Phần IIIVẤN ÐÁP
(tiếp theo)
-ooOoo-
21-
Vấn: Chánh niệm và
trí tuệ tỉnh giác đi đôi đồng sanh với nhau hay không?
Ðáp: Chánh niệm có chi
pháp niệm tâm sở. Trí tuệ tỉnh giác có chi pháp trí tuệ tâm
sở.
Ðại thiện tâm có 8
tâm:
- 4 đại thiện tâm
hợp với trí.
- 4 đại thiện tâm không hợp với trí.
- 4 đại thiện tâm không hợp với trí.
Khi hành giả tiến
hành thiền tuệ, nếu có đại thiện tâm hợp với trí phát sanh, thì chắc chắn chánh
niệm và trí tuệ tỉnh giác đi đôi đồng sanh với nhau. Nếu có đại thiện tâm không
hợp với trí phát sanh, thì chỉ có chánh niệm mà không có trí tuệ tỉnh
giác.
Ví
dụ:
Oai nghi đi:
- Hành giả tiến hành
thiền tuệ, có đại thiện tâm hợp với trí, thì có chánh niệm trực nhận ngay đối
tượng dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi; có trí tuệ tỉnh giác thấy
rõ biết rõ thực tánh của dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi ấy là
sắc pháp phát sanh từ tâm, gọi là sắc đi... Khi ấy, có chánh niệm
và có trí tuệ tỉnh giác.
- Hành giả tiến hành
thiền tuệ có đại thiện tâm không hợp với trí, thì chỉ có chánh niệm trực nhận
ngay đối tượng dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi; mà không thấy rõ
biết rõ thực tánh của dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi ấy là sắc
pháp phát sanh từ tâm, gọi là sắc đi... Khi ấy, chỉ có chánh niệm
mà không có trí tuệ tỉnh giác.
Oai nghi đứng, oai
nghi ngồi, oai nghi nằm tương tự như vậy.
Như vậy, chánh niệm,
trí tuệ tỉnh giác có khi đi đôi đồng sanh với nhau, có khi không.
22-
Vấn: Hành giả có thể
nhận thức biết rõ có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác, trong khi tiến hành thiền
tuệ được hay không?
Ðáp: Trong khi đang tiến
hành thiền tuệ, hành giả cần phải có trí tuệ rất tinh tế mới có thể nhận thức
biết rõ được có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác, nhờ biết qua phận sự của tâm.
Ví
dụ:
Oai nghi đi:
- Nếu đại thiện tâm
hợp với trí biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi là sắc pháp
phát sanh từ tâm gọi là sắc đi (không phải ta đi) là pháp vô
ngã, thì đại thiện tâm hợp với trí ấy có chánh niệm
(niệm thân) và có trí tuệ tỉnh giác.
- Nếu đại thiện tâm
không hợp với trí trực nhận biết dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi,
mà không biết thực tánh của dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi, đó
là sắc pháp phát sanh từ tâm gọi là sắc đi, thì đại thiện tâm không hợp với trí
ấy chỉ có chánh niệm (niệm thân), mà không có trí tuệ tỉnh
giác.
Thật ra,
- Ðại thiện tâm hợp
với trí có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác có tính chất đặc biệt của
chúng.
- Ðại thiện tâm không hợp với trí có chánh niệm, mà không có trí tuệ tỉnh giác có tính chất đặc biệt của chúng.
- Ðại thiện tâm hợp với trí và không hợp với trí, nhưng không có chánh niệm, không có trí tuệ tỉnh giác có tính chất đặc biệt của chúng.
- Ðại thiện tâm không hợp với trí có chánh niệm, mà không có trí tuệ tỉnh giác có tính chất đặc biệt của chúng.
- Ðại thiện tâm hợp với trí và không hợp với trí, nhưng không có chánh niệm, không có trí tuệ tỉnh giác có tính chất đặc biệt của chúng.
Cho nên, hành giả
cần phải có trí tuệ rất tinh tế mới có thể nhận thức biết rõ được từng trường
hợp, từng tính chất của mỗi tâm.
23-
Vấn: Tính chất của
tâm không có chánh niệm, không có trí tuệ tỉnh giác như thế nào?
Tính chất của tâm có
chánh niệm, mà không có trí tuệ tỉnh giác như thế nào?
Tính chất của tâm có
chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác như thế nào?
Ðáp:
a/ Tính chất của
tâm không có chánh niệm, không có trí tuệ tỉnh giác: có những trường hợp như
sau:
Trong cuộc sống hằng
ngày, tâm thường hay quan tâm đến những đối tượng thuộc về chế định pháp
(paññatti): ý nghĩa chế định, danh từ ngôn ngữ chế định như: con người,
đàn ông, đàn bà, chúng sinh, vật này, vật kia, điều này, điều kia, bộ môn này,
bộ môn kia, v.v... sự hiểu biết của tính chất tâm như vậy, thì không có chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác; bởi vì, đó là đối tượng chế định, nhưng có thể
có niệm, có trí tuệ biết rõ đối tượng
chế định ấy, trong những trường hợp là:
- Nếu là đại
thiện tâm không hợp với trí, thì có niệm tưởng đến đối
tượng chế định, mà không có trí tuệ hiểu biết rõ đối tượng chế
định ấy.
