm” là tên của
bộ kinh này.
ĐẠI nghĩa là to
lớn. Đề cập đến bốn khía cạnh lớn lao của kinh :
1
-Nguyên nhân (nhân )
2- Nghĩa lý (
lý).
3- Tu tập hành trì
(hạnh).
4
- Kết quả (quả ).
Nguyên nhân lớn lao chính
là mật nhân. Nhân này hoàn toàn khác với những nguyên nhân bình thường mà hàng
phàm phu không thể nào hiểu được, hàng ngoại đạo không thể nào hiểu được, và
hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác chưa giác ngộ được. Cho nên nguyên nhân ra
đời của bộ kinh này rất lớn.
Nghĩa lý siêu việt của
kinh to lớn chính là liễu nghĩa. Đây là chỗ rốt ráo của người tu đạo, dẫn đến sự
chứng ngộ.
Hạnh tu tập to lớn vì bao
gồm vô số công hạnh của hàng bồ-tát.
Kết quả to lớn là đại định
Thủ-lăng-nghiêm, Do bốn phương diện này nên đề kinh được mở đầu bằng tiếng Hán
là Đại ; nghĩa là to lớn, siêu việt.
PHẬT: tiếng Phạn là
Buddha. Phiên âm sang tiếng Trung Hoa là Phật-đà-da, gọi tắt là Phật. Nhiều
người cứ nghĩ rằng chữ Phật là tiếng Hán chuyển ngữ, phát xuất từ chữ Buddha,
nhưng thực ra đó chỉ là âm đầu của toàn bộ tiếng phiên âm từ chữ Buddha mà thôi.
Buddha nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức.
Có ba hình thức giác ngộ:
tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Đức Phật là người tự mình
giác ngộ. Trạng thái giác ngộ ấy khác xa với trạng thái hiện thời của người phàm
phu, là kẻ chưa được giác ngộ.
Tự mình giác ngộ chưa đủ,
mà còn phải giúp cho kẻ khác được giác ngộ. Việc giác ngộ người khác có nghĩa là
tìm một phương pháp để giúp cho họ được giác ngộ.
Giữa tự giác và giúp cho
người khác được giác ngộ phải trải qua rất nhiều giai đoạn và có nhiều trình độ
khác nhau. Giác ngộ có hai trường hợp: đại ngộ và tiểu ngộ. Tiểu ngộ là giác ngộ
chưa được hoàn toàn. Đại ngộ là giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật đã tự tu tập và
giác ngộ hoàn toàn và Ngài còn giúp cho người khác được giác ngộ.
Đức Phật là người đã có
đầy đủ ba phương diện giác ngộ nên Ngài được gọi là người có vạn đức trang
nghiêm.
“Tam giác viên,
vạn đức bị.”
(Khi ba phương diện giác
ngộ đã được viên mãn thì có đầy đủ muôn vạn công đức trang nghiêm, nên được gọi
là Phật).
Có người tự hỏi tại sao ta
lại tin vào Đức Phật. Do vì chính chúng ta xưa nay vốn là phật rồi. Chẳng qua
hiện nay chúng ta bị mê mờ, không thể chứng được quả vị Phật. Do đâu mà nói
chúng sinh xưa nay vốn là phật? Chính là do Đức Phật đã từng nói:
“Tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh… nhưng chỉ do vọng tưởng, chấp trước nên không thể chứng đắc được”1
Vọng tưởng đã đưa con
người chúng ta từ Đông sang Tây, rồi đưa từ Nam sang Bắc; đưa ta từ dưới đất lên
trên trời; vọng tưởng ấy bỗng chốc đưa ta lên thiên đàng, bỗng chốc đưa ta xuống
địa ngục. Nó đưa ta đến những nơi bất khả tư nghì và không thể suy lường được.
Quý vị có biết mình có khởi lên bao nhiêu vọng tưởng trong một ngày không? Nếu
quý vị biết thì mình trở thành bồ-tát. Còn nếu không biết thì mình vẫn là phàm
phu.
Con người trở nên chấp
trước vào sự sở hữu, thường xuyên lập nên sự phân biệt về “tôi” và “cái của
tôi.” Họ không thể dẹp sang một bên sự sở hữu những của cải vật chất hay sự
hưởng thụ thú vui tinh thần. “Đó là máy bay của tôi”, “Đây là chiếc xe của tôi,
bạn biết không nó thuộc về model mới nhất.” Bất luận khi người ta sở hữu một vật
gì, thì đều bị dính mắc vào vật ấy. Đàn ông có sự dính mắc của đàn ông, phụ nữ
có sự chấp trước của phụ nữ. Người lương thiện có sự chấp trước của người lương
thiện. Kẻ xấu ác có sự chìm đắm của kẻ xấu ác.
Bất luận những chấp trước
ấy thuộc loại gì người ta cũng khó lòng xả bỏ được nó. Họ chiếm đoạt rồi níu
giữ, kiên trì bám riết lấy nó. Càng lúc càng trở nên cố chấp hơn. Tiến trình này
vô tận vô biên. Những khoái lạc như thức ăn ngon, nhà cửa tiện nghi, những món
giải trí hấp dẫn và những thứ thường được xem như là lợi nhuận. Những thứ này
không bền vững trường cửu như nó đang hiện hữu. Mặc dù quý vị chưa nhận ra điều
ấy. Nhưng đó chỉ là sự tham đắm dục lạc làm chướng ngại việc chứng đạt Phật tánh
của quý vị mà thôi. Nên Đức Phật đã dạy: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chúng
sinh không thể nhận ra được Phật tánh.
Trong kinh
Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật dạy: “Cuồng tâm đốn yết, yết tức bồ-đề ”
Nghĩa là: “Khi tâm cuồng
chợt dừng hẳn thì ngay lúc ấy là giác ngộ”
Tâm cuồng được giải thích
là tâm ích kỷ giả dối, là tâm ưa thích địa vị trong xã hội, là tâm đầy dẫy những
hy vọng hảo huyền vô ích, là tâm khinh thường người khác nên không nhìn thấy
được những thành quả và sự thông minh của họ. Ngay cả như có người được xem
tương tự như loài bát quái cũng sẽ tự cho mình là đẹp lắm. Nên những loại cố
chấp lớn lao này sẽ không sinh khởi nữa khi tâm cuồng si kia dừng hẳn. Chỗ dừng
đó chính là bồ-đề. Bồ-đề là gì? Là giác ngộ được đạo, là khai ngộ. Từ đây, việc
thành Phật không còn xa nữa. Nếu quý vị có thể làm cho tâm cuồng của mình dừng
bặt, nghĩa là quý vị đã có công phu rất tốt rồi.
Trong ba hình thức giác
ngộ. Sự giác ngộ của hàng A-la-hán và Bích-chi Phật[1] là để phân biệt họ với hàng phàm phu chưa
giác ngộ.
Bích-chi Phật ngộ đạo
thông qua tu tập mười hai nhân duyên. Hàng A-la-hán ngộ đạo nhờ tu tập Tứ diệu
đế. Chư vị Bồ-tát khác hẳn hàng Bích-chi Phật và A-la-hán. Họ kiên quyết giúp
cho mọi chúng sinh được giác ngộ, và cũng được gọi là làm lợi lạc quần
sinh.
Nói tóm lại, A-la-hán,
Bích-chi Phật, Bồ-tát là người đã tu tập giác ngộ. Ở đây, chúng ta có thể nói
một người tu tập lần lượt đạt được các quả vị A-la-hán, rồi Bích-chi Phật, rồi
đến quả vị bồ-tát thông qua phương tiện Lục độ ba-la-mật và vô số công hạnh. Như
một người hiện thân ở cả ba trình độ tu tập khác nhau.
Có người dù tu tập đã đạt
đến quả vị A-la-hán rồi nhưng không muốn tiến xa hơn nữa, tự nghĩ mình đã có
được giác ngộ rồi, như có người tự cho rằng: “Ta đã được khai ngộ. Ta chẳng cần
quan tâm đến ai cả.” Anh ta dừng lại ở sự thành tựu quả vị A-la-hán chứ không
muốn tiến đến quả vị Bích-chi Phật nữa.
Một số người khác tiếp tục
tu tập để được đạt quả vị Bích-chi Phật, nhưng chẳng quan tâm đến tiến trình xa
hơn nữa. Thế nên ta có thể xem đó chỉ là một người hay là cả ba người cũng
được.
Còn Bồ-tát là người đã tự
mình giác ngộ còn giúp cho mọi người khác được giác ngộ. Tu tập lục độ ba-la-mật
và tự trang nghiêm mình bằng vô số công hạnh. Bồ-tát phải tiếp tục lộ trình tu
tập cho đến khi hoàn thành bồ-tát đạo. Đến đây mới được gọi là giác hạnh viên
mãn, là thành Phật. Khi đạt được giác hạnh viên mãn của một đức Phật rồi thì
hành giả hoàn toàn khác hẳn một vị bồ-tát.
Ba hình thức giác ngộ có
thể thảo luận rất dài. Còn nếu muốn thực hành thì có rất nhiều sự sai biệt.
Trong mỗi trình độ lại có nhiều cấp độ khác nhau. Trong sự phân biệt lại có thêm
nhiều phân biệt. Tiến trình của hình thức giác ngộ này rất nhiều giai đoạn. Cho
đến khi ba hình thức giác ngộ này được viên mãn mới gọi là hoàn
thành.
ĐẢNH: là điểm cao nhất.
Điểm cao nhất trên đầu gọi là đảnh, trên đảnh chỉ còn có trời. Nên người ta
thường nói: “Đầu đội trời, chân đạp đất.” Tóm lại, Đại Phật đảnh là nói về điểm
nổi lên cao nhất trên đỉnh đầu của Đức Phật.
Quý vị thắc mắc: “Đức Phật
lớn chừng nào? Có phải như một pho tượng cao sáu feet[2]chăng?” Không, pho tượng Đức Phật chỉ như một
giọt nước trong biển cả, hay chỉ như một hạt vi trần trong thế giới này. Nên
chẳng có gì lớn hơn Đức Phật, lớn nhưng chẳng phải lớn, đó mới chân thực là
lớn.
Quý vị liền hỏi :
–Thế thì Ngài là ai?
-
Ngài là Đức Phật, hiển hiện khắp mọi nơi. Chẳng có nơi nào là Phật mà không có
nơi nào chẳng phải là Phật. Bất luận quý vị nói nơi đâu là Phật, thì nơi đó
chẳng phải là Phật. Bất luận nơi đâu mà quý vị nói không phải là Phật, thì nơi
đó chính là Phật. Quý vị có biết kích thước của Phật như thế nào không? Chẳng có
cách nào tính kể được đức Phật to lớn bao nhiêu. Nên Đức Phật thật sự rất lớn,
quá lớn đến nỗi Ngài vượt qua tất cả.
-Làm thế nào mà vượt qua
mọi thứ được cho là lớn?
-
Là không có cái vĩ đại nào có thể đem ra so sánh với Đức Phật được. Sự lớn lao
của Đức Phật là tuyệt đối.
-
Thế thì Đức Phật là ai?
- Là Đại Phật.
-
Thế Đại Phật này là ai?
Là quý vị, mà Phật cũng là
tôi. Nhưng tôi chẳng lớn được như thế. Đến như tôi biết, quý vị cũng chẳng lớn
được như vậy. Tại sao quý vị lại nói Phật là quý vị mà Phật cũng là tôi?
Quý vị lại hỏi:
-
Tại sao lại so sánh Đức Phật như thế?
-
Nếu Đức Phật chẳng có liên quan gì đến quý vị và tôi, thì ta chẳng cần bàn luận
gì đến Đức Phật cho mất công.
Quý vị lại hỏi:
-Làm sao mà tôi lại lớn
như thế?
Phật tánh rất lớn, vốn có
sẵn trong tất cả mỗi chúng ta. cũng như cái không thể so sánh của Đại Phật
vậy.
Bây giờ chúng ta không chỉ
nói về Đại Phật nữa, mà chúng ta sẽ liên hệ đến đảnh tướng trên đầu của Đức
Phật. Chỉ có một vật cao hơn vị Đại Phật, đó chính là đảnh đầu của Ngài. Và Đại
Phật đảnh sẽ có liên quan đến sự xuất hiện của những vị Đại Phật khác sắp được
hiện ra.
Quý vị liền hỏi:
-
Đức Phật ấy lớn cỡ nào?
-
Đức Phật ấy không thể thấy được. Ngài được diễn tả trong bài kệ chúng ta thường
đọc trước khi tụng chú Lăng Nghiêm:
“Vô kiến đảnh tướng,[3] phóng quang Như Lai
tuyên thuyết thần chú. ”
Điều gì không thể thấy
được có thể nói là nó không hiện hữu. Làm sao người ta có thể tin được sự hiện
hữu của một vị Đại Phật khi họ không thấy được Ngài?
Cái không thể thấy được ấy
mới là thật sự là lớn. Nếu nó chẳng lớn đến nỗi không thể thấy đuợc. Tại sao quý
vị lại thấy được những vật khác mà chẳng thấy được Đại Phật?
–
Không chỉ riêng những vật lớn mà những vật rất nhỏ cũng không thể thấy
được.
Thực chứ? Bầu trời rất
rộng lớn. Nhưng quý vị có thể thấy khắp hết chăng? Không. Trái đất thì mênh mông
bao la. Quý vị có thể thấy khắp giáp bề mặt của nó chăng? Cũng không. Đó là
những gì lớn thực sự mà không thể thấy được.
Từ đảnh đầu (không thể
thấy được) của Đức Đại Phật Như Lai phóng ra hào quang.
–
Hào quang ấy lớn đến chừng nào?
Hãy nghĩ rằng: Chẳng lẽ
một vị Đại Phật lại phóng ra một đạo hào quang nhỏ nhoi. Tất nhiên hào quang
Ngài phóng ra phải vô cùng vĩ đại, chiếu khắp mọi nơi.
– Có chiếu đến tôi
không?
Nó đã chiếu đến quý vị từ
rất lâu rồi!
–
Thế tại sao tôi không biết gì cả?
Bây giờ quý vị có muốn
biết không?
Tâm thanh thủy hiện
nguyệt
Ý tịnh thiên vô
vân.
(Khi tâm thanh tịnh thì
trăng phản chiếu trên mặt nước. Khi ý tĩnh lặng thì như bầu trời không gợn tí
mây.
Nếu tâm quý vị hết sức
thanh tịnh, hào quang của Đức Phật sẽ chiếu đến và sẽ tỏa sáng trong tâm quý vị
như ánh trăng soi chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng.. Nếu tâm quý vị còn nhiễm ô, cũng
như một vũng nước bùn đục ngầu, chẳng có thứ ánh sáng nào chiếu dọi qua được.
Tâm định giống như bầu trời không mây, là trạng thái vi diệu không thể diễn tả
được. Nếu quý vị tự thanh tịnh tâm mình rồi, thì quý vị sẽ có được sức mạnh của
Thủ-lăng-nghiêm đại định.
