Tu Tập Tứ Vô Lượng Tâm -
Bài 3: Tại sao chúng ta cần học Phật Pháp?
.
Qúi vị Phật tử một số đã đi chùa nhiều năm qua quí vị sẽ hỏi
rằng :
"Tại sao chúng ta cần học Phật Pháp nhiều như vậy, trong lúc
chúng ta có thể ngồi thiền hay tu tập một cách trực tiếp không cần phải dành
nhiều thì giờ để học với những tài liệu mà khiến chúng ta phải đọc rất
nhiều".
Chúng tôi muốn trả lời câu hỏi này bằng một thí dụ là: Ngày xưa
theo lịch sử thì người ta cho rằng con người bắt đầu biết ca, biết hát, biết
thích âm nhạc, là bởi vì con người biết nhái tiếng của loài thú vật. Như vào
buổi sáng ông bà tổ tiên chúng ta ngày xưa thời kỳ chưa có âm nhạc ra ngoài đồng
nghe chim hót thì cảm nhận có cái gì hay đặc biệt, rồi tiếng những con vật nó
kêu, nó tru, nó gầm v.v... Những âm thanh đó là những âm thanh để lại trong lòng
chúng ta một cảm giác gì đặc biệt. Ông bà chúng ta có cảm giác khi nghe những âm
thanh như vậy, đôi lúc ông bà chúng ta lại muốn được nghe vào những lúc mà thực
sự muốn nghe, tuy nhiên không phải chim lúc nào cũng hót, không phải suối lúc
nào cũng reo nên ông bà chúng ta nhái lại những âm thanh như vậy, và từ đó con
người bắt đầu nghĩ tới âm nhạc. Mặc dù âm nhạc đã có trên trái đất này lâu lắm,
lâu đến độ chúng ta không còn nhớ là từ thời nào những nhạc cụ đầu tiên của con
người được biết đến, tuy nhiên chúng ta biết rằng trong một trăm năm trở lại đây
đã có rất nhiều sự thay đổi về phương diện âm nhạc trong xã hội loài người, sự
thay đổi đó bởi vì có những tiến bộ về kỹ thuật, mà những tiến bộ đó mặc dầu
không liên hệ đến âm nhạc, tuy vậy đã thay đổi rất lớn lao ngành nghệ thuật này
của nhân loại đó là sự phát minh của hệ thống phóng thanh và hệ thống của đại âm
thanh, sự phát minh của những dụng cụ, nhạc cụ bằng điện. Chắc qúi vị biết rằng
khi chúng ta ca hát chỉ để cho một số người rất ít nghe bởi vì âm thanh của
chúng ta không thể lớn đủ cho cả trăm cả ngàn người nghe thì âm nhạc phải khác
đi, bây giờ các ca sĩ ca nếu máy không có đại âm thanh để làm cho tiếng lớn hơn,
hệ thống âm thanh không được tốt các ca sĩ cũng không chịu hát. Như vậy khi hệ
thống âm thanh được phát lên vì sự cải thiện thì âm nhạc thay đổi rất nhiều,
ngày xưa những nhạc cụ của chúng ta rất đơn sơ, rất thô sơ, dần dần trở lên tinh
vi hơn, và đặc biệt từ khi những nhạc cụ đó được điện hóa tức là họ dùng điện
vào cây đàn ghi ta, điện vào trong trống, cũng như những nhạc cụ khác thì chúng
ta thấy rằng cả một nền âm nhạc thay đổi.
Chúng tôi không muốn kể câu chuyện âm nhạc này như một câu
chuyện đời xưa ở trong khóa tu này, nhưng chúng tôi muốn kể câu chuyện này như
một ví dụ, ví dụ đó là gì? ví dụ đó là theo tinh thần Phật Pháp thì đời nào thời
nào con người cũng có những người tốt và những người xấu, trong số những người
tốt đó là những bậc mà Đức Phật gọi là bậc thiện trí, những người thiện trí này
sống ở giữa xã hội loài người có cống hiến một số lời hay ý đẹp, những lời hay ý
đẹp đó được chép trong sách vở được truyền khẩu hoặc được gìn giữ ở trong gia
đình ở trong một gia tộc, nhưng thưa qúi vị những lời hay ý đẹp này thường rất
rời rạc, không phải chỉ rời rạc mà không đủ âm hưởng lớn mạnh để truyền đạt như
một số đông của nhiều người, vì vậy khi Đức Phật Ngài ra đời giáo pháp của Ngài
được gọi là "nghĩa văn cụ túc".
