ĐẠI SƯ LIÊN HOA SANH
ĐỨC PHẬT TIÊN TRI VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐỨC LIÊN HOA SANH
Khi Đức Phật sắp thị tịch ở Kushinagara và các đệ tử của Ngài đang
than khóc, Ngài nói với họ: “Trong thế gian vô thường này chúng sinh
khong thể tránh được cái chết, đã tới lúc ta phải ra đi. Nhưng đừng than
khóc nữa, vì 12 năm sau khi ta lìa thế gian, ở hồ Dhanakacha ở góc tây
bắc của xứ Urgyan, sẽ có một người thông thái và đầy quyền năng tâm linh
mạnh hơn ta sinh ra trong một đóa hoa sen. Người đó sẽ được gọi là Liên Hoa Sanh và truyền bá Mật giáo.”
Tham khảo thêm, theo http://www.lionsroar.name/guru_padmasambhava.htm:
Một tài liệu khác viết Đức Phật tiên đoán rằng “sau một thời gian
khoảng 12 năm khi ta nhập Niết bàn, như người chinh phục vĩ đại nhất
trên thế giới, ta sẽ xuất hiện một lần nữa, trong vùng đất Uddiyana,
dưới tên gọi Padmasambhava, ta sẽ truyền những giáo lý Mật thừa.”
Quoted by Evans Wentz, ibid, p. 105. The actual source of this
passage, as quoted by Wentz, is the Mahaparinirvana Sutra. Although the
Buddha's prediction proved completely accurate with respect to the
details of the birth of Padmasambhava,
his declaration regarding Padma's greatness compared to his own is not
taken literally but hyperbolically by some readers, for how could there
be anyone greater than the Buddha? However, it could be argued that Padmasambhava was greater than Buddha Shakyamuni with respect to his human form since he was not susceptible to aging, illness and death.Moreover, there is a belief based on a passage in the Kanjur, that Buddha Shakyamuni took birth as Padmasambhava for the special purpose of preaching the tantric doctrines.
He is quoted as having said at the time of his passing, in response to
the question why he had not taught the Tantras, that he was unfit to do
so having been born from a human womb, and that only a superhuman birth
would result in the exceptionally pure body required for the revelation
of the Tantras. From an absolute point of view there is no being
superior to a buddha. What is meant here is that a particular emanation
of a buddha may be, relatively speaking, superior to another of his
emanations. In the Nirvana Sutra Buddha Shakyamuni enumerates five
qualities of his own emanation as Padmasambhava that make it superior to his others:
Kyeho! Listen, whole retinue, with one-pointed mind.
This emanation of myself
Will be superior to other emanations in the three times.
Not subject to age and decline,
His eminent form will be superior to other emanations.
From the very first vanquishing the four maras,
His wrathful power will be superior to other emanations.
Teaching the greater vehicle of buddhahood in one lifetime,
His realization will be superior to other emanations.
Converting the central and surrounding lands of the Jambu continent,
His benefit for beings will be superior to other emanations.
Beyond passing away in this Good Aeon,
His life span will be superior to other emanations.
This is because he is an emanation of Amitabha.
VUA INDRABODHI
Ở xứ Urgyan (hay Udiana) phía tây của Bodh Gaya, có một thành phố lớn
tên là Jatumati, trong thành có một cung điện gọi là “Bích Ngọc Cung”,
nơi ngự của vua Indrabodhi. Nhà vua có thật nhiều của cải thế gian cũng
như quyền lực rất lớn, với năm trăm hoàng hậu, một trăm viên quan người
Phật giáo và một trăm viên quan ngoại đạo, nhưng Ngài lại bị mù. Khi
người con độc nhất của Ngài bị chết và ngay sau đó nạn đói hoành hành
trong vương quốc, Indrabodhi khóc than vì vận xấu của mình. Được một đạo
sĩ an ủi, Ngài triệu tập các tu sĩ, bảo họ làm lễ cúng và tụng kinh.
Sau đó Ngài phát nguyện bố thí tất cả tài sản của mình, làm cho kho tàng
và các kho lương thực trống rỗng. Rốt cuộc, các thần dân của Ngài nghèo
quá đến nỗi họ phải ăn lúa non và cả những bông hoa nữa.
NHÀ VUA THẤT VỌNG
Tuyệt vọng vì thấy mình không có con nối ngôi, nhà vua làm lễ cúng và
cầu nguyện các vị thần của tất cả các tín ngưỡng, nhưng vẫn không có
một đứa con trai nào sinh ra cho Ngài cả; Ngài không còn tin vào một tôn
giáo nào nữa. Một hôm, Ngài đi lên nóc cung điện để đánh trống triệu
tập mọi người tới, rồi Ngài nói với các giáo sĩ: “Tất cả hãy nghe ta
nói! Ta đã cầu nguyện thần linh và các quỷ thần bảo hộ xứ này, và cũng
đã cúng dường Tam Bảo, nhưng ta đã không được ban cho một đứa con nào.
Như vậy, tôn giáo không có sự thật nào cả. Ta ra lệnh trong bảy ngày các
người phải phá bỏ tất cả những vị thần này, nếu không ta sẽ trừng
phạt”.
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM THỈNH CẦU PHẬT A DI ĐÀ
Lời đe dọa của nhà vua làm các giáo sĩ kinh sợ; họ vội tìm vật liệu
để làm vật tế sinh. Thần linh cùng các vị Hộ pháp nổi giận làm giông
bão, mưa đá và mưa máu trên khắp xứ Urgyan, mọi người hoảng hốt như cá
mắc cạn. Quá thương xót, Bồ tát Quán Thế Âm thỉnh cầu Phật A Di Đà trên cõi trời Cực Lạc bảo vệ những người dân đau khổ của xứ Urgyan.
PHẬT A DI ĐÀ HÓA HIỆN
Được thỉnh cầu như vậy, Phật A Di Đà nghĩ: “Để ta hóa sinh nơi hồ
Dhanakosha”. Rồi Ngài phóng ra từ lưỡi của mình một tia sáng màu đỏ bay
như một ngôi sao băng xuống giữa hồ. Khi tia sáng đi vào trong nước, một
hòn đảo có cỏ mầu vàng kim hiện ra, và trên đảo có ba dòng suối màu lục
ngọc. Ở giữa đảo một hoa sen mọc lên. Lúc đó, Phật A Di Đà tỏa hào
quang rực rỡ và phóng ra từ tim mình một chùy kim cương có năm mũi nhọn
rơi vào giữa hoa sen.
GIẤC MỘNG CỦA NHÀ VUA VÀ CÁC TU SĨ
Việc này làm các vị thần nguôi giận, không làm hại người dân xứ
Urgyan nữa, mà nhiễu quanh hồ đảnh lễ và cúng dường. Nhà vua mơ thấy
mình cầm trong tay một chùy kim cương có năm mũi nhọn phát ra hào quang
rực rỡ đến nỗi cả vương quốc được soi sáng. Khi thức dậy, nhà vua rất
vui sướng và Ngài lại tiếp tục thờ kính Tam Bảo; các vị thần cũng đến
quy phục Ngài. Các tu sĩ Phật giáo cũng mơ thấy điềm lành: Họ thấy một
ngàn mặt trời soi sáng thế gian. Nhưng những điều này làm cho các tu sĩ
ngoại đạo lo ngại.
TIÊN TRI VỀ HÓA THÂN CỦA PHẬT A DI ĐÀ
Khi nhà vua kính cẩn nhiễu quanh một cái tháp chín tầng xuất hiện một
cách kỳ diệu từ trong một hồ nước ở trước cung điện, các vị thần hiện
ra ở trên trời và tiên tri: “Lành thay! Lành thay! Phật A Di Đà đấng Bảo
Hộ loài người sẽ ra đời như một Hóa Thân trong một hoa sen ở giữa Hồ
Ngọc (Hồ Dhanakosha), và Ngài sẽ xứng đáng làm con của người. Hãy bảo vệ
Ngài tránh mọi nguy hiểm rồi người sẽ được mọi điều tốt”.
Nhà vua nói cho quan tể tướng Trigunadhara biết về điều tiên tri này
và bảo ông đi tìm đứa trẻ trong hoa sen trên hồ nước. Quan tể tướng đi
ngay tới hồ và trông thấy một hoa sen rất lớn ở giữa hồ. Ngồi trong hoa
sen là một đứa bé trai khoảng một tuổi. Không tin là nhà vua có lý khi
muốn nhận một đứa trẻ khác thường như vậy làm con, quan tể tướng quyết
định không nói cho nhà vua biết là mình tìm thấy đứa nhỏ.