NHƯ LAI
Xuất phát từ chữ tathāgata
trong tiếng Phạn, có nghĩa là đến như vậy
Như nghĩa là không có gì
mà chẳng như.
Lai là không có nơi nào mà
chẳng đến.
Như là bản thể của Phật
pháp.
Lai là dụng của Phật
pháp.
Như là cảnh giới như như
bất động của Phật.
Lai là đến rồi đi (đi mà
chẳng đi).
Nên nói: Như như bất động,
lai nhi diệc lai, lai nhi bất lai (Như như bất động. đến rồi lại đến. Đến mà
chẳng đến).
-
Thế Ngài đi đâu?
-
Chẳng đi đâu cả.
Thế Ngài đến nơi
đâu?
Chẳng có nơi nào để đến
cả.
Nên Kinh Kim Cương nói :
“Như Lai giả, vô sở tòng
lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.”[4]
Đức Phật chẳng đến với quý
vị, cũng chẳng đến với tôi. Mà Đức Phật ở ngay đó với quý vị, và Đức Phật cũng ở
ngay đây với tôi.
Như Lai[5] là một trong mười
danh hiệu của Đức Phật. Thông thường, mỗi Đức Phật đều có mười ngàn danh hiệu.
Về sau rút lại chỉ còn một trăm danh hiệu vì chúng sinh thường bị lẫn lộn khi cố
gắng nhớ cho hết. Trong một thời gian khá dài, Đức Phật có một nghìn danh hiệu,
nhưng chúng sinh lại vẫn không nhớ hết được. Nên lại giảm xuống mỗi Đức Phật chỉ
còn một trăm danh hiệu. Đến khi mỗi Đức Phật còn lại một trăm danh hiệu rồi mà
chúng sinh vẫn khó khăn khi nhớ hết các danh hiệu ấy. Nên lại giảm xuống chỉ còn
mười danh hiệu. Đó là:
Ứng cúng: xứng đáng được
hưởng sự cúng dường của loài người và trời.
Chánh biến tri: hiểu biết
chân chính bao trùm khắp.
Minh hạnh túc: Sự giác ngộ
cũng như công hạnh hoàn toàn trọn vẹn.
Thiện thệ thế gian giải [6]: vượt qua mọi kiến
giải thế gian một cách tự tại.
Vô thượng sĩ : Bậc không
ai sánh bằng.
Điều ngự trượng phu: Bậc
trượng phu khéo điều phục chính mình.
Thiên nhân sư: Thầy của
trời và người
Phật
Thế Tôn
Tất cả các Đức Phật đều có
mười danh hiệu này.
MẬT
NHÂN
Mật nhân là bản thể của
định lực mà mọi người đều tự có sẵn. Gọi là mật chứ không gọi là hiển vì mặc dù
vốn có đầy đủ bên trong mỗi người, không ai thiếu sót cả, nhưng chẳng ai biết
được điều ấy. Thế cho nên gọi là mật.
Mật nhân này là định lực
của Như Lai và cũng là bản thể định lực của toàn thể chúng sinh. Khác nhau ở
điểm là bản thể định lực của chúng sinh chưa được hiển bày nên vẫn còn một điều
ẩn mật.
TU
CHỨNG LIỄU NGHĨA
Mật nhơn ấy phải được tu
chứng qua tham thiền hay niệm Phật, cả hai đều là phương tiện tu tập. Sự tu tập
đề cập ở đây là tinh chuyên tham thiền. Qua tham thiền miên mật, hành giả mới
chứng quả và đạt được liễu nghĩa, đó cũng chính là không nghĩa.
Nói như thế thì mọi chuyện
là vô nghĩa hay chăng?
“Liễu nghĩa là thực chứng
được một cách trọn vẹn không thiếu sót các pháp thế gian và xuất thế gian.” Đến
lúc ấy nó chẳng còn pháp nào để tu, chẳng còn pháp nào để chứng nữa
cả.
Vĩnh Gia Huyền Giác Đại sư
có viết trong Chứng Đạo ca:
Quân bất kiến
Tuyệt học vô vi nhàn đạo
nhân.
Bất trừ vọng niệm, bất cầu
chân.
Người tu đạo từ nay không
còn phải làm việc gì nữa cả, chẳng cần liệng bỏ những vọng niệm vì đã trừ dẹp
xong hết rồi. Chỉ còn những ai chưa hoàn toàn trừ sạch vọng tưởng mới phải cần
liệng bỏ nó.
Người tu đạo không cần
phải tìm cầu chân lý vì đã thể nhập và đã chứng nghiệm được chân lý rồi. Chỉ có
những người chưa đạt được mới tìm cầu chân lý.
Những dòng này diễn tả về
liễu nghĩa. Chứng được liễu nghĩa cũng còn được gọi là liễu vì đạo lý Đức Phật
giảng dạy quá siêu việt, phải cần nghiên cứu toàn diện mới mong đạt được chỗ
cùng tận của nghĩa lý.
Khi một người đã dốc hết
sức để mong nghiên cứu cùng tận mọi giáo nghĩa Đức Phật đã dạy, đến khi họ không
còn nữa mà nghĩa lý hoàn toàn còn đó. Vấn đề bất liễu nghĩa vẫn còn có một ý
nghĩa chưa thông suốt còn lại ở đó.
Liễu nghĩa là chẳng còn
nghĩa gì trong đó cả. Hoàn toàn “thanh tịnh” khi đạt đến chỗ liễu nghĩa nên gọi
là mật nhơn, là bản thể của định lực. Khi đạt được bản thể này, có nghĩa là quý
vị đã tu và chứng được liễu nghĩa. Nếu quý vị không tu thì chẳng chứng được liễu
nghĩa, là nghĩa bao trùm tất cả các nghĩa khác.
Quý vị lại hỏi: “Nhưng
Thầy lại bảo rằng liễu nghĩa ấy không hiện hữu?
Đúng vậy, nhưng cái không
hiện hữu ấy mới thực sự hiện hữu.
Sự tồn tại tương quan
không phải là hiện hữu thực sự. Khi quý vị đã chứng thực được liễu nghĩa, không
còn thêm một ý nghĩa nào để chứng đắc nữa, là quý vị đã đạt đến chỗ rốt
ráo.
“Điểm thành tựu rốt ráo ấy
là gì?”
Đó là cảnh giới Phật, là
quả vị Phật. Nhưng nếu quý vị muốn đạt đến cảnh giới Phật, quý vị phải tiếp tục
tu tập Bồ-tát đạo, cho nên trong tên kinh lại có đề cập đến.
CHƯ
BỒ-TÁT VẠN HẠNH
Chư nghĩa là tất cả, là vô
số. Công hạnh của hàng bồ-tát nhiều không thể tính đếm được. Nói tóm lại, có tất
cả 55 quả vị của hàng bồ-tát . Sẽ được giải thích chi tiết trong kinh văn. Gồm
có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa, Đẳng
giác và Diệu giác. Năm mươi lăm quả vị này không phải là chỉ đề cập đến 55 vị
bồ-tát , đúng hơn là nói đến 55 trình tự mà người phát tâm tu bồ-tát đạo phải
trải qua mới chứng đạt Phật quả.
Vạn hạnh là vô số phương
pháp mà các vị bồ-tát tu tập. Có tám mươi bốn nghìn pháp môn. Nhưng trong đề mục
kinh chỉ nói đến vạn hạnh. Để bổ sung cho vạn hạnh, các vị bồ-tát còn phải tu
tập Lục độ ba-la-mật. Ba-la-mật (pāramitā) là phiên âm từ tiếng Sanskrit, có
nghĩa “đến bờ bên kia,” là hoàn thành viên mãn công hạnh của người tu hành. Nếu
quý vị quyết tâm tu tập thành Phật, chứng đạt Phật tánh thì đó là ba-la-mật. Nếu
quý vị muốn vào Đại học và lấy bằng Tiến sĩ, thì khi đạt được học vị ấy được gọi
là ba-la-mật. Nếu quý vị đang đói, muốn ăn, mà được ăn đó là ba-la-mật. Khi quý
vị buồn ngủ mà được nằm xuống ngủ một giấc thì đó gọi là ba-la-mật. Chữ ba la
(bwo lwo) trong tiếng Hán nghĩa là trái thơm (dứa); mật (mi) là mật ong. Nên
ba-la-mật còn có nghĩa là ngọt hơn cả vị ngọt của trái thơm.
Các vị bồ-tát đều tu tập
sáu hạnh ba-la-mật. Đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và
trí tuệ.
Bố thí: có ba
dạng:
1- Tài thí : bố thí tiền
của, tài sản
2- Pháp thí: bố thí
pháp
3- Vô úy thí: bố thí sự
không sợ hãi.
-Bố thí tài sản: Mặc dù
tiền bạc là thứ mọi người ưa thích nhất, nhưng nó cũng là thứ dơ bẩn nhất trên
đời. Chỉ cần nghĩ xem nó đã được chuyền tay qua bao nhiêu người và nó chứa bao
nhiêu thứ vi trùng thì sẽ biết. Trong đạo Phật, tiền bạc được xem là thứ bất
tịnh. Trước hết, nguồn gốc của nó thường là bất tịnh hoặc là do trộm cắp, hoặc
là biển thủ, tham ô mà có
Có người không bằng lòng,
nói rằng: “Tiền này do tôi kiếm được từng đồng bằng nghề nghiệp hoàn toàn trong
sạch."
Nay dù quý vị kiếm được
tiền bằng cách hợp pháp đi nữa thì quý vị vẫn không thể từ chối được rằng đồng
tiền tự nó rất bẩn và chứa rất nhiều mầm vi trùng gây bệnh. Vậy mà rất nhiều
người thích nó. Khi tiền được chuyền tay nhau, nhiều người đã thấm nước miếng
của mình vào ngón tay để đếm, việc này tạo nên mối nghi ngờ cao độ, chính tiền
đã truyền mầm bệnh truyền nhiễm. Nhưng mặc dù sự bất tịnh của nó tác hại đến
thế, mà người ta vẫn không ngại kiếm cho được nhiều tiền. Nếu quý vị cho tôi
toàn bộ tiền bạc của nước Mỹ này, tôi sẽ không cho đó là quá nhiều. Và nếu đem
tất cả khoản tiền ấy cho quý vị, thì tôi tin là quý vị cũng chẳng phản đối.
Nhưng khi quý vị đã có nhiều tiền rồi thì sẽ có luôn một số vấn đề rắc rối. Ban
đêm quý vị không thể ngủ ngon giấc. Quý vị bận tâm phải tìm nơi an toàn để cất
giữ. Vì tiền bạc đã làm cho quý vị bận tâm, nên bản chất nó là bất thiện. Nhưng
dù cho nó không tốt mà nhiều người vẫn ưa thích, không thể từ bỏ nó được. Người
có thể thực hành việc bố thí ba-la-mật tài sản, tiền bạc là người đang tu tập
bồ-tát đạo.
Người ta không dễ gì thực
hành việc bố thí. Tâm con người là nơi giao nhau của hai cực âm và dương, là đấu
trường của lý trí và tình cảm. Ví dụ như khi thấy có người gặp hoạn nạn, bị đói
khát, theo đạo lý làm người, quý vị quyết định cho người ấy một đô-la nhưng khi
thò tay vào túi lấy tiền, thì tâm tham lam đã níu giữ ta lại, khiến khởi dậy
niệm thứ hai: “Hãy đợi một chút, ta không thể cho nó đô-la này được. Đây là đồng
tiền lẻ cuối cùng ta vừa đổi được. Nếu ta cho nó, ta sẽ hết tiền đi xe buýt và
ta phải đi bộ. Ta không thể cho được.” Tâm niệm đầu tiên thúc dục mình phải có
lòng bao dung với người khác; nhưng lập tức nó lại bị dẫn dắt bởi tâm niệm tiếp
theo, tính toán cho sự lợi lạc riêng của chính mình. Nên anh ta bỏ tiền lại vào
túi, không cho nữa. Điều
này xảy ra hoàn toàn giống nhau từ tầm mức nhỏ cho đến mức độ to lớn; từ một
đồng xu cho đến cả triệu đô la. Niệm đầu tiên là cho, niệm thứ hai là lo lắng
cho chính mình.
Bố thí tài vật không phải
dễ dàng gì. Ngay cả có người khi làm việc gì cũng nghĩ: “Thật ngu đần mới đem
tiền cho các người. Tại sao các người chẳng đem tiền của quý vị đến cho tôi.”
Rất dễ dàng khi nói đến bố thí nhưng đến khi thực hành thì khó.
Từ hồi còn trẻ tôi không
biết đếm. Bất kỳ khi nào tôi có tiền, tôi đều bố thí sạch. Nếu tôi có được một
đô-la, tôi cho một đô-la, nếu có hai đô-la, tôi cũng cho cả hai, tôi không thích
tiền. Nhiều người xem cách đối xử của tôi là ngu đần vì tôi chẳng nghĩ gì đến
việc lo cho mình cả. Tôi chỉ biết cách giúp đỡ người khác.
Bằng cách làm lợi ích cho
người khác thì mới có thể làm sinh khởi tâm bồ-tát trong mình. Những người đã
phát tâm bồ-tát thường thích làm lợi ích cho mọi người hơn là làm lợi ích cho
chính mình. Họ cho rằng: “Nếu tôi phải chịu khổ và chịu mọi tai họa của mọi
người thì tốt hơn. Tôi không muốn mọi người chịu khổ nạn.”
Các vị bồ-tát thường làm
lợi ích cho chúng sinh bằng cách thực hành các việc thiện mà chẳng bận tâm đến
sự thiệt thòi của mình.
Có một số người phí thời
gian để chắc chắn mình mua sắm được giá rẻ. Khi họ dự định mua một thứ gì họ so
sánh giá cả ở các siêu thị cho đến khi họ mua được với giá hời nhất. Những thứ
họ mua hóa ra chỉ rẻ hơn với những thứ làm bằng nguyên liệu tái sinh được chế
biến từ sự thử nghiệm khoa học, trông bên ngoài rất hào nhoáng nhưng hư hỏng
ngay khi dùng lần đầu. Thế nên, mặc dù quý vị nghĩ rằng mình đã có một ý tưởng
tuyệt diệu, nhưng cuối cùng chính mình lại bị thiệt thòi. Nên thay vì thói quen
tính toán ích kỷ như vậy, quý vị nên làm việc tốt lành cho người
khác.
Bố thí pháp: Như việc tôi
giảng kinh và thuyết pháp cho quý vị nghe đây gọi là bố thí pháp. Kinh nói:
“Trong tất cả các việc bố thí. Bố thí pháp là cao cả nhất”
Tiền bạc quý vị đem ra bố
thí có thể tính đếm được, còn Pháp không thể tính toán được. Nếu có người đến
pháp hội nghe giảng kinh, rồi tu tập và được giác ngộ, được chánh tri kiến. Quý
vị thử tưởng tượng công đức phát xuất từ bố thí pháp lớn đến ngần nào? Vì bố thí
chỉ một lời pháp cũng có thể khiến cho người ta chứng được Phật quả, nên đó là
bố thí cao cả nhất.