- Nếu là đại thiện tâm hợp với trí, thì có niệm tưởng đến đối tượng chế định, và có trí tuệ hiểu biết rõ đối tượng chế định ấy.
- Nếu là tâm bất thiện, thì không có niệm, không có trí tuệ, song vẫn biết theo tâm tham, tâm sân, tâm si.
- Nếu là đại thiện tâm hợp với trí, thì có niệm tưởng đến đối tượng chế định, và có trí tuệ hiểu biết rõ đối tượng chế định ấy.
- Nếu là tâm bất thiện, thì không có niệm, không có trí tuệ, song vẫn biết theo tâm tham, tâm sân, tâm si.
b/ Tính chất của tâm
có chánh niệm, mà không có trí tuệ tỉnh giác:
Trường hợp hành giả
tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm không hợp với trí, có chánh niệm:
ví dụ: niệm thân với đối tượng oai nghi đi, thì chánh niệm trực nhận
ngay dáng đi, tư thế đi, toàn thân di chuyển bước đi là sắc pháp
phát sanh từ tâm; mà không có trí tuệ tỉnh giác trực giác, nên không
thấy rõ biết rõ thực tánh của sắc đi ấy, bởi vì không có trí tuệ tâm sở đồng
sanh với đại thiện tâm không hợp với trí ấy.
c/ Tính chất của tâm
có chánh niệm, có trí tuệ tỉnh giác:
Trường hợp hành giả
tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí, có chánh niệm:
ví dụ: niệm thân với đối tượng oai nghi đi, thì chánh niệm trực nhận
ngay dáng đi, tư thế đi, toàn thân di chuyển bước đi, là sắc pháp
phát sanh từ tâm như thế nào; có trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ
biết rõ thực tánh của dáng đi, tư thế đi, toàn thân di chuyển bước đi, là sắc
pháp phát sanh từ tâm như thế ấy gọi là sắc đi, là
pháp vô ngã, bởi vì trí tuệ tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm hợp với trí
ấy.
24-
Vấn: Hành giả tiến
hành thiền tuệ cốt để biết rõ khổ đế như thế nào?
Ðáp: Thật vậy, hành giả
tiến hành thiền tuệ phát sanh trí tuệ thiền tuệ cốt để thấy rõ biết rõ danh
phápsắc pháp trong tam giới đều là khổ đế, khi biết khổ mới mong giải thoát khổ
sanh. Nếu biết an lạc, thì không muốn giải thoát khổ sanh.
Như Ðức Phật
dạy:
"... Dukkhassa hi
pariññatthaṃ mayi brahamacarīyaṃ vuccati...". [1]
"Này chư Tỳ khưu,
đúng vậy, hành phạm hạnh nơi Như Lai, cốt để biết rõ, để chứng ngộ chân lý Khổ
thánh đế".
Ðức Phật đã từng
khẳng định với Ðại Ðức Anurādha rằng:
"...Pubbe cā’haṃ
Anurādha, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi dukkhassa ca
nirodhaṃ...". [2]
"Này Anurādha, từ
trước cho đến nay, Như Lai chỉ có thuyết dạy về Khổ thánh đế, và Niết Bàn, pháp
diệt Khổ thánh đế mà thôi".
Hành giả tiến hành
thiền tuệ cốt để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, điều trước tiên, trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ biết rõ danh pháp sắc pháp trong tam giới đều là khổ đế
(dukkhasacca), đó là sự thật, là chân lý; thọ lạc không
phải là sự thật, không phải là chân lý, chỉ là lạc hư ảo (sukhavipallāsa)
mà thôi; vì thọ lạc cũng có trạng thái vô thường.
Khi trí tuệ thiền
tuệ tam giới thấy rõ biết rõ tất cả mọi danh pháp sắc pháp trong tam giới đều là
khổ đế, nên mới diệt được tâm tham ái trong danh
pháp sắc pháp ấy, chính là diệt nhân sanh khổ đế; khi diệt nhân
sanh khổ đế chính là diệt khổ đế.
Ðức Phật dạy:
"Các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự của Tứ thánh đế.",
nghĩa là:
- Khổ thánh đế nên
biết, thì đã biết xong.
- Nhân sanh khổ thánh đế nên diệt, thì đã diệt xong.
- Diệt thánh đế nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
- Ðạo thánh đế nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.
- Nhân sanh khổ thánh đế nên diệt, thì đã diệt xong.
- Diệt thánh đế nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
- Ðạo thánh đế nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.
Thật ra, trong 4
phận sự Tứ thánh đế này, trí tuệ thiền tuệ tam giới
(lokiyavipassanā) có phận sự thấy rõ biết rõ khổ đế, thì 3 phận
sự của 3 thánh đế còn lại được thành tựu đồng thời không trước không sau; đến
trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới (lokuttaravipassanā) hoàn
thành 4 phận sự của Tứ thánh đế đồng thời không trước không sau. Như vậy, gọi là
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn,
giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.
25-
Vấn: Hạng phàm nhân
sống trong đời biết khổ, với bậc hành giả tiến hành thiền tuệ biết khổ khác nhau
như thế nào?
Ðáp: Hạng phàm nhân sống
trong đời (không phải hành giả) khi biết khổ, thường có tà kiến chấp thủ
cho là ta bị khổ, nên làm nhân duyên để cho tâm tham ái phát
sanh, đi tìm sự an lạc. Ví dụ: Khi bị bệnh hoạn ốm đau, khổ
thân dẫn đến khổ tâm lo lắng, mong muốn tìm thầy giỏi,
thuốc hay để chữa trị cho được mau chóng khỏi bệnh.