VIÊN NGỌC NHƯ Ý
Vì vương quốc đã nghèo đi, nhà vua gọi các quan tới để hỏi ý kiến. Có
người khuyên nên tăng gia nông nghiệp, có người bảo nên phát triển
thương mại, và có gười tuyên bố nên gây chiến cướp đoạt tài sản của các
lân bang. Không chấp nhận những chính sách trái ngược với lời dạy của
Giáo Pháp, nhà vua quyết định liều mạng sống của mình vì lợi ích của
nhân dân bằng cách đi xuống biển tìm các Naga (Long vương, hay Rắn Thần)
xin một viên ngọc như ý để khi trở về có thể nuôi sống tất cả thần dân
của mình.
Ngài đi xuống cung điện của các Naga và được công chúa Naga tặng một
viên ngọc như ý. Cầm viên ngọc trong tay, nhà vua ước cho mắt trái của
mình sáng trở lại, và Ngài được như ý.
NHÀ VUA TÌM THẤY EM BÉ TRONG HOA SEN
Nhà vua trở về Urgyan, và ngay khi tể tướng Trigunadhara đến chào,
Ngài trông thấy một cầu vồng ngũ sắc hiện ra trên hồ Dhanakosha, dù lúc
đó trời không có mây và mặt trời đang chiếu sáng. Nhà vua nói với quan
tể tướng: “Hãy đi xem có cái gì ở trên hồ”.
Tể tướng hỏi: “Làm sao bệ hạ trông thấy được?”
Nhà vua trả lời:
“Ta đã dùng viên ngọc như ý để ước được sáng mắt”. Bấy giờ tể tướng
mới nói cho nhà vua là mình đã tìm thấy đứa bé trong hoa sen trên hồ và
khong dám trình lên nhà vua việc này, rồi ông khuyên nhà vua tự đi tới
hồ để tìm đứa bé. Nhà vua nói: “Đêm hôm qua, mơ thấy từ bầu trời trên hồ
rơi xuống tay ta một chùy kim cương chín mũi nhọn, và trước đó ta mơ
thấy từ tim của ta phát ra một mặt trời chiếu sáng khắp thế gian”.
Nhà vua và tể tướng đi tới hồ, chèo một chiếc thuyền nhỏ tới chỗ có
cầu vồng. Ở đó họ trông thấy một hoa sen lớn tỏa hương thơm. Ngồi ở giữa
hoa sen là một em bé trông giống như Đức Phật, tay trái cầm một hoa
sen, tay phải cầm bình cam lộ, và ở khuỷu tay trái là một cây chĩa ba.
Các pháp khí đều nhỏ tương xứng. Nhà vua cảm thấy rất tôn sùng em bé tự
sinh ra này và Ngài khóc vì quá vui mừng. Ngài hỏi em bé: “Cha mẹ ngươi
là ai? Ngươi là người xứ nào? Thuộc đẳng cấp nào? Ngươi ăn gì để sống,
và tại sao lại ở đây?” Em bé trả lời: “Cha tôi là Trí Huệ, mẹ tôi là
Tánh Không. Xứ của tôi là xứ Giáo Pháp. Tôi không thuộc đẳng cấp nào hay
tín ngưỡng nào. Tôi sống bằng sự bối rối. Tôi ở đây là để diệt Tham,
Sân, Si”. Khi em bé nói xong, mắt phải của nhà vua sáng trở lại. Quá hân
hoan, nhà vua đặt tên cho em bé là “Kim Cương Sinh Ra Trên Hồ”, rồi
Ngài và tể tướng đảnh lễ em bé.
EM BÉ ĐƯỢC ĐƯA VỀ HOÀNG CUNG
Nhà vua mời em bé về với mình. Em bé nói: “Tôi sẽ về với Ngài, vì tôi
tới thế gian để làm lợi ích cho chúng sinh, nhiếp phục những kẻ xấu, và
vì Giáo Lý của Chư Phật.” Hoa sen mở lớn hơn và em bé nhảy lên bờ hồ
như một mũi tên. Ở chỗ em bé chạm mặt đất, một hoa sen tức khắc mọc lên,
và em bé ngồi trong hoa sen đó, vì vậy nhà vua đặt tên cho em bé là Liên Hoa Sanh.
Ngài nghĩ rằng em bé sẽ là người kế vị và sẽ là đạo sư của mình. Rồi
Ngài bứt cuống sen, nhấc nó lên cùng với em bé ngồi ở trên và cùng quan
tể tướng trở về hoàng cung.
Bầy hạc và đàn vịt trời quá đau khổ vì bị mất em bé trong hoa sen
trên hồ, có con đậu trên vai em bé, có con cúi đầu ủ rũ bay ở đằng
trước, có con sa xuống đất nằm như đã chết rồi, có con bay xung quanh hồ
kêu những tiếng thảm não, có con chúi mỏ xuống đất mà khóc. Cả loài cây
cỏ cũng buồn rầu nghiêng về phía em bé. Sáo, vẹt, công và các loài chim
khác bay tới phía trước sát cách nhau để cản trở đoàn người. Kên kên,
diều hâu nhào xuống mổ nhà vua và tể tướng. Những con chim nhỏ thì kêu
inh ỏi. Sư tử, cọp, gấu và các loài thú dữ khác chạy theo ở hai bên đe
dọa đoàn người. Voi, trâu rừng và các con thú khác cũng chạy ra khỏi
rừng để phản đối. Các tinh linh và các thổ thần nổi giận gây sấm, chớp
và mưa đá.
Khi đoàn người tới các làng, tất cả dân làng đều đi theo. Khi trông
thấy một người già câu cá bên đường, em bé nghĩ: “Đây là điềm báo cho
thấy nếu mình làm vua xứ này thì mình cũng giống như những con cá bị câu
kia”. Sau đó, khi thấy một con quạ đuổi bắt một con gà gô đang ẩn mình
trong đám dâu, em bé nghĩ: “Đám dâu tượng trưng cho vương quốc, con quạ
là nhà vua, còn con gà gô là mình. Việc này có ý nghĩa mình không nên
giữ ngôi vua lâu”.
HOÀNG TỬ, NHÀ THỂ THAO, VÀ VUA
Khi về tới hoàng cung, nhà vua đem viên ngọc như ý ra để ước một cái
ngai làm bằng bẩy món quý báu ở trên có lộng che. Ngài đặt em bé lên
ngai rồi tuyên bố em bé là con trai và là người kế vị mình. Em bé sinh
ra trong hoa sen được gọi là Hoàng tử Bồ Tát và được tôn làm vua. Khi
được 13 tuổi, Ngài ngồi trên ngai làm bằng vàng và lục ngọc, các giáo sĩ
làm lễ cầu quốc thái dân an. Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm
và các vị Thiên vương ở mười phương đến rưới cam lộ lên Ngài và gọi
Ngài là vua Hoa Sen, tức Padma Gyalpo (một trong tám phương diện của Đại
sư Liên Hoa Sanh).
Vua Hoa Sen đặt ra luật pháp mới dựa trên Mười Điều Cấm (Thập giới).
Cả vương quốc trở nên thịnh vượng và mọi người đều hạnh phúc. Ngài học
giỏi các môn thơ và luận lý. Về môn đấu vật và các môn thể thao khác thì
không ai thắng được Ngài. Ngài có thể bắn một mũi tên xuyên qua lỗ kim,
hay bắn mười ba mũi tên liên tiếp, mũi sau cắm vào đuôi mũi trước. Sức
bắn cung của Ngài mạnh đến nỗi mũi tên xuyên qua bẩy cánh cửa bằng da và
bẩy cánh cửa bằng sắt, và khi Ngài bắn lên trời, mũi tên bay cao tới
nỗi người ta không trông thấy nó nữa, vì vậy mọi người gọi Ngài là “Vua
Anh Hùng Thể Thao Đại Lực”.
Có lần Ngài nhấc bổng tảng đá lớn bằng con trau “Yak” rồi liệng nó xa
tới nỗi không ai trông thấy nó nữa. Ngài có thể để chín cái đe vào một
cái bao và ném chúng vào một mỏm đá làm cho nó đổ xuống. Ngài có thể
chạy một hơi ba vòng quanh thành phố nhanh như tên bắn. Ngài bơi nhanh
hơn cá, và có thể quăng dây bắt một con diều hâu đang bay trên trời.