Bố thí sự không sợ hãi (vô
úy thí): khi quý vị đem sự bình thản, trầm tĩnh đến cho những nạn nhân của những
vụ cướp đoạt, hỏa hoạn hay những tai ương khác khiến họ không còn hoảng hốt và
kinh hãi, quý vị ̉ trấn an họ và khuyên giải bằng cách nói: “Đừng sợ! bất luận
khó khăn nào cuối cùng rồi cũng qua thôi”
Chẳng hạn, cách đây vài
hôm, một nữ ca sĩ đánh mất ví tiền. Tôi để ý đến khuôn mặt lo âu của cô ta nên
hỏi cô ta gặp phải chuyện gì.
Cô ta trả lời: “Con mất ví
tiền, không biết phải làm sao bây giờ.” Tôi nói với cô ta một cách chắc chắn:
“Cô sẽ tìm được lại thôi, đừng băn khoăn nữa.”
Hóa ra lời tôi nói như có
phép thần thông. Cô ta trở lại nơi đánh mất, thấy ví tiền nằm ngay nơi cô ta vừa
bỏ đi. Đó là một ví dụ về vô úy thí.
Tôi nói với cô ta: “Đó chỉ
là chuyện nhỏ, chắc chắn cô sẽ gặp những chuyện to tát hơn. Nếu cô hiểu được
chuyện nhỏ, thì cô sẽ giải quyết được việc lớn.”
-
Trì giới: Ba-la-mật thứ hai mà bồ-tát phải thực hành là trì giới. Điều này liên
quan đến giới luật, một trong những phương diện quan trọng nhất của sự tu tập
Phật pháp.
Giới là gì? Giới là những
phép tắc về sinh hoạt mà hàng đệ tử Phật phải tuân theo. Giới có tác dụng ngăn
ngừa không cho việc ác sinh khởi và đề phòng những điều lỗi lầm không cho nó xảy
ra.
Khi quý vị trì giới thì
quý vị không còn phóng tâm mình vào những việc ác; thay vào đó quý vị tự hành xử
một cách chân chính và cúng dường các hạnh lành ấy lên chư Phật.
Có bao nhiêu giới
điều?
Những người cư sĩ đã quy y
Tam bảo: Phật, Pháp,Tăng; muốn hoàn thiện hơn nữa thì nên thọ năm giới, đó là:
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng các
chất độc hại gây kích thích. Phải phát nguyện giữ những giới này đến suốt đời.
Sau khi thọ năm giới thì phát nguyện thọ Bát quan trai giới.
Ngoài ra còn có mười giới
của sa-di. Thọ giới sa-di mới chính thức làm người xuất gia. Từ đó mới có thể
tiến lên thọ giới Cụ túc, tức là hai trăm năm mươi giới dành cho tỷ-khưu tăng và
ba trăm bốn mươi tám giới cho tỷ-khưu ni. Còn có giới của hàng bồ-tát gồm mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Mười giới đầu tiên được gọi là giới
trọng, vì khi một người đã phạm một trong mười giới trọng này thì không thể tự
mình sám hối được, nếu phạm một trong những giới khinh thì có thể tự sửa đổi lỗi
lầm và bắt đầu lại.
Khi Đức Phật gần nhập
niết-bàn, Ngài A-nan thưa hỏi bốn câu hỏi, một trong số đó là: “Khi Thế tôn còn
tại thế, Như Lai là thầy của chúng con. Khi Thế tôn nhập diệt rồi, chúng con
nhận ai làm thầy?"
Thế tôn trả
lời:
“Sau khi Như Lai nhập
diệt, các ông nên lấy giới luật làm thầy của mình.”
Đức Phật chỉ rõ cho hàng
xuất gia: tỷ-khưu, tỷ-khưu ni phải nên nhận giới luật làm thầy của mình.
Cư sĩ muốn thọ giới pháp
nên tìm đến một vị Sư trưởng – là người xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu – để cầu
giới pháp. Các giới căn bản phải được một vị xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu trao
truyền. Theo giới luật của Đức Phật, tỷ-khưu ni không được truyền
giới.
Đối với người tu hành,
việc thọ giới là tuyệt đối cần thiết. Người giữ gìn giới hạnh thanh tịnh sẽ có
vẻ đẹp sáng rỡ như viên minh châu. Vào đời Đường có Đạo Tuyên Luật sư ở núi
Chung Nam, Ngài giữ giới luật rất tinh nghiêm đến mức chư thiên đến cúng dường.
Phước đức của việc giữ giới rất lớn. Nếu quý vị học Phật pháp mà không giữ giới
thì cũng giống như cái bình bị lỗ rò. Giữ giới cũng như bít lỗ rò ấy lại. Thân
thể con người có nhiều lỗ thoát, nó rỉ chảy ra. Nếu quý vị giữ gìn giới luật
trong một thời gian dài, thì nó sẽ không chảy thoát ra nữa.
Trong pháp hội
Thủ-lăng-nghiêm này quý vị sẽ được nghe giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, được hướng
dẫn trực tiếp, kết hợp cả học hỏi, nghiên cứu và tu tập hành trì. Thời khóa tu
học rất căng thẳng, từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối mỗi ngày. Nghiêm ngặt hơn ở
trường học bên ngoài nhiều. Đây là trường học để giải quyết vấn đề sinh tử.
Khi nghe giảng kinh
Thủ-lăng-nghiêm quý vị sẽ hiểu được ý kinh và thực hành tu tập thông qua tham
thiền. Thông qua sự kết hợp giữa nghiên cứu cho hiểu thấu ý kinh rồi thực hành,
chúng ta có thể bước đi vững chãi trên mặt đất và tiếp xúc với công việc không
bằng sự bất cẩn và thờ ơ như trước đây nữa, mà bằng sự nỗ lực tinh tấn trong tu
học. Quý vị sẽ giải quyết được vấn đề sinh tử, đạt được sự lợi ích vô cùng to
lớn.
Một ví dụ sẽ minh họa giúp
cho chúng ta hiểu được giá trị khi kết hợp giữa hiểu biết và thực hành. Một
người bị mù và một người bị què chân sống chung với nhau trong một gia đình,
trong đó có vài người khác cùng chung sống để giúp đỡ cho họ. Song, một hôm
những người kia đều có việc phải đi ra ngoài, người đi câu cá, người đi mua sắm,
người đi chơi, người mù và người què là những người còn lại trong nhà. Trong cái
ngày đặc biệt ấy căn nhà bỗng xảy ra hỏa hoạn, người mù không thấy được đường
nên không thể thoát ra được. Người què thấy được, nhưng không có đôi chân lành
lặn để đi ra. Thật nan giải! Chắc chắn họ sẽ bị chết cháy thôi!
Lúc đó, có một vị thiện
tri thức cho họ lời khuyên: “Các anh đều có thể thoát được nạn cháy, có thể
thoát ra được ngôi nhà lửa này. Làm cách nào để thoát? Người mù hãy sử dụng đôi
mắt của người què và người què sử dụng đôi chân của người mù.” Họ liền theo lời
chỉ dẫn của thiện tri thức.
Có phải người què móc mắt
của mình ra rồi gắn vào hốc mắt của người mù chăng? Bất kỳ một cuộc giải phẫu
nào với phương pháp như thế đều thất bại cả. Nếu như người ta tìm cách gắn đôi
chân của người mù vào thân của người què cũng đều là vấn đề nan giải, vượt qua
ngoài quy luật tự nhiên. Thế họ làm như thế nào?
Họ tạo ra được một tình
huống tốt nhất bằng cách người mù cõng người què. Người què có mắt nên hướng
dẫn: “Quẹo phải, quẹo trái, đi thẳng,” người mù có đôi chân, tuy không thấy
đường nhưng có thể nghe được lời chỉ dẫn của người què. Nhờ nghe lời khuyên đúng
lúc và hợp lý, cả hai người đều tự xoay xở để tự cứu được mình.
Khi quý vị nghe chuyện
này, xin đừng hiểu lầm là tôi ví quý vị như người mù và què. Chẳng phải quý vị
là người mù và què đâu mà tôi mới là mù và què. Nhưng nhờ có hiểu biết được đạo
lý nên tôi mượn ví dụ để giảng, chẳng phải là nói về quý vị và tôi.
Quý vị không nên quá tự
cao, đừng có dựa vào sự hiểu biết độc đáo của mình hoặc là trí thức rộng lớn của
mình. Thế tại sao quý vị không chứng được Phật quả? Chỉ vì quý vị quá ư ngạo
mạn.
Quý vị nghĩ: “Ta có kiến
thức rất uyên bác.” Nhưng bất kỳ những thứ gì mà quý vị học được đều làm chướng
ngại quý vị. Nếu quý vị có nhiều kiến thức, thì quý vị sẽ bị gánh nặng của kiến
thức ấy, nếu quý vị có nhiều năng lực thì năng lực ấy sẽ làm chướng ngại khiến
quý vị không thể chứng đạo được. Chúng ta nên loại trừ hết những ảo tưởng về
kiến thức thông minh ấy của quý vị, của tôi và của mọi người. Hãy để cho những
tư tưởng ấy an định, phóng xả và làm cho nó thanh tị̣nh. Hãy để cho lòng mình
trở nên trống rỗng.
Để làm gì? Để quý vị có
thể hưởng được trọn vẹn hương vị nhiệm mầu của đề hồ.[7] Đó là Phật pháp vi diệu tối
thượng.
Một hôm có một phụ nữ trẻ
đang làm luận án Tiến sĩ thú nhận rằng trong đầu của cô ta chứa đầy rác. Nay
chúng ta sẽ dùng lời của cô ta để nói lại: “Hãy liệng sạch rác rến ấy ra khỏi
đầu, thì cô ta sẽ nghe được kinh. Lúc ấy, mỗi điều nghe sẽ được ngàn điều
ngộ.
-Nhẫn nhục : có ba loại
nhẫn nhục: sinh nhẫn, pháp nhẫn và vô sinh pháp nhẫn.
-Tinh tấn : nghĩa là
thường xuyên tiến lên phía trước không lui sụt trong công phu tu tập. Ví dụ về
hạnh tinh tấn cao nhất đã được nói trong kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ-tát
Bổn sự̣. Bồ-tát Dược Vương quấn mình trong vải tẩm dầu hương rồi cung kính đến
trước Đức Phật đốt mình để cúng dường.
Quý vị thắc mắc: “Ngài đốt
mình như vậy để làm gì vậy?”
Vì Bồ-tát Dược Vương thấy
rằng lòng từ của Đức Phật quá tối thượng, quá sâu mầu, quá vĩ đại, không có cách
nào có thể báo đáp được ân đức ấy. Nên Bồ-tát đã đem hết thân tâm và tánh mạng
của mình cúng dường lên Đức Phật.
Quý vị hỏi: “Ngài đốt thân
trong bao lâu?”
-
Trong một thời gian rất dài, không có cách nào tính đếm được khoảng thời gian
ấy.
Khi Đại sư Trí Giả, vị tổ
thứ ba của tông Thiên Thai được đọc phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự trong Kinh
Pháp Hoa đến đoạn “...Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai”
(tâm chân chánh tinh tấn ấy, mới được gọi là pháp chân thật cúng dường Như Lai),
thì Ngài liền nhập vào định. Trong định, Ngài Trí Giả thấy pháp hội do Đức Phật
giảng kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu vẫn chưa tan.
Đại sư Trí Giả thấy Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn đang ngồi giảng pháp ở đó, chuyển bánh xe đại pháp giáo
hóa vô lượng chúng sinh. Ngay đó, Đại sư Trí Giả hoát nhiên nhập vào Pháp Hoa
Tam-muội và đạt được Nhất triền đà-la-ni. Sau khi Ngài xuất định, với trí tuệ
lớn lao mà ngài đã tự khai mở được, Ngài lập tông Thiên Thai. Đó là cảm ứng do
niệm tưởng công đức của Bồ-tát Dược Vương khi đốt thân cúng dường Đức
Phật.
Một số người sẽ phản đối:
“Nếu có nhổ một sợi tóc trên đầu tôi mà làm lợi cho cả thế giới, tôi cũng không
làm.” Đó là họ chỉ biết riêng mình mà không cần biết làm lợi ích cho người khác.
Họ không thể được gọi là chân thực tinh tấn.
-
Ba-la-mật thứ năm là Thiền định: có bốn loại thiền và tám thứ định. Còn Cửu thứ
đệ định đã có đề cập trong phần kinh văn của kinh Thủ-lăng-nghiêm nên tôi sẽ
không giảng ở đây. Nay chỉ giảng vắn tắt về Tứ thiền.
-Sơ thiền: gọi là Ly sanh
hỷ lạc địa. Trong trạng thái thiền đầu tiên, người đạt đến cảnh giới này có thể
làm cho mạch ngưng đập.
-Nhị thiền: gọi là Định
sinh hỷ lạc địa. Trạng thái định này vững chãi hơn ở Sơ thiền. Đạt đến cảnh giới
này có thể dừng được hơi thở. Nhưng không có nghĩa là chết. Thay vào đó là một
cảnh giới khác của ý thức. Hơi thở bên ngoài đình chỉ nhưng hơi thở bên trong
vẫn còn. Hàng phàm phu chỉ sử dụng được hơi thở bên ngoài. Nếu người có thể sử
dụng hơi thở bên trong thì họ được trường sinh bất tử, muốn sống bao lâu cũng
được. Tuy nhiên, dù có sống đến bao lâu cũng chỉ trở thành con quỷ giữ thây vô
dụng, chỉ lo giữ cái túi da hôi hám này mà thôi.
-Tam thiền: gọi là Ly hỷ
diệu lạc địa. Mọi người tu tập đều thích chứng được “diệu lạc” này. Tuy vậy,
niềm vui (phước lạc) ở cõi thiền thứ ba này tách biệt hẳn với niềm vui thông
thường, vì nó cực kỳ vi diệu. Trong cảnh giới này ý thức hoàn toàn đình
chỉ.
-Tứ thiền: còn gọi là Xả
niệm thanh tịnh địa. Đến đây, tất cả mọi niệm tưởng đều được xả trừ. Hành giả
chỉ còn biết những gì xảy ra ở cõi trời và người nhưng hành giả không nên dính
mắc, ngưng trệ ở cảnh giới này. Đạt được cảnh giới thiền thứ tư chỉ là bước đầu
tiên của lộ trình tu đạo. Hành giả nên nhớ rằng đến cảnh giới thiền thứ tư mới
chỉ là một bước tiến đặc biệt thôi. Đó chỉ là bước đầu tiên trên đường hướng tới
Phật quả, chẳng phải là thành tựu quả vị đầu tiên của hàng a-la-hán.