Như Ðức Phật dạy:
"Vedanā paccayā taṇhā sambhavati...".
(Do thọ lạc, hoặc
thọ khổ, hoặc thọ không lạc không khổ làm duyên nên tham ái phát
sanh).
- Ðối với hành giả
đang tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ danh pháp, sắc pháp
là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta,... danh pháp sắc pháp trong
tam giới đều chỉ là khổ đế (dukkhasacca) mà thôi, không có
sự an lạc thật sự nào; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ danh pháp sắc pháp có
trạng thái khổ, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế: khổ
thánh đế; tập thánh đế; diệt thánh đế; đạo thánh đế; chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4
Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tâm tham ái không còn
dư sót, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam
giới.
Như vậy, hạng phàm
nhân (không phải hành giả) biết khổ làm nhân duyên
cho tâm tham ái phát sanh, dẫn dắt tái sanh khổ; còn bậc hành giả
có trí tuệ thiền tuệ biết khổ trong danh pháp sắc pháp, làm nhân
duyên diệt tâm tham ái, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát
khổ sanh. Ðó là điều khác nhau giữa hạng phàm nhân với bậc hành
giả tiến hành thiền tuệ.
26-
Vấn: Trong việc tiến
hành thiền tuệ thay đổi oai nghi có tầm quan trọng như thế nào?
Ðáp: Thay đổi oai nghi
là việc thông thường trong cuộc sống hằng ngày, đối với người không phải là hành
giả tiến hành thiền tuệ.
* Ðối với hành giả
tiến hành thiền tuệ có tứ oai nghi làm đối tượng thiền tuệ, thì việc thay đổi từ
oai nghi cũ sang oai nghi mới rất quan trọng, bởi vì, đó là thời điểm bắt đầu
của một oai nghi mới làm đối tượng thiền tuệ.
Tứ oai nghi: đi,
đứng, ngồi, nằm là sắc pháp phát sanh từ tâm. Những tâm làm nhân duyên phát sanh
tứ oai nghi gồm có 32 tâm [3]
, ở đây chỉ đề cập đến 8 tâm tham, 2 tâm sân, 2 tâm si, 8 đại thiện
tâm là những tâm dễ nhận thức.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ có tứ oai nghi làm đối tượng thiền tuệ phải nên có ý thức rằng: khi
thay đổi từ oai nghi cũ sang oai nghi mới, là sự bắt đầu của một đối tượng
mới, có tầm rất quan trọng trong việc tiến hành thiền tuệ, vì đó là đối
tượng thiền tuệ để thực nghiệm biết rõ sự thật chân lý.
Quan trọng như thế
nào?
- Nếu oai nghi nào
được phát sanh do tâm tham, thì oai nghi ấy là phương tiện của tâm
tham, là sản phẩm của tâm tham; khi sử dụng oai nghi ấy làm đối tượng thiền tuệ,
hành giả khó có được chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ
thực tánh của oai nghi ấy, bởi vì oai nghi ấy không tự nhiên.
- Nếu oai nghi nào
được phát sanh do tâm sân, thì oai nghi ấy là phương tiện của tâm
sân, là sản phẩm của tâm sân; khi sử dụng oai nghi ấy làm đối tượng thiền tuệ,
hành giả khó có được chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ
thực tánh của oai nghi ấy, bởi vì oai nghi ấy không tự nhiên.
- Nếu oai nghi nào
được phát sanh do tâm si, thì oai nghi ấy là phương tiện của tâm
si, là sản phẩm của tâm si; khi sử dụng oai nghi ấy làm đối tượng thiền tuệ,
hành giả khó có được chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ
thực tánh của oai nghi ấy, bởi vì oai nghi ấy không tự nhiên.
- Nếu oai nghi nào
được phát sanh do đại thiện tâm, thì oai nghi ấy là phương tiện
của đại thiện tâm, là sản phẩm của đại thiện tâm; khi sử dụng oai nghi ấy làm
đối tượng thiền tuệ, hành giả dễ có được chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác
thấy rõ biết rõ thực tánh của oai nghi ấy, bởi vì oai nghi ấy tự
nhiên.
Ðiều kiện nào thay
đổi oai nghi?
Ðối với hành giả
tiến hành thiền tuệ, khi thay đổi oai nghi cũ sang oai nghi mới với điều
kiện khổ trực tiếp là khổ đã phát sanh ở oai nghi cũ,
chính khổ ấy bắt buộc phải thay đổi oai nghi mới, để làm giảm bớt
khổ trong oai nghi cũ ấy.
Hành giả có trí tuệ
tỉnh giác, có ý thức rõ rằng: thay đổi sang oai nghi mới cốt để làm giảm
bớt khổ trong oai nghi cũ, không phải để được thoải mái.
Khi thay đổi, hành
giả cần phải có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác theo dõi từng mỗi oai
nghi phụ cử động của thân, diễn biến theo tuần tự từ oai nghi cũ cho đến khi
hoàn thành oai nghi mới, làm cho chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác phát triển liên
tục không gián đoạn.