Ngài cũng là một nhạc sĩ có tài. Vì vậy Ngài cũng được gọi là “Vua Sư Tử
Bất Bạo”.
CÁC LA HÁN
Một hôm Ngài đi một mình tới Rừng Bi Thảm ở cách hoàng cung 2 dặm để
tham thiền. Khi Ngài đang ngồi thiền, mấy vị La Hán bay qua đó liện hạ
xuống và ca tụng: “Lành thay! Lành thay! Chắc chắn Ngài là Liên Hoa
Vương. Ngài là vị Phật thứ nhì, xuất hiện nơi thế gian để báo hiệu thời
đại mới, và sẽ chinh phục thế gian. Dù chúng tôi có một trăm cái lưỡi và
sống từ đại kiếp này sang đại kiếp khác cũng không thể có được một phần
nhỏ sự thông thái của Ngài”. Sau khi nhiễu quanh Ngài bảy vòng, họ bay
lên trời rồi biến mất.
KẾ HOẠCH RÀNG BUỘC LIÊN HOA VƯƠNG BẰNG HÔN NHÂN
Thấy Hoàng tử thiên về đời sống tâm linh, vua Indrabodhi và các quan
sợ Ngài chối bỏ vương quốc, họ bàn với nhau là phải tìm cho Ngài một
người vợ. Hoàng tử biết họ muốn ràng buộc mình vào đời sống gia đình nên
Ngài không chọn một cô gái nào trong số những người được tuyển từ khắp
xứ Urgyan. Vua Indrabodhi ép Ngài phải lấy vợ trong vòng bảy ngày. Sau
khi suy nghĩ kỹ, hoàng tử quyết định làm theo lệnh vị vua già là người
đã nuôi mình như cha nuôi con. Ngài đưa cho nhà vua một bản viết về hạng
thiếu nữ mà Ngài sẽ chấp nhận.
Nhà vua ra lệnh cho tể tướng Trigunadhara đi tìm một cô gái có những
điều kiện mà hoàng tử đòi hỏi. Tể tướng lập tức đi tới xứ Singala nơi
đang tổ chức một đại lễ Phật giáo. Trong cuộc lễ, tể tướng trông thấy
một cô gái đẹp bậc nhất trong một đoàn năm trăm thiếu nữ. Cô ta là
Bhasadhara, con vua Chandra Kumar và đã đính hôn với một hoàng tử. Tể
tướng vội trở về tâu lại với vua Indrabodhi rằng ông thấy Bhasadhara
xứng đáng với Liên Hoa Vương.
LỄ CƯỚI
Lấy cớ là muốn tặng quà cho họ, vua Indrabodhi mời công chúa và bón
trăm chín mươi chín cô gái kia tới cung điện của Ngài. Khi nhìn thấy
Bhasadhara hoàng tử hài lòng ngay. Ngài đưa cho công chúa viên ngọc như
ý; nàng ước được làm vợ Ngài. Sau đó Bhasadhara và các cô gái trở về
Singala với một bức thư gửi vua Chandra Kumar thỉnh cầu Ngài cho phép
Bhasadhara được thành hôn với hoàng tử Liên Hoa Sanh.
Vua Chandra Kumar trả lời rằng Nài rất muốn được hân hạnh đáp ứng lời
thỉnh cầu, nhưng công chúa đã đính hôn với ông hoàng xứ Singala và sắp
đến ngày làm lễ cưới.
Nhận được tin này, Hoảng tử Liên Hoa Sanh
nói: “Chỉ có một mình nàng là tôi thấy vừa ý. Tôi phải có nàng làm vợ”.
Vua Indrabodhi gọi một đạo sĩ tới nói rằng: “Hãy đi sang xứ Singala,
tới hoàng cung vào lúc lễ cưới tạm ngừng một đêm, lấy bụi sắt trộn một
chút nước để vào dưới móng tay của công chúa.” (để hóa giải pháp thuật
của người Singala).
Sau khi vị đạo sĩ vâng lệnh ra đi, nhà vua lên nóc hoàng cung, kéo
cao lá cờ chiến thắng có gắn viên ngọc như ý rồi cúi lạy bốn hướng, cầu
nguyện rằng Bhasadhara và các tì nữ của nàng sẽ được mang về trước mặt
Ngài. Điều ước của Ngài được thực hiện nhanh như gió.
Nhà vua ra lệnh sửa soạn lễ cưới của hoàng tử Liên Hoa Sanh
và Bhasadhara. Trong lễ cưới và theo phong tục thời đó, một trăm ngàn
phụ nữ Urgyan tuyên bố Bhasadhara là Hoàng hậu. Sau đó bốn trăm chín
mươi chín cô gái cũng làm lễ cưới với hoàng tử vì theo truyền thống, một
vị vua của xứ Urgyan phải có năm trăm người vợ. Thế là hoàng tử Liên Hoa Sanh hưởng hạnh phúc thế gian trong năm năm.
CHỐI BỎ
Rồi vị Phật Thiền Vajra Sattva (Kim Cương Tát Đỏa) xuất hiện, nói với
hoàng tử rằng đã đến lúc Ngài từ bỏ cuộc sống hôn nhân cùng ngai vàng.
Còn vua Indrabodhi thì mơ thấy mặt trời và mặt trăng lặn cùng một lúc,
cung điện đầy tiếng than thở và tất cả các quan đều khóc. Khi thức dậy,
Ngài suy nghĩ về giấc mơ mà buồn rầu. Ít lâu sau, hoàng tử và các cận
thần đi bộ tới Rừng Bi Thảm, nơi Ngài đã gặp các vị La Hán. Lúc đó trên
bầu trời hướng nam hiện ra các dấu hiệu Phật giáo cho thấy hoàng tử sắp
trở thành một vị Chuyển Luân Vương hay vị vua vĩ đại nhất thế gian. Quả
nhiên, nhiều vị vua của các xứ khác lần lượt chịu thần phục Ngài.
Sau khi đạt được đỉnh cao của quyền lực thế gian và lạc thú phàm tục như vậy, Đức Liên Hoa Sanh
nhận ra tính chất giả ảo và không đáng thỏa mãn của vạn vật trong cõi
vô thường. Ngài nói với vua cha là mình đã quyết định từ bỏ ngôi vua để
xuất gia. Khi vua Indrabodhi phản đối, Ngài nói: “Nếu không được sống
đời tu hành, tôi sẽ chết ngay tại đây trước mặt Ngài”. Nói rồi Ngài cầm
một con dao găm đâm vào sườn bên phải của mình như muốn thí mạng. Nhà
vua nghĩ thà để cho hoàng tử xuất gia hơn là làm cho Ngài tự tử. Cả
những lời van xin của các quan cũng như lời cầu khẩn từ bạn thân của nhà
vua là Kim Quang người Singala hay lời than khóc của năm trăm người vợ
cũng không thể làm cho Đức Liên Hoa Sanh từ bỏ ý định. Vì vậy Ngài có tên là “Vua Kim Cương Bất Khả Thuyết Phục”.
CHIA LY
Khi Đức Liên Hoa Sanh
sắp ra đi, năm trăm người vợ của Ngài khóc và nói rằng: “Ngài là con
mắt của chúng tôi; chúng tôi không thể xa Ngài một phút nào cả. Ngài nỡ
lòng nào bỏ chúng tôi như bỏ những cái xác chết ngoài nghĩa địa. Hãy cho
chúng tôi đi theo Ngài tới bất cứ đâu, nếu không chúng tôi sẽ như chó
mất chủ. Ngài không thương xót chúng tôi hay sao?”
Đức Liên Hoa Sanh
trả lời: “Cuộc sống thế gian là vô thường, chia ly là điều không thể
tránh được. Thế gian giống như cái chợ, người ta đến rồi đi, thế thì tại
sao lại phải phiền não vì chia ly? Đây là luân hồi mà chúng ta phải từ
bỏ để nhất tâm tìm giải thoát. Ta đã quyết định sống đời tu sĩ và ta sẽ
sửa soạn con đường cho các người tự cứu độ mình, để sau đó các người có
thể làm như ta. Nhưng bây giờ hãy ở lại đây.” Khi ra đi Ngài hứa với họ
là Ngài sẽ trở về khi nào đạt chân lý, vì vậy họ gọi Ngài là “Vị Vua Giữ
Lời Hứa”.