-Ba-la-mật thứ sáu là
bát-nhã (prajñā), là phiên âm từ tiếng Sanskrit, tạm dịch là trí tuệ. Có nhiều
người xem trí thông minh thế gian là trí tuệ. Không phải thế. Trí thông minh là
kiến thức thế gian xuất phát từ học hỏi các môn khoa học, triết lý và những môn
khác mà có. Còn trí tuệ là hiểu biết xuất thế gian, do chứng được Phật quả mà
được. Đây là bát-nhã. Từ bát-nhã (prajñā) không dịch được vì nó có quá nhiều
nghĩa, nằm trong năm loại thuật ngữ không nên phiên dịch (ngũ chủng bất phiên).
Đó là:
1. Những thuật ngữ liên
quan đến tính chất huyền bí thâm mật (bí mật chi).
2. Những thuật ngữ có
nhiều nghĩa (hàm đa nghĩa).
3. Những thuật ngữ liên
quan đến những vật mà ngôn ngữ địa phương không có (thử phương vô).
4. Những thuật ngữ theo
truyền thống đã không phiên dịch (thuận cổ lệ).
5. Những thuật ngữ khiến
người đọc phát khởi thiên tâm (vi sinh thiện).
Năm nguyên tắc này được
Ngài Huyền Trang đời Đường đề xướng ra trước tiên.
Bát-nhã có ba
nghĩa:
1. Văn tự bát-nhã: là
những điều ghi chép trong kinh tạng.
2. Quán chiếu bát-nhã: là
trí tuệ có được qua sự hồi quang phản chiếu, qua công phu “phản văn văn tự tánh”
- hướng tánh nghe vào tự tâm để nhận ra tự tánh của chính mình. Trí tuệ này
phát sinh khi mắt tâm không còn tìm kiếm bên ngoài nữa, mà quay trở lại quán sát
bên trong mình. Với ánh sáng trí tuệ quán chiếu, quý vị có thể chiếu soi và quét
sạch mọi tối tăm mê muội chung quanh mình. Khi trí tuệ lưu xuất từ tâm, quý vị
trở nên rất sáng suốt và thanh tịnh, không còn bị vây phủ bởi trần cấu ô nhiễm
nữa.
3. Thực tướng bát-nhã: là
bát-nhã vi diệu nhất, bất khả tư nghì. Đồng nghĩa với từ liễu nghĩa trong đề
kinh này. Thực tướng ấy không chứa đựng hình tướng nào trong đó cả mà chẳng có
gì ở ngoài thực tướng ấy. Khi quý vị cho là vô tướng thì mọi pháp đều do đó mà
biểu hiện, nên gọi là thực tướng. Nếu quý vị nhận ra được điều này thì quý vị
rất gần với Đức Phật, chỉ còn cách Ngài có một bước.
Kinh Kim Cương nói:
"Phàm sở hữu tướng, giai
thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.”
Mọi pháp nếu được biểu
hiện qua hình tướng đều là hư giả. Nếu như ngay trong sự biểu hiện của các pháp,
mà quý vị nhận ra được tính chất vô tướng của nó thì lúc ấy quý vị thấy được
Phật.
Thực tướng bát-nhã là nhận
rõ được bản thể của các pháp và thâm nhập vào căn nguyên của các pháp. Đạt đến
cội nguồn của các pháp rồi tức là như thấy được Phật.
Rất dễ khi bàn về những
kinh nghiệm như vậy, nhưng rất khó thể nhập. Quý vị không thể hiểu được bằng
cách chỉ nghe giảng kinh mà phải tự mình dấn bước vào con đường tu đạo, dù việc
ấy không dễ dàng gì, chúng ta cũng phải nghĩ cách đi trên con đường đó. Ví dụ có
người nói: “Tôi rất muốn đi Nữu-ước, nhưng đường quá xa và vé máy bay quá đắt
nên tôi do dự không muốn đi.” Song, nếu quý vị không bao giờ đi thì chẳng bao
giờ quý vị biết thành phố Nữu-ước như thế nào cả. Chứng ngộ quả vị Phật cũng như
vậy. Một mặt quý vị muốn thành Phật nhưng mặt khác có một lực trì trệ kéo ngược
lại, khiến quý vị không bao giờ đạt đến đích cả. Cũng như nhìn biển mênh mông
rồi buông tiếng thở dài: “Tu học Phật pháp thật là khó, ta sẽ tìm đạo gì đó dễ
tu hơn.” Nếu quý vị có thái độ đó quý vị sẽ không bao giờ chứng được quả vị
Phật. Nếu quý vị không muốn thành Phật thì không nói làm gì, nhưng nếu quý vị
muốn thành Phật thì phải dấn mình vào khó khăn, vì chỉ trong khó khăn thì mới
thấy được cái dễ.
Thiền ngữ Trung Hoa có
câu:
“Bất lịch nhất phiên hàn
triệt cốt
Yên đắc mai hoa phác tị
hương”[8]
Tạm dịch:
Nếu chẳng một phen xương
thấm lạnh
Hoa mai đâu dễ tỏa mùi
hương.
Nhờ chịu đựng những cơn
lạnh khắc nghiệt vào giữa mùa Đông ở Trung Hoa mà có được mùi hương rất ngọt
ngào thanh khiết như thế.
Mọi chúng sinh đều thừa
hưởng được Thực tướng bát-nhã trong mình. Nhưng cũng như “mật nhơn” trong kinh
này. Thực tướng bát-nhã ấy chưa được hiển bày. Thế nên họ không nhận ra tự tánh
vốn có sẵn nơi mình. Chúng ta không nhận ra tự tánh bát-nhã trong ta, là thực
tướng bát-nhã vốn đầy đủ trong mình, nên chúng ta như kẻ nghèo nàn trong Phật
pháp. Bát-nhã là trí tuệ mà chúng ta luôn luôn có sẵn, chúng ta phải nên mở
cánh cửa kho tàng trí tuệ này ra thì khuôn mặt xưa nay sẽ hiển bày. Khi chúng ta
chưa nhận ra mình có sẵn Thực tướng bát-nhã trong mình thì cũng như mang một
kho tàng chưa khai quật ở trong lòng. Tuy nhiên, khai quật kho vàng lên vẫn chưa
đủ, còn phải ra sức luyện vàng mới sử dụng được. Kinh nói rằng mỏ vàng bát-nhã
có sẵn trong mỗi người nhưng nếu ta không tinh luyện thì ta chẳng dùng được.
Chúng ta phải phát tâm luyện chất vàng ròng thực tướng bát-nhã, khi ấy Phật tánh
bản hữu sẽ tự xuất hiện.
Đức Phật dạy:
Tất cả mọi chúng sinh đều
có Phật tánh và đều có thể tu tập thành Phật.
Nhưng quý vị không nên
nghĩ rằng: “Đức Phật nói rằng ai cũng có thể làm Phật. Vậy tôi là Phật rồi,
chẳng cần tu hành gì nữa cả.”
Điều này cũng giống như
biết mỏ vàng nằm đó nhưng không muốn đào lên để dùng.
Đây là những giải thích sơ
lược về lục độ ba-la-mật trong hạnh nguyện của hàng bồ-tát. Mọi người đều có thể
quyết định tu tập hạnh bồ-tát để trở thành bồ-tát. Nếu quý vị có chủng tử bồ-tát
thì quý vị đã là một vị bồ-tát sơ phát tâm. Một vị bồ-tát không thể nói một cách
ích kỷ rằng: “Chỉ có tôi mới có thể trở thành bồ-tát, còn quý vị thì không bao
giờ! Các ông không thể như tôi được.”
Không những mọi người chỉ
có thể trở thành bồ-tát mà họ còn có thể trở thành Phật nữa. Tôi tin rằng mọi
người trong pháp hội này, một ngày nào đó sẽ thành Phật.
THỦ
LĂNG NGHIÊM
Thủ-lăng-nghiêm
(Śūraṃgama) là tiếng Sanskrit,
có nghĩa là “Bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ.” Tất cả mọi hiện tượng, mọi vật
thể, như núi, sông, đất đai, nhà cửa, người, vật, các loài sinh từ bào thai, từ
trứng, từ nơi ẩm thấp hoặc loài hóa sinh.[9] Tất cả những hiện tượng đều phải được thể
nghiệm qua chiều sâu và tính vững chãi mới có thể đạt được bản thể của định, bản
thể của “mật nhơn.” Khi hành giả đạt được “đại định” của “mật nhơn”, người ấy là
một bằng chứng của “liễu nghĩa.” Khi một hành giả đã đạt được liễu nghĩa, nghĩa
là hành giả ấy đã tu tập lục độ vạn hạnh của bồ-tát, đã chứng được “đại hạnh.”
Chứng được “đại hạnh” rồi sau đó mới thành tựu được loại định cứu cánh kiên cố
nhất trong các hiện tượng, đó là “đại quả”– kết quả lớn nhất trong tất cả các
kết quả.
ĐẠI
PHẬT ĐẢNH
Là đạt đến chỗ vi diệu của
bốn sự vĩ đại. Đó là nhân-nghĩa-hạnh-quả vĩ đại. Bốn loại ấy còn có thể được gọi
là Diệu nhân, Diệu nghĩa, Diệu hạnh, Diệu quả. Tuy nhiên, chữ “Diệu” không diễn
tả toàn vẹn được nghĩa này, nên chữ “Đại” được dùng để diễn tả sự to lớn của bốn
thứ ấy.
Hiện tượng kiên cố rốt ráo
nhất là đại định, không có định thì thân và tâm bị phân tán không phối hợp chặt
chẽ với nhau được. Quý vị dự tính đi về hướng Nam nhưng chân quý vị lại muốn đi
về hướng Bắc. Hoặc là quý vị muốn làm việc thiện, nhưng mình không tự chủ được
và thay vì đó là dẫn đến sự phạm pháp. Sự thiếu sót một tấm lòng thành khẩn,
thường hằng để thành tựu đạo nghiệp cũng giống như không có yếu tố
định.
Nên trong khi nghiên cứu
Kinh Thủ-lăng-nghiêm mọi người nên hết sức “chân, thành, hằng.” Quý vị phải phát
tâm nguyện: “Tôi quyết tâm học cho đến khi hiểu được cốt tủy của kinh
Thủ-lăng-nghiêm.” Quý vị không nên dừng lại nửa đường và quay về hướng khác,
không nên đánh trống giải tán buổi họp quá sớm. Đừng nên nói: “À, ta đã học quá
nhiều ngày mà chẳng hiểu gì cả. Đây là một loại rất khó học. Tôi chẳng muốn học
tí nào nữa cả.”
Với lòng thành khẩn, quý
vị sẽ học kinh trong tinh thần rất nghiêm túc và vẫn giữ gìn được tâm ý khi đang
làm bất kỳ việc gì khác. Hoàn toàn để hết tâm ý vào việc học tập nên mọi vọng
tưởng tiêu tan sạch. Phải học một cách siêng năng đến nỗi quên cả ăn, đến tối
khi nằm xuống ngủ, chẳng còn một vọng niệm nào sinh khởi lên nữa, chỉ còn những
giáo nghĩa.
Với sự thường xuyên (hằng)
quý vị không nên học vài ba ngày rồi nghỉ. Đừng có thấy rằng học Phật pháp thì
khó khăn và chán nản. Đừng có trù tính đi dạo công viên hay đến những nơi giải
trí hấp dẫn. Đừng nên bịa ra để tự bào chữa cho mình: “Chẳng có giá trị thực tế
khi học môn này cả. Nó đã quá cổ xưa trong thời đại khoa học này”, rồi bỏ học,
không có tâm hằng viễn, quý vị sẽ không có được cứu cánh kiên cố.
Tu tập với tâm nguyện
“chân-thành-hằng,” quý vị sẽ đạt được sự “kiên cố” và đạt được định lực, quý vị
sẽ không bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh nữa. Không bị ảnh hưởng, tác động bởi môi
trường chung quanh. Đây là giải thích tổng quát về đề kinh này.
Kinh: là dịch chữ Sūtra
trong tiếng Sanskrit. Người Trung Hoa dùng chữ kinh có nghĩa là khế kinh. Khế
nghĩa là trên thì khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới thì phù hợp với căn cơ
của mọi chúng sinh, để giáo hóa chúng sinh trong mọi lúc, mọi thời.
Kinh nghĩa là “con đường”,
có thể dẫn dắt người phàm phu tiến lên thành Phật. Kinh còn có bốn nghĩa:
Quán: xuyên suốt. Nghĩa lý
Đức Phật giảng trong kinh ví như một sợi chỉ hồng xuyên suốt qua chuỗi
hạt.
Nhiếp: Kinh có thể giáo
hóa thích hợp bao gồm hết mọi căn cơ. Tức là đối với mọi căn cơ chúng sinh đều
có pháp riêng biệt để giáo hóa. Nên nói “tùy căn cơ để bố thí pháp, tùy người
bệnh mà cho thuốc.”
Kinh cũng như thỏi nam
châm, mọi chúng sinh được ví như sắt vụn, đều bị hút về thỏi nam châm. Kinh
Thủ-lăng-nghiêm được ví như thỏi nam châm, nên được gọi là kiên cố. Nhưng Kinh
Thủ-lăng-nghiêm còn mạnh hơn cả thỏi nam châm. Nó có thể giúp cho con người
không bị trầm luân trở lại. Vì kinh nhiếp phục hết tất cả chúng sinh, giúp cho
họ không đọa lạc trở lại vào trong địa ngục ngạ quỷ, súc sinh. Họ bị mê mờ đến
nỗi dù muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy cũng không được. Nên kinh Phật vi diệu
biết bao! Phật tử đến đây nghe giảng kinh, một khi nghe liền được thu hút vào
niềm thích thú. Khi nghe được đoạn đầu rồi thì thích nghe cho đến đoạn cuối. Họ
tán thán: “Thật có ý nghĩa, thật là bổ ích.”
Thường: là từ xưa đến nay,
ý kinh vẫn không thay đổi không thể thêm hay bớt một chữ nào được cả. Kinh vẫn
thường hằng, không biến đổi.
Pháp: Kinh được gọi là
pháp, được chúng sinh trong cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai tôn trọng là vì
kinh chứa đựng phương pháp tu đạo chứng quả vị Phật và giáo hóa chúng
sinh.
Kinh điển Phật giáo được
trình bày qua mười hai thể loại.[10] Mười hai thể loại này đều được trình bày trong mỗi một
bộ kinh. Mỗi một bộ kinh đều có một trong mười hai thể loại này:
1. Trường hàng: Phần kinh
văn, gồm nhiều hàng rất dài nên gọi là trường hàng.
2. Trùng tụng: Phần thi
kệ, tóm lại nghĩa lý đã diễn bày trong phần trường hàng.
