Wednesday, 5 December 2012

Lược sự tích các Bồ Tát
 
Rất nhiều người tới chùa lễ Phật chỉ biết đức Phật Thích Ca là Giáo chủ cõi Ta Bà ngồi trên tòa Hoa sen, đức Di Lặc béo mập, sẽ thành Phật ở cõi Ta Bà này, và đức Phật A Di Đà hiện đang là Giáo chủ cõi Cực Lạc ở Tây phương. Còn các vị Bồ Tát nhiều người không hiểu rõ, vì mỗi chùa thờ một khác, có chùa thờ Phật Thích Ca ở giữa, hai bên là Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, phía trước là đức Di Lặc. Có chùa thờ đức Phật A Di Đà đứng giữa, hai bên là Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, ở phiá trước là Phật Thích Ca, Có chùa thờ Phật Thích Ca ở giữa, hai bên là Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, phiá trước là Tổ thứ 28 Bồ Đề Đạt Ma bên Tây Trúc và là Sơ Tổ Thiền Tông bên Trung Hoa, v.v…Vì vậy một số Phật tử tại gia lâu lâu mới tới chùa một lần không hiểu các vị Bồ Tát được thờ là những vị nào nên thường thắc mắc.
Sự thờ khác biệt giữa chùa này và chùa kia, là do “pháp môn tu hành” của vị trụ trì đầu tiên khi lập chùa mà ra. Như chùa theo Tịnh Độ Tông (Pháp Môn niệm Phật A Di Đà) thờ Phật A Di Đà, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát; chùa tu theo Thiền Tông thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Để khỏi bỡ ngỡ, xa lạ, thử tìm hiểu đặc điểm và sự tích của một số vị Bồ Tát thường được thờ trong một số chùa, mà nhiều khi chúng ta cũng đọc thấy trong các Kinh sách.