VÌ NGHIỆP QUẢ LÀM NGƯỜI KHÁC MẤT MẠNG
Đức Liên Hoa Sanh
đi tới một nơi khác trong xứ Urgyan. Ở đó có một người sinh ra với bộ
phận sinh dục có đầy ở trên thân mình, vì kiếp trước người đó là một tu
sĩ phạm giới sống với một kỹ nữ. Người kỹ nữ đã đầu thai làm con trai
của một vị vua. Lúc đó người kia biến thành một con ruồi đậu trên trán
của đứa bé trai đó. Đức Liên Hoa Sanh liệng một viên sỏi vào con ruồi mạnh đến nỗi không những làm con ruồi chết mà viên sỏi còn xuyên vào trong óc đứa bé nữa.
Khi bị tố cáo là thủ phạm làm chết đứa bé, Đức Liên Hoa Sanh
giải thích rằng ngày xưa có một người kỹ nữ bị một nhân tình của mình
tên là Padma Tsalag giết vì ghen khi người đó được người hầu gái của
người kỹ nữ cho biết là nàng đã bí mật có một người tình khác là một
thương gia tên Hari. Padma Tsalag lại đổ tội cho một người tên là
Gautama là thủ phạm vụ giết cô kỹ nữ, và Gautama phải chịu tử hình. Vì
con ruồi là Padma Tsalag, con trai vị vua là người kỹ nữ, còn Đức Liên Hoa Sanh
chính là kiếp sau của Gautama nên do nghiệp lực, Ngài đã liệng viên sỏi
gây ra cái chết của đứa bé. Ngài thỉnh cầu vua Indrabodhi cho phép luật
pháp của vương quốc được thi hành, và Ngài bị giam trong hoàng cung.
Lúc đó kinh đô bị mười ngàn yêu quái vây chặt vì chúng không muốn Đức Liên Hoa Sanh
trở thành tu sĩ để có thể hủy diệt quyền lực của chúng, và vì vậy cổng
thành cũng như cổng hoàng cung được đóng chặt trong khi Đức Liên Hoa Sanh
tìm cách thoát ra ngoài. Ngài cởi bỏ y phục, bôi lên người một thứ
thuốc kỳ diệu làm bằng xương người, rồi cầm một chùy kim cương và một
cây chĩa ba. Ngài đi lên nóc hoàng cung nhảy múa như một người khùng.
Ngài thả cho cả chùy kim cương lẫn cây chĩa ba rơi xuống; cây chĩa xuyên
vào tim của người vợ một viên quan, còn chùy kim cương rơi trúng vào
đầu đứa con nhỏ của bà ta và cả hai đều bị chết.
BỊ LƯU ĐÀY
Các quan cho rằng vì đã làm chết hai người, Đức Liên Hoa Sanh
phải bị treo cổ, nhưng nhà vua nói: “Đứa con này của ta không phải là
người thường, và vì Ngài thuộc giòng giống thiêng liêng nên không thể
chịu tội tử hình. Ta quyết định lưu đày Ngài.”
Nhà vua nói với Đức Liên Hoa Sanh là án lưu đày sẽ được thi hành trong ba tháng nữa. Đức Liên Hoa Sanh
giải thích rằng, cũng giống như vụ đứa bé bị chết với con ruồi, vụ hai
mẹ con bị chết là có lý do nghiệp quả. Trong kiếp trước đứa con là người
hầu gái của cô kỹ nữ, và đã cho Padma Tsalag biết về liên hệ vụng trộm
giữa cô chủ của mình và Hari, người thương gia; còn người mẹ chính là
kiếp sau của Hari. Dù không nhận tội cố sát nhưng Đức Liên Hoa Sanh không thù ghét một người nào trong số những người buộc tội mình.
Nhiều xứ khác của Ấn Độ, cũng như Trung Hoa và Ba Tư, được coi là những nơi mà Đức Liên Hoa Sanh sẽ phải lưu đày, nhưng nhà vua nói rằng Ngài có thể tới bất cứ chỗ nào Ngài muốn. Đức Liên Hoa Sanh nói: “Đối với ta, xứ nào cũng tốt cả. Ta chỉ cần được làm việc đạo, và bất cứ chỗ nào cũng là tu viện của ta.”
Nhà vua bí mật tặng Ngài viên ngọc như ý, nhưng Ngài không nhận, và
nói: “Bất cứ vật gì ta nhìn cũng là ngọc như ý của ta”. Rồi Ngài bảo nhà
vua đưa bàn tay ra và Ngài nhổ vào bàn tay đó, tức khắc nước bọt của
Ngài trong bàn tay của nhà vua biến thành một viên ngọc như ý khác.
Bhasadhara kêu khóc và nắm lấy tay Ngài, xin Ngài cho mình cùng được lưu đày, nhưng Đức Liên Hoa Sanh đi ra một khu vườn để nói với đám đông đang đi theo Ngài:
“Xác thân là vô thường và giống như bờ vực thẳm, vì xác thân và bờ
vực dẫn người ta đến cái chết. Hơi thở là vô thường như mây khói. Nhân
tâm là vô thường như tia chớp. Cuộc đời là vô thường như giọt sương trên
đầu ngọn cỏ.”
Sau đó bốn vị Thiên vương trấn giữ bốn hướng đông, tây, nam, bắc xuất
hiện cùng với các vị thần phò tá, họ đều phục lạy và ca tụng Đức Liên Hoa Sanh. Bốn Dakini của bốn hướng chính cũng đến trong tiếng nhạc và tiếng hát để đặt Đức Liên Hoa Sanh
ngồi trên một con ngựa thần, và Ngài biến vào bầu trời hướng nam. Vào
lúc trời tối Ngài đáp xuống đất rồi đi tới một cái hang nơi Ngài làm lễ
và cầu nguyện trong bảy ngày. Tất cả các vị thần hiền hòa đều xuất hiện
với Ngài như trong một tấm gương để ban cho Ngài quyền năng siêu việt
sinh tử.
VỊ THẦN CỦA CÁC XÁC CHẾT
Sau đó Ngài đi tới Nghĩa địa “Gỗ Trầm Hương Mát”, cách Bodh Gaya
khoảng mười dặm. Dùng xác chết làm tọa cụ, Ngài ở đó trong 5 năm để hành
thiền. Thức ăn của Ngài là thực phẩm mà người ta cúng cho người chết và
để lại ở nghĩa địa cùng với xác chết; y phục của Ngài là vải liệm xác
chết. Vì vậy người ta gọi Ngài là “Vị Thần Của Những Xác Chết”. Ở đây
Ngài dạy cho các Dakini về chín giai đoạn tu tập của Đạo pháp.
Trong một nạn đói, nhiều xác chết được đặt ở nghĩa địa không có vải liệm hay thực phẩm, vì vậy Đại sư Liên Hoa Sanh
biến thịt xác chết thành thức ăn thanh tịnh để dùng và lấy da của xác
chết làm y phục. Ngài nhiếp phục các ma quỷ sống trong nghĩa địa và
chúng chịu sự sai khiến của Ngài.
TIÊU DIỆT BỌN VÔ ĐẠO
Một tiểu vương của xứ Urgyan tên là Indraraja và thần dân của ông ta sinh tâm thù địch với Giáo pháp, vì vậy Đức Liên Hoa Sanh
biến thành một vị Thần Phẫn Nộ và tước thể xác của họ vì đó là phương
tiện để họ tạo nghiệp xấu, rồi Ngài dùng pháp thuật để uống máu và ăn
thịt những cái xác đó. Thần thức của họ được Ngài giải thoát không rơi
vào địa ngục. Ngài lấy bất cứ người đàn bà nào Ngài gặp để thanh tịnh
hóa tâm của họ và làm cho họ xứng đáng làm mẹ những đứa con có đạo tâm.
QUỶ TRẺ TẨU THOÁT
Khi người vợ của vua Ahruta bị chết trong lúc đang có thai, xác của
bà được bảo quàn ở một nghĩa địa nơi Đại Sư đang tham thiền. Ngài nhận
thấy đứa bé gái trong bụng xác chết vẫn còn sống và vì giữa Ngài và đứa
bé có nhân duyên với nhau trong kiếp trước nên Ngài quyết định nuoi nó.
Biết được việc này, vua Ahruta cho quân sĩ tấn công Đại Sư. Vua Warma
Shri cũng cho một dũng sĩ nổi tiếng tới hỗ trợ cho đạo quân kia. Đức Liên Hoa Sanh bắn trúng dũng sĩ đó một mũi tên rồi Ngài tẩu thoát; vày Ngài có tên là “Quỷ Trẻ Tẩu Thoát”.