3. Thọ ký: Trong kinh văn,
khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với một vị bồ-tát: “Trong chừng đó kiếp, các
ông sẽ được thành Phật, huệ mạng của ông rất dài, trong quốc độ đó ông sẽ giáo
hóa vô số chúng sinh.”
Một ví dụ là Đức Phật
Nhiên Đăng đã thọ ký cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ được thành Phật. Trong đời
quá khứ, khi còn tu hành trong “nhân địa”, Đức Phật Thích-ca đã tu tập bồ-tát
đạo rất tinh nghiêm. Trong khi Ngài khẩn cầu được học tập giáo pháp, Ngài đã
“trải tóc mình phủ kín mặt đường bùn lầy.” Để làm gì? Trong một kiếp vào thời
quá khứ, khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang đi trên đường, thấy phía trước mình
cũng có một vị tỷ-khưu đang đi về phía mình. Ngài không biết đó chính là một vị
Phật. Con đường dưới chân vị tỷ-khưu đầy bùn lầy: “Nếu vị tỷ-khưu già kia đi qua
vũng bùn này ngài sẽ bị ướt sũng.” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tương lai nghĩ như
vậy. Xuất phát từ lòng kính trọng Tam bảo, nhà khổ hạnh đã trải mình nằm phủ
trên đường lầy, dùng thân như chiếc chiếu phủ trên vũng nước bùn rồi cầu thỉnh
vị tỷ-khưu già hãy bước qua thân mình mà đi. Thấy vẫn còn một khoảng đường bị
sình lầy, sợ rằng vị tỷ-khưu già phải lội qua vũng lầy ấy, Ngài xỏa tóc mình ra
rồi trải qua vũng bùn cho vị tỷ-khưu già đi qua. Không biết người tỷ-khưu già ấy
là một vị Phật.
Chứng kiến việc cúng dường
cung kính như vậy, Đức cổ Phật Nhiên Đăng hài lòng vô cùng. Ngài nói: “Như thị,
Như thị.” Chữ “Như thị” thứ nhất có nghĩa là : “Ông đã làm việc cúng dường bằng
cách đem thân trải con đường bùn lầy để cho tôi bước đi. Chữ “Như thị” thứ hai
có nghĩa: “Trong quá khứ, tôi cũng đã từng làm như thế, tôi cũng đã từng tu hạnh
bồ-tát, nay ông làm như vậy.”
Rồi Đức Phật Nhiên Đăng[11] thọ ký cho Ngài:
“Vào đời tương lai, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Tại sao Đức Phật
Nhiên Đăng thọ ký như vậy? Vì Ngài xúc động với lòng chân thành của Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni tương lai. Dù Đức Phật Nhiên Đăng thường ít để ý đến chuyện của
người khác, nhưng Ngài đã đặc biệt chú ý đến hành vi cung kính này và thọ ký cho
Ngài sẽ thành Phật.
4. Nhân duyên: do có nhiều
nhân duyên nên Đức Phật giảng giải bằng nhiều loại pháp khác nhau.
5. Thí dụ: những thí dụ
được dùng để minh họa cho tính chất vi diệu của Phật pháp.
6. Bổn sự: Phần này nói
đến những công hạnh trong kiếp trước của chư Phật và các vị Bồ -tát.
7. Bổn sinh: ghi chép
những công hạnh của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong kiếp này hay công hạnh của
những vị Bồ-tát.
8. Phương quảng: phương là
bốn phương, quảng là lớn rộng, biểu thị cho Phật pháp vô cùng rộng lớn và tinh
thâm vi diệu.
9. Vị tằng hữu: phần kinh
văn đề cập đến những việc chưa từng được nói đến từ trước tới nay.
10. Tự thuyết : không cần
có sự cầu thỉnh, mà Đức Phật tự phóng quang làm chấn động thế giới rồi giảng nói
kinh pháp.
11. Cô khởi: còn gọi là
phúng tụng. Đây là phần kệ mà ý nghĩa không có sự liên tục với nhau giữa đoạn
đầu và đoạn giữa cùng đoạn cuối.
12. Luận nghị: phần kinh
đề cập đến việc nghiên cứu bàn luận về sự sâu mầu của Phật pháp.
Có bài kệ tóm tắt mười hai
thể loại như sau:
Trường hàng, trùng tụng
tinh thọ ký
Cô khởi, vô vấn nhi tự
thuyết.
Nhân duyên thí dụ cập bổn
sự.
Bổn sinh phương quảng vị
tằng hữu.
Luận nghị cọng thành thập
nhị bộ.
Mỗi bộ kinh đều có đủ mười
hai thể loại này. Điều này không phải có nghĩa là kinh tạng Phật giáo chỉ có
mười hai bộ, nhưng mỗi phần trong kinh văn đều có đủ, hoặc có ít nhất là một
trong mười hai thể loại này.
1 Nguyên văn: Nhất thiết chúng sinh câu hữu Như Lai đức tướng trí huệ, đản dĩ vọng tưởng chấp trước bất năng chứng đắc
[1] S: pratyeka-buddha. Còn gọi Duyên
giác, Độc giác , Cụ-chi-ca, Bích chi.
[2] nguyên văn : six-foot
high.
[3] s:
Uṣṇīṣaṃ: phiên âm là
sắc-ni-sam 色 尼 釤. Hán dịch là nhục kế 肉髻, vô kiến đảnh tướng 無見頂相, đảnh cổ 頂股.
Là đảnh cốt, tức phần xương trên đỉnh đầu Đức Phật nổi cao tròn khác thường (to
bằng vành chén trà). Trong những thời pháp đặc biệt, Đức Phật thường phóng hào
quang ở vị trí nầy để biểu hiện thần lực vi diệu, đây là 1 trong 32 tướng tốt
của các Đức Phật.
Trong Tự điển Practical S.E.D của
V.S.Apte đã dịch ra Anh ngữ:
- Anything wound round the
head (một vật thể tròn trên đầu).
- A distinguishing mark
(dấu hiệu nổi bật).
-A characteric mark of hair
on the head of a Buddha which indicates his future sanctity (dấu hiệu đặc
biệt trên đầu tóc Đức Phật, cho biết địa vị tôn quý của Ngài trong tương lai).
[6] Có nơi tách Thiện thệ thế gian giải thành 2, và ghép Phật, Thế tôn làm
1 để có 10 danh hiệu. Có nơi ghép Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu làm 1 và
tách Phật, Thế Tôn thành hai để có 10 danh hiệu.
[7] Đề hồ : Một trong năm món chế từ
sữa. Là món ăn, vị thuốc tốt nhất. (Sữa, lạc, sinh tô, thục tô, đề hồ).
Tông Thiên Thai gọi Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết-bàn quý báu như đề hồ.
[8] Hoàng Bá Hy Vận (?-850), Thiền sư
Trung Hoa.
[9] Tứ sinh : thai sinh, noãn sinh,
thấp sinh, hóa sinh.
[10] Thường gọi là Thập nhị bộ
kinh
[11] S: Dipaṃkara.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Đường Vào Nội Tâm – Giữ Gìn Cây Pháp.
Phỏng thuật theo Kinh Tăng Chi Bộ)
Khi đức Thế tôn ở núi Linh Thứu thành Vương Xá, có tôn giả Dhammikà, sau khi lang thang hết chỗ này tới chỗ khác qua bảy trú xứ mà không nơi nào chấp nhận, cuối cùng lần mò về chỗ Phật. Nguyên do là vì, tôn giả đi đến đâu cũng gây sự với các tỳ kheo ở đó, khiến họ không chịu nổi, bỏ đi. Các cư sĩ biết chuyện, đến mời Tôn giả đi chỗ khác. Thế là cuối cùng Tôn giả về thành Vương Xá yết kiến Phật. Ngài hỏi:
- Này Dhammikà, sao ngươi trở về đó?
- Bạch Thế tôn, con bị các cư sĩ tại các trú xứ mời đi chỗ khác.
- Thế đấy! Ngươi cũng chẳng hề gì cả, vì còn ta đây để cho ngươi quay về. Phải ngươi nghĩ vậy không?
Tôn giả cúi đầu im lặng. Ðức Thế tôn lại bảo:
- Thuở xưa, này Dhammika, các nhà buôn đi biển thường mang theo một con chim. Khi tàu ra khơi, không trông thấy bờ bến, muốn biết có hòn đảo nào gần để ghé tàu, người ta thả con chim ra. Nó bay đi tứ phía, nếu không có chỗ nào đậu, không gặp bờ bến, thì nó trở lui về tàu. Nay nhà ngươi cũng vậy đó, Dhammika.
Tôn giả đứng im lặng, Thế tôn lại tiếp:
- Thuở xưa, này Dhammika, có một cây bàng chúa to lớn, chịu đầy trái ngon ngọt. Vua và các cung nữ hưởng thụ một cành, quân đội hưởng thụ một cành, dân chúng một cành, các sa môn, bà la môn một cành, thú rừng và chim chóc một cành. Một hôm có người đến ăn trái no bụng xong, bẻ gãy một cành rồi bỏ đi. Khi ấy vị thần trú nơi cây bàng nói với cây rằng: “Thưa tôn giả, loài người thật là ác độc, đã ăn no rồi còn bẽ gãy cành. Tôn giả đừng có sinh trái nữa.” Cây bàng chúa nghe lời, năm sau không thèm sinh trái nữa. Khi thấy cây không còn sinh quả, vua bèn yêu cầu trời Ðế thích triệt hạ cây bàng chúa. Ðế thích liền ra lệnh cho Thiên lôi nổi sấm sét bật tung gốc rễ cây bàng lên, làm cho nó ngã nằm sóng soài ra giữa đất. Vị thần cây mất chỗ trú ngụ, đứng khóc lóc nước mắt đầy mặt, làm cho trời Ðế thích ngạc nhiên hỏi: “Này thần cây, sao ngươi sầu muộn thế?” Thần cây đáp: “Thưa tôn giả, có cơn mưa to gió lớn nổi lên, làm cho trú xứ của con, cây bàng chúa này, bị ngã xuống trốc gốc.”
Ðế thích hỏi: “Này thần cây, ngươi có giữ gìn cây này, để cho nó sống đúng như pháp không?” Thần hỏi: “Thế nghĩa là gì, thưa Tôn giả?” Ðế thích nói: “Nghĩa là ngươi phải nghĩ, với cái cây này, người cần rễ đến lấy rễ, người cần lá đến lấy lá, cần hoa lấy hoa, cần trái lấy trái. Như vậy không có gì dính dấp đến vị thần cây, khiến cho vị ấy không hoan hỉ. Thế là giữ gìn Pháp của cây.”
Thần cây nói: “Thưa Tôn giả, con sẽ giữ gìn cây ấy theo pháp của cây. Mong rằng trú xứ của con trở lại như xưa.” Rồi Ðế thích vấn thần thông làm cho cây bàng chúa dựng đứng trở lại.
Cũng thế, này Dhammika, nhà ngươi có giữ gìn pháp của sa môn, khi các cư sĩ mời ngươi đi chỗ khác hay không?
- Nhưng bạch Thế tôn, thế nào là giữ pháp của sa môn?
- Này Dhammika, sa môn không mắng nhiếc lại người đã mắng nhiếc mình, không tức giận người đã tức giận mình, không khiển trách người đã khiển trách mình. Như vậy là giữ gìn pháp sa môn.
- Bạch Thế tôn, con không giữ gìn sa môn pháp, khi các cư sĩ mời con đi nơi khác.
- Vậy, này Dhammika, từ nay về sau, ngươi cần phải học tập pháp sa môn.
- Thưa vâng, bạch Thế tôn.
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY.29/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Khi đức Thế tôn ở núi Linh Thứu thành Vương Xá, có tôn giả Dhammikà, sau khi lang thang hết chỗ này tới chỗ khác qua bảy trú xứ mà không nơi nào chấp nhận, cuối cùng lần mò về chỗ Phật. Nguyên do là vì, tôn giả đi đến đâu cũng gây sự với các tỳ kheo ở đó, khiến họ không chịu nổi, bỏ đi. Các cư sĩ biết chuyện, đến mời Tôn giả đi chỗ khác. Thế là cuối cùng Tôn giả về thành Vương Xá yết kiến Phật. Ngài hỏi:
- Này Dhammikà, sao ngươi trở về đó?
- Bạch Thế tôn, con bị các cư sĩ tại các trú xứ mời đi chỗ khác.
- Thế đấy! Ngươi cũng chẳng hề gì cả, vì còn ta đây để cho ngươi quay về. Phải ngươi nghĩ vậy không?
Tôn giả cúi đầu im lặng. Ðức Thế tôn lại bảo:
- Thuở xưa, này Dhammika, các nhà buôn đi biển thường mang theo một con chim. Khi tàu ra khơi, không trông thấy bờ bến, muốn biết có hòn đảo nào gần để ghé tàu, người ta thả con chim ra. Nó bay đi tứ phía, nếu không có chỗ nào đậu, không gặp bờ bến, thì nó trở lui về tàu. Nay nhà ngươi cũng vậy đó, Dhammika.
Tôn giả đứng im lặng, Thế tôn lại tiếp:
- Thuở xưa, này Dhammika, có một cây bàng chúa to lớn, chịu đầy trái ngon ngọt. Vua và các cung nữ hưởng thụ một cành, quân đội hưởng thụ một cành, dân chúng một cành, các sa môn, bà la môn một cành, thú rừng và chim chóc một cành. Một hôm có người đến ăn trái no bụng xong, bẻ gãy một cành rồi bỏ đi. Khi ấy vị thần trú nơi cây bàng nói với cây rằng: “Thưa tôn giả, loài người thật là ác độc, đã ăn no rồi còn bẽ gãy cành. Tôn giả đừng có sinh trái nữa.” Cây bàng chúa nghe lời, năm sau không thèm sinh trái nữa. Khi thấy cây không còn sinh quả, vua bèn yêu cầu trời Ðế thích triệt hạ cây bàng chúa. Ðế thích liền ra lệnh cho Thiên lôi nổi sấm sét bật tung gốc rễ cây bàng lên, làm cho nó ngã nằm sóng soài ra giữa đất. Vị thần cây mất chỗ trú ngụ, đứng khóc lóc nước mắt đầy mặt, làm cho trời Ðế thích ngạc nhiên hỏi: “Này thần cây, sao ngươi sầu muộn thế?” Thần cây đáp: “Thưa tôn giả, có cơn mưa to gió lớn nổi lên, làm cho trú xứ của con, cây bàng chúa này, bị ngã xuống trốc gốc.”
Ðế thích hỏi: “Này thần cây, ngươi có giữ gìn cây này, để cho nó sống đúng như pháp không?” Thần hỏi: “Thế nghĩa là gì, thưa Tôn giả?” Ðế thích nói: “Nghĩa là ngươi phải nghĩ, với cái cây này, người cần rễ đến lấy rễ, người cần lá đến lấy lá, cần hoa lấy hoa, cần trái lấy trái. Như vậy không có gì dính dấp đến vị thần cây, khiến cho vị ấy không hoan hỉ. Thế là giữ gìn Pháp của cây.”