Thế nào là nghĩa văn cụ túc?
Chữ "cụ túc" có nghĩa là đầy đủ.
Chữ "nghĩa" tức là cái lý lẽ cái ý nghĩa.
Văn có nghĩa là ngôn từ.
Về phương diện diễn đạt thì phương diện diễn đạt và lý lẽ của
đạo lý được xem như tròn đủ trong lời dậy của Đức Phật, điều này là một câu nói
rất quan trọng khi chúng ta nói đến chữ "Nghĩa văn cụ túc" bởi vì sao? bởi vì
Đức Phật Ngài xác nhận rằng có những sự thật rất cao vời nhưng nếu không được
khéo diễn tả với đầy đủ ngôn ngữ với đầy đủ phương thức diễn tả thì những điều
đó không thể đi vào tâm hồn và không thể gìn giữ tồn tại lâu dài trên thế gian
được.
Như vậy thì chúng ta cần đến kinh điển, chúng ta cần đến lời
dạy của Đức Phật để làm gì? bởi vì mỗi một thời đại có một nền văn hoá khác
nhau. Nếu qúi vị cũng thời một ý nghĩa đó mà qúi vị là một người có trình độ văn
hoá cao và nếu lời nói quá thô sơ đôi khi chúng ta không nghe và không nghe lọt
vào trong lòng. Cũng như bây giờ đây là thời đại con người rất tinh tế về âm
nhạc, một bản nhạc hay một bài thơ được ngâm một cách rất bình thường không đủ
để đi vào trong lòng, mà càng lúc bản nhạc hay một bài thơ cần phải được ngâm
được ca và được thâu âm một cách tinh vi, để chúng ta có thể thưởng thức được
những trình độ của con người đã bắt đầu cao hơn. Do vậy không phải chúng ta lệ
thuộc hay nô lệ sách vở, chúng ta không làm những công việc đó, công việc của
người tu là gì? là làm thế nào để cảm nhận được Phật Pháp trong đời sống hàng
ngày và áp dụng Phật Pháp vào cuộc sống thật sự của chúng ta, nhưng trên con
đường đi đó thì chúng ta cần rất nhiều phương tiện, một trong những phương tiện
cần thiết đó là làm thế nào để học Phật Pháp có phương thức có nghĩa văn. Vì vậy
ngày hôm nay trong chương trình tu học Bát Quan Trai này mặc dầu chúng tôi dành
rất nhiều giờ ưu tiên cho việc tu hơn là việc học, tuy vậy vẫn có một tài liệu
Phật Pháp chúng tôi muốn được chuẩn bị cho qúi vị, thật ra tài liệu này không
phải được chuẩn bị cho một khóa học mà đúng ra nó là một bộ sách, bộ sách này
hết sức quan trọng ở trong đạo Phật, chúng tôi nói quan trọng ở đây không phải
để quảng cáo mà chúng tôi sẽ dành một ít thì giờ để nói về lịch sử của bộ sách
này.
Ngày xưa khi Phật Pháp được truyền bá các nơi thì người có công
lớn nhất trong việc truyền bá đạo Phật người đó là một vị vua, một vị vua sống
gần với thời Đức Phật lắm, chỉ có hai trăm năm sau khi Đức Phật viên tịch, vị
vua đó là một vị vua được xem như là một Tần Thủy Hoàng của Ấn Độ, trên phương
diện là vị vua này đã thống nhất được Ấn Độ, nhà Tần đã thống nhất được Trung
Hoa như thế nào thì vị vua đó tức là vua A Dục đã thống nhất được một biên cương
rộng lớn của xứ Ấn Độ, khoảng chừng hai trăm năm sau khi Đức Phật Ngài viên
tịch. Cũng giống như vua Tần Thủy Hoàng, vua A Dục đã thống nhất đất nước bằng
bạo lực, tuy nhiên khác với vua Tần Thủy Hoàng là sau khi thống nhất đất nước
rồi thì vị hoàng đế quyền hành cao tột này đã không tiếp tục đường lối cai trị
sắc máu của mình, mà nhà vua đã thay đổi một sự thay đổi lớn lao chưa từng thấy
ở trong lịch sử của Ấn Độ cũng như lịch sử nhân loại. Từ một vị bạo chúa cầm
binh xử dụng binh đao để chinh phục thiên hạ thì vua A Dục đã trở thành một
người Phật tử. Sau khi trở thành một vị Phật tử thì nhà vua đã làm được bốn điều
và bốn điều được xem như là hy hữu:
1) Điều thứ nhất là tự thân nhà vua đã sống với chánh pháp từ
bỏ đao trượng không tiếp tục dùng quân lực để xâm lấn các nước láng giềng xa xôi
nữa.
