Tuesday 20 December 2011

Tiểu Sử Thiền Sư Trần Tâm
Thiền Sư Trần Tâm được sinh ra trong một gia đình theo đạo Phật truyền thống tại Việt Nam, vào một giai đoạn lịch sử đau thương của đất nước. Song thân của Ngài là những người dân lao động cần cù, chỉ biết làm sao sống được qua thời loạn lạc mà vẫn giữ được nề nếp đạo đức, gia phong của cha ông và nuôi dạy được đàn con nên người.

Người có ảnh hưởng lớn nhất đến tính cách và chí hướng cuộc đời của Ngài là ông ngoại. Ông là người có cuộc sống tu hành, gìn giữ giáo lý đạo đức thâm sâu của đạo Phật, cũng là một võ sư tài giỏi và giàu lòng nghĩa hiệp, là người đã cho Ngài những bài học đầu tiên về tinh thần quả cảm, lòng nhân ái và đạo đức làm người. Trước khi về với tổ tiên, ông dặn dò con cháu không được để mai một những gì mà cả đời ông đã tâm huyết vun đắp và bảo vệ. Suốt cuộc đời, Thiền Sư chưa bao giờ quên những lời trăn trối của ông ngoại mình và cho tới tận bây giờ, con cháu vẫn noi gương ông gìn giữ nếp sống đạo đức, thương yêu nhau và biết thờ phụng Phật - Bồ Tát.

Từ khi còn rất nhỏ, Ngài đã phải chứng kiến những cảnh đồng bào mình bị tàn sát đau thương vì chiến tranh, những tai họa bỗng dưng ập lên đầu mà họ không sao chống đỡ nổi làm tâm hồn Ngài rất tổn thương. Nỗi đau âm ỉ khiến Ngài trở thành một cậu bé trầm lặng, luôn dấu kín những tình cảm của mình. Mặc dù vậy, những người thân, bạn bè và thầy cô giáo đều rất yêu quý Ngài – một cậu bé hiền lành, hay thương người và luôn giúp đỡ những người khác.

Ngài có một người bạn tâm giao hồi nhỏ, đó là người chị gái chẳng hơn Ngài mấy tuổi, luôn luôn an ủi cậu em trai lúc cậu đau buồn và cũng luôn bị cậu chất vấn những câu hỏi mà cả hai chị em đều không tìm được lời giải đáp: “Ta là ai? Mình từ đâu đến? Con người đến trái đất này để làm gì? Vì sao lại cực khổ như vậy? Tại sao họ không thương yêu nhau? Vì sao con người đến thế giới này để rồi phải chết đi? Sau khi chết họ sẽ đi về đâu? ” - những vấn đề quá lớn và quá khó đối với một tâm hồn còn thơ bé và nhậy cảm.

Năm mười 12 tuổi, Thiền Sư Trần Tâm rời Việt Nam sang sống tại Mỹ. Chuyến tàu vượt Đại dương năm ấy là chuyến tàu bất hạnh. Giữa biển cả mênh mông, đôi mắt trẻ thơ của Ngài một lần nữa lại phải chứng kiến những cảnh tượng cướp của, giết người một cách tàn nhẫn. Quá đau khổ và sợ hãi, trong tình cảnh không còn đường nào để thoát, những người còn sống sót trên tàu cùng đồng tâm niệm cầu Phật – Bồ Tát cứu giúp. Quá khiếp sợ, cổ họng khô vì khát nước, Ngài đã ngất đi trong tiếng niệm cầu nghẹn ngào khẩn thiết ấy. Trong mơ Ngài đã gặp Phật Bà Quan Âm Bồ Tát hào quang rực rỡ hạ mây tới an ủi chở che và cho Ngài uống từng giọt cam lồ. Khi tỉnh dậy Ngài vẫn còn cảm nhận được tình thương dạt dào ấy và cho tới khi tàu cập bến, kỳ lạ thay Ngài hết hẳn cảm giác khô rát bỏng họng. Chưa kịp hết mừng rỡ, nỗi đau đớn khác lại ập tới với Ngài, tai họa trên đã cướp đi người chị gái, người bạn mà Ngài yêu quý nhất.