Thần cây nói: “Thưa Tôn giả, con sẽ giữ gìn cây ấy theo pháp của cây. Mong rằng trú xứ của con trở lại như xưa.” Rồi Ðế thích vấn thần thông làm cho cây bàng chúa dựng đứng trở lại.
Cũng thế, này Dhammika, nhà ngươi có giữ gìn pháp của sa môn, khi các cư sĩ mời ngươi đi chỗ khác hay không?
- Nhưng bạch Thế tôn, thế nào là giữ pháp của sa môn?
- Này Dhammika, sa môn không mắng nhiếc lại người đã mắng nhiếc mình, không tức giận người đã tức giận mình, không khiển trách người đã khiển trách mình. Như vậy là giữ gìn pháp sa môn.
- Bạch Thế tôn, con không giữ gìn sa môn pháp, khi các cư sĩ mời con đi nơi khác.
- Vậy, này Dhammika, từ nay về sau, ngươi cần phải học tập pháp sa môn.
- Thưa vâng, bạch Thế tôn.
Wednesday, 28 November 2012
Index of /kinh/Ebooks/Giang-Kinh/Kinh-Niet-Ban
Monday, 26 November 2012
LỜI DỊCH
GIẢ
Kinh Thủ Lăng Nghiêm này được dịch từ
tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời nhà Đường Trung Quốc, do Sa môn Aán Độ BẤT LA
MẬT ĐẾ dịch nghĩa, Sa môn DI GIÀ THÍCH CA người nước U Trường dịch lời, Quan
Chánh Nhị Đại Phu nhà Đường PHÒNG DUNG chấp bút.
Tiếng Hán có văn ngôn
và bạch thoại: văn ngôn đời xưa quá súc tích, thường hay có ý mà chẳng có lời.
Người xưa nói: "đọc chỗ chẳng có chữ" là vậy. Chúng tôi gặp những trường hợp này
thì thêm lời vào để sáng tỏ ý nghĩa ẩn trong văn. Những danh từ tiếng Hán mà
tiếng Việt ít dùng, lại không thể dịch ra tiếng Việt thì chúng tôi ghi chu,ù còn
những nghĩa lý thâm sâu khó hiểu thì chúng tôi lược giải thêm.
Chúng tôi muốn tránh
chỗ tối nghĩa, để cho người đọc dễ hiểu, nên chẳng chú ý đến sự trau chuốt lời
văn, xin độc giả từ bi hoan hỉ cho. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
QUYỂN MƯỜI
IV - MA HÀNH ẤM
- A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được Tưởng Ấm, những mộng
tưởng bình thường tiêu sạch, thức, ngủ thường như một, chẳng còn đuổi theo cảnh
trần, cái giác minh vắng lặng như hư không, thấy các núi sông, đất đai của thế
gian như bóng hiện trong gương, tùy duyên chiếu soi, ở đi đều chẳng dính mắc,
biết hết các tập khí xưa, cái nguồn gốc của sanh diệt từ đây được hiển lộ, thấy
khắp 12 loại chúng sanh trong mười phương, dù chưa thông suốt manh mối của từng
loại, nhưng đều từ một nguồn gốc phát sanh ra, giống như bụi trần lăng xăng, ấy
là chỗ căn cứ địa của ngũ căn, đây gọi là phạm vi của Hành Ấm. Nhưng tánh của
Hành Ấm vốn chẳng lăng xăng, sở dĩ lưu chuyển chẳng ngừng là do tập khí của
nhiều kiếp, nếu tánh ấy trở về vắng lặng, tập khí dứt sạch, tướng lưu chuyển
hết, như làn sóng lặng trở về nước yên, gọi là Hành Ấm hết, thì lúc ấy được siêu
việt Chúng Sanh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi U-Ẩn Vọng Tưởng (l)
làm gốc (Hành Ấm lưu chuyển vi tế, động mà chẳng động nên gọi là U-ẩn).
l. A Nan nên biết! Trong lúc thiền định, khi được chánh tri, chánh
tâm sáng suốt, mười loại thiên ma chẳng còn được dịp quấy phá, mới được truy cứu
cùng tột cội gốc sanh diệt của các loài. Quán xét cái cội gốc đó mà khởi tâm so
đo, thì người ấy bị đọa vào hai loại Vô Nhân Luận:
a. Thấy sự bắt đầu vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã dứt được
tưởng sanh diệt, nhờ 800 công đức của Nhãn căn, thấy được tất cả chúng sanh từ 8
vạn kiếp, theo nghiệp xoay vòng, chết đây sống đó, luân chuyển không ngừng, còn
ngoài 8 vạn kiếp thì mịt mù chẳng thể thấy được, bèn cho là từ 8 vạn kiếp đến
nay, mười phương chúng sanh trên thế giới vô nhân mà tự có. Do so đo này, tự làm
mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
b. Thấy sự cuối cùng vô nhân. Tại sao vậy? Người ấy đã biết được
căn bản của sự sanh, như người sanh người, chim sanh chim, xưa nay con quạ vẫn
đen, con cò vẫn trắng, trời người vẫn đứng thẳng, thú vật vẫn đứng ngang, trắng
chẳng do tẩy mà thành, đen chẳng do nhuộm mà nên, từ 8 vạn kiếp nay vẫn không
dời đổi, nay đến tận hết hình thể này cũng vẫn như thế. Bổn lai của ta chẳng
thấy Bồ Đề thì làm sao lại có sự tu thành Bồ Đề! Vì mê lầm cho tất cả sự vật đều
vốn vô nhân, do so đo này, tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm
tánh Bồ Đề.
- Ấy gọi là ngoại đạo thứ nhất lập Vô Nhân Luận.
2. Trong lúc thiền định, chánh tâm sáng suốt, ma chẳng được dịp
quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, thấy luôn luôn như vậy chẳng
biến đổi, ngay nơi đó khởi tâm so đo, chấp đó là thường, thì người ấy bị đọa vào
bốn thứ Chấp Thường Luận:
a. Người ấy xét thấy cùng tột bản tánh của tâm và cảnh, hai nơi
đều không có nhân, do tu tập biết được tất cả sự sanh diệt của mười phương chúng
sanh, từ hai vạn kiếp đến nay vẫn lưu chuyển không hề tan mất, bèn chấp cho là
thường.
b. Người ấy xét cùng tột cội gốc của tứ đại, bốn thứ tánh ấy
thường trụ, do tu tập biết được tất cả. Sự sanh diệt của mười phương chúng sanh,
từ bốn vạn kiếp đến nay cái thể vẫn thường còn, không hề tan mất, bèn chấp cho
là thường.
c. Người ấy xét cùng tột cội gốc của lục căn, theo tánh chấp thụ
của thức thứ bẩy, trong tâm-ý-thức, chỗ nguồn gốc căn bản, tánh thường như vậy.
Do tu tập biết được tất cả chúng sanh từ tám vạn kiếp này, dù có luân hồi, vốn
là thường trụ, cuối cùng chẳng mất bản tánh, nên chấp cho là thường.
d. Người ấy đã dứt được tưởng ấm chẳng còn cái tưởng sanh diệt cho
là tâm sanh diệt, nay đã vĩnh diệt, tự nhiên thành chẳng sanh diệt, vì tâm so đo
nên chấp cho là thường.
- Do so đo này, tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê
lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ hai lập Viên Thường Luận.
3. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, khởi tâm so đo giữa ta và người,
người ấy bị đọa vào bốn thứ kiến chấp điên đảo, một phần vô thường, một phần
chấp thường luận:
a. Người ấy quán tâm diệu minh khắp cõi mười phương cho là thần
ngã chơn thật, từ đó sanh chấp, cho ta cùng khắp mười phương, trạm nhiên sáng
suốt chẳng động, tất cả chúng sanh ở nơi tâm ta tự sanh tự diệt, vậy thì tâm
tánh ta là thường, còn sự sanh diệt ấy là chơn vô thường.
b. Người ấy chẳng quán tự tâm mà quán khắp mười phương hằng sa
quốc độ, thấy chỗ kiếp hoại (từ cõi tam thiền trở xuống) thì gọi là chủng tánh
chơn vô thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại được (từ cõi tứ thiền trở lên, kiếp hoại
chẳng đến được) thì gọi là chơn thường.
c. Người ấy chỉ quán riêng tâm mình, thấy tinh mật vi tế như vi
trần, lưu chuyển mười phương, khiến thân này liền sanh liền diệt mà tâm tánh
chẳng dời đổi, ngã tánh chẳng hoại, gọi ta là tánh thường, sanh tử của tất cả
chúng sanh từ ta mà ra thì gọi là tánh vô thường.
d. Người ấy đã dứt được Tưởng Ấm, thấy hành ấm lưu chuyển thường
xuyên, gọi là tánh thường: sắc, thọ, tưởng ba ấm nay đã diệt hết thì gọi là vô
thường.
- Do so đo này, một phần vô thường, một phần là thường, nên bị lạc
vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ ba lập Một Phần Thường
Luận.
4. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong phân vị (2) khởi tâm so đo,
người ấy bị đọa vào bốn thứ Hữu Biên Luận:
a. Người ấy trong tâm so đo cái gốc sanh lưu chuyển chẳng ngừng,
chấp quá khứ vị lai gọi là hữu biên, chấp tâm tương tục gọi là vô biên.
b. Người ấy quán từ tám vạn kiếp đến nay thì thấy có chúng sanh,
từ tám vạn kiếp trở về trước thì chẳng thấy chẳng nghe, bèn cho chỗ chẳng thể
thấy nghe ấy gọi là vô biên, chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.
c. Người ấy chấp rằng ta biết cùng khắp, được tánh vô biên; tất cả
mọi người đang trong cái hay biết của ta, mà ta chẳng từng biết cái tánh biết
của họ, ấy gọi là họ chẳng được cái tâm vô biên, chỉ được tánh hữu biên
thôi.
d. Người ấy quán đến cùng tột Hành Ấm rỗng không, so đo trong tâm
cái sở thấy của mình, cho là ở trong một thân của tất cả chúng sanh đều là phân
nửa sanh phân nửa diệt, cho đến tất cả hiện hữu trong thế giới này cũng đều phân
nửa hữu biên, phân nửa vô biên.
- Do so đo này, hữu biên vô biên, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh
Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ tư lập Hữu Biên Luận.
5. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi tri kiến khởi tâm so đo,
người ấy bị đọa vào bốn thứ: điên đảo, bất tử, càn loạn, biến kế hư luận:
a. Người ấy quán xét cội gốc của sự biến hóa thấy chỗ lưu chuyển
thì gọi là biến, thấy chỗ nối nhau thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được thì gọi
là sanh, thấy chỗ chẳng thấy được thì gọi là diệt, cái nhân nối nhau chẳng gián
đoạn thì gọi là thêm, khi đang nối nhau, ở giữa có chỗ gián đoạn thì gọi là bớt,
chỗ sanh của mọi vật thì gọi là hữu, chỗ diệt của mọi vật thì gọi là vô; dùng lý
quán xét thì thấy đồng, dùng tâm thì thấy khác. Có người đến cầu pháp hỏi nghĩa
thì đáp: "ta nay cũng sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng thêm cũng bớt",
bất cứ lúc nào đều nói đảo loạn như thế, khiến người nghe rồi cũng như không
nghe.
b. Người ấy quán xét tâm họ đến chỗ Vô, vì vậy nên chẳng có chứng
đắc, hễ có người đến hỏi chỉ đáp một chữ "Vô", ngoài ra không nói gì cả.
c. Người ấy quán xét tâm họ đến chỗ Hữu, vì vậy mà có sự chứng
đắc, hễ có người đến hỏi thì chỉ đáp một chữ "Hữu", ngoài ra không nói gì
cả.
d. Người ấy hữu vô cùng thấy, do cảnh rời rạc nên tâm cũng bị rối
loạn, hễ có người đến hỏi thì đáp: "Cũng có tức là cũng không, ở trong cũng
không, chẳng phải cũng có". Tất cả càn loạn, chẳng thể hỏi ra kết quả.
- Do so đo này, hư vô càn loạn, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ
Đề, đây gọi là ngoại đạo thứ năm chấp bốn thứ Điên Đảo, Bất Tử, Càn Loạn, Biến
Kế Hư Luận.
6. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong dòng sanh diệt vô tận khởi
tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết có tướng:
hoặc tự giữ cái sắc thân, cho sắc thân là ta; hoặc thấy ta bao trùm khắp các cõi
nước, thì cho ta có sắc; hoặc thấy duyên cảnh xưa theo ta luân hồi thì cho sắc
thuộc về ta; hoặc thấy cái ta nương theo hành ấm mà tương tục, thì cho ta ở nơi
sắc, xoay chuyển như vậy thành mười sáu tướng, từ đó sanh ra cái chấp "có phiền
não thật", và "Bồ Đề thật", hai tánh ấy đi song song mà chẳng đụng chạm nhau, do
so đo này, chấp sau khi chết có tướng, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy
gọi là ngoại đạo thứ sáu trong ngũ ấm chấp sau khi chết có tướng, lập Tâm Điên
Đảo Luận.
7. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá. Quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong những chỗ sắc, thọ, tưởng,
đã diệt từ trước, khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp
sau khi chết chẳng tướng. Thấy Sắc Diệt rồi thì hình thể chẳng có nhân, thấy
tưởng diệt rồi thì tâm chẳng bó buộc, thấy thọ diệt rồi thì chẳng còn chỗ nối
liền, tánh ấm tiêu tan, dẫu có sự sanh mà chẳng có thọ, tưởng, đồng như cây cỏ,
cái thể chất hiện hữu này còn bất khả đắc, huống chi chết rồi thì đâu còn hình
tướng nào! Theo đó suy lường, xoay chuyển thành tám thứ vô tướng, cho rằng nhân
quả, Niết Bàn, tất cả đều không, chỉ có danh tự, cuối cùng đoạn diệt. Do so đo
này, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ bảy trong ngũ
ấm chấp sau khi chết chẳng tướng,lập Tâm Điên Đảo Luận.
8. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá. Quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong chỗ hành ấm còn mà thọ tưởng
đã diệt, cho "Có, Không" đồng thời cùng hiện nên tự thể phá nhau, người ấy bị
đọa vào điên đảo luận, chấp sau khi chết chẳng phải "Có" cũng chẳng phải
"Không", trong sắc, thọ, tưởng, thấy có chẳng phải là có, nơi hành ấm lưu
chuyển, thấy không chẳng phải là không, xoay chuyển như vậy cùng tận ấm giới,
thành tám thứ tướng "chẳng phải có chẳng phải không", dù gặp một duyên nào đều
nói sau khi chết cũng có tướng cũng không tướng. Lại chấp hành ấm tánh hay thay
đổi, tâm phát thông ngộ, thấy "Có, Không" đều chẳng phải, hư và thật đều không
chỗ căn cứ, do so đo này, làm cho mịt mù chẳng thể nói được, lạc vào ngoại đạo,
mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ tám trong ngũ ấm chấp sau khi chết
chẳng có cũng chẳng không, lập Tâm Điên Đảo Luận.
9. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy
phá. Quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu-Hậu-Vô (3) khởi tâm so
đo, người ấy bị đọa vào bảy thứ Đoạn Diệt Luận: hoặc chấp cái thân diệt, hoặc
dục tận diệt, hoặc khổ tận diệt, hoặc cực lạc diệt, hoặc cực xả diệt, xoay
chuyển như thế tận cùng bảy nơi, cái thân hiện tiền khi tiêu diệt rồi chẳng còn
sanh nữa, do so đo này, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại
đạo thứ chín trong ngũ ấm chấp sau khi chết đoạn diệt, lập Tâm Điên Đảo
Luận.
10. Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp
quấy phá. Quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu Hậu Hữu (4) khởi
tâm so đo, người ấy bị đọa vào năm thứ Niết Bàn Luận: hoặc nhận dục giới là nơi
Chánh Chuyển Y, vì thấy cảnh viên minh nên tâm sanh ái mộ, hoặc nhận sơ thiền vì
tánh không còn lo, hoặc nhận nhị thiền, vì tâm không còn khổ, hoặc nhận tam
thiền, vì rất vui đẹp, hoặc nhận tứ thiền vì khổ vui đều mất, chẳng bị luân hồi
sanh diệt vậy. Mê lầm cõi trời hữu lậu cho là quả vô vi, năm nơi an ổn ấy là nơi
Thắng Tịnh Y, xoay chuyển ở năm chỗ này, cho là cứu cánh, do so đo này, lạc vào
ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ mười trong ngũ ấm chấp năm
thứ Niết Bàn, lập Tâm Điên Đảo Luận.
- A Nan! Mười thứ thiền định cuồng giải trên đều do Hành Ấm và
dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp
nhân duyên này, mà chẳng tự biết, nhận sự mê lầm cho là giải thoát, tự nói chứng
thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A-Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập diệt, nơi thời mạt pháp, các ngươi phải
theo lời dạy bảo như trên khai thị khắp tất cả chúng sanh, khiến đều tỏ ngộ
nghĩa này, chớ cho tâm ma tự khởi nghiệp chướng, hộ trì cho họ dứt bỏ tà kiến,
khiến thân tâm được mở mang, giác ngộ nghĩa chơn thật, thành Vô Thượng Đạo,
chẳng bị lạc đường, chẳng được ít cho là đủ, làm bia chỉ đường giải thoát của
Phật.
V. MA THỨC ẤM
- A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, các tính sanh
diệt lăng xăng chuyển động của thế gian bỗng được tan rã, các nghiệp báo luân
hồi, sự cảm ứng vi tế như chỉ tơ gần được đoạn dứt, sắp được minh ngộ nơi cõi
Niết Bàn, như gà gáy lần chót, trời bắt đầu rạng đông. Lục căn hư tịnh, chẳng
còn giong ruổi cảnh trần, trong ngoài trạm nhiên sáng suốt, cho đến nhập vô sở
nhập: thấu suốt cội gốc thọ mạng của 12 loại chúng sanh trong mười phương, chấp
vào cái cội gốc đó, các loài chẳng đến với nhau, mà ở nơi mười phương đều đồng
một cội gốc, sự phát hiện chỗ ẩn bí đó, như trời gần sáng mà chưa sáng, rạng
đông kéo dài, đây gọi là phạm vi của Thức Ấm. Nếu ở chỗ đồng ấy, nhờ sức thiền
định mài giũa lục căn, đến thấy nghe thông nhau, sự dụng của lục căn muốn hợp
hay tách ra đều được tự do thành tựu, trong ngoài sáng suốt như lưu ly, gọi là
thức ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Mệnh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là
do bởi Võng Tượng (mường tượng) Hư Vô, Điên Đảo Vọng Tưởng (5) làm gốc.
l. A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được hành ấm, trở về chỗ
cội gốc của Thức Ấm, sanh diệt đã diệt mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được
viên thông, có thể khiến lục căn thông dụng lẫn nhau, cũng thông với cái giác
tri của các loài trong mười phương, do sự thông dụng ấy mới được đi vào chỗ cội
gốc của Thức Ấm. Nếu ở chỗ trở về mà lập cái nhân Chơn Thường, sanh tâm thù
thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Năng nhân, sở nhân", làm bạn với bọn ngoại đạo
tóc vàng, nhận chỗ "căn bản của vô minh" làm nơi sở quy, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc
mất tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm sở đắc, thành cái quả sở quy, trái xa
viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống ngoại đạo thứ nhất.
2. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở chỗ cội gốc của thức
Ấm, ôm làm tự thể của mình, cho tất cả 12 loại chúng sanh khắp hư không đều phát
xuất từ thân ta, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Năng phi năng"
(6), làm bạn với bọn ma dân hay hiện thân vô biên ở cõi Sắc giới, mê lầm tánh Bồ
Đề, lạc mất tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm năng vi, thành cái quả năng sự,
trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh Đại Mạn Thiên, thành giống chấp ngã
thiên viên thứ hai (thiên viên chưa được viên thông, chỉ có một nửa).
3. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi cội gốc của thức
ấm khởi tâm nương tựa, tự nghi thân tâm mình từ đó mà ra, mười phương hư không
đều từ đó sanh khởi, bèn nhận chỗ đó là cái thể chơn thường, là nơi chẳng sanh
diệt. Ở chỗ sanh diệt chấp là thường trụ, chẳng những chẳng thấy tánh chơn bất
sanh diệt, mà còn nhận lầm tánh sanh diệt hiện tại, an trụ tại chỗ mê lầm này,
sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "thường phi thường", làm bạn với bọn
ở cõi trời Tự Tại Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập
cái tâm nhân y (cái nhân nương tựa) thành cái quả vọng kế (vọng chấp thường
trụ), trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn thành giống điên đảo viên thông thứ
ba (nói viên thông mà chưa được viên thông).
4. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến lập
tri giải, cho các loài cây cỏ mười phương đều gọi là hữu tình, với người chẳng
khác; cây cỏ làm người, người chết rồi lại thành cây cỏ, cho đến loài vô tình
đều có sự giác tri, hữu tình vô tình chẳng có phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì
bị đọa vào cái chấp "Tri vô tri", làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và Tiện
Ni, chấp tất cả đều có sự giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy
gọi là lập cái tâm viên tri, thành cái quả hư vọng, trái xa viên thông, ngược
đạo Niết Bàn, thành giống Điên Đảo Tri thứ tư.
5. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi lục căn dung
thông lẫn nhau đã được tùy thuận vô ngại, rồi nương theo viên dung này, cho là
tứ đại hay biến hóa tất cả, nên từ nơi tứ đại ham cầu tánh sáng suốt của hỏa;
thích tánh trong sạch của thủy; ưa tánh chu lưu của phong, quán tánh thành tựu
của trần, mỗi mỗi đều tôn sùng, lấy các trần ấy nhận làm bản nhân, chấp cho là
thường trụ, thì bị đọa vào cái chấp "Sanh vô Sanh", làm bạn với bọn ngoại đạo Ca
Diếp Ba và Bà La Môn, siêng tâm ép xác, thờ lửa thờ nước để cầu được ra khỏi
sanh tử, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước, thờ
phụng, mê tâm theo vật, lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng mong, trái xa
viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống của tạo hóa điên đảo thứ năm.
6. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở trong viên minh chấp
là hư vô, bác bỏ các sự tạo hóa, lấy cái vĩnh diệt làm chỗ quy y, sanh tâm thắng
giải, thì bị đọa vào cái chấp "Quy vô quy" (cho vô quy là Quy), làm bạn với bọn
Thuấn Nhã Đa (thần hư không) ở cõi Vô Tưởng Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất
tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp cái tâm hư vô thành quả Không Vong, trái xa viên
thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống đoạn diệt thứ sáu.
7. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi viên thường sanh
lòng củng cố cái thân này, cho là thường trụ đồng với tánh ấy, mãi không tiêu
diệt, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp "Tham phi tham" (7), làm bạn
với bọn A Tư Đà (chẳng ai bằng), tham cầu trường thọ, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất
tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước mạng căn, lập cái nhân cố vọng (kiên cố cái
vọng thân), cầu quả thường trụ, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành
giống vọng diên thứ bảy (vọng diên: vọng muốn kéo dài).
8. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, xét thức ấm là mạng căn của
các loài dung thông lẫn nhau, bỗng sợ tiêu diệt, muốn giữ lại trần lao, bèn ở
chỗ đó ngồi cung liên hoa, hóa ra rất nhiều châu báu và mỹ nữ, buông lung tâm
mình, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp "chơn vô chơn" (cho vô chơn
là chơn), làm bạn với cõi Tha Hóa Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến
Phật. Ấy gọi là phát cái nhân tà tưởng, lập quả trần lao hưng thịnh, trái xa
viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống thiên ma thứ tám.
9. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông. Ở trong nguồn gốc của thức
ấm, khởi tâm phân biệt tinh, thô, chơn, ngụy, nhân quả trả nhau, chỉ cầu sự cảm
ứng, trái ngược đạo thanh tịnh, chấp cái khổ, tập, diệt, đạo của Tứ Thánh Đế,
cho là đến chỗ diệt rồi là xong, chẳng cầu tiến thêm, sanh tâm thắng giải, thì
bị đọa vào định tánh Thanh Văn, làm bạn với kẻ tăng thượng mạn như Tỳ Kheo Vô
Văn, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm cảm ứng
tinh vi, thành quả tịch diệt, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành
giống Triền Không thứ chín (Triền Không: bị ràng buộc ở chỗ Không).
10. Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt,
mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, ở nơi tánh giác minh, viên
dung thanh tịnh, truy cứu sự thâm diệu, bèn chấp đó là Niết Bàn, chẳng cầu tiến
thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào định tánh Bích Chi, làm bạn với những
người Duyên Giác và Độc Giác, chẳng biết hồi tâm hướng về Đại Thừa, mê lầm tánh
Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm âm thầm hợp với viên giác
(8), thành cái quả trạm minh, trái xa viên-thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh cái
giác viên minh, thành giống Bất Hóa Viên thứ mười (Bất Hóa Viên: chấp vào nơi
viên mà chẳng thế hóa giải được).
- A Nan! Mười thứ cảnh giới thiền định trên, giữa chừng thành
điên, là do nương theo mê hoặc, ở nơi chưa cứu cánh chấp cho là đủ, ấy đều do
thức ấm với dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự
xét kỹ, gặp nhân duyên này hiện tiền, mỗi mỗi đều dùng tâm mê chấp những tập
quán ưa thích cũ của mình, cho là cứu cánh mà ngừng nghỉ tại đó, tự nói đã đầy
đủ đạo Vô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ, lạc vào tà ma ngoại đạo, khi hết
nghiệp báo chiêu cảm, bị đọa ngục A Tỳ, còn hàng Thanh Văn Duyên Giác thì chẳng
cầu tiến thêm. Các ngươi đã phát tâm theo đạo Như Lai, sau khi ta nhập diệt, nơi
thời mạt pháp, phải đem pháp môn này truyền dạy cho đời sau, khiến tất cả chúng
sanh đều rõ biết nghĩa này, chớ để cho kiến ma (tự chấp tri kiến của mình thành
ma), tạo nghiệp chìm đắm, hộ trì cho họ dứt bỏ tà duyên, khiến thân tâm họ nhập
tri kiến Phật, từ bắt đầu đến khi thành tựu chẳng bị lạc đường.
- Chư Phật trong quá khứ hằng sa kiếp đều nhờ pháp môn này mà khai
ngộ, thành đạo Vô Thượng. Nếu dứt được thức ấm rồi thì lục căn của các ngươi hỗ
dụng lẫn nhau, do hỗ dụng này được vào cấp bậc Kim Cang Càn Huệ Bồ Tát, ở trong
đó phát khởi chơn trí, trong suốt như mặt trăng ở trong ngọc lưu ly, từ đó cho
đến siêu việt thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và Kim
Cang thập địa, Đẳng Giác viên minh vào trong biển Diệu Trang Nghiêm của Như Lai,
Bồ Đề viên mãn, quy về Vô Sở Đắc.
- Đây là những ma vi tế trong lúc tu tập thiền định mà chư Phật đã
giác ngộ từ đời quá khứ, cảnh ma hiện tiền, các ngươi nhận biết được liền tẩy
trừ tâm cấu nhiễm của mình, chẳng lọt vào tà kiến, thì ấm ma tiêu diệt, thiên ma
vỡ nát, đại lực quỷ thần hoảng sợ chạy trốn. Các loại yêu tinh ly mî chẳng còn
sanh ra, những căn hạ liệt cũng được tinh tấn, tâm chẳng mê lầm nơi Đại Niết
Bàn, thẳng đến Bồ Đề, chẳng gì thiếu sót.
- Nếu các chúng sanh ngu độn trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền
Na, chẳng biết Phật pháp mà ưa tu tam muội, e họ mắc phải tà kiến, nên một lòng
khuyên họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của ta; nếu chưa thể tụng trì, thì viết nơi
thiền đường, hoặc đeo trong thân, như thế, tất cả tà ma đều chẳng động đến được.
Ngươi nên kính vâng lời dạy sau cùng về đường tu rốt ráo của mười phương Như
Lai.
A Nan nghe Phật dạy bảo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ kính
vâng, ghi nhớ chẳng sót, lại bạch Phật rằng:
- Như lời Phật dạy, trong tướng ngũ
ấm, năm thứ hư vọng vốn là bản tâm, chúng con bình thường chưa được Như Lai khai
thị tỷ mỷ như thế. Lại ngũ ấm này là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà diệt
trừ? Năm lớp này đến đâu là bờ bến? Xin Như Lai phát lòng đại từ, khiến tâm và
mắt của đại chúng được trong sáng, và làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng
sanh trong đời mạt pháp.
Phật bảo A Nan:
- Diệu tâm sáng tỏ, bổn giác trong sạch, vốn chẳng có sanh tử và
những trần cấu, tất cả chúng sanh, cho đến hư không, đều do vọng tưởng mà sanh
khởi. Cái bổn giác vốn sáng tỏ trong sạch này, vọng sanh các tướng thế gian, như
Diễn Nhã Đạt Đa mê đầu nhận bóng. Vọng vốn chẳng nhân, lại nơi vọng tưởng lập
tánh nhân duyên, kẻ mê nhân duyên cho là tự nhiên, thật ra, tánh hư không còn là
huyễn hóa, nhân duyên và tự nhiên đều do vọng tâm của chúng sanh tạo thành. - A
Nan, biết chỗ vọng khởi, thì nói vọng duyên, nếu vọng vốn không, thì các vọng
nhân duyên vốn chẳng thể có, huống là chẳng biết lại cho là tự nhiên. Vì thế,
Như Lai phát minh: Bản nhân của ngũ ấm đều là vọng tưởng.