Sau khi xây một bảo tháp để sám hối, Đức Liên Hoa Sanh
trú ở “nghĩa địa Hạnh Phúc”, nơi các Dakini Phẫn Nộ có tên là “Nhiếp
Phục Ma Quỷ” tới ban phước cho Ngài. Sau đó Ngài tham thiền ở nghĩa địa
Sosaling, miền nam xứ Urgyan, và được các Dakini hiền hòa ban phước.
THU PHỤC CÁC DAKINI Ở HỒ DHANAKOSHA
Ngài cũng tới hồ Dhanakosha nơi mình đã sinh ra để giảng giáo lý Đại
thừa cho các Dakini bằng ngôn ngữ của họ. Ngài thu phục họ và các quỷ
thần địa phương bằng quyền năng tâm linh và họ phát nguyện giúp đỡ Ngài
trong sứ mạng của Ngài trên thế gian. Được Vajra Varahi ban phước.
Chỗ ở kế tiếp của Đức Liên Hoa Sanh
là “nghĩa địa Kinh Hoàng”, nơi Vajra Varahi xuất hiện ban phước cho
Ngài. Bốn dòng nam thần và các Dakini của Ba Nơi Bí Mật, ở dưới mặt đất
ở trên mặt đất và ở trên không, cũng xuất hiện, gia trì lực nhiếp phục
của Ngài, và gọi Ngài là Dorje Dragpo, tức “Thần Phẫn Nộ Kim Cương”.
QUYẾT ĐỊNH TÌM THẦY
Đức Liên Hoa Sanh
bây giờ tới thăm viếng Bodh Gaya hay Bồ Đề Đạo Tràng nơi Đức Phật thành
đạo. Ngài tập pháp biến đổi hình dạng, và có khi Ngài tự biến thành một
đàn voi rất đông, có khi thành một nhóm đạo sĩ. Khi người ta hỏi Ngài
là ai, Ngài trả lời: “Ta không có cha mẹ, không sư trưởng, không thầy,
không đẳng cấp, không tên. Ta là Phật tự sinh”. Mọi người nói với nhau:
“Người này không có thầy, như vậy không phải là quỷ hay sao?” Câu nói
này làm cho Ngài suy nghĩ: “Dù mình là hóa thân tự sinh của Đức Phật và
do đó không cần một vị thầy nào cả, nhưng mình nên theo học các học giả
về Ba Giáo Lý Bí Mật, vì những người này cũng như người đời sau cần có
sự hướng dẫn về đạo pháp”.
CÁC MÔN MÀ NGÀI HỌC
Vị thầy đầu tiên của Đức Liên Hoa Sanh
là một “Loka Siddha”, hay một người đã thành tựu lục thông hay các
quyền năng tâm linh, ở thành Ba Nại (Benares), và cũng là một vị thầy về
môn chiêm tinh học. Ngài được dạy về năm mà Đức Phật được thụ thai, năm
mà mẹ của Đức Phật mộng thấy một con voi trắng nhập vào bào thai, năm
Đức Phật ra đời, và về sự tương ứng của những thời kỳ có ý nghĩa huyền
bí này với lịch Tây Tạng. Ngài cũng được dạy về nguyên nhân của nhật
thực và nguyệt thực. Bây giờ Ngài được gọi là “Nhà Chiêm Tinh Học Của
Kalachakra” tức là của “Bánh Xe Thời Gian” hay “Vòng Thời Gian”.
Sau đó, Đức Liên Hoa Sanh
học thông thạo môn y học với con trai của một y sĩ danh tiếng được gọi
là “Người trẻ tuổi chữa bệnh”. Vì vậy Ngài có danh hiệu là “Tinh Hoa Y
Học Cứu Mạng”.
Vị thầy kế tiếp của Ngài là một đạo sĩ được tiếng là người giỏi nhất
về môn chính tả và viết văn, dạy Ngài tiếng Sanskrit và các thổ ngữ
tương cận, ngôn ngữ của quỷ, ý nghĩa của các dấu hiệu và biểu tượng,
ngôn ngữ của các vị thần, của loài thú, và của các loài khác thuộc sáu
loài Luân Hồi. Đức Liên Hoa Sanh học thông thạo 64 loại chữ viết và 360 ngôn ngữ, vì vậy Ngài được gọi là “Vị Thầy Sư Tử Về Ngôn Ngữ”.
Ngài lại học với một nghệ sĩ giỏi, tên là Vishvakarma và đã được 80
tuổi, cho đến khi lão luyện các nghề vàng, bạc, ngọc, đồng, sắt và đá,
nghề tạc tượng, vẽ tranh, nặn tượng, khắc hình, nghề mộc, xây nhà, làm
dây thừng, làm giầy, làm mũ, may y phục và tất cả các nghề khác. Một
người đàn bà ăn mày dạy Ngài nghề làm đồ gốm. Vì vậy Ngài được gọi là
“Vị Thầy Có Học Mọi Công Nghệ”.
ĐẠO SƯ PRABHAHASTI
Ít lâu sau đó, trong khi du hành Đức Liên Hoa Sanh
gặp hai Tỳ khưu đang trên đường đi tới chỗ đạo sư của họ. Chào họ xong
Ngài xin họ chỉ giáo về đạo pháp. Nhưng thấy Ngài mang võ khí và hình
dạng lại thô kệch như quỷ dạ xoa, họ bỏ chạy. Ngài gọi họ rồi nói: “Ta
đã bỏ những hành động xấu để sống theo giáo pháp. Làm ơn nói cho ta biết
về đạo”. Họ bảo Ngài đưa cho họ cây cung và ống đựng những mũi tên sắt
rồi đưa Ngài đi cùng tới gặp thầy của họ là Prabhahasti, một hóa thân
của A Đề Phật (Adi Buddha, Phật Nguyên Thủy) sống trong một cái nhà gỗ
có chín cửa (thể xác và cửu khiếu). Sau khi đảnh lễ vị đạo sư, Ngài nói:
“Lành thay! Lành thay! Đạo sư tôn quý, xin Ngài hãy nghe ta nói. Dù ta
là một hoàng tử, sinh ra ở xức Urgyan, nhưng ta đã phạm tội giết đứa con
quỷ của một viên quan nên đã bị lưu đày. Ta tới đây mà không có quà
biếu cho Ngài thì thật là không phải, nhưng ta không có tài sản thế
gian nào cả. Xin Ngài hạ cố dạy ta tất cả những gì Ngài biết.”
Đạo sư đáp: “Lành thay! Lành thay! Chàng tuổi trẻ dị thường! Ngài là
cái bình quý để đựng tinh hoa Giáo Pháp. Ngài là hiện thân của vật chứa
giáo lý Đại thừa. Ta sẽ dạy Ngài tất cả.”
Đức Liên Hoa Sanh
nói: “Trước hết, xin hãy ban cho ta phạm hạnh (hạnh không dâm dục)”.
Đạo sư trả lời: “Ta có thể dạy Ngài các pháp tu tập nhưng ta không thể
ban cho Ngài phạm hạnh. Muốn có phạm hạnh Ngài nên tới gặp Ananda ở Hang
Asura. Bây giờ trước khi học về Đại thừa, hãy nhận sự ban phước của
ta.”
Đại sư Prabhahasti dạy Đức Liên Hoa Sanh
phương tiện đạt Phật Quả; tránh thoái chuyển; thông suốt về ba cõi Dục
giới, Sắc giới và Vô Sắc giới; sáu hạnh hoàn hảo (Ba la mật): Bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; và các pháp tu tập.
Dù Đức Liên Hoa Sanh
chỉ cần học một lần là nhớ và thông thạo bất cứ môn nào, nhưng để rửa
sạch mọi tội lỗi của Ngài, đạo sư cho Ngài học lại mỗi môn mười tám lần.
ĐỨC ANANDA
Sau đó, ở Hang Asura (A-tu-la), với sự chủ trì của Đức Ananda, Đức Liên Hoa Sanh
phát nguyện giữ giới độc thân và làm lễ thọ giới. Đức Ananda phong Ngài
làm một đại diện của Đức Phật. nữ Thần Đất tới mặc áo vàng cho Ngài, và
chư Phật mười phương xuất hiện ca tụng Ngài là “Sư Tử Dòng Sakya, người
Thọ Pháp.”