Có những trường hợp
khác, cần phải thay đổi oai nghi, với điều kiện khổ gián tiếp, là
khổ không phải từ oai nghi cũ, mà là khổ do những trường hợp như:
đau tiểu tiện, đau đại tiện, đói, khát, tắm rửa, giặt giũ, v.v... Ðể cho chánh
niệm, trí tuệ tỉnh giác được phát triển liên tục, không gián đoạn, hành giả nên
có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ thực tánh của
sắc pháp nào rõ ràng nhất, danh pháp nào rõ ràng nhất. Bởi vì
những đối tượng phụ này cũng làm đối tượng của thiền tuệ được.
27-
Vấn: Thay đổi oai
nghi với điều kiện khổ đế trực tiếp đã phát sanh trong oai nghi cũ như
thế nào?
Ðáp:
-- Khi đang đi, oai
nghi đi cũ, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ
khổ đế đã phát sanh trong dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển
bước đi; chứ không phải khổ đế đã phát sanh nơi một bộ phận nào trong thân như:
đôi chân bước mỏi mệt, v.v... Sự thật, khổ đế đã phát sanh trong dáng đi, tư thế
đi toàn thân; cho nên, mỗi khi thay đổi oai nghi đi cũ là thay đổi dáng đi, tư
thế đi toàn thân sang một oai nghi mới khác, không phải thay đổi một bộ phận nào
trong thân.
- Khi đang đứng, oai
nghi đứng cũ, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết
rõ khổ đế đã phát sanh trong dáng đứng, tư thế đứng toàn thân đứng
yên; chứ không phải khổ đế đã phát sanh nơi một bộ phận nào trong thân như: mỏi
chân, v.v... Sự thật, khổ đế đã phát sanh trong dáng đứng, tư thế đứng toàn
thân; cho nên, mỗi khi thay đổi oai nghi đứng cũ là thay đổi dáng đứng, tư thế
đứng toàn thân sang một oai nghi mới khác, không phải thay đổi một bộ phận nào
trong thân.
- Khi đang ngồi, oai
nghi ngồi cũ, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết
rõ khổ đế đã phát sanh trong dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi
yên; chứ không phải khổ đế đã phát sanh nơi một bộ phận nào trong thân như: đau
nhức ở mông, hai chân v.v... Sự thật, khổ đế đã phát sanh trong dáng ngồi, tư
thế ngồi toàn thân; cho nên, mỗi khi thay đổi oai nghi ngồi cũ là thay đổi dáng
ngồi, tư thế ngồi toàn thân sang một oai nghi mới khác, không phải thay đổi một
bộ phận nào trong thân.
- Khi đang nằm, oai
nghi nằm cũ, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ
khổ đế đã phát sanh trong dáng nằm, tư thế nằm toàn thân nằm yên;
chứ không phải khổ đế đã phát sanh nơi một bộ phận nào trong thân như: đau nhức
phần thân tiếp xúc với mặt phẳng, v.v... Sự thật, khổ đế đã phát sanh trong dáng
nằm, tư thế nằm toàn thân; cho nên, mỗi khi thay đổi oai nghi nằm cũ là thay đổi
dáng nằm, tư thế nằm toàn thân sang một oai nghi mới khác, không phải thay đổi
một bộ phận nào trong thân.
28-
Vấn: Có phương pháp
nào ngăn ngừa tâm sân phát sanh trong trong oai nghi cũ, và ngăn ngừa tâm tham
phát sanh trong oai nghi mới không?
Ðáp: Ðể ngăn ngừa tâm
sân phát sanh trong oai nghi cũ và ngăn ngừa tâm tham phát sanh trong oai nghi
mới, chỉ có biết yonisomanasikāra [4] mà thôi.
Yonisomanasikāra như thế
nào?
- Oai nghi cũ có
thọ khổ, thân bị khổ, tâm sân dễ phát sanh không hài
lòng nơi oai nghi cũ ấy, nhờ có yonisomanasikāra trí tuệ hiểu biết đúng
theo trạng thái của sắc pháp ấy rằng: oai nghi cũ khổ, không phải ta
khổ, do đó tâm sân không thể nương nhờ oai nghi cũ mà phát
sanh.
- Oai nghi mới có
thọ lạc, thân được an lạc, thân thoải mái, tâm tham
dễ phát sanh hài lòng nơi oai nghi mới ấy, nhờ có yonisomanasikāra trí
tuệ hiểu biết đúng theo trạng thái của sắc pháp ấy rằng: oai nghi mới được an
lạc, không phải ta an lạc, do đó, tâm tham không thể nương nhờ oai
nghi mới mà phát sanh; hơn nữa, thay đổi oai nghi mới là do khổ oai nghi cũ bắt
buộc, nên phải thay đổi để làm giảm sự khổ trong oai nghi cũ, chứ không phải
muốn được thoải mái, an lạc nào cả, đó là sự thật.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ có trí tuệ diệt được tâm sân và tâm tham
cùng với tâm si, nên có được chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực
giác thấy rõ biết rõ thực tánh của mỗi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v... do
đó, hành giả tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo, con đường dẫn
đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả và Niết
Bàn, giải thoát khổ.
29-
Vấn: Hành giả muốn đi,
muốn đứng, muốn ngồi, muốn nằm... với phải đi, phải đứng, phải ngồi, phải nằm...
khác nhau như thế nào?