Trái tim bé nhỏ không chứa nổi nỗi đau quá lớn. Cho tới mãi sau này mỗi khi nhớ lại Ngài vẫn cảm thấy trái tim mình nghẹn đau. Ngài phát nguyện trường chay tu hành và ý thức tìm con đường giải thoát của Ngài đã trỗi dậy mãnh liệt từ những ngày ấy.

Những ngày sống trên đất Mỹ tự do và văn minh, Ngài được hưởng một nền giáo dục học vấn toàn diện, tất cả điều kiện vật chất đầy đủ và tình thương yêu như những đứa trẻ khác. Nhưng những chấn động trong tâm hồn do những ký ức tuổi thơ khiến Ngài luôn cảm thấy cô đơn và trống trải. Nỗi niềm đó đã thể hiện trong nhiều bài thơ Ngài viết vào thời kỳ này:

“ Mẹ có biết không con thương người dân Việt

Khổ đời đời không biết đi đâu

Chết thảm thương trên biển cả, dưới bể sâu

Lòng hiếu thảo con phải đành xa mẹ.”

Ở trường Trung học tại tiểu bang Massachuset Ngài thường viết những bài báo “ Con người phải ăn chay “, “Đi tìm con đường tự do” và nhiều bài báo, bài thơ khác về đề tài ăn chay và lý tưởng tu hành, khiến các thầy cô và bạn bè trong trường rất chú ý vì toàn trường có mình Ngài là người Việt Nam, tuổi nhỏ, ăn chay trường, có tâm đạo đức và dường như chín chắn hơn các bạn cùng trang lứa rất nhiều.

Vào những ngày nghỉ cuối tuần Ngài thường đến làm công quả tại một ngôi chùa gần đó. Các thầy cô giáo, bạn bè ở trường Trung học và các vị Phật tử ở chùa đều rất thương mến Ngài, thấy Ngài rất chăm chỉ lao động, có lòng tự trọng và một tư chất khác thường. Họ thường lén gọi Ngài là “Đại Sư”, mặc dù mẹ của Ngài không cho phép như vậy. Linh cảm người mẹ mách bảo con của bà rồi sẽ rời khỏi vòng tay bà. Nó sẽ đi theo tiếng gọi của trái tim mình.

Năm tháng cứ trôi qua, càng trưởng thành Ngài càng nhận thấy con người dù ở nơi đâu trên trái đất này, dù mang trong mình dòng máu nào, sắc tộc nào đều có nỗi thống khổ giống nhau. Càng tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội, Ngài nhận ra không phải chỉ những người nghèo mà ngay cả những người giàu có, thành đạt cũng có những nỗi đau khổ và bế tắc tột cùng. Qua những bài thơ Ngài đã viết trong thời kỳ này chúng ta thấy có một điều lạ là mặc dù đã trải qua những giờ phút cô đơn và tuyệt vọng, dù đã phải chứng kiến nỗi thảm sát của con người với nhau, nhưng trong sâu thẳm trái tim đầy trắc ẩn của cậu bé Trần Tâm khi ấy không hề có chỗ cho sự bi quan và thù hận, mà ngược lại tâm hồn Cậu rất sáng trong, đầy lòng thương và nỗi cảm thông muốn cứu vớt những số phận bất hạnh trong cuộc đời vô thường này.