SỰ ƯU TÚ CỦA ĐỨC ANANDA
Khi đã thọ giới Tỳ khưu, có quyền năng Đại thừa để diệt trừ những ác trược của thế gian, Đức Liên Hoa Sanh
cũng làm như các vị Phật đời trước là ra ngoài đời thuyết pháp hóa độ
chúng sanh và nói chuyện giáo pháp với các Bồ tát. Và khi đã trở thành
mọt Bồ tát, ngài trở về với Ananda. Một hôm Ngài hỏi tại sao Đức Ananda
trỏ thành đại để tử của Đức Phật, Đức Ananda trả lời rằng Ngài trở thành
đệ tử ưu tú của Đức Phật vì Ngài thành tâm thực hành các giáo lý, rồi
Ngài kể truyện sau đây.
TRUYỆN MỘT TỲ KHƯU KHÔNG TRUNG THÀNH
Ở Bodhi Gaya có một Tỳ khưu tên là “Thiện Tinh”, đã học thuộc 12
quyển kinh nhưng không thực hành một điều gì cả, vì vậy Đức Phật khuyên
Tỳ khưu đó: “Dù người thuộc lòng mọi giáo lý, nhưng ngươi lại không thực
hành, như vậy ngươi không thể được coi là người có học”. Tỳ khưu đó nổi
giận, cãi lại: “Ngài chỉ có ba điều khác tôi, đó là 32 tướng hảo lớn,
80 tướng hảo nhỏ, và hào quang lớn bằng hai cánh tay dang thẳng. Tôi
cũng là người có học. Dù đã theo hầu Ngài 24 năm rồi nhưng tôi không
thấy Ngài có một chút tri thức nào lớn cỡ hạt cải”. Cơn giận tăng thêm,
Tỳ khưu đó la lớn hết sức. “Ta không đi theo ngươi nữa, đồ ăn mày vô
dụng. Ta hiểu Giáo Pháp hơn người, đồ hèn chạy khỏi xứ của mình.” Rồi
Tỳ khưu đó vừa la lớn vừa bỏ đi.
ĐỨC ANANDA ĐƯỢC CHỌN LÀM ĐẠI ĐỆ TỬ
Đức Phật gọi tất cả cá đệ tử lại rồi nói: “Thiện Tinh đã giận ta và
bỏ đi. Ta muốn biết ai sẽ là thị giả của ta thay cho y”. Mọi người đảnh
lễ, xin làm thị giả, và đều nói: “Con muốn theo hầu Ngài, con muốn theo
hầu Ngài”. Đức Phật hỏi: “Tại sao lại muốn theo hầu ta khi biết là ta đã
già rồi?” Rồi Ngài không chọn ai cả, và mọi người đều im lặng tham
thiền. Nhưng Đức Moggallana (Mục Kiền Liên) nhận thấy ngay là chỉ có Đức
Ananda là xứng đáng làm thị giả của Đức Phật. Kết quả là pháp hội gần
năm trăm Tỳ khưu có học, trong só đó có nhiều vị là Bồ tát, chọn Ananda.
Đức Phật cười rồi nói: “Lành thay!” và Đức Ananda thưa: “Dù không xứng
đáng, nhưng nếu phải hầu hạ Ngài, con xin Ngài hứa với con ba điều. Điều
thứ nhất là con được phép tự cung cấp cho mình thực phẩm và y phục.
Điều thứ hai là Ngài sẽ dạy cho con bất cứ giáo lý nào con thỉnh cầu. Và
điều thứ ba là Ngài sẽ khong dạy một giáo lý mới nào khi con không có
mặt.”
Đức Phật cười rồi trả lời: “Lành thay! Lành thay! Lành thay!”
ĐỨC PHẬT TIÊN TRI CÁI CHẾT CỦA TỲ KHƯU KHÔNG TRUNG THÀNH
Câu hỏi trước hết của Đức Ananda với Đức Phật là về Tỳ khưu Thiện
Tinh. Đức Phật nói rằng bẩy ngày nữa Thiện Tinh sẽ chết và trở thành ma
đau khổ trong vườn tịnh xá. Khi được Ananda cho biết về lời tiên tri của
Đức Phật, Thiện Tinh lo lắng nói: “Có khi những lời nói dối của ông ta
trở thành sự thật. Nhưng nếu sau bẩy ngày nữa mà tôi còn sống thì tôi sẽ
có thêm nhiều điều để nói về ông ta. Trong khi đó, tôi sẽ ở lại đây.”
Vào buổi sáng ngày thứ tám Ananda thấy Thiện Tinh đã chết và hồn ma
của y ám ảnh vườn tịnh xá. Sau đó, khi Đức Phật tới vườn giảng Giáo
pháp, hồn ma quay mặt đi chỗ khác và lấy hai bàn tay bịt tai lại.
ĐỨC ANANDA NÓI VỀ ĐỨC PHẬT
Đức Ananda nói rằng Ngài đã hầu hạ Đức Phật một cách trung thành
trong 21 năm. Ngài kể rằng Đức Phật thành đạo ở Bodh Gaya vào năm Ngài 3
tuổi và chuyển pháp luân ở Sarmath, gần thành Benares, dạy về Tứ Diệu
Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong bẩy năm kém hai tháng dạy đạo ở Sarmath,
lời của Đức Phật được viết trong 12 quyển kinh mà Thiện Tinh đã học
thuọc lòng và trong 10 quyển khác. Đức Ananda nói về nội dung của mười
quyển này như sau: Quyển một giảng giáo lý về Thiện và Ác, quyển hai,
quyển ba và bốn, nói về một trăm bổn phận tôn giáo; quyển năm nói về
cách thực hành những bổn phận đó; quyển sáu nói giáo lý về tự ngã; quyển
bẩy nói về các pháp tu tập, quyển tám nói về quả báo tốt của từ tâm;
quyển chín nói về trí huệ; quyển mười nói về tâm và ý; cũng có một số
giáo lý khác về tham, sân, si, giới điều của tu sĩ, về đạo sư và phương
pháp thuyết giảng về Tánh Không, về quả báo tốt của sự trì giới và về
pháp giải thoát.
Trong thời kỳ giáo hóa thứ nhì kéo dài khoảng 10 năm, Đức Phật dạy
giáo lý Đại thừa ở xứ Magadha, ở Gridhrakuta, Jetavana, và các nơi khác.
Ngài cũng thuyết giảng cho các Bồ tát Di Lặc, Quán Thế Âm
và các vị khác ở cõi trời cũng như các quỷ thần về tinh túy của Giáo
Pháp như được trình bày trong các kinh sách. Đức Phật cũng nói về chuyến
viếng thăm Tích Lan của Ngài.
Thời thuyết pháp thứ ba của Đức Phật kéo dài 13 năm, phần lớn thời
gian nầy Ngài dạy các vị thần, các Naga (Thần Rắn), các La Han, và các
loài khác ở các cõi cao. Trong thời kỳ thứ tư, gồm bẩy năm, Ngài dạy
giáo lý Mật giáo nhưng chỉ dạy phần công truyền (Hiển giáo).
Đức Phật chỉ dẫn và gia trì lực cho một trong năm vị Phật thiền là Vajrapani (Kim Cương Thủ) dạy phần bí truyền của Mật giáo và Ngài nói với Phật Vajrapani:
“Khong thể cùng lúc có hai vị Phật thuyết pháp ở Bodh Gaya. Nếu có một
vị Phật nữa thì Ngài chỉ đến sau khi vị Phật hiện tại ra đi”.
Từ lúc nầy cho đến khi nhập Niết bàn vào năm 82 tuổi, Đức Phật thuyết
Kinh, Luật, Luận và bộ “Getri” tức 84.000 ngàn câu kệ, còn gọi là
84.000 pháp môn.
ĐỨC LIÊN HOA SANH HỌC VỚI ĐỨC ANANDA
Đức Liên Hoa rất hài lòng với những lời của Đức Ananda và Ngài theo
học Đức Ananda trong 5 năm, làu thông 12 quyển ghi lời dạy của Đức Phật,
tức bộ “Getri” mà Thiện Tinh đã học thuộc lòng.
Khi gần học xong với Đức Ananda, Đức Liên Hoa Sanh
nhận thấy phần công truyền của giáo pháp là không đủ, Ngài nghĩ: “Mình
phải tìm ra một con đường hoàn thiện hơn với những giáo lý về Tánh Không
và Trí Huệ.”
ĐỨC ANANDA NÓI VỀ KINH SÁCH
Ngài hỏi Đức Ananda: “Các câu Kinh Điển và Mật Điển đã được viết
trong bao lâu? Có bao nhiêu quyển tất cả và có thể tìm thấy ở đâu?” Đức
Ananda trả lời: “Từ khi Đức Phật nhập Niết bàn, tất cả những gì Ngài nói
đã được ghi chép. Nếu dùng Voi Thần của Indra để chở thì số kinh sách
này sẽ là 500 lố.”