Ðáp: Hành giả muốn đi,
muốn đứng, muốn ngồi, muốn nằm... với phải đi, phải đứng, phải ngồi, phải nằm...
về mặt hình thức bên ngoài khác nhau không đáng kể. Song về mặt nội tâm bên
trong khác nhau rõ ràng:
- Tứ oai nghi: đi,
đứng, ngồi, nằm là sắc pháp phát sanh từ tâm. Muốn đi, muốn đứng, muốn ngồi,
muốn nằm... mỗi oai nghi ấy là phát sanh từ tâm tham mong muốn sự
lợi ích, sự an lạc nào, mà người ta mong muốn.
Nếu hành giả muốn
đi, muốn đứng, muốn ngồi, muốn nằm... để tiến hành thiền tuệ mong muốn thấy rõ
biết rõ thực tánh của sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm..., thì hành giả sẽ
khó thấy rõ biết rõ được thực tánh của sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm...,
bởi vì trong tâm tham luôn luôn có tâm sở si đồng sanh làm ô
nhiễm, che án mọi thực tánh của các pháp. Thật ra, tiến hành thiền tuệ cốt để
diệt tâm tham muốn, chứ không phải để phát sanh tâm tham
muốn.
- Phải đi, phải
đứng, phải ngồi, phải nằm..., mỗi oai nghi ấy phát sanh do khổ của
oai nghi cũ bắt buộc phải thay đổi, để làm giảm bớt khổ trong oai nghi cũ, đó là
sự thật, như vậy, tâm tham sẽ không nương nhờ nơi oai nghi ấy mà phát sanh, nên
diệt được tâm tham.
Cho nên, hành giả
tiến hành thiền tuệ có ý thức rõ rằng: phải đi, phải đứng, phải ngồi, phải
nằm..., cốt chỉ làm giảm bớt khổ trong oai nghi cũ mà thôi, không phải mong muốn
tìm sự thoải mái trong oai nghi mới, nhờ có ý thức rõ như vậy, mới ngăn ngừa
được tâm tham nương nhờ nơi oai nghi mới phát sanh. Hành giả tiến
hành thiền tuệ có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ thực
tánh của dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi gọi là sắc
đi; thấy rõ biết rõ thực tánh của dáng đứng, tư thế đứng toàn thân đứng
yên gọi là sắc đứng; thấy rõ biết rõ thực tánh của dáng ngồi, tư
thế ngồi toàn thân ngồi yên gọi là sắc ngồi; thấy rõ biết rõ thực
tánh của dáng nằm, tư thế nằm toàn thân nằm yên gọi là sắc
nằm...
30-
Vấn: Bằng cách nào mà
hành giả nhận thức biết rõ được khi nào muốn đi và khi nào phải đi, muốn đứng và
phải đứng, muốn ngồi và phải ngồi, muốn nằm và phải nằm?
Ðáp: Hành giả nhận thức
rõ được rằng:
- Muốn đi, muốn
đứng, muốn ngồi, muốn nằm... là do tâm tham muốn được sự lợi ích
an lạc nào đó.
- Phải đi, phải
đứng, phải ngồi, phải nằm... là do khổ đế bắt buộc phải thay đổi,
không thay đổi không thể được.
Như vậy, để có thể
nhận thức biết được khi nào muốn đi và khi nào phải đi, bằng cách hành giả tự
vấn mình và tự trả lời một cách trung thực với mình.
* Khi hành giả có ý
định thay đổi sang oai nghi đi mới, nên đặt vấn đề tự vấn mình
rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi đi mới được hay không?
Tự trả lời một cách
trung thực rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi đi mới cũng được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi đi mới là điều không cần thiết. Nếu cứ thay đổi
sang oai nghi đi mới, thì đó là muốn đi do tâm tham muốn được sự
lợi ích, sự an lạc nào đó.
- Không thay
đổi sang oai nghi đi mới, không thể được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi đi mới là điều rất cần thiết. Nếu thay đổi sang oai
nghi đi mới, thì đó là phải đi do khổ trong oai nghi cũ bắt buộc
phải thay đổi, để làm giảm bớt khổ đế đã phát sanh trong oai nghi cũ.
Tương tự như
vậy,
* Khi hành giả có ý
định thay đổi sang oai nghi đứng mới, nên đặt vấn đề tự vấn mình
rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi đứng mới được hay không?
Tự trả lời một cách
trung thực rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi đứng mới cũng được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi đứng mới là điều không cần thiết. Nếu cứ thay đổi
sang oai nghi đứng mới, thì đó là muốn đứng do tâm tham muốn được
sự lợi ích, sự an lạc nào đó.
- Không thay
đổi sang oai nghi đứng mới, không thể được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi đứng mới là điều rất cần thiết. Nếu thay đổi sang
oai nghi đứng mới, thì đó là phải đứng do khổ trong oai nghi cũ
bắt buộc phải thay đổi, để làm giảm bớt khổ đế đã phát sanh trong oai nghi
cũ.
* Khi hành giả có ý
định thay đổi sang oai nghi ngồi mới, nên đặt vấn đề tự vấn mình
rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi ngồi mới được hay không?
Tự trả lời một cách
trung thực rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi ngồi mới cũng được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi ngồi mới là điều không cần thiết. Nếu cứ thay đổi
sang oai nghi ngồi mới, thì đó là muốn ngồi do tâm tham muốn được
sự lợi ích, sự an lạc nào đó.