Bồ Tát Đại Thế Chí
1)- Đại Thế Chí là Bồ Tát nào?
Trong các buổi lễ tại các chùa ở phần cuối có xướng lễ ba đức Phật Thích Ca, Di Lặc, A Di Đà, và trong số năm vị Bồ Tát, có ngài Đại Thế Chí tượng trưng cho ý chí quyết tâm iáo hóa chúng sinh. Hiện Ngài là bậc Đẳng Giác, ở cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, là một trong hai vị Đại Bồ Tát phụ với đức Phật A Di Đà để đến tiếp dẫn chúng sinh trong mười phương thế giới. Ngài luôn luôn bận rộn trong việc làm Phật sự, giáo hóa Thánh chúng tại cõi Cực lạc.
2)- Đặc điểm của Bồ Tát Đại Thế Chí:
Hình hoặc tượng Bồ Tát Đại Thế Chí thường đứng hai tay cầm cành hoa, cách mặc cũng giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng đứng trên hoa ở bên tay phải đức Phật A Di Đà. Trên chóp mũ thường có hình ngôi chùa đại diện cho trí huệ của Ngài.
3)- Sự tích Bồ Tát Đại Thế Chí:
Bồ Tát Đạt Thế Chí khi chưa học đạo, một kiếp là con thứ hai của vua Vô tránh Niệm, và là em của Thái tử Bất Huyến, tức là Bồ Tát Quán thế Âm bây giờ, tên là Ni Ma. Cũng như anh, Hoàng tử Ni Ma được Vua cha khuyến khích bố thí cúng dàng Phật Bảo Tạng và đại chúng Tăng, Ngài cúng dường không luyến tiếc của. Ngài cũng được Đại thần Bảo Hải khuyên nhủ như Thái tử Bất Huyến rằng nên bố thí để cầu phúc vô lậu (không có cấu uế), không nên cầu phúc hữu lậu không lợi ích là bao.
Hoàng tử Ni Ma được Đại thần nhắc nhở rồi thì Ngài đến chỗ Phật Bảo Tạng vái rồi nói: “Thưa đức Thế Tôn, tôi nay đem công đức cúng dường Ngài và đại chúng Tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi là: Ba điều về thân không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; bốn điều về miệng không nói dối, không nói hai chiều, không nói đâm thọc, không nói lời độc ác; ba điều về ý không tham, sân, si mê tà kiến, mà cầu phật đạo vô thượng Chính Đẳng Chính giác. Nếu sự cầu nguyện của tôi được Ngài chấp thuận thụ ký cho, thì xin giữa hư không hoa đẹp rơi rải xuống, và tôi kính cẩn lễ Ngài. Trong khi Hoàng tử thi lễ, giữa hư không hoa rải xuống như mưa bay. Thấy vậy, Hoàng tử nói: “Ngài đã thụ ký rồi, tôi kính lễ, xin Ngài làm sao để chư Phật mười phương cũng thụ ký cho tôi như Ngài đã làm”. Nói rồi, Hoàng tử lại thi lễ nữa, trong khi ấy, mười phương, kể cả cây cối núi đồi sông rạch đều rúng động, âm vang cùng khắp. Đức Phật Bảo Tạng nói: “Chư Phật mười phương đã thọ ký rằng: Tại cõi Tán Đề Lam, có người Phật tử của Phật Bảo Tạng tên Ni Ma, con thứ hai vua Vô Tránh Niệm, phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trong ba tháng, đem công đức ấy hồi hướng cầu đạo Bồ Đề và nguyện ở cõi trang nghiêm. Do đó trải qua vô số hằng sa kiếp tu hành sẽ bổ xứ thành Phật kế vị đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sinh Vương Như Lai nhập diệt” (tức là sau khi Bồ Tát Quán Thế Âm thành Phật, giáo hóa chúng sinh rồi nhập diệt, bấy giờ Ngài Đại Thế Chí là Phật kế vị ở cõi ấy, còn qúa lâu xa).
Thái tử Ni Ma được Phật Bảo Tạng và chư Phật mười phương thụ ký, vui mừng phấn khởi, hằng chăm chỉ tu tập không quên. Sau khi mạng chung, đầu thai nhiều đời nhiều kiếp khi cõi người khi cõi Trời, kiếp nào cũng hằng giữ bản nguyện quyết tâm tu hành, làm hạnh mở mang trí tuệ cho chúng sinh si mê không mỏi mệt, mà bước lên đường giác.
Hiện tại, Ngài mới lên tới bậc Đẳng Giác phụ với Đại Bồ Tát Quán Thế Âm, là hai vị cao nhất trong số Bồ Tát của đức Phật A Di Đà , làm Phật sự trong việc giáo hóa Thánh chúng. Ngài thường cùng Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng Thánh chúng đến mười phương tiếp đón chúng sinh về cõi Cực Lạc để giáo hóa cho họ thành Phật.

Bồ Tát
Văn Thù Sư LOI.
 
1)- Văn Thù Sư Lị là Bồ Tát nào?
Bồ Tát Văn Thù Sư Lị (Lợi) thường gọi tắt là Bồ Tát Văn Thù, có nghĩa là Diệu Đức. Ngài là Thượng thủ của Phật Thích Ca trong hàng Bồ Tát. Trong Kinh Duy Ma Cật nói về Đại Bồ Tát Duy Ma Cật thị hiện tại cõi Ta Bà để giáo hóa chúng sinh dưới hình thức là một người bệnh. Một hôm, đức Phật Thích Ca muốn cử một đệ tử đại diện hướng dẫn bốn chúng đi thăm bệnh Duy Ma Cật. Nhưng khi được hỏi, hết thảy từ hàng đại đệ tử đến hàng Bồ Tát đều khiêm cung không dám nhận. Chỉ có Bồ Tát Văn Thù nhận lời Phật trao phó, vì vậy Ngài còn được gọi là “Đại Trí Văn Thù Sư Lị Bồ Tát”
2)- Đặc điểm của Bồ Tát Văn Thù:
Hình hay tượng Ngài ngồi kết già trên bệ có 12 tay:
Phía trướccó 6 tay:
Hai tay dưới để trong thế thiền định, bưng bình nước cam lồ.
Hai tay giữa nhúng trong bình chuẩn bị vẩy cam lộ, tượng trưng cứu khổ cho vui.

Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Hai tay trên bắt ấn chuyển pháp luân trước ngực: ngón trỏ và ngón cái làm thành vòng tròn, các ngón khác duỗi thẳng lên, lòng tay phải quay ra, lòng tay trái quay vào .
Phiá sau có 6 tay:
Hai tay trên bắt ấn tối thượng Bồ Đề bên trên đầu: Hai bàn tay chắp lồng vào nhau, các ngón tay nọ nắm mu bàn tay kia, trừ ngón trỏ và ngón cái để thẳng.
Hai tay giữa dang ra hai bên: tay trái cầm cung, tay phải cầm tên.
Hai tay dưới dang ra hai bên: tay trái cầm giá đựng Kinh, tay phải cầm kiếm, tượng trưng diệt vô minh.
Lại có hình tượng thờ Ngài ngồi trên lưng Sư tử, tay Phải cầm gươm, mũi gươm cao tới ngang đầu Ngài, tay trái cầm cuốn Kinh Bát Nhã trước ngực. Tượng trưng diệt Vô minh, được Trí Huệ.
Bồ Tát Văn Thù được người Tây Tạng, Trung Hoa và Việt Nam thờ phụng.
3)- Lược sự tích Bồ Tát Văn Thù:
Khi Bồ Tát Văn Thù chưa tu, một kiếp Ngài là con thứ ba của vua Vô tránh Niệm, tên là Hoàng tử Vương Chúng. Trong dịp phụ Vương Ngài cúng dàng đức Phật Bảo Tạng và khuyên bảo các Vương tử làm theo, Ngài thích thú vâng làm. Đại thần Bảo Hải cũng khuyên rằng: “Nay Hoàng tử đã và đương cúng dường Phật, đó là phước đức rất lớn. Hoàng tử nên tạo nghiệp thanh tịnh, vì hết thảy chúng sanh mà cầu được trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo vô thượng Chính đẳng, sẽ tốt hơn cầu các phước nhỏ”.
Hoàng tử Vương Chúng nghe quan Đại thần khuyên, bèn đến chỗ đức Phật Bảo Tạng vái và nói: “Thưa đức Thế Tôn, tôi cúng dàng Ngài, chúng Tăng, và tu tập những điều do Ngài chỉ dạy đó. Nay tôi xin hồi hướng công đức ấy về đạo vô thượng, nguyện tu hạnh Bồ Tát dù trải qua hằng sa số kiếp, để giáo hóa chúng sinh khỏi mê muội được trí huệ.
Tôi nguyện chẳng vì lợi ích của mình mà cầu mong chóng thành đạo qủa, mà vì giáo hóa chúng sinh trong mười phương. Những người được tôi giáo hóa thành Phật trước tôi trong khi vị này giáo hóa chúng sinh làm sao cho tôi thấy.
Tôi nguyện trong khi tu hành làm vô lượng Phật sự, và đời nào cũng tu theo Lục độ là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, và Trí huệ.
Tôi nguyện chúng sinh được tôi dạy bảo đều được thanh tịnh, được như vậy tôi mới thành Phật.
Tôi nguyện được cõi Phật trang nghiêm bằng tất cả các cõi Phật trang nghiêm cộng lại. Cõi ấy toàn bằng vàng bạc, ngọc lưu ly, xích châu mã não, có các cây lạ hoa qúy hương thơm không đâu có, không có đất cát bụi bặm dơ bẩn.
Tôi nguyện trong cõi ấy, hết thảy chúng sinh đều sinh ra bằng hóa sinh, không có ái dục, không có tên đàn bà, không cần ăn uống các đồ vật chất. Mọi người đẹp tự nhiên, vui trong thiền định, được tam muội, có thần thông, đi dạo tự tại. Chỉ trong thời gian một bữa ăn đi khắp mười phương cúng dàng chư Phật.
Tôi nguyện trong cõi nước tôi không có phân biệt, thảy đều cao thượng, tâm trí sáng suốt, không có ba điều ác của thân, bốn điều ác của miệng, và ba điều độc hại của ý.
Tôi nguyện trong cõi của tôi không có các sự khổ não, không có Tám chướng ngại (Là: 1/- Địa ngục, 2/- Ngạ qủy, 3/- Súc sinh, 4/- Vô sắc Thiên trường thọ, 5/- Câm điếc, 6/- Tà kiến, 7/- Sinh thời không có Phật và pháp lưu hành, 8/- Ở nơi hoang vu).