Các Deva (Thiên Thần) và các Naga (Rắn Thần) đều muốn chiếm bộ kinh
sách cho cõi của họ. Những quyển của bộ “Boom” (gần 12 quyển “Đại Bát
Nhã”) được cất giấu ở cõi của các Naga. Bộ “Bát Nhã Ba La Mật” được cất
giấu ở cõi trời Indra (Đế thích). Phần lớn Kinh Tạng được cất giấu ở
Bodh Gaya. Luận Tạng được cất giấu ở Tu viện Nalanda. Đa số kinh sách
Đại thừa được cất giấu ở Urgyan, còn những văn bản khác được để vào
trong Bảo Tháp ở Nalanda. Tất cả những kinh sách này đều được bảo vệ
chống lại sự phá hoại của côn trùng và ẩm thấp.
ĐỨC LIÊN HOA SANH THUYẾT PHÁP VÀ HỌC
Sau khi hoàn tất việc học với Đức Ananda, Đức Liên Hoa Sanh
đi tới một nghĩa địa chỗ ở của Thần Mahakala, có mình trâu Yak, đầu sư
tử và chân giống như những con rắn. Nghĩa địa có một cái tháp làm bằng
ngọc quý, chỗ tựa lưng của Đức Liên Hoa Sanh
khi Ngài thuyết pháp. Trong 5 năm ở đó Ngài dạy các Dakini và được gọi
là Đấng Tia Sáng Mặt Trời (một trong tám phương diện của Ngài).
Để tìm một giáo lý có khả năng diễn giảng những điều quan trọng một
cách ngắn gọn, và khi được ứng dụng sẽ có hiệu quả tức khắc, như mặt
trời vừa mới mọc tức khắc tỏa ánh sáng và sức nóng, Đức Liên Hoa Sanh đi lên cõi trời Ogmin gặp Đức A Đề Phật và được dạy Giáo Lý Đại Hoàn Thiện. Lúc này Đức Liên Hoa Sanh được gọi là Vajra Dhara (Kim Cương Trì) về mặt bí truyền.
Sau đó, Ngài đi tới nghĩa địa “Hạnh Phúc Tăng Trưởng” ở Kashmir.
Trong 5 năm ở đó Ngài dạy Giáo Pháp cho nữ quỷ Gaurima và cho nhiều
Dakini. Ngài được gọi là “Người Truyền Trí Huệ Cho Các Cõi” (một trong
tám phương diện). Rồi Ngài lại đi lên cõi trời của Đức Phật Vajra Sattva
để học thấu đáo môn Yoga và Mật giáo, và Ngài được gọi là Vajra Dhara
về mặt công truyền.
Đức Liên Hoa Sanh
cũng sống 5 năm ở nghĩa địa “Đỉnh Núi Tự Tạo” ở Nepal. Ở đó Ngài dạy và
nhiếp phục nhiều loại quỷ thần và Ngài chế ngự ba cõi luân hồi, vì vậy
Ngài được gọi là “Tiếng Rống của Sư Tử” (một trong tám hương diện).
Ở cõi trời của Đức A Đề Phật, Đức Liên Hoa Sanh
được dạy trọn vẹn về Chín Thừa hay Chính Đạo Pháp đạt giác ngộ, về 21
luận thư về “Chitti Yoga” (Yoga Tâm Thức), và về mọi điều thuộc Mật Chú
và Mật Giáo, và Ngài được gọi là “Người Được Dạy Trọn Vẹn”.
Ở nghĩa địa “Đỉnh núi Lanka”, xứ Sahor, Ngài thuyết pháp và nhiếp
phục nhiều quỷ thần đáng sợ. Các quỷ thần sinh ra từ nước ở đâu cũng gọi
Ngài là Liên Hoa Sanh.
Ở nghĩa địa “Đỉnh Núi Thần”, xứ Urgyan, trong 5 năm, Đức Liên Hoa Sanh
học cách đạt giải thoát Mật Giáo do một Dakini thuộc Dòng Vajra Yogini
dạy (đây là nữ Thần Dạy Học Kim Cương Du Già Nữ của Mật giáo Tây Tạng).
Ở nghĩa địa “Đỉnh Núi Hoa Sen” Ngài dạy các Dakini và được gọi là
“Đấng An Ủi Vĩnh Cửu Của Chúng Sinh” (một trong tám phương diện).
ĐƯỢC MỘT DAKINI TRUYỀN PHÁP
Vị thầy tiếp theo của Đức Liên Hoa Sanh
là một Dakini đã thọ giới, sống ở trong vườn trầm hương giữa một nghĩa
địa, trong một cung điện làm bằng sọ người. Khi đến cung điện Ngài thấy
cửa đã đóng, và khi một người hầu mang nước vào cung, Ngài tham thiền để
người đàn bà đó bị chặn lại bằng pháp thuật của Ngài. Người đàn bà liền
dùng một con dao bằng thạch anh mổ ngực của mình, để lộ ra ở phần trên
42 Vị Thần Hiền Hòa, và ở phần dưới 58 Vị Thần Phẫn Nộ (tức Mandala 100
vị thần Mật giáo), rồi nói với Ngài: “Ta nhận thấy Ngài là một khất sĩ
kỳ diệu có quyền năng lớn. Nhưng hãy nhìn ta, Ngài không tin ta sao?”
Đức Liên Hoa Sanh
cúi chào người đàn bà, xin lỗi rồi hỏi về những giáo lý mà Ngài muốn
biết. Người đàn bà trả lời: “Ta chỉ là người hầu. Hãy đi vào bên trong”.
Trong cung điện, Đức Liên Hoa Sanh
thấy vị Dakini ngồi trên ngai mặt trời và mặt trăng, hai tay cầm trống
“Damaru” (trống bồi) và chén sọ, xung quanh là 32 Dakini đang dâng lễ.
Đức Liên Hoa Sanh
đảnh lễ, dâng lễ vật rồi thỉnh cầu Nữ Thần dạy mình các giáo lý công
truyền cũng như bí truyền. Ngay lúc đó 100 vị Thần Hiền Hòa và Phẫn Nộ
xuất hiện ở bên trên. Nữ Thần nói: “Hãy nhìn các vị thần. Bây giờ hãy
thọ pháp”. Ngài đáp: “Chư Phật các đời đều có thầy, vậy hãy nhận tôi làm
đệ tử của Ngài.”
Nữ Thần thâu tất cả các vị thần trở vào thân của mình rồi biến Đức Liên Hoa Sanh thành chuẩn tự Hum và nuốt chuẩn tự đó. Ở trong bụng của Nữ Thần Đức Liên Hoa Sanh nhận được lễ điểm đạo truyền pháp. Quan Thế Âm
bí mật. Khi chuẩn tự “Hum” đi tới vùng luồng hỏa xà Kundalini, Nữ Thần
ban cho Ngài lễ điểm đạo thân, khẩu, ý và Ngài được giả trừ mọi ô trược
và vô minh. Nữ Thần cũng ban cho Ngài lễ điểm đạo Hayagriva (Thần Đầu
Ngựa biểu lộ qua ma quỷ hay qua các lực lượng hủy diệt và bất hòa) để có
quyền năng nhiếp phục ma quỷ.
MỘT VỊ THẦY TRÍ GIẢ
Một Trí Giả (Rig Zin) ở cõi trời Og Min (Akanistha, Sắc Cứu Cánh Thiên), cõi trời cao nhất của Phật giáo, dạy Đức Liên Hoa Sanh
tất cả những gì mình biết về quyền thuật, tái sinh, tri thức thế gian,
kho tàng bí mật, quyền năng đối với của cải trần tục và trường thọ, về
mặt công truyền cũng như bí truyền.
MỘT ĐẠO SƯ MIẾN ĐIỆN
Vị Trí Giả đó bảo Đức Liên Hoa Sanh
đến xứ Pegu ở Miến Điện tìm hoàng tử Shri Singha, một Đạo sư sống trong
hang và dạy những giáo lý tinh yếu của tất cả các phái Phật giáo mà
không phân biệt những giáo lý này với nhau. Khi Đức Liên Hoa Sanh
tới xin thọ giáo, Đạo sư chỉ lên trời rồi nói: “Đừng ham muốn cái gì
mình trông thấy. Không ham muốn, không ham muốn. Ham muốn, ham muốn.