- Không thay
đổi sang oai nghi ngồi mới, không thể được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi ngồi mới là điều rất cần thiết. Nếu thay đổi sang
oai nghi ngồi mới, thì đó là phải ngồi do khổ trong oai nghi cũ
bắt buộc phải thay đổi, để làm giảm bớt khổ đế đã phát sanh trong oai nghi
cũ.
* Khi hành giả có ý
định thay đổi sang oai nghi nằm mới, nên đặt vấn đề tự vấn mình
rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi nằm mới được hay không?
Tự trả lời một cách
trung thực rằng:
- Không thay
đổi sang oai nghi nằm mới cũng được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi nằm mới là điều không cần thiết. Nếu cứ thay đổi
sang oai nghi nằm mới, thì đó là muốn nằm do tâm tham muốn được sự
lợi ích, sự an lạc nào đó.
- Không thay
đổi sang oai nghi nằm mới, không thể được.
Ðiều đó chứng tỏ
rằng: thay đổi sang oai nghi nằm mới là điều rất cần thiết. Nếu thay đổi sang
oai nghi nằm mới, thì đó là phải nằm do khổ trong oai nghi cũ bắt
buộc phải thay đổi, để làm giảm bớt khổ đế đã phát sanh trong oai nghi
cũ.
31-
Vấn: Trí tuệ thấy rõ biết
rõ khổ đế trong oai nghi đến mức nào, cần phải thay đổi oai nghi cũ
ấy?
Ðáp: Trí tuệ thiền tuệ
thấy rõ biết rõ khổ đế trong mỗi oai nghi của mỗi hành giả có tính
chất khác nhau, cho nên khó mà xác định có một mức nào làm chuẩn. Tuy nhiên,
hành giả không nên chịu đựng khổ đế quá mức bình thường mới chịu
thay đổi oai nghi cũ, như vậy làm mất tính tự nhiên; và cũng không nên dễ
dãi quá cứ luôn luôn thay đổi oai nghi, như vậy khó thấy rõ biết rõ
khổ đế trong oai nghi.
Do đó, hành giả có
chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ khổ đế
phát sanh trong oai nghi cũ nào vừa phải theo khả năng chịu đựng của mình một
cách tự nhiên, cũng đủ làm điều kiện có thể thay đổi oai nghi cũ sang oai nghi
mới, mà không để cho phiền não sân có thể nương nhờ nơi oai nghi
cũ mà phát sanh; và cũng không để phiền não tham có thể nương nhờ
nơi oai nghi mới mà phát sanh.
Như vậy, hành giả
tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý
Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả và Niết Bàn.
Thật ra, khổ
đế của danh pháp sắc pháp là đối tượng của thiền tuệ có nhiều
loại:
- Dukkhadukkha:
Khổ thật khổ, đó là thọ khoå (dukkhavedanā) trong danh
pháp sắc pháp; loại thọ khổ này có tính chất thô, khó chịu đựng, khi nó phát
sanh trong oai nghi cũ nào, nếu thay đổi oai nghi cũ ấy sang oai nghi mới, thì
có thể làm giảm bớt thọ khổ ở oai nghi cũ.
-
Vipariṇāmadukkha: Biến chất khổ, đó là thọ lạc
(sukhavedanā) trong danh pháp sắc pháp; loại thọ lạc này có tính
chất khổ vi tế, dễ chịu đựng, nhưng nó bị vô thường biến đổi, nên thọ lạc biến
thành khổ; khi thọ lạc này phát sanh trong oai nghi mới nào, oai nghi mới ấy có
thể giảm bớt thọ khổ trong oai nghi cũ.
- Saṅkhāradukkha:
Pháp hành khổ, đó là tất cả pháp hữu vi: danh pháp sắc pháp
trong tam giới luôn luôn bị cấu tạo bởi 4 nguyên nhân: nghiệp, tâm, thời
tiết, vật thực, sanh rồi diệt không ngừng, luôn luôn bị hành hạ; pháp hành
khổ này không có cách nào làm giảm bớt khổ được, dầu thay đổi oai nghi mới, cũng
không thể thay đổi tính chất pháp hành khổ của danh pháp sắc pháp. Hễ còn có
danh pháp sắc pháp trong tam giới, thì vẫn còn có pháp hành khổ.
Trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ biết rõ pháp hành khổ của danh pháp sắc pháp, dễ phát sanh
tâm nhàm chán trong ngũ uẩn, trong danh pháp sắc pháp này, nên
diệt được tâm tham ái trong danh pháp sắc pháp.
32-
Vấn: Có nên quy định thời
gian trong mỗi oai nghi hay không?
Ðáp: Mỗi oai nghi là sắc
pháp phát sanh từ tâm do nhiều nhân duyên của chính nó [5] , và trí tuệ của
hành giả thấy rõ biết rõ khổ đế trong mỗi oai nghi khác nhau, theo mỗi lúc. Do
đó, không nên quy định thời gian nhất định trong mỗi oai nghi, chỉ nên để mỗi
oai nghi được tồn tại tuỳ theo nhân duyên của chính nó mà thôi.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ có tứ oai nghi làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ càng bén
nhạy, thì thấy rõ biết rõ khổ đế trong mỗi oai nghi càng mau, đó
là điều kiện cần thiết để thay đổi oai nghi cũ sang oai nghi mới, làm giảm bớt
khổ nơi oai nghi cũ, cứ thay đổi luôn luôn như vậy, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ
biết rõ khổ đế của danh pháp sắc pháp, dễ phát sanh tâm nhàm chán khổ đế trong
danh pháp sắc pháp, nên diệt được tâm tham ái trong danh pháp sắc pháp
ấy.