2) Điều thứ hai là nhà vua đã dùng chánh pháp giống như một bản
hiến pháp thật sự để trị nước, và những điều gì nhà vua cần biết cần làm nhà vua
đều tham khảo với Chư Tăng.
3) Điều thứ ba nhà vua đã làm một công việc rất khó làm, đó là
mặc dầu là một Phật tử trọn niềm tin Tam Bảo nhưng vua A Dục vẫn nuôi dưỡng một
tinh thần hoà đồng, một tinh thần quảng đại đối với tất cả các tôn giáo, nhà vua
vẫn tiếp tục trở thành một hộ pháp không phải riêng cho đạo Phật mà trở thành
người hộ pháp cho tất cả các tôn giáo, nói một cách khác là tất cả các tôn giáo
đều được hưởng sự quy chế ủng hộ nâng đỡ của nhà vua, và đồng thời nhà vua đã
dành cho tất cả các tôn giáo sự dễ dàng trong sự tu tập và hành đạo.
4) Nhưng điều quan trọng lớn nhất của vua A Dục, chúng tôi nói
điều thứ tư nhà vua đã làm đã cống hiến, đó là nhà vua đã gửi đi một số Chư Tăng
những vị chân tu Phật học rất lỗi lạc thời bấy giờ sang các quốc gia lân cận như
Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cambochia, Tích Lan v.v... A Phú Hãn, Hy Mã Lạp Sơn,
Phu Tăng, Skim ngày hôm nay để làm công việc hoành truyền chánh pháp, sự thấy xa
hiểu rộng của nhà vua đã đem lại lợi ích lớn lao vô cùng và nhiều quốc gia Phật
giáo mà được thịnh trị ngày hôm nay vẫn xem Phật giáo là quốc giáo là nhờ vào sự
khởi xướng đầu tiên của vua A Dục.
Không phải chúng tôi nhắc đến vì liên quan đến bộ sách này.
Chúng tôi chỉ muốn nói đến vua A Dục như một khởi đầu của một công trình lịch
sử. Lúc nhà vua gửi Chư Tăng đi khắp nơi thì trong số Chư Tăng đó có một vị Tăng
mà ngày hôm nay dân chúng Tích Lan còn thờ phượng, vị Tăng đó tên là Mahinda.
Mahinda là một vị Thánh Tăng với thân thế rất đặc biệt, Ngài là một vị hoàng tử
con vua A Dục, vừa là vị Thánh Tăng đức cao đạo trọng, học vấn uyên bác, mà còn
có thân thế vô cùng đặc biệt. Khi đặt chân đến đảo Tích Lan thì Ngài Mahida đã
mang theo tất cả tinh hoa của Đạo Phật và khai hoá và truyền đạt tạo nên một
truyền thống văn hoá sáng lạng, mà ngày hôm nay người Tích Lan dầu là kẻ theo
cựu học cũng giống như người theo tân học đều sùng bái và kính ngưỡng một nền
văn hoá sáng chói và khiến từ một đảo quốc xa xôi đã trở thành một trong những
trung tâm văn hoá của nhân loại.