Tôi nguyện trong cõi nước tôi không cần ánh sáng mặt trăng mặt trời, vì các vị Bồ Tát có hào quang tự nhiên soi sáng chiếu khắp nơi nên không có đêm tối. Chỉ biết khi hoa nở là ban ngày, hoa cúp là ban đêm, còn khí hậu không nóng cũng chẳng lạnh, điều hòa trung bình không thay đổi.
Tôi nguyện, các Bồ Tát Đẳng Giác bổ xứ làm Phật đến cõi khác, trước hết ở cõi tôi sau mới giáng sinh tới cõi ấy tùy nguyện hóa độ.
Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi hóa độ hết thảy chúng sinh trong cõi nước của tôi thành Phật hết rồi tôi mới nhập diệt.
Tôi nguyện khi làm Bồ Tát đạo trong các cõi Phật, thấy những trang nghiêm và những hạnh nguyện của chư Phật, tôi đều được thành tựu như thế tất cả.
Tôi nguyện trong khi tu đạo Bồ Tát, các người phát Bồ Đề tâm sẽ được bổ xứ thành Phật về sau, đều sinh về cõi tôi để được giáo hóa hết thảy.
Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, tôi biến hóa ra các hoá Phật và các hóa Bồ Tát nhiều như cát ở bờ sông bãi biển. Hằng dạo chơi các thế giới mười phương mà giáo hóa, chúng sinh nghe rồi phát tâm Bồ Đề tu hành đến khi thành Phật cũng không thay đổi.
Tôi nguyên khi tôi thành Phật, các chúng sinh ở các cõi khác nếu thấy tôi nhớ mãi cho tới khi thành Phật cũng không quên. Nếu các Bồ Tát ở các cõi khác muốn thấy tôi đều được thấy, và sự hoài nghi về đạo pháp được suốt thông hết thảy.
Tôi nguyện khi thành Phật rồi thọ mạng lâu dài vô cùng vô tận, các vị Bồ Tát trong cõi tôi cũng sống lâu như thế.
Thưa đức Thế Tôn, tôi nguyện được như vậy, tôi mới thành Phật”.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe Hoàng tử Vương Chúng thệ nguyên kiên cố như thế, liền thụ ký rằng: “Hay thay! Hay thay! Ông là đại trượng phu minh mẫn sáng suốt, phát nguyện rộng lớn khó khăn, làm những việc không thể nghĩ bàn. Phải là bậc trí huệ mới làm được như vậy. Ông vì hết thảy chúng sanh mà phát nguyện rộng lớn nặng nề và cầu cõi Phật trang nghiêm như thế. Nay Ta đặt tên hiệu cho ông là Văn Thù Sư Lị, trải qua vô lượng kiếp về sau, ông sẽ thành Phật ở thế giới đẹp đẽ tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chỉ ở về phương Nam. Tất cả các sự ước nguyện của ông đều được thỏa mãn.
Từ nay về sau, trải qua vô lượng kiếp, ông tu Bồ Tát đạo, trồng căn lành, giáo hóa chúng sanh, tùy bệnh mà cho thuốc, để chúng sanh trừ hết phiền não”.
Hoàng tử Vương Chúng nói: “Thưa đức Thế Tôn, nếu sự thệ nguyện của tôi được đúng như Ngài thọ ký, xin cả mười phương chư Phật cùng thọ ký cho tôi”.
Nói rồi, đương lúc cúi đầu lễ Phât, mười phương chấn động, trên không có tiếng âm nhạc vang lên, các thứ hoa rơi xuống như mưa bay và ở tất cả các cõi Phật cũng thế.
Đức Phật Bảo Tạng nói: “Mười phương chư Phật đồng loạt thụ ký cho ông rồi đó”.
Hoàng tử Vương Chúng hoan hỉ vui mừng, bèn ngồi xuống nghe thuyết pháp.
Từ đó về sau, Hoàng tử mạng chung, tái sinh vô số kiếp, kiếp nào cũng nhớ bản nguyện quyết tâm tu hành đạo Bồ Tát. Ngài đã thành đại Bồ Tát từ số kiếp và giáo hóa vô số chúng sinh. Một số đệ tử của Ngài Văn Thù đã thành Phật rồi, mà Ngài vẫn còn là Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sinh trong mười phương thế giới vì lời thệ nguyện kiên cường khó làm xong được của Ngài vậy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.6/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.

No comments:

Post a Comment