Do đó, không thể quy
định thời gian trong mỗi oai nghi, bởi mỗi oai nghi được duy trì lâu hoặc mau,
tuỳ theo nhân duyên của chính nó.
33-
Vấn: Hành giả đang
tiến hành thiền tuệ có đối tượng tứ oai nghi: "Khi đang đi, có chánh niệm, trí
tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển
bước đi". Nếu có phóng tâm phát sanh, thì nên hành như thế nào?
Ðáp: Hành giả đang tiến
hành thiền tuệ khi đang đi, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ
biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi; nếu có phóng tâm phát
sanh nghĩ chuyện này, chuyện kia, v.v... làm cho chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác
buông bỏ đối tượng dáng đi, tư thế đi; khi biết được như vậy, thì hành giả trở
lại có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế
đi toàn thân di chuyển bước đi. Ðó là cách hành đơn
giản.
Ví
dụ:
tay cầm một vật, vật ấy bị rơi, khi biết được, lượm vật ấy cầm trở
lại.
Hoặc cách khác, khi
biết phóng tâm, thì hành giả chớ nên theo dõi câu chuyện (đối tượng chế định
pháp), mà nên biết trạng thái phóng tâm thuộc danh pháp
(đối tượng chân nghĩa pháp), ngay tức khắc câu chuyện và phóng tâm không
còn nữa, khi ấy hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết
rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi trở lại như trước.
Tương tự như vậy,
khi đang đứng, khi đang ngồi, khi đang nằm cũng hành như khi đang đi.
34-
Vấn: Phóng tâm là pháp
chướng ngại của pháp hành thiền tuệ có phải không?
Ðáp: Thật ra,
phóng tâm là pháp chướng ngại của pháp hành thiền định, bởi vì,
phóng tâm làm cho định tâm không an trú trong một đề mục thiền định duy nhất ấy.
Ðối với pháp hành
thiền tuệ, phóng tâm trở thành đối tượng thiền tuệ, trong phần
niệm pháp có đối tượng 5 pháp chướng ngại.
Như vậy, phóng tâm
là danh pháp trở thành đối tượng của pháp hành thiền tuệ, thì không thể nói là
pháp chướng ngại của pháp hành thiền tuệ.
Song đối với hành
giả mới thực tập tiến hành thiền tuệ có đối tượng tứ oai nghi:
Khi đang ngồi, hành
giả nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng ngồi, tư
thế ngồi toàn thân ngồi yên không cử động; khi ấy, có phóng tâm phát sanh nghĩ
chuyện này, chuyện kia... làm cho chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác buông bỏ đối
tượng dáng ngồi, tư thế ngồi, toàn thân ngồi yên ấy. Nếu hành giả có tâm
sân phát sanh không hài lòng đối tượng phóng tâm (danh
phóng) ấy, thì có nghĩa là trước đó (trước khi phóng tâm phát sanh),
hành giả tiến hành thiền tuệ có tâm tham hài lòng nương nhờ
nơi đối tượng dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi yên ấy.
Như vậy, sự tiến
hành thiền tuệ của hành giả không đúng theo Pháp hành Trung đạo,
chắc chắn không chứng ngộ Niết Bàn, không giải thoát khổ tái sanh.
Hành giả nên có nhận
thức đúng đắn rằng:
Dáng ngồi, tư thế
ngồi toàn thân ngồi yên là sắc pháp phát sanh từ tâm thuộc sắc pháp;
còn phóng tâm là danh pháp. Sắc pháp hoặc danh pháp
thuộc về chân nghĩa pháp có sự sanh, sự diệt; có trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, có khả năng dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo -- 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Khi hành giả có được
sự nhận thức như vậy, thì không xem trọng đối tượng dáng ngồi, tư thế ngồi
toàn thân ngồi yên; cũng không xem khinh đối tượng phóng
tâm (danh phóng), nên tâm tham không nương nhờ nơi
đối tượng dáng ngồi, tư thế ngồi toàn thân ngồi yên, và tâm sân
cũng không nương nhờ nơi đối tượng phóng tâm. Hành giả tiến hành thiền tuệ có
sắc pháp hoặc danh pháp làm đối tượng tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp
hành Trung đạo, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ tái
sanh.
35-
Vấn: Hành giả đang
tiến hành thiền tuệ có đối tượng tứ oai nghi: "Khi đang đi, có chánh niệm, trí
tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển
bước đi". Nếu có tâm suy nghĩ phát sanh, thì nên hành như thế nào?
Ðáp: Hành giả đang tiến
hành thiền tuệ khi đang đi, có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ
biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi; nếu có tâm suy nghĩ về
chuyện làm phước, chuyện làm thiện, v.v... phát sanh, làm cho chánh niệm, trí
tuệ tỉnh giác buông bỏ đối tượng dáng đi, tư thế đi...
Khi ấy hành giả tự
dạy mình rằng: "Bây giờ, không phải là lúc suy nghĩ về những chuyện ấy, mà là
lúc đang tiến hành thiền tuệ. Trong mọi việc phước, phước tiến hành thiền tuệ là
cao quý hơn cả".