Với sự hiểu biết và khả năng của một cậu bé vị thành niên khi ấy, Ngài đã làm tất cả mọi việc để giúp đỡ những hoàn cảnh khốn khó. Bản thân Ngài có một cuộc sống đầy đủ về mọi mặt nhưng với tấm lòng thành mong làm vơi đi nỗi vất vả của những mảnh đời bất hạnh, Ngài đã không quản bất kỳ công việc làm nào để có thêm thu nhập. Ngoài giờ học ở trường, Ngài đã làm việc ngày đêm miệt mài: Trồng rau cải, rửa chén bát, dọn vệ sinh, đến chăm sóc tàu ngựa cho những gia đình giàu có. Số tiền thu nhập được hầu hết Ngài dùng cho công tác từ thiện, cứu trợ những nơi có thảm họa thiên nhiên: Philipin, Hồng Kông, Singapo, Malaysia, Việt Nam v.v…Phần nhỏ còn lại Ngài dành cho cuộc sống tu hành khổ hạnh tự lập của mình, không muốn phiền lụy tới gia đình vì một niềm tin mãnh liệt: Sư khổ hạnh sẽ giúp Ngài mau tìm ra Chân lý, giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau.

Được hấp thụ cả hai nền tôn giáo lớn là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, từ nhỏ Ngài có điều kiện để nghiên cứu giáo lý của hai nền tôn giáo này. Ngài nhận thức rằng các vị Minh Sư xưa kia – Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Đức Chúa Giêsu Kitô đều chứng ngộ một Chân lý và các Ngài đều dạy những điều giống nhau. Đó là con đường Âm thanh và Ánh sáng, mời gọi linh hồn con người trở về với ngôi nhà xưa, hòa nhập với Thượng Đế và vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi sinh tử.

Nhưng Chân lý nằm ở nơi đâu ? Bằng trí thông minh nhạy bén, Ngài đã hiểu rằng: Khổ hạnh không mang lại sự khai ngộ, Chân lý được mô tả trong kinh điển nhưng không thể tìm thấy trong kinh điển. Chỉ có một vị Chân Sư mới có khả năng dẫn dắt ta tìm ra con đường Đạo – con đường Chân lý mà hai vị Giáo chủ xưa kia đã để lại trong giáo lý của các Ngài.

“Ta muốn tìm Chân Sư cầu giải thoát

Chúng sinh ơi !

Ta nguyện một lòng tìm cho được pháp tu

Mai sau khi thoát được ngục tù

Nguyện hiến dâng tình thương cao cả

Nguyện dâng cả những gì ta nhận được nơi đây.”

Nỗi khát khao được Ngài thể hiện trong nhiều bài thơ đã thôi thúc Ngài tới Hy Mã Lạp Sơn - ngôi nhà của tất cả các vị Minh Sư từ cổ chí kim trên thế giới. Tại đây Ngài đã gặp một vị Minh Sư người Ấn độ và được truyền pháp môn “Diệu Âm”. Vô cùng sung sướng vì sau bao năm nhọc nhằn tìm kiếm, lần đầu tiên Ngài cảm nhận được Thượng Đế qua nguồn Diệu Âm linh thiêng này, điều mà trong kinh điển được gọi là “ Giáo ngoại biệt truyền”, và chỉ có Diệu Âm mới làm cho Chân lý trong kinh điển được sáng tỏ. Những thắc mắc của cậu bé Trần Tâm năm xưa cũng dần được tháo gỡ:

- Chúng ta đều là con cái của Thượng Đế, đến thế giới này vì khát vọng thăng hoa tâm linh và để mang Chân lý cao thượng của Đấng Cha Lành giúp đỡ cho Trái đất.

- Do bị lạc vào ảo ảnh của cuộc đời, chạy theo sự đam mê danh lợi, vật chất, con người ngày một xa rời Thượng Đế, quên đi bản tánh chân như ( Phật Tánh, linh hồn ) nên họ luôn đau khổ và hãm hại lẫn nhau.

- Nguyên nhân của mọi đau khổ không phải ở bên ngoài mà nằm chính trong chúng ta. Muốn thoát khỏi nó ta phải hướng vào bên trong để nhận biết. Diệu Âm là nguồn thần dược duy nhất chữa được căn bệnh phiền não nhân gian này. Nó dẫn dắt linh hồn con người lên những cõi linh thiêng, nơi chỉ còn tình thương của Thượng Đế, Phật – Bồ Tát.

- Tình thương bao la này sẽ xóa hết mọi tham lam, thù hận, khổ đau và sợ hãi. Con người chỉ khai thác được biển tình thương này nhờ Diệu Âm vi diệu trong ta. Diệu Âm giúp ta thanh tịnh cả thân xác và tinh thần, thăng hoa trên con đường tâm linh tìm về với Thượng Đế.

Trong lòng vô cùng vui sướng, Ngài không muốn rời xa vị Thầy nhưng phải trở về nhà vì luật công dân không cho phép ai rời khỏi gia đình khi chưa đến tuổi trưởng thành.

Quay về Mỹ, Ngài phải hoàn thành nốt công việc học tập ở trường, vẫn lặng lẽ âm thầm thiền định pháp môn Diệu Âm, lòng không nguôi nhớ những ngày tháng được tu hành với vị Thầy Ấn độ, mong sao những năm học mau chóng kết thúc để đi theo tiếng gọi của lý tưởng.

Khi vừa tròn 18 tuổi, vượt qua tất cả mọi cản trở, Ngài quyết định rời gia đình xuất gia tu học. Cha mẹ Ngài không sao hiểu nổi vì sao con mình thờ ơ với cuộc sống vinh hoa phú quý đang được hưởng. Bạn bè thầy cô giáo không giải thích được vì sao Ngài không tiếp tục sự nghiệp học vấn đang rộng mở để có một tương lai sáng lạn và danh vọng ở đời. Chỉ có Thượng Đế thấu hiểu và đồng tình với con đường mà Ngài đã chọn để dấn thân.

Ngài đã bôn ba khắp nơi, vượt qua rất nhiều khó khăn và thử thách, học hỏi giáo lý và tu tập với nhiều vị Minh Sư nổi tiếng ở Tây Phương và Á Đông, tham gia tu thiền với nhiều tôn giáo bạn và nhiều hội thiền định trên thế giới. Càng chuyên tâm tu hành và tự mình trải qua muôn vàn thể nghiệm, Ngài càng nhận thức rõ được sự màu nhiệm của pháp môn Diệu Âm này, pháp môn duy nhất cứu giúp linh hồn con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất, pháp môn đi ngược dòng để tìm và diệt tận gốc nguyên nhân gây khổ đau cho chúng sanh.

Ánh sáng Chân lý càng đến gần càng cuốn hút Ngài đi đến tận cùng của nó. Chính lúc này Ngài đã gặp nhiều thử thách trong cuộc đời. Trong đoàn thể tu hành có rất nhiều sự tranh chấp về vấn đề tu học, về mâu thuẫn tôn giáo. Càng muốn đi đến tột cùng của Chân lý, Ngài càng thấy rõ sự vô thường của cuộc đời, ngay cả trong cuộc sống của đoàn thể người xuất gia. Càng nhiều tranh chấp, tranh luận tôn giáo, con người chỉ càng xa rời sự thật Chân lý. Bản thân Ngài là người chỉ có một lòng khát khao mong cầu sự thật này. Càng muốn bảo vệ nó, Ngài càng bị sự cản trở tu hành, bị cô lập và phải chịu những bài học vô cùng nghiệt ngã. Thượng Đế đã đẩy Ngài tới chỗ không thể tiếp tục lý tưởng xuất gia tu hành của mình được nữa.

Lúc bị vấp ngã, Ngài gặp phải sự ngăn cản của tất cả các vị sư huynh đệ đồng môn không cho phép Ngài được gặp người Thầy của mình. Trong lòng hết sức cô đơn, thất vọng và chán nản, không còn đường nào để đi, Ngài trở lại Ấn độ tìm vị Thầy năm xưa, những mong thỏa nỗi thương nhớ Thầy cũng như tìm một nơi nương tựa trong lúc hụt hẫng này. Dù đã đi khắp nơi trên đất Ấn độ, Ngài không sao tìm được vị Thầy năm ấy. Không biết đi đâu, về đâu, Ngài lưu lại Hy Mã Lạp Sơn tu hành, ngóng trông gặp Thầy, nhưng Thầy của Ngài không hề trở lại.

Trở về Mỹ một thời gian sau, Ngài lập gia đình, sống cuộc sống tại gia. Trong tay đã có pháp môn cứu cánh, Ngài vẫn âm thầm thiền định Diệu Âm, vừa làm việc, vừa chăm sóc gia đình, những mong tìm được sự bình an ở nhân gian nhưng trong lòng Ngài vô cùng đau khổ vì không sao dứt bỏ được lý tưởng cao thượng của mình, trong khi con đường Chân lý vẫn còn xa vời vợi. Chính lúc này những áp lực, thử thách, sự cô lập và săn đuổi của những người bạn đồng môn năm xưa vẫn chưa chịu buông tha Ngài. Cuối cùng Ngài quyết định cùng gia đình ẩn tu tại một ngôi làng thuộc tiểu bang Florida - Mỹ.

Trải qua tất cả những thăng trầm, Ngài nhận thức rõ hạnh phúc ở nhân gian là hạnh phúc vô thường. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật xưa kia cũng từng lìa bỏ cung vàng, điện ngọc để đi tìm Chân lý. Cuộc sống vinh hoa phú quý, vật chất thế gian có bao nhiêu cũng không đem lại cho con người sự mãn túc và không giải thoát họ khỏi luân hồi sinh tử. Ngài đã để phí quá nhiều thì giờ để hưởng cuộc sống ở thế gian. Sự vấp ngã đó chính là bài học vĩ đại nhất trong cuộc đời tu hành của Ngài.

Với một ý chí kiên định và một nghị lực phi thường, bỏ lại sau lưng tất cả đắng cay, phiền muộn và vùi dập ở đời, Ngài quay lại Hy Mã Lạp Sơn, quyết tìm cho ra tột cùng của Chân lý, tìm cho ra ý nghĩa và mục đích của cuộc đời mình. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong hành trình tầm Đạo của Thiền Sư Trần Tâm.

Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ với những đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ. Cuộc sống quay cuồng vì vật chất ở nhân gian và bụi hồng trần dường như không thể xâm nhập tới được nơi đây. Vượt qua tất cả sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự thử thách của thời gian và lòng nhẫn nại, cuối cùng Thượng Đế đã đáp lại khát vọng của Ngài. Ngài đã được gặp 5 vị Minh Sư Ấn độ, những vị Thầy rất cao tuổi đã ẩn mình bao năm nơi hoang vắng để gìn giữ bảo pháp của vũ trụ và thông điệp tình thương của Thượng Đế. Chỉ có những nguời thật thành tâm mong cầu Chân lý mới có thể tìm gặp được các Ngài. Thiền Sư đã hiểu rằng tất cả những thử thách oan nghiệt từ trước đến nay của Ngài đều là do nhân nghiệp và sự vô minh của chúng sanh gây nên. Chính sự vô minh và nghiệp chướng này đã ngăn cản họ cảm nhận được tình thương và Chân lý.

Con người mong cầu hạnh phúc nhưng không biết đâu là hạnh phúc đích thực, không biết cách nào để đạt được và nắm giữ nó. Vì bơ vơ, lạc lõng, quên mất nguồn cội Phật Tánh cao đẹp của mình, nên đời đời kiếp kiếp Thượng Đế phải gửi những bậc Thánh nhân mang Chân lý xuống để chỉ dậy và đánh thức họ, giải phóng họ khỏi màn vô minh đen tối.

Cảm kích vô cùng trước sự hy sinh cao cả của những vị Minh Sư Ấn độ, những vị Thầy không còn bản ngã, chỉ sống vì hạnh phúc của muôn loài, Ngài ở lại tu học với những vị Thầy của mình một thời gian dài và ánh sáng Chân lý đã bừng nở. Diệu Âm, nguồn Thánh Linh của Thượng Đế đã dẫn dắt Ngài vượt qua không gian, thời gian và nhân quả để hòa nhập với tình thương bao la của Đấng Cha Lành. Càng chuyên tâm thiền định, Ngài càng đạt được những thể nghiệm vô cùng cao quý và chứng thực được sự nhiệm màu của pháp môn vĩ đại này – pháp môn mà đời đời kiếp kiếp các vị Minh Sư trong quá khứ đã tu hành đắc đạo, dẫn dắt chúng sanh về con đường giải thoát.

Sau những tháng ngày khám phá Chân lý trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, Ngài hiểu rằng những khó khăn thử thách từ trước đến nay mà Thượng Đế đặt ra đã giúp cho Ngài có cơ hội thăng hoa tâm linh và hiểu được nghiệp chướng sâu dày của chúng sanh, sự vô minh đời đời kiếp kiếp của họ và ánh sáng Chân lý cần cho nhân loại biết chừng nào. Các vị Thầy Ấn độ đã đặt hết niềm tin và hy vọng nơi Ngài, người sẽ mang tình thương của Thượng Đế và pháp môn Diệu Âm này tới cho chúng sanh. Đây là con đường cứu cánh duy nhất giúp con người chấm dứt khổ đau và luân hồi sanh tử.

Tạm biệt các vị Thầy của mình, nhận lãnh sứ mạng cao cả, Ngài trở về với nhân gian. Sau khi bàn bạc và xin phép gia đình, Ngài thu xếp một cuộc sống tự do, riêng tư để có thể dành nhiều thời gian cho đất nước, cho thế giới và tiếp tục lý tưởng ban truyền pháp môn cao quý của vũ trụ đến cho nhân loại.

Ngài vẫn làm việc, sống một cuộc đời tu hành giản dị và làm tròn bổn phận với gia đình. Hơn thế, với các con Ngài còn là một người Cha tâm linh. Các con Ngài tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã hiểu sứ mạng của Cha, rất tự lập và không bao giờ cảm thấy xa vắng Cha trong những chuyến đi dài ngày khắp thế giới của Ngài.

Số tiền kiếm được, một phần Ngài dành cho gia đình, phần còn lại dành cho đạo pháp, cho việc cứu trợ giúp đỡ những nơi có thảm họa thiên nhiên và cho việc tu học của các đệ tử, học trò. Sau những chuyến đi, Ngài trở về nước làm việc, tiếp tục chuyên tâm tu hành.

Ngài thường nói: Ngài cũng có một cuộc sống bình thường như tất cả mọi nguời, cũng đã từng trải qua khó khăn, thử thách, những ràng buộc của nhân gian. Ngài cũng từng vấp ngã, đau khổ, thất vọng và cũng có tình cảm như tất cả mọi người. Đã từng trải qua những thăng trầm, khi là người xuất gia cũng như lúc còn tại gia nên Ngài hiểu tất cả những suy tư, nỗi niềm mà một người tu hành phải đi qua trên hành trình khai mở Đại Trí Huệ.

Mặc dù sống một cuộc sống khiêm nhường và kín đáo, Ngài vẫn luôn nhận được lời thỉnh giảng từ khắp nơi của những người có tâm khao khát tình thương, tìm một đời giải thoát. Thiền Sư đã vui lòng chia sẻ Chân lý với tất cả những ai đến với Ngài, không phân biệt địa vị, học vấn, tín ngưỡng, tôn giáo.

Thiền Sư không lập tôn giáo mới, cũng không xen vào những tôn giáo hiện hành bởi đỉnh cao của mọi tôn giáo chỉ là một. Đó là con đường chánh pháp, đưa con người hòa vào dòng Diệu Âm linh thiêng của vũ trụ, dẫn dắt linh hồn con người thoát khỏi những ràng buộc và ham muốn của thế gian, chấm dứt khổ đau, đạt được Niết Bàn ngay tại trần thế và trở về với Thiên Quốc, vĩnh viễn thoát khỏi vòng quay trong tam giới.

Trong quá khứ, một vị Minh Sư tại thế chỉ truyền dạy cho đệ tử pháp môn Diệu Âm này khi họ đã vượt qua được rất nhiều thử thách khắc nghiệt. Ngày nay, bất cứ ai trong chúng ta khi có lòng thành tâm khát khao cầu đạo, có niềm tin Chân lý với một vị Minh Sư cũng đều có thể được nhận diễm phúc này và tức khắc có thể nghiệm tâm linh. Đây là một ân điển vô cùng lớn lao của Thượng Đế dành cho nhân loại trong thế kỷ này. Đi theo con đường của Minh Sư tại thế chỉ dạy – con đường Âm thanh và Ánh sáng, chúng ta sẽ được Ngài chăm sóc bên ngoài và cả tâm linh bên trong suốt cuộc đời mình, cho tới khi chúng ta đạt được Chân - Thiện - Mỹ, như hoa sen mọc trong bùn mà vẫn tinh khiết, thanh cao, không hề bị nhiễm bùn. Chúng ta sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa. Thế giới sẽ không còn chiến tranh và các thảm họa thiên nhiên, con người sống với nhau trong hòa bình, tràn đầy tình yêu và lòng bác ái.

Ngài thường nói với các học trò của mình: Ngài rất tự hào được làm con dân nước Việt và dành toàn bộ quãng đời còn lại để ban rải ánh sáng Chân lý và tình thương của vũ trụ đến cho nhân loại, trong đó có Việt Nam quê hương của Ngài. Những bài giảng Chân lý bằng tiếng Việt của Ngài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Những lời dạy của Thiền Sư Trần Tâm tràn đầy tình thương và niềm tin yêu với con người. Ngài giúp chúng ta khám phá ra những bí ẩn của vũ trụ bằng chính Trí Huệ vạn năng thâm sâu của mình – điều mà tất cả chúng ta ai cũng có thể gặt hái được bằng công năng tu tập pháp môn Diệu Âm. Tất cả những thành tựu khoa học con người đã đạt được đều chỉ là mô phỏng lại khả năng vĩ đại tiềm ẩn bên trong tất cả chúng ta. Chỉ có sự tu hành chánh pháp dưới sự dẫn dắt của Minh Sư tại thế qua Diệu Âm, con người mới khám phá được những năng lực vô biên này.

Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong, tự mình chiêm nghiệm những khả năng vĩ đại đó, đón nhận sức gia trì và tình thương bao la của Thượng Đế, của Phật – Bồ Tát.

Ngài dẫn dắt chúng ta đi về những miền tâm linh vô cùng tươi đẹp, nơi cội nguồn nguyên thủy của linh hồn, nơi chúng ta được dưỡng nuôi bằng Hào Quang và Thánh Âm của vũ trụ, nơi không còn khổ đau và sự sợ hãi bởi những thế lực vô hình.

Ngài giúp chúng ta trở thành Minh Sư của chính mình:

- Hãy mang tình thương, vẻ đẹp nội tâm, niềm vui vĩnh cửu, những giá trị Chân - Thiện - Mỹ hiến dâng cho nhân loại và trái đất này.

- Hãy trân trọng từng giây, từng phút khi chúng ta còn sống trên thế gian này, bởi tất cả khổ đau bất hạnh trên đời đều là những bài học tâm linh quý giá, giúp chúng ta tiến bước trên con đường đi tới đỉnh cao của sự Khai Ngộ.

Đối với đất nước Việt Nam, Ngài luôn gửi gắm nơi đây một tình yêu khắc khoải, muốn đem pháp môn tối thượng này hiến dâng cho quê hương, như một sự đền đáp ân huệ của tổ tiên

Mời quý vị cùng chúng tôi đón nghe những lời Chân lý cao thượng từ Ngài – vị Minh Sư của thế kỷ chúng ta.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).21/12/2011.

No comments:

Post a Comment