Khi Ngài Mahinda mang Phật Giáo đến Tích Lan thì lúc đó chỉ hơn
hai trăm năm sau khi Đức Phật viên tịch, và thời đó là thời Đạo Phật còn giữ
được rất nhiều sắc thái y nguyên như thời Đức Phật còn tại thế. Cái gì cũng vô
thường và kể cả tôn giáo kể cả văn hoá. Mặc dầu Đạo Phật mang đến Tích Lan một
thời gian dài thì tại Ấn Độ bấy giờ sanh ra một biến cố, biến cố đó là Phật giáo
khi được phát triển với địa bàn rất rộng rãi thì tạo ra tình trạng phân hoá, tạo
ra tình trạng tam sao thất bổn, có nghĩa là kinh điển dần dần bị truyền khẩu, bị
ghi chép sai lạc đi. Một trong những vị danh tăng người Ấn đặt chân đến xứ Tích
Lan, Ngài tên là Buddhaghosa. Ngài ra đi đến Tích Lan với hoài bảo là sẽ xử dụng
nguồn kinh điển Phật Giáo Tích Lan để chấn chỉnh lại hệ thống kinh điển của Phật
Giáo Ấn Độ. Khi Ngài đặt chân đến Tích Lan thì Ngài đã làm công việc có lẽ rất
là mới lạ với thời đó, đó là công việc tu chính Tam Tạng, Ngài đã đem tất cả
những kinh văn Đạo Phật của Tích Lan và của Ấn Độ phối hợp lại và với cái nhìn
rất thận trọng, với sự nghiên cứu hết sức tỉ mỉ của Ngài trong nhiều năm trời,
và Ngài đã xác định được những bản chú giải nào gần giống và có thể gìn giữ được
là bản chú giải miên niên của Đạo Phật và những gì cần phải lượt bỏ. Khi Ngài
đem tất cả kinh điển của Đạo Phật gom lại làm một công việc hiệu đính, thì một ý
tưởng nghĩ trong đầu óc của Ngài là Kinh Điển quả thật là rộng lớn về phẩm cũng
giống như lượng, bây giờ làm thế nào có thể chuyển đạt đến cho hàng hậu học về
sau này những người có thể đọc vào kinh điển mà không sợ sai lạc mà trong đó gồm
cả pháp học và pháp hành, có nghĩa là vừa học để mở mang kiến thức được và vừa
hành đạo được, và cuối cùng Ngài đã đi đến quyết định viết một tập sách, tạp
sách trở thành vô cùng danh tiếng trong Đạo Phật đó là quyển Thanh Tịnh Đạo.
Quyển Thanh Tịnh Đạo nói về bảy phép thanh tịnh dựa trên Giới,
Định, Tuệ, tức là Tam Học, và đã được Đức Phật Ngài truyền dạy, bởi vì tập Thanh
Tịnh Đạo này có tác dụng như là pháp học và pháp hành, bộ sách này đã trở thành
tập sách gối đầu giường cho nhiều thế hệ Phật tử về sau này. Năm 1949 có một vị
sĩ quan người Anh, ông đóng quân tại Đức sang Tích Lan để nhận một công tác mới
tại xứ Tích Lan, lúc bấy giờ vị sĩ quan người Anh này tình cờ tiếp xúc với Phật
Pháp và trở thành Tăng sĩ, sau khi trở thành vị Tăng sĩ thì vị sĩ quan này có
tên mà ngày hôm nay ở trong giới học Phật rất quen thuộc đó là Ngài Nanamoli.
Ngài Nanamoli mặc dầu tuổi thọ không nhiều và thời gian trở thành vị Tăng sĩ
không lâu, chỉ được mười năm thôi, nhưng khi Ngài bị một cơn bịnh nan y và qua
đời thì thế giới Phật Giáo đã nhớ đến Ngài Nanamoli như là một trong những vị
Tăng đã cống hiến nhiều nhất trong việc mang đạo Phật đến với văn hoá Tây Phương
về sau này. Ngài Nanamoli đã dịch rất nhiều dịch phẩm từ Pali sang Anh ngữ,
không những dịch mà làm một công việc hiệu đính có nghĩa là trình bày lại một
cách rất là sáng sủa mạch lạc. Công việc của Ngài Nanamoli làm rất nhiều, một
trong những cống hiến đó là Chú Giải Khuddakapàthaatthakathà là một tập chú giải
về những bản kinh quan trọng như Hạnh Phúc kinh, Từ Bi kinh, Tam bảo kinh v.v...