Đừng ham muốn ham muốn, đừng ham muốn ham muốn. Không vô minh, không vô
minh. Vô minh, vô minh. Tánh Không của vạn pháp, Tánh Không của vạn
pháp. Ham muốn ở trên, ở dưới, ở giữa, ở mọi hướng không phân biệt”. Vị
thầy giải thích cặn kẽ giáo lý nầy rồi bảo đảm với Đức Liên Hoa Sanh là Ngài sẽ hiểu tinh túy của mọi giáo lý. Đức Liên Hoa Sanh
liền ca tụng Đạo sư rồi hỏi: “Phật và không Phật khác nhau ở chỗ nào?”
Shri Singha trả lời: “Dù tìm chỗ khác nhau cũng không thấy có gì khác
nhau cả. Vì vậy đừng chấp vào sắc tướng bên ngoài. Dùng Trí Huệ hoàn hảo
để trông thấy những điều bên trong. Chưa có ai khám phá ra Nguyên Nhân
Đầu Tiên hay Nguyên Nhân Thứ Hai. Chính ta cũng chưa biết. Ngài cũng
vậy, Ngài cũng không thể biết được.”
NGUỒN GỐC CỦA ĐỨC VĂN THÙ
Vị thầy kế tiếp của Đức Liên Hoa Sanh là Bồ Tát Văn Thù, trụ ở Ngũ Đài Sơn, gần sông Sita Sara, tỉnh Sơn Tây, Trung Hoa. Giống như Đức Liên Hoa Sanh, Đức Văn Thù có nguồn gốc kỳ diệu:
Có một lần Đức Phật đến Trung Hoa để thuyết pháp, nhưng người ta
không nghe mà nhục mạ Ngài, vì vậy Ngài trở về Gridharakuta (Núi Linh
Thứu) ở Ấn Độ. Thấy rằng không thể dạy giáo lý thượng thừa cho người
Trung Hoa, Đức Phật quyết định chỉ truyền giáo lý thông thường và môn
chiêm tinh cho họ. Ngài phóng ra từ đỉnh đầu một tia sáng mầu vàng, tia
sáng này rơi trên một cái cây ở gần một trong năm bảo tháp xây trên năm
đỉnh của Ngũ Đài Sơn. Thân cây mọc ra một cục u và từ cục u mọc ra một
hoa sen. Đức Văn Thù sinh ra từ hoa sen này, tay phải cầm Gươm Trí Huệ,
tay trái cầm hoa sen xanh với sách Trí Huệ.
CON RÙA VÀNG VÀ CHIÊM TINH HỌC
Từ đầu của Đức Văn Thù phát ra một con rùa vàng. Con rùa đi xuống
sông Sita Sara, và từ một cái bọt nước hai con rùa trắng một đực một cái
sinh ra. Hai con rùa này sinh ra năm loài rùa.
Lúc này Đức Phật phát ra từ đỉnh đầu một tia sáng màu trắng rơi xuống
Nữ Thần Chiến Thắng. Nữ Thần tới gặp Đức VĂn Thù và được Ngài dạy bảy
ngành Chiêm tinh học với 84.000 luận thư. Trong đó 21.000 luận thư dạy
môn chiêm tinh cho người sống, 21.000 luận thư cho người chết, 21.000
cho hôn nhân và 21.000 cho ruộng đất.
ĐỨC LIÊN HOA SANH PHỤC HỒI MÔN CHIÊM TINH
Khi môn Chiêm tinh phát sinh từ Đức Văn Thù đã phổ biến khắp thế giới
và được người ta ham mê đến nỗi giáo pháp của Đức Phật bị bỏ quên, Đức
Văn Thù cất tất cả các sách Chiêm tinh học vào một cái hộp bằng đồng rồi
giấu cái hộp vào một tảng đá ở sườn hướng đông của Ngũ Đài Sơn. Không
còn sự hướng dẫn của môn Chiêm tinh nữa, loài người phải chịu nhiều tai
họa như bệnh tật, tuổi thọ thấp, nghèo khổ, gia súc không sinh sản và
nạn đói.
Được biết điều này, Bồ tát Quán Thế Âm xuất hiện trước Đức Liên Hoa Sanh
và nói: “Ta đã cải tạo thế gian ba lần và đã trở về Phổ Đà Sơn
(Potala). Nhưng bây giờ nhìn xuống thế gian, ta thấy loài người vẫn đau
khổ và ta đã khóc. Vậy Ngài hãy hóa thành hình dạng của Brahma (Phạm
Thiên) đi tìm lại bảo tạng Chiêm tinh học đã được cất giấu”.
Đức Liên Hoa Sanh
làm theo lời, đi tới chỗ Đức Văn Thù và nói: “Dù chỉ là một phần nhỏ
trong Giáo Pháp của Đức Phật, nhưng môn Chiêm tinh rất có lợi cho người
thế gian. Vì vậy tôi xin Ngài lấy các sách chiêm tinh ra và dạy tôi môn
Chiêm tinh”. Đức Văn Thù lấy sách Chiêm tinh ra khỏi chỗ cất giấu rồi
dạy Đức Liên Hoa Sanh tất cả các môn này.
CÁC VỊ THẦY KHÁC
Sau đó Đức Liên Hoa Sanh
học thêm giáo lý với Đức A Đề Phật và Ngài cũng học với các vị thầy
khác tám giáo lý về các vị thần Hiền Hòa và Phẫn Nộ, quỷ thần thuọc ba
cõi luân hồi, những bài kinh tụng, thần chú nguyền rủa, tinh yếu của tất
cả tinh túy tôn giáo, và tính chất của việc phụng hiến. Các vị thần
thuộc các môn này cũng xuất hiện trước mặt Ngài. Ngài xây một cái tháp
có 13 bậc để cất giấu các sách viết về tám giáo lý này.
ĐỨC LIÊN HOA SANH LẤY LẠI KINH SÁCH
Một vị Dakini hiện ra trước Đức Liên Hoa Sanh và chào Ngài như: “Hóa thân của Tâm Phật A Di Đà” rồi nói rằng đã đến lúc Ngày lấy lại các kinh sách viết lời dạy của Đức Phật đã được cất giấu trước kia. Đức Liên Hoa Sanh
thu thập các kinh sách từ các cõi trời, cõi Naga và cõi loài người. Khi
đã học thông thạo các kinh sách này, Ngài được gọi là “Đấng Giàu Mạnh
Của Thế Gian” (giàu và mạnh về trí huệ).
ĐỨC LIÊN HOA SANH ĐẠT QUYỀN NĂNG TÂM LINH
Ngài đi tới Núi Linh Thứu để học thuần thục các pháp luyện sức khỏe
và trường thọ; đạt quyền năng tâm linh về năm giác quan bằng cách tuyệt
thực và chỉ uống nước, giữ sức khỏe và thân nhiệt trong khi khỏa thân
phương pháp làm cho tâm trí trong sáng, thân thể nhẹ nhàng, chạy nhanh
bằng cách điều hòa cơ thể, sống lâu và học rộng như bầu trời bằng cách
tuyệt thực và ứng dụng giáo lý về Tánh Không. Do thực hành mọi sám hối,
Ngài chịu đựng mọi khó nhọc. Lúc này danh hiệu của Ngài là “Người Hưởng
Đại Lạc”.
Đức Liên Hoa Sanh
cũng đạt quyền năng rút cam lộ từ cát và sỏi, biến đồ dơ và thịt xác
chết thành thực phẩm thanh tịnh, và nghệ thuật nhào lộn. Ngài được gọi
là “Người Hưởng Thực Phẩm Một Cách Đế Vương”.
Đức Liên Hoa Sanh
còn thủ đắc các quyền năng trường thọ bằng cách dùng tinh chất của
vàng, phòng bệnh bằng tinh chất của bạc, đi trên nước bằng tinh chất của
ngọc trai, hóa giải chất độc bằng tinh chất của sắt, đắc huệ nhãn bằng
tinh chất của lam ngọc. Bây giờ Ngài có tên là “Hoa Sen Tinh Chất Của
Ngọc”.
Đức Liên Hoa Sanh thuần thục trong cách dùng một ngàn loại tinh chất như vậy, và Ngài truyền bá phương pháp này vì lợi ích của mọi người.
Dược sư Phật xuất hiện đưa cho Ngài một bình cam lộ và bảo Ngài uống,
Ngài uống một nửa còn một nửa Ngài giấu trong một bảo tháp. Bây giờ
Ngài được gọi là “Liên Hoa Sanh Thành Tựu Giả”.
No comments:
Post a Comment