- Thân ngươi trước tiên, do niệm tưởng của cha mẹ sanh ra, tâm
ngươi nếu chẳng có niệm tưởng thì chẳng thể đến hợp với tưởng của cha mẹ mà thọ
sanh. Như trước ta đã nói, tưởng tượng vị chua thì tiết ra nước miếng, tưởng
tượng leo dốc thì lòng bàn chân ghê rợn, dốc cao chẳng có, vật chua chưa đến,
thân ngươi nếu chẳng cùng loại với hư vọng thì làm sao nghe nói chua lại tiết ra
nước miếng? Nên biết sắc thân hiện tiền của ngươi, gọi là Kiên Cố Vọng Tưởng thứ
nhất.
Như trên đã nói, tưởng tượng leo dốc thì khiến thân thật chịu ghê
rợn; vì cái nhân niệm tưởng cảm thọ, lay động sắc thân, nay trước mắt ngươi ham
thuận chán nghịch, hai hiện tượng này giao tranh với nhau, gọi là Hư Minh Vọng
Tưởng thứ hai.
- Bởi do niệm tưởng sai khiến sắc thân; nếu sắc thân với niệm
tưởng chẳng cùng loại, thì tại sao thân ngươi lại theo niệm tưởng sai khiến? Đủ
thứ hiện tượng tương ưng với niệm tưởng, hễ tâm sanh thì thân nhận, lúc thức là
niệm tưởng, lúc ngủ thành chiêm bao. Vậy thì niệm tưởng của ngươi lay động vọng
tình, gọi là Dung Thông Vọng Tưởng thứ ba.
- Lý tạo hóa chẳng ngừng, âm thầm dời đổi, móng dài, tóc mọc, sức
mòn, hình nhăn, ngày đêm thay đổi mà không hề hay biết.
- A Nan, ấy nếu chẳng phải là ngươi, thì tại sao thân ngươi lại
dời đổi? Nếu ắt phải là ngươi, thì sao ngươi lại chẳng hay biết? Vậy thì, hành
ấm của ngươi niệm niệm chẳng ngừng, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng thứ tư.
- Lại, chỗ tánh thức trong lặng chẳng lay động của ngươi, cho là
thường còn ấy, ở nơi thân ngươi chẳng ra ngoài Kiến, Văn, Giác, Tri, nếu cho là
chơn thật, thì chẳng thể huân tập sự vọng, tại sao các ngươi đã từng xem một vật
lạ từ năm xưa, trải qua nhiều năm, nhớ quên chẳng còn; về sau bỗng thấy vật lạ
đó, thì nhớ lại rõ ràng, chưa từng lạc mất?
- Vậy nơi tánh thức trong lặng chẳng lay động này, đâu có suy
tính, mà niệm niệm chịu sự huân tập! A Nan nên biết, tánh trong lặng này chẳng
thật, như dòng nước chảy gấp, trông như tịch lặng, ấy là vì chảy gấp mà chẳng
thấy, chứ chẳng phải không chảy; nếu chẳng phải là cội gốc của niệm tưởng, thì
đâu thể huân tập sự vọng? Nếu lục căn chưa được hỗ dụng tự tại, thì vọng tưởng
này chẳng bao giờ diệt trừ được.
- Vậy nên hiện nay cái Kiến, Văn, Giác, Tri của ngươi, hòa hợp với
tập khí vi tế, thành mường tượng hư vô nơi tánh Trạm Liễu, gọi là tướng vi tế
của Điên Đảo Vọng Tưởng thứ năm.
- A Nan! Ngũ ấm này do năm thứ vọng tưởng kể trên mà thành.
- Nay ngươi muốn biết bờ bến sâu cạn, thì Sắc với Không là bờ bến
của Sắc Ấm; Xúc với Lìa là bờ bến của Thọ Ấm; Nhớ với Quên là bờ bến của Tưởng
Ấm, Diệt với Sanh là bờ bến của Hành Ấm; Trạm nhập hợp Trạm, là bờ bến của Thức
Ấm.
LƯỢC GIẢI
Trước kia, A Nan hỏi về ngũ ấm đến đâu là bờ bến, ở đây Phật giải
thích kỹ càng, có nguyên nhân có bờ bến, từ cạn vào sâu.
Sắc chẳng tự Sắc, vì Không hiển Sắc, nên sắc với Không là bờ bến
của Sắc Ấm. Thọ chẳng tự Thọ, vì Xúc có Thọ, nên Xúc với Lìa là bờ bến của Thọ
Ấm; Tưởng chẳng phải Tưởng, vì ghi nhớ gọi là Tưởng, nên Nhớ và Quên là bờ bến
của Tưởng Ấm; Hành chẳng phải Hành, vì sanh diệt chẳng ngừng, gọi là Hành, nên
Sanh với Diệt là bờ bến của Hành Ấm; Thức gọi là Trạm Liễu (trong lặng sáng
suốt), là đã diệt sanh diệt, tánh Thức nhập vào chỗ cội gốc trong lặng, mà hợp
với trạm nhiên, có nhập có hợp, tức là bờ bến của Thức Ấm.
Vì Trạm Nhập là Thức Ấm, Trạm Xuất là Hành Ấm. Chơn Tánh chẳng gọi
là Trạm Nhập, là vì cùng khắp pháp giới, nên chẳng có xuất nhập, nay Trạm Nhập
dần dần đi vào, cho đến nhập vô sở nhập, tức đến chỗ chẳng sanh diệt
vậy.
*****
- Cội gốc của ngũ ấm từng lớp sanh khởi; sanh do thức mà có, diệt
theo sắc mà trừ; Lý thì Đốn Ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự chẳng thể bỗng diệt,
phải dần dần mới được dứt sạch.
- Ta đã khai thị cho ngươi về thắt kết của khăn bông, tại sao còn
chẳng rõ mà lại hỏi nữa! Ngươi đối với cội gốc vọng tưởng này, nơi tâm được khai
ngộ, rồi mới có thể truyền dạy cho người tu hành trong đời mạt pháp, khiến họ
biết sự hư vọng, tự sanh nhàm chán, biết có Niết Bàn, chẳng lưu luyến tam
giới.
- A Nan! Nếu có người đem thất bảo chất đầy mười phương hư không
để cúng dường vô số Phật, tâm chẳng buông lung, ý ngươi thế nào, người ấy do
nhân duyên cúng dường Phật này, có được phước nhiều chăng?
A Nan đáp rằng:
- Hư không vô tận, thất bảo vô biên. Xưa kia có người cúng Phật
bảy xu, còn được phước báo làm Chuyển Luân Vương, huống là dùng thất bảo đầy
khắp hư không để cúng dường; thất bảo ấy suốt kiếp đếm mãi còn chẳng thể hết,
làm sao phước ấy lại có bờ bến!
Phật bảo A Nan:
- Lời nói của chư Phật chẳng có hư vọng, nếu có người gây các tội
Tứ Trọng (Sát, đạo, dâm, vọng), Thập Ba La Di, phải trải qua địa ngục A-Tỳ
phương này phương kia, cho đến cùng tột các ngục A Tỳ mười phương trong sát na,
chẳng nơi nào không trải qua, nếu người ấy dùng một niệm đem pháp môn này khai
thị cho người sơ học trong đời mạt pháp, liền được tội chướng tiêu diệt, biến
cái nhân khổ địa ngục thành cõi an lạc được phước siêu việt hơn người cúng dường
trước kia gấp trăm ngàn lần, ngàn vạn ức lần như thế cho đến toán số thí dụ đều
chẳng thể so bằng.
LƯỢC GIẢI
Theo đoạn trên nói, Phạm tội Tứ Trọng, Thập Ba La Di là cái tội
cực ác, phải chịu cái quả báo cực khổ cho đến cùng tột tất cả địa ngục A-tỳ. Kẻ
phạm tội như vậy tại sao chỉ cần dùng "một niệm đem pháp môn này khai thị cho
người sơ học trong đời mạt pháp liền được tội chướng tiêu diệt, biến cái nhân
khổ địa ngục thành cõi an lạc". Vậy nếu thật như thế thành không có nhân quả
sao? Nếu người hiểu lầm việc này thì cho là làm cái nhân cực ác cũng không sao!
Vì chỉ cần biết thuyết pháp thì tội lớn đến mức nào cũng tiêu ngay lại còn được
phước báo vô cùng tận.
Chứng Đạo Ca nói:
"Liễu thì nghiệp chướng vốn là không,
chưa liễu vẫn phải trả nợ xưa".
chưa liễu vẫn phải trả nợ xưa".
Liễu là liễu ngộ tức là ở trong chiêm bao thức tỉnh, thì nghiệp
chướng ở trong chiêm bao tự tiêu diệt, còn chưa liễu thì còn ở trong chiêm bao
phải chịu nghiệp báo trong chiêm bao không thể tiêu liền được. Kinh nói dùng
"Một niệm đem pháp môn này khai thị cho người sơ học trong đời mạt pháp liền
được tội chướng tiêu diệt, biến cái nhân khổ địa ngục thành cõi an lạc", ấy là
ám chỉ người liễu ngộ mới có thể liền tiêu nghiệp chướng.
"Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan", độc giả hãy tự xem xét cho
kỹ.
*****
- A Nan! Nếu có chúng sanh hay tụng trì kinh này và chú này như ta
đã nói, thì phước báo cùng tột số kiếp cũng chẳng thể hết; nếu nương theo lời
dạy của ta mà tu hành, thì thẳng đến Bồ Đề chẳng còn nghiệp ma.
Phật thuyết kinh này xong, các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, tất cả cõi trời, người, A Tu La trong thế gian, với các vị Bồ Tát, Nhị
Thừa, Thần tiên, đồng tử ở cõi khác, và đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều rất
vui mừng, đảnh lễ ra về.
GHI CHÚ
(l) U-Ẩn Vọng Tưởng và Chúng Sanh
Trược:
Hành Ấm tại sao gọi là U Ẩn Vọng Tưởng? Vì cái vọng tưởng của Hành
Ấm u nhàn ẩn mật, khó mà tự phát giác được, gọi là U Ẩn Vọng Tưởng. Chúng Sanh
Trược là sanh diệt chẳng ngừng, nghiệp báo thường lưu chuyển, luân hồi thành đủ
thứ chúng sanh, dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Chúng Sanh
Trược.
(2) Phân Vị:
Luận về thường, vô thường, nói về tánh thì thuộc kiến phần; biên
vô biên. Nói về phân vị thì thuộc tướng phần. Bốn thứ Hữu Biên Luận nói về phân
vị: Một là phân vị tam tế, quá khứ, hiện tại, vị lai, hai là phân vị kiến văn,
ba là phân vị nhân ngã, bốn là phân vị sanh diệt, đều bị kẹt trong phân vị của
Hành Ấm mà sanh ra vọng tâm so đo.
(3) Hậu Hậu Vô:
Vì trước kia thấy có hành ấm mà chẳng có thọ tưởng, sau này hành
ấm cũng chẳng có; trước kia thấy sau khi chết chẳng tướng là chỉ nói về một chỗ
thân diệt mà thôi, nay truy cứu hết bảy chỗ tận diệt chẳng sanh nữa: thân diệt
thuộc dục giới, gồm cõi trời và cõi người, sắc dục diệt thuộc Sơ thiền, khổ diệt
thuộc Nhị thiền, cực lạc diệt thuộc Tam Thiền, cực xả diệt thuộc Tứ Thiền, dù
chỉ nói 5 chỗ diệt, kỳ thật gồm hai cõi Vô Sắc (Không Vô Biên Xứ và Vô Sở Hữu
Xứ) là bảy chỗ diệt. Đây là lọt vào Vô Tưởng Thiên ngoại đạo, giống như Tỳ Kheo
Vô Văn, đồng một đoạn kiến, tự nói chứng quả, chẳng thọ sanh nữa, nên lập sau
khi chết đoạn-diệt-luận.
(4) Hậu Hậu Hữu:
Trước đã nói là Hậu Hậu Vô, rồi nay tại sao lại nói Hậu Hậu Hữu?
Bởi vì cái cội gốc sanh diệt lăng xăng này là chẳng thể diệt được vì chưa đến
chỗ chơn tịch diệt, mà vọng thấy chỗ diệt có sự chứng đắc, nên nói Hậu Hậu Hữu.
Vì Hành Ấm được tạm ngưng sát na tánh viên minh hơi hiện, bèn cho là chẳng sanh
diệt, tức là Niết Bàn, do so đo thành có năm chỗ Niết Bàn vậy.
(5) Điên Đảo Vọng Tưởng và Mệnh Trược:
Thức Ấm tại sao gọi là Điên Đảo Vọng
Tưởng? Vì chấp võng tượng hư vô, "Võng" thì giống như là không. "Tượng" thì
giống như là có, như có như không, trở thành hư vô. Hư vô là thể của Chơn Như,
chẳng sanh chẳng diệt, nay có võng tượng là bóng sanh diệt của thức thứ tám. Nếu
nương theo Chơn Như thì gọi là Chánh Giác, nếu nương theo thức thứ tám thì gọi
là vọng giác, vì chấp cái võng tượng hư vô này, nên thành điên đảo vọng tưởng.
Sinh mệnh là do sự hô hấp, sức ấm của cơ thể và ý thức ba thứ hòa hợp mà thành,
dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Mệnh Trược.
(6) Năng Phi Năng:
Chấp ta năng sanh tất cả chúng sanh (tâm năng vi), nhưng sự thật
thì chẳng có cái năng lực ấy (quả năng sự).
(7) Tham Phi Tham:
Thân vốn vô thường, chẳng thể tham được, nay khởi tâm chấp thật,
tham cầu trường thọ, tham cái không thể tham gọi là tham phi tham.
(8) Lập tâm viên giác thành cái quả trạm minh.
Lấy cái giác làm viên minh: cho là "viên" thì bị kẹt ở nơi viên,
cho là "minh", thì bị kẹt nơi minh. Là "minh" thì chẳng mê ở nơi nhân quả cảm
ứng; là "viên" nên chẳng mê vào chỗ "diệt rồi là xong", từ đó truy cứu sự thâm
diệu, thâm lại càng thâm, chẳng đọa nơi hữu, diệu lại thêm diệu, chẳng đọa nơi
Vô, thì ở chỗ "Phi hữu phi vô" này lập cái Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt, cố
chấp không thể hóa giải được, nên chẳng cầu tiến thêm, thành quả định tánh Bích
Chi.
*****
(KINH LĂNG NGHIÊM HẾT)
.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/11/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
Subscribe to:
Posts (Atom)