Và một công trình vĩ đại khác Ngài Nanamoli đã để lại trước khi qua đời đó là
dịch bộ Visuddhimagga tức là quyển Thanh Tịnh Đạo của Ngài Buddhaghosa sang
tiếng Anh. Khi Ngài dịch Ngài đã phân đoạn từng phần một và Ngài ghi chú cách
trình bày cũng giống như là sắp xếp hoàn toàn theo phương pháp trình bày hiện
đại bây giờ. Khi chúng tôi sang Thái Lan ở trong chùa wat Phananchoeng, chùa có
rất nhiều vị Tăng sĩ người Anh và là những vị rất lỗi lạc về phương diện ngôn
ngữ ở bên ngoài, những vị này có nhìn nhận một điều rằng bản dịch bộ Thanh Tịnh
Đạo có một giá trị rất lớn về phương diện ngôn ngữ.
Chúng tôi nghĩ rằng vua A Dục khi gửi đứa con thân yêu của Ngài
là Ngài Mahinda đến Tích Lan thì vua A Dục đã làm một cống hiến thật lớn là Ngài
đem Phật Giáo đến một đảo quốc, và đảo quốc đó đã gìn giữ Đạo Phật liên tục 2300
năm và đã gìn giữ sự y nguyên của Đạo Phật cho đến ngày hôm nay. Từ đạo quốc đó
một vị danh Tăng là Ngài Buddhaghosa đã làm một kỳ công là hiệu đính Tam Tạng
lần đầu tiên, không phải chỉ hiệu đính và viết chú giải mà Ngài viết một bản
chấn lục lần được đầu tiên, và bản chấn lục đó mang tên Visuddhimagga tức là
quyển Thanh Tịnh Đạo là một bộ sách rất qúi. Bộ sách đó đã được một nhân duyên
rất đặc biệt là dịch sang Anh ngữ và được hiệu đính một lần nữa theo phương pháp
hiện tại bây giờ bởi Ngài Nanamoli mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ không có ai có thể
làm tác phẩm lần thứ hai dịch từ Phạn ngữ sang Anh ngữ như vậy nữa.
Tuy nhiên cái kỳ tích của tác phẩm này chưa dừng lại tại đó và
cách đây vài năm có một người ở Việt Nam, người đó rất là quen thuộc với người
Phật tử Việt Nam đó là dịch giả của quyển "Huyền Trang - Nhà Chiêm Bái và Học
Giả" người đó là học giả người dịch quyển "Câu chuyện giòng sông". "Câu chuyện
giòng sông" được dịch từ một tác phẩm rất danh tiếng Siddhartha của Hermann
Hesse, và người đó là người dịch quyển "Tư tưởng Phật Học" mà trước kia có tên
là "Con đường thoát khổ," là một bản dịch hết sức là giá trị được xem như là
giáo khoa và vị đó chính là Ni Sư Thích Nữ Trí Hải. Vị nào đã đọc kinh sách Phật
Học Việt Nam thì qúi vị đã biết đến Ni Sư Thích Nữ Trí Hải. Ni Sư Thích Nữ Trí
Hải mặc dầu sau nhiều năm tranh đấu cho tự do và bị tù đày trở về đả làm công
việc là bỏ thì giờ còn lại của mình để dịch tác phẩm Visuddhimagga ra tiếng Việt
và HT Minh Châu có một lần nói "chỉ tên Thích Nữ Trí Hải đã bảo đảm cho tác phẩm
chứ không cần phải dài dòng giới thiệu." Quý vị đã đọc quyển "Tư tưởng Phật học"
hay "Câu chuyện giòng sông" thì có thể cảm nhận được ngoài bút pháp rất linh
động rất là Việt Nam, một lối văn dịch rất trung thành với nguyên bản và trên
phương diện văn chương gần với văn chương Việt Nam thì Sư Cô đã làm công việc đó
là dịch ở trong hình thức sáng sủa. Chúng tôi nghĩ rằng đây là bản dịch tốt nhất
cho đến bây giờ chúng tôi vẫn thành thực tin rằng sẽ không có bản dịch thứ hai
tốt hơn bản dịch này từ Anh ngữ sang tiếng Việt./.
Namo Buddhaya .HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.9/11/2012 ).
|
Thursday, 8 November 2012
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment