Đại Bi Kinh
Cao Tề Thiên Trúc tam tạng Na Liên Đề Na Xá dịch từ Phạn ra Hán
văn.
Kinh Đại Bi - Quyển Thứ Năm
Trồng Căn Lành - Phẩm thứ 13
Lại nữa A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo thọ trì các pháp môn
như vậy rồi và có các tịnh tín thiện nam tín nữ v.v... vui nghe pháp và có đến
nghe nhưng không diễn thuyết, như vậy vì người nầy sợ Tăng. Vì sao vậy? Vì những
người nầy muốn làm pháp khí, muốn nghe giáo pháp nhưng không thuyết giảng vậy,
làm cho người khác không tiếp tục nghe được. Vì không nghe giảng tiếp, nên liền
mất căn lành, cho nên cũng lại làm thối thất căn lành của kẻ khác nữa. Người nầy
không hiểu nên có thể làm hay không thể làm. Nầy A-Nan! Ta vì nghĩa nầy muốn cho
rõ ràng nên nói thí dụ. Ví dụ như người Thương Nhơn mua sắm của quý đến nơi
đường sá nguy hiểm, mở các của báu ấy đem ra bố thí tại chỗ, bảo lớn với bọn
cướp rằng :
Ta có của quý nầy khó có thể có được. Ngươi hãy trả
giá, ta sẽ bán những của quý nầy cho ngươi. Nầy A-Nan! Lúc ấy quân cướp liền cầm
đao gậy lên đánh người Thương Nhơn nầy và đoạt những của báu ấy. Nầy A-Nan! Điều
nầy nghĩa gì? Các người thương nhơn nầy có thể bố thí những đồ vật quý giá ấy
chăng? Những người giặc cướp nầy có mua không?
A-Nan bạch rằng : Các thương nhơn nầy đang đi trên
đường hiểm trở còn không dám mở những của quý ra, hà huống là giặc cướp. Thế
Tôn! Các thương nhơn nầy nên giữ gìn những bảo vật nầy và cũng nên có gậy gộc để
phòng vệ để đi qua chỗ nguy hiểm cho được yên ổn. Việc nầy đáng ra nên làm.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Ngài A-Nan rằng :
Lại có một thương nhơn cũng mang của quý báu từ phương xa lại, đến các thành ấp,
kinh thành, làng mạc. Khi đến rồi liền mở những của quý ấy ra mà bố thí tại chỗ.
Có người tốt đến mua những bảo vật kia, liền đó thương nhơn có cầm dao gậy cùng
với người mua đánh nhau. Nầy A-Nan! Điều nầy nghĩa gì? Thương nhơn nầy có được
xứng danh không?
Ngài A-Nan thưa rằng : Không thể được, bạch Đức Thế
Tôn! Không thể được Đức Tu Già Đà Thế Tôn! Các thương nhơn ấy nên làm như thế
nầy: Những vật của ta hy hữu khó có được, ngươi nên trả giá với ta, ta sẽ vì
ngươi mà bán. Thế Tôn! Lẽ ra các thương nhơn phải nên như vậy, không nên cho
những của quý nầy. Việc cầm dao gậy đánh nhau là sai quấy.
Phật bảo : A-Nan! Có các Tỳ Kheo, giữ gìn lưu thông
các tạng giáo pháp ví như Kinh, Kỳ Dạ, Già Đà, Tỳ Đa Ca La Na, Ưu Đà Nan, Ni Đà
Na, A Bà Na, Y Đế Tỳ Lợi Đa Ca, Xà Đa Ca, Tỳ Phất Lược A Phù Đà, Đạt Ma Ưu Bà Đề
Xá như những giáo pháp nầy là pháp khí vậy. Không nói thì không thể nghe, mà
không được nghe thì lòng tin vui nhận khó phát sanh.
Mà đã không sanh thì khó được các căn lành thù
thắng để vào Niết Bàn. Họ không phải là pháp khí để mà diễn nói cũng như việc
nghe để phát khởi thiện tâm, nên đã không sanh, mà đã không phát sanh thì không
được giải thoát. Do vậy người nầy chỉ sanh phỉ báng giáo pháp, làm các tội
nghiệp, đọa vào 3 đường ác. Nầy A-Nan! Dụ như người thương nhơn ngu muội, phải
mở túi báu vật, nơi mà không nên mở; nơi không đáng mở lại mở toang ra. Nơi đáng
mở thì lại chẳng mở. Nơi không đáng làm thì lại làm. Nãy A-Nan! Nếu có kẻ tịnh
tín thiện nam tín nữ nào có tấm lòng thanh tịnh muốn nghe pháp, nên vì pháp khí
mà đến nghe pháp; nên có thể nói những gì khó nói. Không nên nói những gì không
đáng nói. Cho nên A-Nan! Nếu là như vậy, đúng là pháp khí, kẻ ấy tin sâu, vui vẻ
ham muốn cầu chốn Niết Bàn, nên hãy vì họ mà nói. Nếu có kẻ chẳng vì pháp khí,
không tin vui cầu, phá giới phạm hạnh mà cầu Niết Bàn, quả thật kẻ ấy làm ngược
lại giáo pháp của Phật vậy. Kẻ nào không tùy thuận thì không nên nói. Vì sao
vậy? Vì đối với những người ngu si như thế khi nghe pháp rồi, sanh tâm kiêu
mạng. Cho nên A-Nan! Phải biết việc nầy, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ
muốn vì pháp khí mà vui nghe thì hãy khuyến khích mà nói. Các người nghe khác
cũng vì nhiếp tâm mà nghe. A-Nan! Người kia cũng vậy, có thể sanh nơi vô lượng A
Tăng Kỳ gồm các đại công đức. Nầy A-Nan! Nghĩa nầy là gì? Đất đai có giới hạn và
chúng sanh có giới hạn không? Nhiều hay ít?
A-Nan thưa rằng : Như con nghe Phật nói thì chúng
sanh nhiều không bằng cảnh giới vậy.
Phật bảo : A-Nan! Đúng đấy, đúng đấy. Như ta đã
từng nói chúng sanh thì có nhiều; nhưng không bằng cảnh giới của đất đai, nước,
lửa v.v... Nầy A-Nan! Cho đến ba ngàn thế giới lớn nhỏ khác cũng có chúng sanh.
Có người biết được, có người chẳng biết được. Có người thấy nghe được, có người
chẳng có thể thấy nghe được., giống như một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa
chẳng hạn, giả sử đủ thời thì được làm thân người, thành người đàn ông trong một
sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa. Tất cả đều thành Duyên Giác, Bồ Đề. Nầy A-Nan!
Cho đến vô lượng vô biên các thế giới có đất đai mà biên giới của đất đai ấy thì
khó thể biết được và đất đai ấy gồm nhiều hạt bụi mà nếu những hạt bụi ấy giả sử
được làm thân người thì sẽ thành thân đàn ông, khi thành thân người rồi trong
một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, tất cả đều được thành Duyên Giác giác ngộ
Bồ Đề. Nầy A-Nan! Lại cũng có rất nhiều thế giới, có núi Tu Di, núi Thiết Vi và
núi Đại Thiết Vi. Núi Tuyết, núi Hương và núi đen cho đến ba ngàn đại thiên thế
giới gồm có cây thuốc, cây nhỏ, rừng rậm đều làm hạt bụi. Có kẻ biết có kẻ không
biết.. Có thể thấy nghe, hoặc không thể thấy nghe, đều được thành người, tất
thành người nam, trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, có lúc nào đó đều
thành Duyên Giác Bồ Đề. Nầy A-Nan! Các vị Duyên Giác ấy giả sử sống lâu từ quá
khứ cho đến vị lai, thọ mạng không thể tính biết được và trong chúng sanh kia có
một người không thành được Duyên Giác Bồ Đề. Người đó làm một vị Trưởng Giả lại
từ quá khứ cho đến vị lai ở trong thọ mệnh không thể biết được và vị Trưởng Giả
nầy đã cúng dường vô số các Bích Chi Phật đồ uống, thức ăn, áo quần, giường nằm,
chỗ ngồi, thuốc thang chữa bịnh. Một lòng hiến thân xưng tán đầy đủ. Cung kính
tôn trọng khiêm hạ cúng dường các vị Bích Chi Phật. Sau khi các vị Bích Chi Phật
nhập Niết Bàn liền xây tháp bảy báu vì chư thiên nhơn mà làm tràng phan bảo cái,
các loại hoa hương, dầu thơm cho đến xông hương, áo quần ca múa, âm thanh, kỹ
nhạc, tận đến trong trời người mà cúng dường đầy đủ cung kính tôn trọng khiêm hạ
cúng dường. Nầy A-Nan! Ý nầy thế nào? Đại Trưởng Giả kia được phước nhiều không?
A-Nan bạch rằng : Như chỗ con nghe Phật giải nghĩa
thì, nếu hay cúng dường cung kính tôn trọng một vị Bích Chi Phật thì được phước
đức nhiều vô lượng không thể tính đếm, không so sánh, không hạn định và không
thể suy nghĩ được hà huống cúng dường rất nhiều Bích Chi Phật tùy theo nơi thọ
mạng ấy, mà sau khi diệt độ còn cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường nữa.
Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo Ngài A-Nan rằng : Ta
nay nói thật cho ngươi biết rằng Bích Chi Phật kia đầy đủ giới định huệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến và thọ nhận nơi vị Trưởng Giả kia nhiều loại cúng
dường. Chỉ có một vị Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ra đời không thọ nhận của Trưởng
Giả áo quần, đồ ăn, thức uống, giường nằm, chỗ ngồi, thuốc thang lúc bịnh, lại
cũng không nhận pháp. Sau đó Trương Giả kia thấy Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri,
oai nghi người thường thị hiện nơi đời, cũng được phước đức nhiều như cúng dường
vị Bích Chi Phật vậy, đầy đủ giới điụnh huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến,
gấp trăm ngàn Ức Na Do Tha. Khi Trưởng Giả thấy Phật Như Lai thị hiện thân bình
thường nơi đời có oai nghi, liền được phước đức. Vì sao vậy? Vì Phật Như Lai đầy
đủ vô lượng A Tăng Kỳ, bất khả tư nghì đại công đức vậy. Nầy A-Nan! Chư Phật Như
Lai có đầy đủ thiện căn phước đức không có cùng tận hà huống Như Lai có vô lượng
công đức lành. Nầy A-Nan! Nếu có Bích Chi Phật tu hành bố thí được phước đức vô
lượng A Tăng Kỳ và theo nơi Phật mà bố thí thì được phước đức cũng lại nhiều vô
lượng vô biên không có ngằn mé vậy. Có gì khác nhau? Nầy A-Nan! Việc bố thí kia,
không có gì khác cả. A-Nan! Dụ như có người cầu lợi đi đến nơi khác. Sau khi
được lợi rồi, sau đó trở lại. Nầy A-Nan! Nếu bố thí nơi Bích Chi Phật sẽ được
phước đức, Đức Phật Như Lai nầy cũng lại như thế. Nầy A-Nan! Nếu lại có người vì
nơi chư Phật mà tu hành bố thí thì được phước đức vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp, không
thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không thể đơn lẻ, không có biên giới, không có
cùng tận. Nầy A-Nan! Nếu nơi Đức Phật tu hành bố thí thì được phước đức, ta nay
vì ngươi mà nói thí dụ. Những người có trí thì phải giải bày dụ nầy. Nầy A-Nan!
Dụ như họa sư, họa tuy tinh hảo; nhưng trong ấy có bị một ít lỗi lầm, sau đó hoạ
sư sửa lại ngay ngắn đẹp đẽ. Như vậy đó A-Nan! Nếu nơi Bích Chi Phật mà tu hành
bố thí được phước đức thì nơi chư Phật mà tu hành bố thí, phước đức cũng lại như
vậy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Đức Bích Chi Phật kia vì biết rằng được tên Bích Chi
Phật. Vị Bích Chi Phật nầy biết rằng đều do từ trí tuệ của Như Lai mà sanh. Vì
chư Phật Như Lai có đầy đủ các trí để chuyển lại đẹp đẽ. Cho nên A-Nan! Hoặc nơi
Đức Phật cho đến hình tượng, áo quần, ăn uống, chỗ ngủ, nơi ngồi, thuốc thang
chữa bịnh, cung kính tốn trọng khiêm hạ cúng dường thì phước đức được nhiều
không?
A-Nan thưa rằng : Như vậy Đức Bà Già Bà. Như vậy
Đức Tu Già Đà. Nếu từ nơi Phật cho đến hình tượng cung kính cúng dường thì được
phước đức nhiều không thể kể, thưa Thế Tôn.
Nếu từ nơi Phật cho đến phát tâm một lòng kính tín
thì được phước đức nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, không thể đếm được, hà
huống có người từ nơi Phật cho đến hình tượng cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng
dường. Nói lời ấy rồi, Phật bảo A-Nan! Việc cúng dường một vị Phật Như Lai được
tất cả đầy đủ những niềm vui cho đến cúng dường tất cả thì việc cúng dường từ 2,
3, 4, 5 cho đến 10 vị Phật, hoặc 20, 30 cho đến trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn
Phật, ức Phật, trăm ức Phật, ngàn ức Phật, trăm ngàn ức Phật, ức Na Do Tha, trăm
ức Na Do Tha, ngàn ức Na Do Tha, trăm ngàn ức Na Do Tha cho đến đầy cả cõi Diêm
Phù Đề nầy cho các vị Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cho đến trời tứ thiên và hạ
thiên thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới, trong đó có trăm
ức mặt trời mặt trăng, trăm ức núi Tu Di, trăm ức núi Thiết Vi, trăm ức biển
lớn, trăm ức cõi Diêm Phù Đề, trăm ức Uất Đan Việt, trăm ức Phất Bà Đề, trăm ức
Cồ Đà Ni, 8 vạn châu nhỏ cùng với quyến thuộc, trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức Tứ
Thiên Vương thiên, trăm ức 33 cõi trời, trăm ức Tu Dạ Ma thiên, trăm ức Đẩu Suất
Đà thiên, trăm ức Hóa Lạc thiên, trăm ức Tha Hóa Tự Tại thiên, trăm ức Phạm
Thiên cho đến A Ca Nhị Trá thiên. Đây là tên của 3.000 Đại Thiên Thế Giới.
Trongđó đầy đủ chư Phật Như Lai ỨngChánh Biến Tri. Dụ như mía ngọt, tre trúc,
cây cỏ trong rừng. Các Như Lai đó có đời sống dài lâu như hằng hà sa kiếp. Lúc
ấy có vị Trưởng Giả thọ mệnh ở đời cũng lại như vậy cho đến y áo, thức ăn, đồ
uống, chỗ nằm, thuốc men cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường cho chư Như Lai
kia. Sau khi Phật diệt độ lại xây tháp bảy báu cùng với các tràng phan bảo cái
tốt đẹp cùng các thứ hương hoa, hương bột và hương xông. Tất cả các hoa cúng
dường đều là những hoa sen quý, Ưu Bát La Hoa, Câu Ni Đà hoa, Phần Đà Lợi hoa,
tất cả ca múa nhiều loại âm nhạc cũng như vậy và tất cả đồ vui cung kính cúng
dường tôn trọng khiêm hạ. Nầy A-Nan! Vì sao vậy? Vị Đại Trưởng Giả kia được
phước đức nhiều không?
A-Nan bạch rằng : Như vậy đó Đức Bà Già Bà. Như vậy
đó Đức Tu Già Đà, vị TrưởngGiả kia đối với một Đức Như Lai đã cúng dường thức
ăn, đồ uống, nên được phước đức nhiều không thể tính đếm được hà huống từ nơi
chư Phật mà ở nơi hằng hà sa kiếp để cúng dường cung kính tôn trọng khiêm hạ một
cách đầy đủ. Sau khi Đức Phật kia diệt độ, lại còn dựng tháp bảy báu để cúng
dường nữa thì phước đức không thể ví dụ được.
Sau khi nói lời ấy rồi, Phật bảo A-Nan : Ta nay nói
thật với ngươi. Nếu vị Trưởng Giả kia ở nơi chư Phật mà được thọ mệnh cung kính
cúng dường khiêm hạ và sau khi Phật diệt độ lại còn dựng tháp bảy báu, nên đây
là những thắng diệu cúng dường nên được phước báu. Nầy A-Nan! Nếu có thiện nam
tử hay thiện nữ nhơn nào ở nơi chư Như Lai phân biệt diễn thuyết bồ đề thì tạo
nên niềm tin hoan hỷ đầy đủ sâu xa; đây là phần giảng giải tốt đẹp của Tăng để
người phát tâm tu hành làm điều thiện. Phải tin rằng tất cả các hành là vô
thường, tất cả khổ là không, tất cả các pháp vô ngã và tịch tịnh Niết Bàn. Nầy
A-Nan! Đây là lòng tin sâu sẽ được phước đức và chuyển lại hơn trước. Nầy A-Nan!
Nếu lại có người tin tưởng như vậy và nói các pháp bảo tạng cho người khác thì
sẽ được phước đức như vậy và còn rộng lớn hơn như thế nữa. Như vậy đó cả A Tăng
Kỳ, như vậy đó khó có thể nói hết được, không so sánh được, không có giới hạn.
Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Các pháp bảo như thế vô thượng pah1p tạng, ban đầu trung
bình và cuối cùng trở thành tốt. Nếu có kẻ nào y như thế mà tu hành bố thí thì
được công đức pháp tạng giống như hạt cải. Hãy biết như vậy. Vì sao thế? Nầy
A-Nan! Bố thí như vậy trong thế gian bị pháp sanh tử chi phối. Nầy A-Nan! Ta từ
vô lượng A Tăng Kỳ ức Na Do Tha kiếp đã tu tập pháp tạng, đoạn trừ sanh tử, lìa
các ăn uống lưu luyến lâu nay. Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh nào nghe được pháp
tạng nầy sẽ từ pháp nầy mà được giải thoát. Cho đến ra khỏi được các già chết,
lo buồn, khổ não mà được giải thoát.
Nầy A-Nan! Ta xem nghĩa nầy xong nên nói rằng : Có
2 loại người được đại phước đức. Thứ nhứt là vì siêng năng mà nói; thứ hai là
chí tâm chuyên nghe. Sau khi nghe rồi Ngài Huệ Mệnh A-Nan bạch Phật rằng :
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn
nào tin sâu đầy đủ như thật mà tu hành, phân biệt các pháp, tín giả vui làm thì
pháp ấy chính là pháp lành mà nên phát tâm tu hành tốt đẹp, giải bày tất cả các
hành vô thường, khổ, không và vô ngã, tịch diệt Niết Bàn, như vậy làm những việc
lành, suy nghĩ chánh đáng thì phước được bao nhiêu?
Phật bảo : Nầy A-Nan! Nếu lại có người biết pháp do
Tăng thuyết ra mà phát tâm tu hành thì kẻ thiện nam người thiện nữ kia, suy nghĩ
sâu xa nhiếp tâm chuyên nghe, sau khi nghe rồi cho đến gãy một móng tay tin sâu
hiểu rộng thì pháp ấy do Tăng nói là pháp lành, phát tâm tu hành, kẻ kia sẽ được
phước đức nhiều không thể kể hết được, hà huống kẻ thiện nam, người thiện nữa
suy nghĩ chơn chánh nhiếp tâm chuyên nghe. Nghe được pháp rồi cho đến trong một
cái khảy móng tay thật hành đúng pháp, giải nghĩa các hành vô thường, tất cả
khổ, tất cả không, các pháp vô ngã và Niết Bàn tịch tịnh. Nầy A-Nan! Nếu ở trong
nhiều thế giới ấy có tất cả những cảnh giới của chúng sanh thì trong một sát na,
một La Bà, một Ma Hầu Đa, giả sử có lúc được làm người. Người kia được làm người
rồi trong một sát na, một La Bà, một Ma Hầu Đa, giả sử có lúc sẽ thành chánh
giác, chứng vô thượng Bồ Đề thì các Đức Như Lai kia, giả sử thọ mệnh của các
Ngài từ quá khứ cho đến vị lai không thể tính hết được cũng giống như vậy.
Nầy A-Nan! Giả sử trong số chúng sanh ấy có một
người, nơi vô thượng Bồ Đề mà không thành chánh giác và người kia chính là Đại
Trưởng Giả lại cũng theo thọ mệnh từ trong quá khứ cũng không thể biết hết được,
cho đến cả vị lai cũng lại như thế. Lúc ấy Trưởng Giả cho đến hết mình cúng
dường cung kính tôn trọng, khiêm hạ cúng dường các Đức Như Lai cùng các nhạc cụ,
áo quần, đồ ăn, thức uống, chỗ ngồi, nơi nằm, thuốc thang chữa trị mà cúng dường
và sau khi các Đức Phật nhập Niết Bàn rồi còn dựng tháp bảy báu, sau đó lại còn
dùng tràng phan bảo cái, tất cả hương hoa, hương bột, cả đời cung kính tôn trọng
khiêm hạ cúng dường. Nầy A-Nan! Ý nầy nghĩa gì? Nơi vị Trưởng Giả kia có được
phước đức nhiều hay ít?
A-Nan bạch Phật rằng : Nếu vị Trưởng Giả kia cung
kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường tất cả các Đức Như Lai sẽ được phước đức vô
lượng, không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, không so sánh và không có giới
hạn, hà huống từ nơi chư Phật, theo thọ mệnh mà cung kính tôn trọng khiêm hạ
cúng dường, sẽ được phước đức không thể nghĩ được.
Phật bảo : Nầy A-Nan! Đúng vậy! đúng vậy! Như ta đã
nói, vị Trưởng Giả kia sẽ được phước đức không thể cùng tận. Cho nên A-Nan! Ta
nay nói thật cho ngươi! Nếu vị Trưởng Giả kia theo nơi thọ mệnh của chư Phật mà
cung kính tôn trọng khiêm hạ cúng dường thời được phước đức. Nếu có người tin
sâu, suy nghĩ kỹ rồi nhiếp tâm chuyên nghe và sau khi nghe rồi cho đến một cái
khảy móng tay liền tin tưởng vui vẻ thực hành pháp nầy và phát tâm lại cũng hiểu
về tất cả các hành đều vô thường, tất cả khổ, tất cả không, chư pháp vô ngã,
Niết Bàn tịch tịnh thì phước đức không thể ví dụ được. Nầy A-Nan! Như vậy có 2
loại người ta đã nói trước được phước đức rất nhiều. Một là chí tâm nói, hai là
chí tâm nghe. Lúc ấy Đức Phật nói bài kể rằng :
Vì nơi hai loại nghĩa
Muốn nghe nơi Phật nói
Tất cả việc làm hết
Gần Thánh thành giác ngộ
Nếu là người thuyết pháp
Và nghe chánh pháp Phật
Cả hai được phước nhiều
Hay tạo các cảnh Phật
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo A-Nan rằng : Lại
cũng có 2 loại người cùng Ma Ba Tuần gây đại chiến tranh. Thế nào là hai? Một là
chí tâm nói, hai là chí tâm nghe. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Những người phạm hạnh
được thông suốt nghĩa là thiện tri thức và bạn lành phát tâm lưu chuyển. Vì sao
vậy? Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh gặp thiện tri thức, sau khi gặp rồi, từ sanh
cho đến giải thoát, cho đến già bịnh chết, lo buồn, khổ não không còn mà được
giải thoát. Nầy A-Nan! Việc nầy từ xưa ta đã nói cho các Thanh Văn có 2 nhân
duyên có thể sanh chánh kiến. Một là từ người khác nghe pháp, hai là tại nội tâm
mình tư duy. Từ người khác mà nghe có nghĩa là từ Phật được nghe. Nội chánh tư
duy có nghĩa là từ Phật mà biết. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Như các phàm phu khi
Phật chưa xuất hiện, tự mình không thể tư duy. Sau khi Phật xuất thế rồi, dạy
cho phàm phu làm như thế. Nầy A-Nan! Ta xem ý nghĩa ấy nên nói điều nầy. Suy
nghĩ bên trong đều từ chư Phật. Lúc ấy Đức Phật nói bài kệ rằng :
Lành thay kẻ trượng phu
Được thấy tăng các trí
Nếu có kẻ dứt nghi
Bỏ phàm được thành Thánh
Thấy Thánh được an vui
Cùng sống lại được yên
Không thấy các người ngu
Như hay được yên ổn.
Che nên A-Nan! Ta đã vì nghĩa nầy mà tùy theo hoàn
cảnh diễn thuyết phạm hạnh đầy đủ. Nghĩa là các thiện tri thức và các bạn lành
hay sanh tâm thiện liên tục lưu chuyển. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Nếu có chúng sanh
nào khi gặp Thiện tri thức liền được sanh tâm lành, sau khi sanh tâm lành rồi
lại sanh tính tâm, tín tâm rồi lại làm tất cả việc thiện, làm việc thiện rồi
liền được các pháp lành. Sau khi được các pháp lành rồi, an trụ nơi pháp ấy. Trụ
nơi pháp ấy rồi từ nơi Phật mà tôn trọng kính tin. Từ nơi Tăng mà cũng được kính
trọng, sẽ được vào hàng Thánh, thích tu giới, tự tại nơi giới, dùng trí tuệ tán
thán giới, vui nơi Niết Bàn. Nầy A-Nan! Như mây làm mưa đầy hố nhỏ, sau khi đầy
hố nhỏ rồi thì cũng đầy hố lớn. Hố lớn đầy rồi thì sông nhỏ. Sông nhỏ đầy rồi
đến sông lớn. Sông lớn đầy rồi lại đến biển. Như vậy đó A-Nan! Nếu có thiện nam
tử hay thiện nữ nhơn nào từ nơi chư Phật mà nghe Phật nói rồi sẽ được căn lành
mạnh mẽ. Sau khi được căn lành rồi thì gần gũi Thiện tri thức. Sau khi gần gũi
Thiện tri thức rồi thì được những bạn lành. Sau khi được bạn lành rồi thì được
điều thông suốt. Sau khi được điều thông suốt rồi lại được lành cao cả. Sau khi
được lành cao cả rồi thì được tâm tốt đẹp. Sau khi được tâm tốt đẹp rồicho đến
như pháp mà thuận theo phát tâm tu hành cứu cánh, chuyển cứu cánh đến thanh
tịnh, cứu cánh phạm hạnh là cứu cánh tối hậu.
Nầy A-Nan! Ta đã xem tất cả ngoại vật cũng đồng
thời sanh trưởng, khi hoa quả thành tựu thì cũng có không biết bao nhiêu cái mất
đi hà huống các ngươi làm việc thiện ấy cũng sẽ bị mất. Sự mất mát đó không trụ
nơi đâu cả. Cho nên A-Nan! Các ông phải nên tu hành và làm việc thiện. Không có
chúng sanh nào là không tu hành làm việc thiện, mà không chứng được quả và có
mất mát. Nầy A-Nan! Ta cũng đã từng tutất cả các việc lành và cũng đã có nhiều
sai quấy. Nầy A-Nan! Khi ta tu hạnh Bồ Tát thì ta cũng đã tu tất cả những công
đức lành nên được quả báo không sai trái. Nầy A-Nan! Ta xem khi Như Lai trên
đường hành đạo thì từ nơi đòi hố có cao thấp bằng ngang, có chỗ hôi thối, có nơi
thơm tho sạch sẽ. Có nhiều cây cỏ quý giá nơi rừng; nhưng đồng thời cũng có cỏ
úa nằm sâu ở đó. Khi thần cây hiện thân hướng về lễ bái, thành ấp, đường sá, lại
có chúng sanh, thấy Phật Như Lai theo Phật mà làm. Sau đó Như Lai trở lại chỗ
cũ. Nầy A-Nan! Ta xem trong đời quá khứ chư Phật, Bồ Tát đã cúi đầu hướng về làm
lễ với Thanh Văn, Duyên Giác, Sư Tăng, Cha Mẹ, người trưởng thượng, Sa Môn, Bà
La Môn. Tất cả các ngoại vật sau khi thấy Phật rồi liền cúi đầu thấp xuống để
lễ. Nöi cao sẽ thấp, nơi thấp được cao. Cao thấp các nơi đều được ngang bằng.
Nầy A-Nan! Ta xem tất cả ngu si phàm phu vì không tôn trọng bậc trưởng thượng
cũng như không cung kính, lại cũng chẳng lễ bái, ngã mạng tự ti. Vì ngã mạng cho
nên bị hại vào nơi ràng rịt. Nầy A-Nan! Như Lai xem dây nhợ bị cột chân tay; nên
đã làm tất cả các việc lành. Nầy A-Nan! Hãy xem Như Lai làm các việc thiện như
Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự. Đây là những việc lành để nhiếp hộ chúng
sanh, không có phân biệt đây là cha ta, đây là mẹ ta, anh em chị em thân thuộc
bà con. Nầy A-Nan! Ta vì tất cả chúng sanh luôn luôn có tâm bình đẳng không phân
biệt. Nầy A-Nan! Ta từ lâu xa không có chúng sanh nào là không nhiếp thọ bố thí,
ái ngữ, lợi hành, đồng sự, cũng như nhiếp thọ những người ngu si phàm phu vậy.
Nhưng họ không biết thiện căn phước đức nhơn duyên nầy. Sanh tử là căn bản để bị
thọ những quả báo. Nầy A-Nan! Ta đã cùng chúng sanh được những căn lành phước
lạc nầy vì tự chính thân ta đã tu nhiều nghiệp lành mới được quả báo như vậy.
Nãy A-Nan! Tất cả thế gian đều có niềm vui; nhưng tất cả đều bị pháp vô thường
biến đổi và ngay cả niềm vui nầy cũng bị vô thường nốt. Khi ta tu Bồ Tát hạnh
thì vì các phàm phu mà thành thục Phật đạo làm cho ta được vô vi thánh và vô lậu
lạc. Vô lậu lạc nầy là thường, khôn gthay đổi và không bại hoại. Cho nên A-Nan!
Các bậc Thánh cũng phải tu những thiện nghiệp như thế và các bậc thánh trí cũng
sẽ tu những thiện nghiệp như thế. Đây là chánh nghiệp. Như vậy đó A-Nan! Ta đã
từ thánh trí nầy mà tu thiện nghiệp. Nầy A-Nan! Và ta cũng sẽ nói về các việc
khác. Nếu có chúng sanh vì cầu Niết Bàn cho đến phát tâm làm một ít việc lành,
thì đây là chủng tử vậy.
Nghe Phật Như Lai nói các pháp thâm diệu như thế,
liền giải bày ý nghĩa sâu sắc và nhớ nghĩ đến Đức Phật, tâm sanh ái kính, có
người rơi lệ, có kẻ la lên. Ngay cả nơi địa ngục ngạ quỷ súc sanh không có nơi
nào là không từ nơi bồ đề nầy mà không được cứu cánh. Không có nơi nào như vậy
cả. Nầy A-Nan! Lại có chúng sanh nhớ nghĩ đến Như Lai, từ pháp giác ngộ mà ưa
chảy nước mắt! Người tóc dựng mà la lên. Nầy A-Nan! Hãy khoan làm khác đi. Những
chúng sanh bị đọa nơi ác đạo như địa ngục súc sanh ngạ quỷ không có nơi nào là
không có vậy. Nầy A-Nan! Hãy đừng buông lung. Hãy chuyên cần phương tiện, tu các
việc lành. Nầy A-Nan! Chư Phật Thế Tôn cũng không phóng dật mà chứng giác ngộ
cũng như các trợ đạo pháp cũng chẳng phóng dật mà được. Nầy A-Nan! Nếu có những
điều lành được thọ nhận như vậy là kẻ cầu lợi ích vậy, cầu an lạc, cầu lân mẫn,
khởi tâm từ bi, nên như vậy mà làm. Kẻ nào đáng độ, ta đã độ xong. Nay các ngươi
cũng nên làm như vậy. Đừng làm cho chơn đạo ấy đoạn tuyệt. Lại cũng đừng làm cho
chánh pháp của Phật bị chìm đắm. Nầy A-Nan! Hãy nên làm cho pháp nhãn của Phật
được ở lại dài lâu. Các ngươi hãy vì trời người mà lưu bố rộng ra. Nầy A-Nan! Ta
nay đúng lúc phó chức chánh pháp bảo tạng cho ông, hãy đừng cho mất. Hãy làm như
vậy. Đây là lời dạy của ta vậy.
- Phẩm Dạy Khuyên thứ 14
Lúc ấy Ngài Huệ Mệnh A-Nan bạch Phật rằng :
Kính bạch Thế Tôn! Con nay phải tu hành Pháp Nhãn
như thế nào? Nếu con tu hành chánh pháp nhãn của Phật thì phải làm sao để lưu bố
được rộng rãi khắp trời người? Bạch Thế Tôn! Và con làm sao kết tập pháp nhãn
được? Làm sao hiển bày được?
Nói xong lời ấy, Phật lại bảo A-Nan : Sau khi ta
diệt độ có các Tỳ Kheo tập trung tụng pháp Tỳ Ni thì Đại Đức Ma Ha Ca Diếp tối
vi Thượng Thủ. A-Nan thì phải vì các vị Đại Đức Tỳ Kheo ấy mà hỏi như thế nầy :
Thế Tôn đã nói Đại A Bạt Đà Na ở đâu? Ở nơi đâu nói
Ma Ha Ni Đà Na? Ở nơi đâu nói Đại Tập Pháp? Ở nơi đâu nói Ngũ Tam Pháp? Ở nơi
đâu nói chư Thiên đến hỏi đạo? Ở nơi đâu Đế Thích hỏi đạo? Ở nơi nào chư Thiên
từ thâm cung đến? Nöi nào đã nói Kinh Phạm Võng? Như vậy theo thư 1lớp và các Tỳ
Kheo kia sẽ hỏi lại ngươi.
Nầy A-Nan! Phật đã giảng kinh tại nơi đâu? Nöi nào
đã nói Kỳ Dạ? Nơi nào đã nói Tỳ Đa Ca La Na? Nơi nào đã nói Già Đà? Nơi nào đã
nói Ưu Đà Na? Nơi nào nói Ni Đà Na? Nơi nào nói Y Đế Tỳ Lợi Đa Ca. Nơi nào nói
Xà Đa Ca? Nơi nào nói Tỳ Phất Lược? Nơi nào nói A Bà Đà Na? Nơi nào nói A Phù Đà
Đạt Ma? Nơi nào Ưu Bà Đề Xá? Nầy A-Nan! nơi nào Phật đã nói tạng Duyên Giác? Nơi
nào Phật nói Bồ Tát tạng?
Nầy A-Nan! Sau khi các Tỳ Kheo ấy hỏi như thế rồi,
ngươi nên đáp như thế nầy :
Ta nghe như vầy, một lúc Phật tại Ma Già Đà quốc
(Mayadha), dưới cây Bồ Đề, lúc mới thành chánh giác.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở thành Già
Đa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở Ma Già Đà,
dưới cây A Xà Bà La Ni Câu Đà tu hành khổ hạnh.
Ta nghe như vầy, một thuở Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà
Quật.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại núi Tỳ
Phú La.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại nước Ma
Già Đà, tại núi Bi Đề Ha.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại Vương
Xá thành, núi Tiên Nhơn chỗ tảng đá đen lớn.
Ta nghe như vầy, một thời Đức Phật tại nước Xá Vệ
nơi vườn của ông Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật tại thành Tỳ
Xá Ly, trong vườn Ám La Thọ.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại Tỳ Xá
Ly bên cạnh hồ Di Hầu, ở Tịnh Xá Đại Lâm, giảng đường Trọng Các.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành
Già Đa, tại đỉnh núi Già Đa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại nước
Câu Đàm Di trong vườn Cồ Sư La.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành
Ba Chỉ Đa, nơi vườn A Dục Xà, nơi rừng Ca La Ca.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại dòng họ
Thích thuộc thành Ca Tỳ La vườn Ni Câu Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành
Ba Li Phất, vườn Cüu Cüu Thóa.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành
Ma Thâu La trong rừng cây Tần Đà.
Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành
Câu Thi Na, nơi đất Lực sĩ sanh, sông A Lợi La Bạt Đề bên cạnh Sa La song thọ.
Nầy A-Nan! Như vậy đó theo thứ lớp nơi nơi xứ xứ mà
Phật đã nói pháp. Tại các nơi ấy đông người tập họp. Tùy theo thời tiết, tùy
theo ý nghĩa, tùy theo nhân duyên, tùy theo hỏi đáp mà phát khởi ra sự việc,
cũng tùy người, tùy việc nữa. Phải nên phân biệt nói rộng ra vậy. Hãy tùy theo
tên tuổi, ý nghĩa thứ lớp khác nhau mà diễn thuyết vậy. Cũng tùy theo lý do, có
nhơn có duyên. Hãy vì nghĩa tốt, ý hay mà vì người rộng nói vậy.
Phật nói kinh rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỷ
lãnh thọ phụng hành.
Nầy A-Nan! Các ngươi hãy kết tập pháp nhãn như thế.
Cứ như thế mà phân biệt, giảng nói giảng bày. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri
nói lời như vậy. Khi nghe những lời ấy rồi đại địa cực ác sáu loại chấn động,
làm cho nhiều người sợ hãi, khiến tóc dựng lên. Lúc bấy giờ cả ba ngàn Đại Thiên
Thế Giới sáu loại chấn động hiện ra 18 tướng. Đông nhảy Tây chìm; Tây nhảy Đông
chìm; Nam nhảy Bắc chìm; Bắc nhảy Nam chìm. Trung nhảy cạnh chìm. Cạnh nhảy giữa
chìm cả 18 tướng như vậy. Thay đổi nhảy múa, nhảy múa biến đổi. Lên và xuống,
chấn động chỗ nầy, chỗ kia. Có tiếng kêu lớn chỗ nầy chỗ kia. Chỗ nầy đột biến
chỗ kia xuất hiện. Chỗ nầy có chỗ kia không. Lúc bấy giờ có vô lượng chư Thiên,
Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Ma Hầu La Đà, Thích Phạm, hộ thế người
và không phải người. Tất cả đều sầu khổ khóc thương và nói như thế nầy :
Đức Bà Già Bà nhập Niết Bàn quá sớm ! Đức Tu Già Đà
nhập Niết Bàn quá sơm! Cặp mắt của thế gian bị mù lòa quá sớm. Thế gian có mắt
cũng như không, quá sớm. Ngài Huệ Mệnh A-Nan sầu bi khóc lóc lại nói rằng :
Đức Bà Già Bà Niết Bàn quá sớm. Đức Tu Già Đà Niết
Bàn quá sớm. Cặp mắt của thê 1giam mất đi quá sớm. Thế gian bị mù lòa, không có
mắt quá sớm. Thầy của thế gian mất đi quá sớm.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo A-Nan rằng : Nầy
A-Nan! Hãy đừng sầu bi nữa. Tất cả các pháp hữu vi có sanh ra có tồn tại thì
phải biết rằng có phân biệt, có biết. Vì di nhân duyên sanh nên phải hoại diệt;
Nếu mà không hoại, thật không đúng vậy. Nầy A-Nan! Từ đêm dài nầy thân, miệng, ý
của ta đã an lạc vô lượng không có hai, không sân không hận, không có giận buồn.
Nầy A-Nan! Hãy biết đây là đại thần thông, đại công đức. Rộng sâu vô lượng dụ
như Cam Lồ số một trong tận cùng Cam Lồ vậy. Cho nên A-Nan! Hãy nên vì phạm hạnh
cho đến thân khẩu ý mà cung kính cúng dường. Hãy nên học theo những gì ta chỉ
dạy. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Sau khi ta diệt độ, ở đời vị lai. Sau khi chánh pháp
hết rồi ở 500 năm phần trì giới và giữ gìn chánh pháp bị hoại diệt. Phá giới phi
pháp băng đẳng xuất hiện thạnh hành, phỉ báng chánh pháp, thọ mạng không dài
lâu. Khi chúng sanh hoại thì pháp cũng hoại theo, lúc ấy Tỳ Kheo Tăng cũng bị
hoại. Nầy A-Nan! Lúc ấy thật đáng sợ, có những Tỳ Kheo không tu thân, không tu
thân, chẳng tu giới, chẳng tu huệ. Họ là những người chẳng lo tu giới, thân,
tâm, huệ, mà chỉ lo tham trước sáu nơi. Thế nào là sáu? Một làm tham đắm nơi
bình bát.Hai là tham đắm nơi y phục. Ba là tham đắm nơi đồ ăn, Bốn là tham đắm
nơi chỗ ngồi. Năm là tham đắm nơi phòng ốc. Sáu là vì bị bịnh nên tham đắm nơi
thuốc men. Họ là những người chỉ biết tham cầu nơi y bát cho đến các loại thuốc
men tốt đẹp. Lại hay đấu tranh, tướng mạo sỗ sàng, lời nói thô tháo. Cho đến nơi
công quyền miệng như đao kiếm. Cùng nhau phỉ báng, sỗ sàng cũng như ghen ghét.
Tất cả chỉ vì áo quần, bình bát, đồ ăn thức uống, chỗ ngồi, nơi nằm và thuốc men
vậy. Cùng với việc ghen ghét, tâm không thuần thục, tâm tánh dơ bẩn. Như gậy đó
A-Nan! Hãy nên phạm hạnh, thân miệng ý nên từ bi. Những kẻ như thế nên cúng
dường đầy đủ. Nói về phạm hạnh có nghĩa là khi thấy, khi nghe, khi thô, khi tế,
khi tin, khi làm, hãy từ nơi họ khoan khởi não loạn, hãy học như vậy. Vì sao
thế? Nầy A-Nan! Khi mà sợ hãi gia tăng chính là lúc mệnh trược, kiếp trược,
chúng sanh trược, kiến trược và phiền não trược. Người thế tục lúc bấy giờ thọ
nhận những sự khổ sở. Chính trong sự khổ sở đó họ bị phiền não. Vì khi quá nghèo
đói thì sẽ sinh ra bịnh dịch. Vì cướp phá nên sanh ra phiền não với nạn nước
lửa. Vì các trùng độc nên nhiều loại bị não hại. Nầy A-Nan! Lúc ấy các vị Bà La
Mân, Trưởng Giả, Cư Sĩ vì những khổ não như vậy cho nên đã có tín tâm tôn trọng
cung kính Phật Pháp Tăng cho nên khiến cho nhiều người phát tâm tin sâu, tu hành
bố thí làm các công đức. Thọ trì cầm giới, đọc tụng kinh điển. Vì người giải
nói, có nghe có làm; sau khi nghe rồi sanh tâm ái kính hoan hỷ reo mừng. Như
pháp tu hành gồm nhiều căn lành. Do căn lành nầy mà khi thân hoại mạng chung
sanh vào đường lành như chư Thiên hoặc loài người.
Nầy A-Nan! Hãy xem các ác Tỳ Kheo ấy, họ cũng vì
tín tâm mà bỏ nhà đi tu. Sau khi xuất gia được rồi lại tham lam y bát. Sáu loại
nhân duyên để làm đọa lạc nơi 3 đường dữ. Người tại gia do khổ não mà sinh tín
tâm và do lòng tin nầy nên sanh vào được đường lành. Cho nên A-Nan! Hãy làm đúng
luật về thân, luật về miệng, luật về ý và nên nhớ nghĩ rằng: Với sự kính tin nầy
sẽ mau đầy đủ. Nguyện cho lòng tin của con được đầy đủ. Nguyện cho thân tâm của
con có suy nghĩ đầy đủ. Vì sao vậy? Nầy A-Nan! Thân khẩu ý nghiệp không thiện
khi suy nghĩ thì có 5 loại mất mát. Thế nào là năm?
Một là vọng ngữ.
Hai là lưỡng thiệt.
Ba là ỷ ngữ.
Bốn là tham dục, và
Năm là thân hoại.
Khi chết bị đọa vào 3 đường ác, sanh vào địa ngục.
Nầy A-Nan! Hãy tư duy sẽ được 5 loại công đức lợi ích. Thế nào là năm?
Một là không vọng ngữ.
Hai là không lưỡng thiệt.
Ba là không ỷ ngữ.
Bốn là không tham dục, và
Năm là khi thân mệnh chung được sanh vào đường lành
như chư Thiên hoặc loài người.
Lại nữa A-Nan! Nếu có kẻ đấu tranh, lời nói thô
tháo, cạnh tranh nhau, tâm không nhu hòa. Ấy là kẻ có tâm ô trược, biến hoại
vậy. Năm điều mất mát là:
1/ Kẻ nói vọng ngữ.
2/ Kẻ nói hai chiều.
3/ Kẻ giữ giới không sanh kính tín.
4/ Kẻ ngày đêm lo buồn khổ ác ý mà ở đó.
5/ Kẻ thân hoại mạng chung phải đọa vào 3 đường ác
sanh vào địa ngục.
Nầy A-Nan! Nếu lại có người tâm luôn luôn có niệm
lành, hay được 11 loại công đức vậy. Thế nào là 11?
Một là lúc ngủ được an ổn, tâm thường vui vẻ.
Hai là không thấy ác mộng.
Ba là người hay không phải người hay yêu quí.
Bốn là chư Thiên hay bảo hộ.
Năm là chất độc không thể hại được.
Sáu là không bị thương bởi dao tên.
Bảy là không bị lửa cháy.
Tám là không bị nước ngập.
Chín là thường được áo quần tốt đẹp và đồ ăn, chỗ
ngồi, nằm, thuốc thang luôn luôn đầy đủ.
Mười là hay được pháp cao cả.
Mười một là khi thân hoại mệnh chung được sanh lêm
Phạm Thiên.
Nầy A-Nan! Tâm ở từ thiện được 11 công đức lợi ích
như thế đó. Như ta còn ở đời hay sau khi ta diệt độ đi nữa thì tự nhiên đèn pháp
sẽ soi đường cho mọi người về. Không nên cầu nơi ánh sáng khác, mà cũng chẳng
cầu cạnh người ta phải về với mình.
Nầy A-Nan! Tại sao Tỳ Kheo là ánh đèn tự nhiên, là
quy tắc tự tại, không cầu ánh sáng khác, không cầu kẻ khác về là nghĩa gì? Nầy
A-Nan! Nếu có Tỳ Kheo khi quán nội thân, luôn luôn tinh tấn, một lòng vì đời,
không lo ăn mặc. Nếu quán như vậy thì sẽ nhận được sự thọ nhận bên trong, tâm
bên trong và pháp bên trong. Tinh tấn siêng năng một lòng vì đời, không lo
chuyện ăn mặc. Nầy A-Nan! Đây gọi là các Tỳ Kheo tự nhiên pháp đăng và tự tác
pháp quy vậy. Không cầu đèn của kẻ khác, không cầu trở về với kẻ khác. Cho nên
A-Nan! Ta là Đạo Sư của các Thanh Văn. Nên làm những gì như ta đã làm. Các ngươi
nên thực hành như vậy. Đây là giáo pháp của ta. A-Nan nên biết dưới bóng cây là
nhà, ở nơi đường trống đi chăng nữa cũng nên một lòng tu chỉ quán. Hãy tự diệt
khổ não, đừng có buông lung.
Nếu kẻ nào buông lung, sau nầy tất hối hận. Lúc ấy
Đức Phật nói lời kệ rằng :
Ta đã nói chánh đạo
Ta với mũi (tên) vô trí
Vì người nên khuyên tu
Chư Phật đã thuyết pháp
Vì tịnh và thấy rồi
Trừ diệt các đường ác
Kẻ tu được giải thoát
Hay dứt các lưới ma
Nếu hay tu hạnh nầy
Giống như Phậ đã nói
Hay độ tất cả khổ
Tức mãn nguyện chư Phật
Lúc bấy giờ sau khi Đức Thế Tôn nói kinh nầy rồi,
Ngài Huệ Mệnh A-Nan cùng với chư vị Tỳ Kheo, các Đại Chúng cũng như trời người,
A Tu La, Càn Thác Bà, tất cả thế gian, nghe Phật nói xong đều tùy thuận buồn
vui, chắp tay ngay ngực cúi đầu mặc niệm, buồn thảm khóc thương, đảnh lễ rồi
lui. HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).30/4/2012.
No comments:
Post a Comment