- Nếu tâm biết nghe
lời ngừng suy nghĩ về những chuyện ấy, thì hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh
giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi
trở lại như trước.
- Nếu tâm không chịu
nghe lời, không ngừng suy nghĩ về những chuyện ấy, thì hành giả niệm về sự
chết của mình, tâm không dám dể duôi, suy nghĩ về những chuyện ấy nữa.
Khi ấy, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy rõ biết rõ dáng
đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi trở lại như trước.
Sự thật, phóng tâm
dễ diệt hơn tâm suy nghĩ, bởi vì phóng tâm chuyện này, chuyện kia do bị
động, thất niệm, quên mình buông bỏ đối tượng hiện tại đang tiến hành
thiền tuệ; còn tâm suy nghĩ về những chuyện làm phước, chuyện làm thiện... ấy,
lại do chủ động buông bỏ đối tượng hiện tại đang tiến hành thiền
tuệ, để suy nghĩ về những chuyện ấy.
36-
Vấn: Hành giả đang tiến
hành thiền tuệ có đối tượng tứ oai nghi: "Khi đang đi, hoặc đang đứng, hoặc đang
ngồi, hoặc đang nằm... tâm không được ổn định an tịnh tự nhiên, do phóng tâm
phát sanh liên tục hết chuyện này đến chuyên khác; hoặc do tâm suy nghĩ
mung lung chuyện làm phước, chuyện làm tội, v.v... không làm sao chế ngự
được". Trong tình trạng như vậy, hành giả nên hành như thế nào, để làm cho tâm
được ổn định an tịnh tự nhiên?
Ðáp: Ðối với hành giả
bắt đầu thực tập tiến hành thiền định hoặc tiến hành thiền
tuệ thường hay gặp khó khăn ban đầu; đặc biệt hành giả tiến hành thiền
tuệ lại càng khó khăn hơn, lại thêm tính cách bất thường hằng ngày, có khi phóng
tâm, có khi tâm suy nghĩ không làm sao chế ngự được. Trong tình trạng như vậy,
hành giả nên có giải pháp như sau:
1- Giải pháp theo
dõi tâm:
Hành giả không nên
áp chế tâm theo ý của mình, chỉ nên buông lỏng tâm, có chánh niệm theo dõi
trạng thái tâm ấy mà thôi, không nên theo dõi câu chuyện, hoặc
việc gì cả.
Nếu tâm ổn định an
tịnh, thì mới tiếp tục trở lại có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác thấy
rõ biết rõ thực tánh của đối tượng đang tiến hành ấy.
2- Giải pháp thay
đổi đối tượng:
Nếu giải pháp theo
dõi tâm không có hiệu quả, thì nên thay đổi sang đối tượng thiền định 1 trong 4
đề mục thiền định phổ thông có thể giúp cho tâm của hành giả mau chóng ổn định
an tịnh tự nhiên.
Bốn đề mục thiền
định ấy là:
* Niệm 9 Ân
Ðức Phật [6]
, làm phát sanh đức
tin trong sạch nơi Ðức Phật, tâm thiện phát sanh, thiện pháp tăng
trưởng.
* Niệm
về sự chết rằng: "Sự chết chắc chắn sẽ xảy đến với
ta, song không biết chắc khi nào", giúp làm cho hành giả không dám dể
duôi trong mọi thiện pháp.
* Niệm rải tâm
từ: trước tiên, niệm rải tâm từ cho chính mình, để làm cho tâm thiện của
mình được mát mẻ, an lạc; sau đó, niệm rải tâm từ đến mọi người, mọi chúng sinh,
cầu mong cho họ được an lạc, giúp cho hành giả tránh được mọi điều trở ngại,
điều tai hại không xảy đến với hành giả.
* Quán
tưởng thân bất tịnh: quán tưởng thân của mình bất tịnh, ô trược,
đáng nhờm gớm thật sự, rồi quán tưởng đến thân người khác cũng bất tịnh, ô
trược, đáng nhờm gớm,... giúp diệt được tâm tham ái trong sắc thân ô trược
này.
Ðó là bốn đề mục
thiền định phổ thông hỗ trợ cho hành giả tiến hành thiền định, hoặc tiến hành
thiền tuệ. Trong bốn đề mục thiền định này, hành giả xét thấy đề mục nào thích
hợp có thể làm cho tâm thiện phát sanh, đồng thời làm cho tâm ác bị diệt; làm
cho thiện pháp tăng trưởng, đồng thời làm cho ác pháp bị diệt, giúp cho tâm hành
giả được ổn định an tịnh tự nhiên; rồi hành giả bắt đầu tiến hành thiền tuệ có
đối tượng tứ oai nghi trở lại, nên bắt đầu oai nghi đi, bởi vì chỉ
oai nghi đi là có trạng thái động, nên chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực giác
thấy rõ biết rõ dáng đi, tư thế đi toàn thân di chuyển bước đi... được dễ dàng
hơn các oai nghi đứng, oai nghi ngồi, oai nghi nằm có trạng thái
tĩnh.
[3] 32 tâm đó là: 8 tâm tham + 2 tâm sân +
2 tâm si + 8 đại thiện tâm + 8 đại duy tác tâm + 1 tiếu sanh tâm + 1 ý môn hướng
tâm + 2 thần thông tâm.
[6] Xem quyển "Tìm hiểu Pháp môn niệm
Phật".HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.24/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment