Chương 01
Đời người quý báu
Đời người quý báu
Đời
người rất quý báu, với tiềm năng lớn, nhưng vô
thường và đầy bất mãn. Vì vậy phải tận dụng cuộc đời này bằng cách tu tập ngay
bây giờ.
Đời
sống con người, vốn là khoảng thời gian ở giữa lúc ở trong bụng mẹ và lúc chết,
thường có nhiều niềm vui và nhiều thành tựu, là nguồn ích lợi lớn. Nhưng đời
sống cũng chịu nhiều hình thức đau khổ không thể tránh được, về tâm trí cũng như
thể xác. Một cuộc đời khốn khổ cũng có vẻ trôi qua mau chóng và một cuộc đời
hạnh phúc vẫn có thể chấm dứt với cảm giác không trọn vẹn. Như vậy cuộc đời là
phù du và rốt cuộc không thỏa mãn khi nó dao động giữa những kinh nghiệm tốt và
xấu, tức là giữa hạnh phúc và khổ đau mà chúng ta có vẻ không thể kiểm soát
được.
Cuộc
đời bắt đầu vào lúc thọ thai và chấm dứt với tiến trình “bệnh và chết” hay tai
nạn nào đó để đưa đến cái chết. Thể xác và thần thức cùng hiện hữu một cách hài
hòa khi chúng ta còn hơi thở và cơ thể còn hơi ấm. Khi hơi thở ngừng và hơi ấm
không còn, thần thức và thể xác tách rời nhau, và người ta chết. (Theo PG thì
khi mạch ngừng lại, người ta có thể chưa chết. Khi sờ vào ngực người hấp hối mà
thấy có hơi ấm thì người đó chưa chết, và có thể đang ở trong trạng thái thiền
định).
BẢN
CHẤT THẬT CỦA CON NGƯỜI
Thể
xác không phải là con người thực sự, mà chỉ là nhà trọ, nơi thần thức hay tâm
của chúng ta trú ngụ trong một thời gian. Khi thần thức rời khỏi nhà trọ đó, thể
xác tan nhập trở lại vào những nguyên tố của tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Thần
thức sẽ tiếp tục tái sinh với một thể xác khác và danh tánh khác tùy theo nhân
duyên quá khứ. Vận mạng tương lai của chúng ta, dù tốt hay xấu, là tùy thuộc vào
những tâm tánh, những thói quen về tư tưởng và cảm xúc, cũng như lối biểu lộ
những thói quen đó bằng lời nói và hành động.
Bản
chất thật của thần thức hay “tâm” là rộng mở, không và thanh tịnh. Phẩm tính của
nó là hòa hợp, hoan hỷ, toàn trí và toàn hảo. Phẩm tính này gọi là “giác ngộ”
hay “Phật tánh”. Tiếng Sanskrit gọi Phật là “Buddha”, có nghĩa là “Đấng Giác
Ngộ”. Người nào cũng có Phật tánh. Tâm là trí tuệ thực sự không có lối suy nghĩ
nhị nguyên, vốn có tính chất tự giới hạn, phân chia kinh nghiệm đời sống thành
chủ thể và đối tượng, “mình” và “ người khác”. Tính chất thật của tâm là “toàn
trí”, trông thấy tất cả cùng một lúc và “bất nhị”, và là sự đơn nhất vô giới
hạn. Trong “cõi chân không” của chúng ta, không chỉ có tâm trí hay trí tuệ, mà
còn có không gian vô hạn và thời gian vô cùng.
Vậy
tại sao tất cả chúng ta không biết đến chân tâm của mình? đó là vì tính chân
thật của tâm đã bị che phủ bởi những ý niệm nhị nguyên quen thuộc của trí phân
biệt vốn luôn luôn phân biệt, so sánh, gây ra những cảm xúc não phiền, tham
muốn. Tuy nhiên dù có những cảm xúc gồm tham, sân, si, ganh tỵ và ngạo mạn, tâm
trí tuệ nội tại của chúng ta vẫn thanh tịnh, tức là vẫn trong sạch và không
phiền não.
Để
khám phá tính chất của tâm trí, chúng ta phải chí thành và tinh tấn thực hành
thiền quán. Chúng ta phải nhận biết và thiền quán về chánh kiến, chánh tư duy,
tình cảm đúng, niềm tin đúng và lối sống chân chánh. Nhưng dù chỉ có ý tưởng là
mình có chân tâm thanh tịnh thì chỉ riêng điều này cũng giúp chúng ta xây dựng
niềm tin, tinh tấn tu tập và thúc đẩy chúng ta đạt đến mục tiêu chân
chánh.
Có thể
có những người nghĩ rằng tâm trí có tính chất chấp thủ và cứng nhắc, không thể
tu sửa được. Có thể chúng ta cho rằng mình đã lún sâu vào những thói quen xấu
nên khó gây dựng những lối nghĩ, lối nhìn và cảm xúc tốt. Nhưng thật sự là bất
cứ lúc nào ta cũng có cơ hội để bắt đầu thực hành lối sống đúng hoặc thay đổi
lối sống từ xấu thành tốt.
Sự
thật là tâm trí ta không phải là một giòng cố định. Nó không phải là một vật đơn
nhất, thí dụ như một thanh sắt, mà là một chuỗi những khoảnh khắc thay đổi liên
tục, giống như một chuỗi hạt được 'lần' từ hạt này đến hạt khác. Mỗi sự kiện là
một loạt những thay đổi của sát na sinh và diệt, một kinh nghiệm tiếp theo sau
một sự kiện khác và được kế tục bởi sự sinh ra của một sự kiện khác nữa. Người
ta thường nghĩ rằng cuộc đời của mình là một giòng liên tục và đơn nhất, nhưng
thật ra đó chỉ là một ảo ảnh, giống như một cây nhang được quay nhanh sẽ làm cho
người ta trông thấy một vòng tròn ánh sáng trong bóng tối.
Nếu
chúng ta chán nản hay cảm thấy bế tắc, như vậy thường là vì chúng ta không hiểu
hết tính chất phù du của đời sống. Chúng ta chấp chặt vào những sự kiện như
những đối tượng của tâm trí và xem chúng như những thực thể có thật. Nhưng sự
thật là những sự kiện đã thay đổi ngay cả trước khi chúng ta nghĩ về chúng.
Những sự kiện mà chúng ta nghĩ tới chỉ là những cái bóng, những hình phản chiếu
của những gì đã diễn ra.
Mỗi sự kiện, mỗi khoảnh khắc là một cái gì mới, giống như sự sinh con. Chúng ta có thể được uốn nắn và có thể tự giáo dục hay luyện tập như đối với một em bé sơ sinh. Qua thiền quán, chúng ta có thể sửa đổi ở mỗi khoảnh khắc sự kiện và do đó khám phá ra chân tính của mình.
Mục đích của thiền quán:
Đã có
nhiều người thắc mắc về sự chú trọng thiền quán. Họ thấy thiền quán là sự tự
nuông chiều, và còn có thể là vị kỷ hay đòi hỏi, vì nếu chỉ ngồi để hưởng tịnh
lạc trong tâm trí của mình thì như vậy có ích lợi gì cho xã hội? Làm sao có thể
nói là mình quan tâm tới người khác?
Sự thắc mắc như vậy là hiểu lầm thiền quán, và đó là vì đa số chúng ta chưa thấy rõ lợi ích của thiền quán.
Tất cả
những gì chúng ta nghĩ hay cảm xúc đều sinh sản một ấn tượng tốt hay xấu tương
ứng trong tâm thức (hay thần thức). Những ý nghĩ vô vị kỷ, hòa thuận hay vui vẻ
sẽ gieo những hạt giống sinh ra những hình thể đẹp nhất, những âm thanh hay nhất
và những cảm giác tốt nhất. Ngược lại, những ý nghĩ xấu sẽ sinh ra những quái
vật, những âm thanh kinh khủng. Nhưng chỉ khi rời khỏi thể xác thô kệch, đi qua
cõi trung ấm bardo thì chúng ta mới trông thấy và nghe thấy những hiện tượng
này.
Thiền
quán là phương tiện tốt nhất để tạo những thân tướng, âm thanh, cảm giác tốt có
thể giúp mình cũng như tất cả những người nào sẵn sàng cảm nhận chúng. Những
người ở trong cõi trung ấm thân rất nhạy cảm với thiền quán và những lời cầu
nguyện vì họ sống trong thế giới tâm linh, không có thân xác vật chất để gá vào,
nếu họ nghĩ " New York" thì họ sẽ thấy mình đang ở New York. Nếu ngay đó họ nghĩ
"London" thì London sẽ tức khắc là nơi họ đang đứng, theo sự cho phép của nghiệp
báo. Cứ phiêu bạt như vậy, họ thường cảm thấy chán nản, sợ hãi và cô
đơn.
Niềm
an lạc và tâm từ bi mà chúng ta phát sinh qua thiền quán sẽ là chỗ tốt để những
sinh linh trong cõi trung ấm thân nghỉ ngơi và trở nên tự tin, an tĩnh và hoan
hỷ. Thiền quán là cách giúp đỡ những sinh linh này tốt hơn là những ý nghĩ tán
loạn và những tình cảm thông thường của chúng ta, vì nó phát xuất từ mức sâu hơn
và an lạc hơn trong tâm trí của chúng ta. Giống như một cục nam châm, tâm trí
trụ trong Thiền quán thu hút những thần thức phiêu bạt và làm cho họ ổn định
hơn. Càng trụ trong thiền quán lâu hơn, chúng ta càng có thể an ủi những sinh
linh này nhiều hơn và có nhiều cơ hội làm cho tương lai của họ tốt
hơn.
Thiền quán cũng làm cho chúng ta giúp đỡ rất nhiều cho những người sống trong cõi vật chất này. Còn nếu tâm trí có đầy những cảm xúc xấu mà lại muốn giúp người khác, dù ở trong cõi vật chất, thì chúng ta có thể vô tình làm cho họ nhiễm những cảm xúc xấu đó.
Thiền
quán là cách thanh lọc những bất tịnh, củng cố những tính tốt, và đánh thức chân
tính của mình. Thiền quán có thể là sự chứng nghiệm những đức tính như tôn kính,
an lạc, từ ái và sức mạnh, được phát sinh bởi những ý nghĩ và những tình cảm
thành thực. Trong thiền định chúng ta có thể chứng nghiệm tâm giác ngộ. Như vậy
thiền quán và thiền định là một sự chứng nghiệm, một sự đạt tới, có tính chất
thanh lọc và giúp thủ đắc kho tàng từ bi, an lạc, hoan hỷ và thành tín và do đó
làm cho đời sống của chúng ta phong phú hơn, có thêm năng lực phục vụ người
khác. Khi đã có nhưng phẩm tính đó, tất cả những gì chúng ta nói và làm cũng sẽ
tự nhiên biểu lộ và phản chiếu những phẩm tính đó. Chúng ta trở thành nguồn từ
bi, an lạc và hoan hỷ đối với tất cả những người nào tiếp xúc với chúng ta. Chỉ
riêng sự hiện diện của chúng ta cũng mang lại sự an ủi cho người khác. Vậy, cũng
giống như không quên gốc rễ của một cái cây nếu muốn nó mang lại hoa trái cho
mình, chúng ta không thể lơ là với tâm trí của mình nếu muốn làm lợi ích cho
người khác.
Ít
nhất cũng ở mức lý trí, nhiều người trong chúng ta biết đến sự quan trọng của
thiền quán nhưng lại bỏ qua hoặc không thực hành thiền quán. Lý do là chúng ta
biết nhưng không có hứng thú để thực hành. Vậy làm sao để có hứng thú thực hành
thiền quán.
Có hai
loại động lực căn bản để thực hành thiền quán: thứ nhất là cảm hứng, thứ hai là
lo sợ. Đời sống là nguồn phong phú cho hai loại động lực này. Thí dụ, gặp một vị
Thầy khác thường có thể là sự kiện gây cảm hứng cho chúng ta. Hoặc có thể là
những sự kiện như bị bệnh, một người thân qua đời, hay một thảm kịch lớn xảy ra
như tai họa sóng thần ở Nam Á và Đông Nam Á làm cho chúng ta thức tỉnh và nhận
xét đúng về cuộc đời.
Phật
Giáo thúc đẩy chúng ta suy nghĩ sâu xa về năm tính chất của đời người vốn gây
cảm hứng cũng như làm cho chúng ta lo sợ:
- Có
đời sống đạo đức là điều quý hiếm
- Cuộc
đời là vô thường, luôn luôn biến dịch
-
Những sự kiện trong cuộc đời đều là những nghiệp quả tốt hay xấu
- Cuộc
đời đầy đau khổ
- Cuộc
đời có tiềm năng đạt những mục tiêu cao nhất.
Những
tính chất này không phải là giả tạo, mà là những sự thật về cuộc đời. Trước đây
chúng ta đã không biết hay không quan tâm đến chúng, nhưng bây giờ chúng ta hãy
chú ý đến những động lực tu tập này. Tại tu viện của tôi ở Tây Tạng, mỗi buổi
sáng chúng tôi bắt đầu hành thiền bằng việc suy ngẫm về năm điều này. Chúng ta
không cần phải ngồi thiền và quán niệm về chúng mà chúng ta có thể suy nghĩ về
chúng ở bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Những điều này sẽ giúp cho chúng ta biết
rõ bản chất thật sự của cuộc đời, đưa chúng ta đi vào trong đường đạo, và gây
cảm hứng cho chúng ta tu tập và thọ trì Phật Pháp.
Đời người khó có được:
Cuộc
đời rất quý báu vì nó là nền móng cho chúng ta xây dựng công trình tu tập không
chỉ của kiếp này mà còn cho tất cả những kiếp sau. Cuộc đời dành cho chúng ta cơ
hội để đạt đến giác ngộ, chứng nghiệm an lạc đích thực và tỏa chiếu những phẩm
tính này để mang lợi ích đến cho chúng sanh. Nếu chứng ngộ chân tánh của mình,
vũ trụ vạn vật sẽ trở thành nguồn an lạc cho chúng ta, và chúng ta cũng trở
thành nguồn an lạc cho vũ trụ vạn vật.
Nếu
chúng ta nhận ra sự quý báu của cơ hội này và hiểu giá trị của cuộc đời mình,
chúng ta sẽ tức khắc cảm nhận và biết ơn cuộc đời. Sự biết ơn này sẽ trở thành
sự cương quyết không lãng phí một khoảnh khắc nào của đời sống và dành trọn cuộc
đời cho việc làm lợi ích với tất cả những khả năng của mình.
Chúng
ta hãy xét xem có bao nhiêu sinh linh trên thế gian này có cơ hội dị thường này,
vì khi xét như vậy chúng ta sẽ hiểu mình đã may mắn biết bao. Nhìn chung quanh
chúng ta sẽ thấy có vô số sinh linh đang sống trên thế gian. Nếu lật một tảng đá
lên, chúng ta thấy có hàng trăm côn trùng đang bò bên dưới. Nhìn qua kính hiển
vi, chúng ta thấy có vô số sinh vật ở trong một giọt nước. Chỉ riêng ngay trong
ruột của chúng ta cũng có hàng tỉ vi trùng. Theo Phật Giáo thì mỗi con vi trùng
đó cũng có thần thức và cũng đang tìm hạnh phúc.
Thêm
nữa, còn có vô số sinh linh mà chúng ta không trông thấy. Giống như tất cả những
nền văn hóa cổ truyền khác trên thế giới tin rằng có những sinh linh vô hình như
các vị thiên thần và ma quỷ. Phật Giáo cũng tin rằng có vô số loài sinh linh vô
hình đối với mắt thường của chúng ta, những sinh linh này hiện hữu giữa chúng
ta, ở ngay chỗ mà ta đang ngồi và đang thở. Lý do chúng ta và những sinh linh đó
không trông thấy nhau và không can thiệp vào đời sống của nhau, là vì chúng ta
và họ không có liên hệ nhân quả với nhau để sinh ra sự nhận thức lẫn
nhau.
Nhưng
trong đời sống của loài hữu tình và vô tình rộng lớn và kỳ diệu này, loài người
có tiềm năng lớn nhất để đạt đến giác ngộ, vì chúng ta có cảm hứng, có lý trí và
có nỗ lực để tìm đến và đi theo con đường tâm linh.Trong khi đó loài súc sanh và
sinh linh ở địa ngục chịu đau khổ và thiếu lý trí đến mức không thể có được một
phẩm tánh giác ngộ nào cả. Các vị Thần trường thọ có thể may mắn hơn chúng ta vì
họ có thân ánh sáng đẹp đẽ và có đủ thứ phúc lạc, nhưng họ không có những kinh
nghiệm khổ vui lẫn lộn để gây động lực và khả năng tìm sự giác ngộ giống như
loài người chúng ta, mà lại quá chìm đắm trong dục lạc của mình.
Tuy
vậy, loài người ở thế gian, chúng ta cũng thấy có rất ít người có khuynh hướng
hay có ý định nắm lấy cơ hội quý báu để tu tập và đạt giác ngộ. Nhiều người ngày
nay không tin vào tín ngưỡng và tôn giáo. Nhiều người không biết gì về tiềm năng
tâm trí của mình, kể cả một số người có trình độ trí thức cao. Có lần một người
trí thức nói với tôi:"tâm trí chỉ là một thứ nấm mọc ở trên bộ óc".
Nhiều
người quá bận rộn với việc cuộc sống mưu sinh cơm áo và bệnh tật hoặc quá đam mê
lạc thú mà không dành thời gian cho việc phát triển tâm linh. Những người khác
thì dùng hết năng lực của mình cho việc đạt thành công vật chất và danh tiếng
thế gian. Lại có những người có một chút khuynh hướng tâm linh nào đó nhưng
không đi đúng đường đạo, vì không gặp được minh sư hoặc đúng người hướng dẫn và
đã chọn lầm giá trị. Như vậy chỉ có một phần nhỏ loài người có cơ hội phát triển
tâm linh.
Giáo
lý Phật Giáo đề ra những điều kiện lý tưởng cho việc phát triển tâm linh, đó là
tám điều tự do và mười điều lợi.
Tám
điều tự do là:
1/
không sinh ở địa ngục
2/
không sinh vào loài quỷ đói
3/
không sinh vào loài súc sanh
4/
không sinh về cõi trường thọ thiên (ở cõi này không có cơ hội để tu
tập)
5/
không có tà kiến
6/
không có hành vi man rợ
7/
không có đoạn kiến
8/
không sinh ra ở nơi không có một vị Thầy giác ngộ nào xuất hiện
Mười điều lợi ích là:
1/
được sinh làm người
2/ có
đủ năm giác quan
3/
nghề nghiệp chân chính
4/
sinh ra nơi có Phật Pháp
5/
sinh ra nơi có vị Thầy giác ngộ
6/ vị
Thầy dạy giáo lý đạt đến giác ngộ
7/
giáo lý đó vẫn tồn tại
8/ có
niềm tin vào giáo lý
9/ tu
tập theo giáo lý
10/ có
sự hướng dẫn của một vị đạo sư
Như
vậy, rất hiếm khi có đủ tất cả 18 điều kiện lý tưởng nói trên. Trong Phật Giáo
những ai có đủ những điều kiện này thì được xem là có đời người quý báu. Nhưng
dù có được bao nhiêu điều, chúng ta cũng nên mừng là vì mình đã có những điều đó
và tận dụng chúng. Và chúng ta cũng cố gắng để đạt được những điều mà mình đang
thiếu. Nếu nhận biết như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ dám bỏ phí cơ hội quý
báu này, và sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ hiểu đời người quý báu là an lạc và
chứng ngộ chân không.
Nếu
không nắm bắt cơ hội này để làm cho cuộc đời của mình có ý nghĩa và chuyển hóa
nó thành đời người quý báu thì chúng ta không thể nói là mình sẽ có một cơ hội
khác trong tương lai. Sau cùng, loài người có trí khôn sắt bén nhất trong các
loài sinh linh mà cũng có những cảm xúc mạnh mẽ nhất, vì vậy chúng ta rất dễ bị
cảm xúc lôi cuốn và làm những việc sai lầm có thể đưa tới tái sinh vào những cõi
thấp. Luận Sư Shantideva nói: "rất khó được làm người với những điều kiện
tốt. Chúng ta đang có cơ hội đạt được mục tiêu cao quý của cuộc đời, nhưng nếu
không tận dụng cơ hội này, làm sao có được cơ hội khác ?"
Cuộc đời vô thường
Chết
chóc là đề tài tốt nhất để đạt sự tập trung tâm trí. Khi suy ngẫm về sự chết và
sự vô thường của cuộc đời, chúng ta dễ cảm thấy mình phải khẩn cấp tận dụng đời
người quý báu của mình. Khi liễu triệt ý nghĩa vô thường, chúng ta sẽ biết rõ
những tính chất của cuộc đời và do đó sẽ ra sức tu tập.
Chúng
ta đều biết là mình sẽ tới lúc chết, nhưng chúng ta không biết trước mình sẽ
chết như thế nào. Chúng ta tự nhiên xem cuộc đời của mình là sẽ lâu dài nhưng kỳ
thật chúng ta chỉ sống khi nào thần thức còn trụ trong thể xác. Sự kết hợp thần
thức và thể xác này rất dễ bị phá hủy bởi nhiều thứ như bệnh tật, tai nạn, thuốc
chữa bệnh, thực phẩm, nhà ở, giải trí, bạn bè... tất cả đều có thể trở thành
nguy hiểm chết người.
Cuộc
đời có vẻ là một sự hiện hữu liên tục, nhưng nó là một chuỗi những thăng trầm
trong mỗi lúc. Những giai đoạn sống và chết xen kẽ liên tục giống như ngày và
đêm nối tiếp nhau. Trong mỗi lúc, sự biến đổi trong đời sống diễn ra bất tận,
giống như chuỗi hạt trong tay chuyền liên tục từ hạt này sang hạt khác
vậy.
Tất cả
những gì trong đời sống, như thiên nhiên, tình bạn, của cải và địa vị, đều luôn
biến đổi. Đức Phật dạy: " ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều vô
thường giống như những áng mây mùa thu. Sống và chết quay cuồng giống như một vũ
công. Đời người qua nhanh giống như tia chớp trên bầu trời".
Guntheny Tempe Dronme kể rằng có một người đang dạo chơi
trên núi bất ngờ rơi xuống sườn núi. Trong khi lăn xuống nửa chừng, người đó nắm
được một nắm cỏ, y cố gắng hết sức bám vào những cọng cỏ để không bị rơi xuống
vực sâu; Nhưng ở đâu bò tới một con chuột màu trắng gặm nhắm những cọng cỏ; Rồi
một con chuột màu đen cũng tới. Hai con chuột thay phiên nhau gặm những cọng cỏ
cho tới khi không còn một cọng nào, và người đó đã rơi xuống vực
thẳm.
Trong
chuyện ngụ ngôn này, con chuột trắng biểu trưng cho ban ngày, con chuột đen tỷ
dụ cho ban đêm. Ngày và đêm lần lượt trôi qua đưa chúng ta tới gần hơn với sự
chấm dứt một đời người. Chúng ta sống được một cuộc đời, nhưng chúng ta luôn
luôn tiến gần tới cái chết. Đức Phật dạy:
"
Có tụ thì có tan
Có
thăng thì có trầm
Có
gặp gỡ thì có phân ly
Có
sống thì có chết
Vì
đời sống sẽ chấm dứt
Nên
chúng sinh đều sẽ chết"
Nhiều
người trong chúng ta biết như vậy, ít nhất cũng là ở mức lý trí. Chúng ta cũng
biết rằng cái chết thường tới một cách bất ngờ. Nhưng chúng ta cảm thấy dễ chịu
hơn khi vùi đầu xuống cát, xem như cuộc đời của mình sẽ kéo dài mãi mãi. Như vậy
chúng ta không sửa soạn cho cái chết, để rồi vào phút cuối chúng ta sẽ hối hận
và lúc đó đã quá trễ.
Vì vậy
chúng ta phải nhận thức tính chất vô thường của cuộc đời, và thực sự cảm nhận
tính biến dịch của nó. Sự nhận thức sẽ thúc đẩy chúng ta đi trên con đường an
lạc dẫn tới nơi an lạc mà không dám bỏ phí thêm thời gian.
Dùng lý vô thường giải trừ phiền não:
Nhận
thức sự vô thường là một điều có ích lợi lớn. Ngoài sự thúc đẩy chúng ta thực
hành tu tập, việc quán niệm lý do vô thường còn có thể giải trừ những phiền não
và dẫn đến chứng ngộ vô thượng.
Sự vô thường của sân hận: hiểu lý vô thường làm cho chúng ta khoan dung hơn. Khi cảm thấy tức giận một người nào đó làm hại mình, nếu hiểu sự vô thường của sân hận, chúng ta sẽ nhận thức kẻ thù địch hiện tại của mình có thể đã là con cháu của mình trong kiếp trước. Ngày mai, họ có thể là bạn tốt của chúng ta. Ý nghĩa đó sẽ giải trừ phiền não sân hận trong chúng ta. Chúng ta cũng có thể cảm thấy sự vô nghĩa và trống rỗng của việc tranh chấp với người khác, vì chúng sinh liên tục thay đổi. Chúng ta còn có thể cảm thấy từ bi đối với những người được xem là kẻ thù này của mình, vì qua thời gian, ý định làm hại của họ sẽ trở thành nghiệp quả xấu cho chính họ.
Sự
vô thường của tham dục: khi tham muốn một
người nào hay một vật nào đó, chúng ta phải nghĩ tới tính chất vô thường của
những đối tượng đó. Những người trẻ đẹp trở thành già xấu ngay trước mắt chúng
ta. Những vật mang lại lạc thú hôm nay sẽ trở thành nguồn đau khổ ngày mai do đã
mất đi hoặc đã biến đổi. Của cải vật chất và địa vị xã hội chỉ làm cho chúng ta
trở thành nô lệ của chúng. Bám giữ vào những thứ đó thì cũng giống như tự xiết
cổ mình.
Nếu
chúng ta theo đuổi những sắc tướng của thế gian tức là mình tự lừa dối mình. Do
suy ngẫm về sự vô thường của những đối tượng đang ám ảnh tâm trí của mình, chúng
ta sẽ nhận thức được tính chất phù du, không đáng tin cậy của chúng và sẽ dần
dần không còn hứng thú gì với chúng nữa. Khi sự ham muốn tàn phai, chúng ta có
thể có khả năng mang lại sự thỏa mãn và niềm vui đích thực cho mình cũng như cho
bất cứ cái gì mình có. Không tham dục hay bám giữ vào một đối tượng tâm trí nào
thì đó là nguồn an lạc lớn nhất. Đức Phật dạy:
"Mọi lạc thú thế gian
Tất
cả lạc thú ở cõi trời
Không thể so sánh với một phần mười sáu
Niềm vui giải thoát khỏi tham dục".
Sự
vô thường của ưu phiền: khi tâm trí chùng
xuống vì mình vừa mất một vật ưa thích nào đó, chúng ta nên suy ngẫm về sự vô
thường của ưu phiền và nguyên nhân gây ra ưu phiền. Sự suy ngẫm này có thể giải
trừ mối ưu phiền của chúng ta bằng cách loại bỏ nguyên nhân của nó, vốn là sự
chấp thủ của chúng ta vào một cái gì mà thực sự có tính chất không thật và không
đáng tin cậy. Có thể chúng ta buồn vì phải đối phó với những gì mình không
thích. Khi cảm nhận tính vô thường của chúng, chúng ta sẽ có thể đánh tan được
lực ưu phiền.
Sự
vô thường của phấn khích: Việc suy ngẫm về
lý vô thường có thể giúp chúng ta tránh trạng thái phấn khích. Thí dụ khi biết
mình có được một sự may mắn nào đó, thay vì vui mừng, chúng ta nên suy nghĩ rằng
tình trạng may mắn này chỉ là phù du. Một cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ trong mấy năm
qua về những người trúng số, cho thấy sự kiện trúng nhiều triệu đô la không làm
cho những người trúng số hạnh phúc hơn. Sự thật là việc trúng số lại làm cho họ
đau khổ nhiều hơn vì sự tranh chấp trong gia đình, thưa kiện nhau, và vì tiêu
tiền không khôn ngoan. Một cuộc nghiên cứu khác nhận thấy "các triệu phú bất
ngờ này không hạnh phúc hơn những nạn nhân tai nạn giao thông".
Khi
qua đời chúng ta chỉ mang theo những chứng ngộ tâm linh mà mình đã đạt được,
những thói quen mà mình đã gieo trồng trong tâm trí khi còn sống ở thế gian. Tất
cả những sự kiện sướng hay khổ khác đều không đáng kể. Luận sư Shantideva từng
viết: " một người thức dậy sau giấc mộng hoan lạc dài một trăm năm, một người
khác thức dậy sau giấc mộng đẹp ngắn
ngủi. Nhưng khi cả hai thức dậy, những giấc mộng của họ đều không còn. Cũng
giống như vậy, vào lúc chết thì kiếp sống trường thọ hay không trường thọ cũng
không còn".
Con đường dẫn đến giác ngộ sâu xa: Nếu chúng ta là những hành giả đã đạt chứng nghiệm, thì việc quán niệm lý vô thường có thể dẫn đến trạng thái chứng ngộ sâu xa nhất, vốn là chân lý phổ quát, chân tính giác ngộ. Đại Hành Giả Milarepa viết:
"
Vì sợ sự chết
Ta
chạy vào trong núi
Thiền quán về sự bất ngờ của cái chết
Ta
chứng ngộ trạng thái vô sinh bất tử
Bây
giờ ta không còn sợ sự chết nữa".
Nếu
nhận thức cái chết là điều không thể tránh được, và tính vô thường của những đối
tượng của tâm trí thì tất cả những thói quen xấu trong tâm trí liên quan đến
chúng đều được giải trừ. Tâm trí của chúng ta sẽ trở nên rộng mở thay vì chấp
thủ, buông xả thay vì bám giữ, an tĩnh thay vì xao động, hòa hợp thay vì tranh
chấp, có ý thức thay vì vô tâm, và minh triết thay vì mê lầm. Tất cả đời sống
của chúng ta sẽ thay đổi từ tội lỗi tới lành mạnh. Đạo sư Putowa nói:
"Hãy suy ngẫm về sự bất ngờ của cái chết.
Cảm
nghĩ về cái chết không thể tránh được sẽ xuất hiện.
Như
vậy chúng ta sẽ dễ xả ly mọi nghiệp xấu
Và
ra sức tạo nghiệp tốt".
Nếu
hiểu rõ tính vô thường của sự vật thì sẽ không
có mục tiêu nào là quá cao đối với chúng ta sẽ tiêu tan. Hai phẩm tính của chân
tính là từ bi và trí tuệ sẽ tỏa chiếu và soi sáng mọi sự vật.
Vì vậy
chúng ta phải biết ơn tính vô thường, vì nhờ có nó mà những đau khổ của cuộc đời
sẽ chấm dứt nếu chúng ta tinh tấn tu tập, và khi đó sự gia hộ sẽ có thể chuyển
hóa kiếp người của chúng ta thành đời sống quý báu.
Đời sống được quy định bởi luật nhân
quả:
Một
trong những động lực mạnh nhất của việc tu tập là biết rằng mình sẽ nhận được
nghiệp quả của tất cả những nghiệp thân, khẩu, ý mà mình đã tạo ra. Đây là luật
nhân quả.
Ý niệm
luật nhân quả đã trở nên phổ biến ở Tây Phương, nhưng vẫn có nhiều người nghĩ
rằng nhân quả có nghĩa là số mạng hay một loại trừng phạt nào đó mà người ta
phải đương nhiên chấp nhận. Có khi người ta than thở khi gặp chuyện không may: "
có lẽ đây là nghiệp quả của mình".
Nghĩ
như vậy là sai lầm, vì trước hết nhân quả không chỉ có nghĩa là xấu, mà muốn nói
tới tất cả những hành động cố ý, xấu cũng như tốt, gây ra đau khổ cũng như hạnh
phúc.
Thứ hai, nhân quả, nghiệp báo hay karma, không phải là số mạng hay định mệnh, cũng không phải là sự trừng phạt do một nhân tố bên ngoài nào đó áp đặt lên chúng ta. Chúng ta đã tạo nghiệp quả cho chính mình. Nghiệp quả là hệ quả của những hành động tự ý mà chúng ta làm trong mỗi khoảnh khắc mỗi ngày. Đại Sư Walpola Rahula viết " lý nhân quả là lý thuyết về nguyên nhân và kết quả, về hành động và phản ứng. Nhân quả là luật tự nhiên, khác với ý tưởng về công lý hay thưởng và phạt. Mọi hành động cố ý đều để lại hậu quả do chính mình gây tạo". Quả báo là những gì chúng ta đã gieo trồng trong giòng tâm trí với những hành động và những phản ứng của chính mình.
Nếu
cho rằng mình phải ngồi đợi kết quả của những hành động quá khứ xuất hiện với
mình thì đó là một ý tưởng sai lầm. Tạo những thiện nghiệp về thân, khẩu, ý ngay
bây giờ, những thiện nghiệp do chúng ta tạo ra có thể giải trừ những nghiệp quả
xấu của mình đã gieo trồng trong quá khứ, và định hình lại tương lai của mình.
Nhưng nếu dung dưỡng những ác nghiệp của mình, chúng ta có thể hủy diệt hay giảm
thiểu những thiện nghiệp mà mình đã tạo ra trong quá khứ. Chính chúng ta tạo ra
vận mạng tốt hay xấu của chính mình.
Khi
chết, chúng ta chỉ có thể mang theo những nghiệp quả của mình. Tất cả những gì
mà chúng ta đã hưởng thụ trong kiếp này đều phải bỏ lại phía sau. Đức Phật dạy:
“Một vị vua rồi cũng đến lúc chết
Của
cải, thân nhân, và bạn bè đều không thể đi theo Ngài
Người ta dù đi đâu, dù ở đâu
Nghiệp quả cũng đi theo họ như bóng theo
hình".
Nghiệp
quả là nhân tố độc nhất quy định sự tái sanh của chúng ta, vì kiếp sau chính là
hiệu ứng của những khuynh hướng nghiệp xuất hiện trong tâm thức của chúng ta.
Đức Phật dạy:
"
Do thiện nghiệp mà có hạnh phúc
Vì
ác nghiệp mà chịu khổ đau
Vậy
an lạc hay đau khổ đều do nghiệp quả
Từ
những thiện nghiệp và ác nghiệp của mình".
Nếu
hiểu và tin luật nhân quả, chúng ta cố gắng tạo những thiện nghiệp để có hạnh
phúc trong những kiếp sau. Vì ý định đi trước hành vi của thân và miệng, nên
chúng ta hãy tu sửa thái độ tâm ý của mình đến chỗ an lạc. Chúng ta hãy chấm dứt
những ý nghĩ xấu trước khi chúng trở nên quá tệ hại. Nếu thực sự tin vào luật
nhân quả, chúng ta sẽ không dám dung dưỡng bất cứ một điều gì xấu, vì không muốn
tự làm hại mình với những nghiệp quả xấu. Nếu vẫn có hành vi xấu thì đó là vì
chúng ta, chưa hiểu và chưa tin luật nhân quả.
Việc
cải thiện hành vi của mình cũng mang lại cho chúng ta cơ hội cải tạo thế giới
vốn liên quan chặt chẽ với chúng ta. Nghiệp quả của chúng ta không chỉ liên quan
đến bản thân mà còn có nghiệp tập thể (cộng nghiệp) cũng như nghiệp cá nhân
(biệt nghiệp). Nghiệp cá nhân quy định con người và đời sống của cá nhân. Nghiệp
tập thể là nghiệp quả mà chúng ta chia sẻ với những người có một sự liên quan
nào đó với mình. Càng thân cận với người khác, chúng ta càng chia sẻ nhiều quả
với họ. Nghiệp tập thể là lý do nhiều người chia sẻ đời sống và ý tưởng giống
nhau. Vậy, do tạo thiện nghiệp, chúng ta có thể giúp cải thiện nghiệp báo chung
của mọi người. Càng tinh tấn tu tập, chúng ta càng đóng góp nhiều lợi ích cho
công việc tạo nghiệp cộng đồng tốt này.
Do
vậy, vì mình và vì mọi người, chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu một cách chi tiết về
luật nhân quả và nghiệp báo.
Gốc rễ của nghiệp là ngã chấp:
Nghiệp
(Karma) là hành động cố ý phát sanh từ ý định của mình. Như vậy tâm có vai trò
chính yếu trong việc tạo nghiệp và có năng lực tạo ra kết quả của
nghiệp.
Trước
khi chúng ta đạt được tâm giác ngộ thì nghiệp là một sự kiện của đời sống. Chúng
ta tạo nghiệp khi xem những vật đối tượng của tâm là những thực thể có sự hiện
hữu thực sự. Việc xem một đối tượng là một thực thể có thật phân cách với tâm
mình thì được gọi là thấy nó với tự tánh của nó. Như đã nói lối cảm nhận này
được gọi là “ngã chấp”, tức là bám giữ vào cái ta hay tự tánh. Trước hết chúng
ta bám giữ vào tự tánh của thể xác và tâm trí của mình và gọi nó là "ta", và
rồi chúng ta tự chấp thủ tự tánh của những người và vật khác, và gọi những đối
tượng đó là "người này", "người kia", "vật này", "vật kia"....
Khi
chúng ta thấy năm uẩn (skandha) sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo nên thân xác và
tâm trí ta, và xem chúng là "ta" hay "mình", thì như vậy được gọi là bám giữ vào
tự ngã, hay ngã chấp (vị kỷ). Khi xem những đối tượng như thể xác, tình cảm, cảm
giác và những hiện tượng khác là có thật, nên được gọi là chấp thủ các hiện
tượng hay pháp chấp. Chấp thủ tự tánh hay ngã chấp và pháp chấp là gốc rễ của sự
tạo nghiệp.
Mọi
vật xuất hiện trong đời sống là kết quả của những nghiệp do tâm cảm nhận và
tương tác với những đối tượng của nó, thí dụ như những ý niệm của xúc, cảm giác,
(những tâm pháp và sắc pháp) và tất cả những hiện tượng xuất hiện trong tâm thức
của chúng ta. Những đối tượng vật chất mà chúng ta cảm nhận được không nhất
thiết do nghiệp cá nhân của chúng ta gây ra. Tuy nhiên do nghiệp của chúng ta mà
những đối tượng này trở thành nguồn gốc của những nghiệp quả tốt hay xấu trong
đời sống.
Nghiệp được tạo như thế nào ?
Nghiệp
được tạo khi tâm chấp thủ của chúng ta phát sanh một tâm tham ái đối với đối
tượng được chấp thủ hoặc phát sanh một sự sân hận. Cả sự ưa thích lẫn sự không
ưa thích, làm cho tâm chấp thủ mạnh hơn, và do đó đưa đến tham, sân, si, tức là
ba cảm xúc phiền não hay ba điều độc hại. Như vậy chúng ta tạo nghiệp qua ba
"cửa" thân, khẩu, ý (hành động cụ thể, lời nói và ý nghĩ). Sự tạo nghiệp từ cảm
nhận tâm trí này là nguyên nhân của mọi điều xấu về thân, tâm cũng như xã hội
của chúng ta. Đạo Sư Gampopa nói "nguồn gốc của mọi tội lỗi và mọi nghiệp quả
đau khổ là do ngã chấp mà ra". A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Luận Sư Thế Thân
cũng nói: " Ý định là nghiệp của tâm. Thân nghiệp và khẩu nghiệp là những
nghiệp do ý nghiệp tác thành".
Chúng
ta không thể không tạo nghiệp, nhưng chúng ta có thể chọn nghiệp tốt để tạo
hầu gặt hái những kết quả tốt, hoặc tạo nghiệp
xấu để rồi nhận lãnh hậu quả khổ đau. Kinh sách Phật Giáo chỉ dẫn 10 thiện
nghiệp và 10 ác nghiệp về thân, khẩu, ý như sau:
Ba
nghiệp ác của thân: (1) sát sanh, (2) trộm cắp, (3) tà tâm. Bốn nghiệp ác của
miệng là: (4) nói dối, (5) nói lời chia rẽ, (6) nói lời độc ác, (7) nói lời vô
nghĩa. Ba nghiệp ác của ý là: (8) tham muốn, (9) sân hận và (10) tà
kiến.
Mười
nghiệp thiện là trái ngược lại với 10 ác nghiệp vừa kể trên. Ba thiện nghiệp về
thân: (1) bảo vệ mạng sống của sinh linh khác, (2) bố thí, (3) không tà tâm. Bốn
thiện nghiệp của miệng là: (4) nói lời thành thật, (5) nói lời hòa giải, (6) nói
lời ái ngữ, (7) nói lời có ý nghĩa. Ba thiện nghiệp của ý là: (8) khoan dung,
(9) từ bi và (10) chánh kiến.
Nhân
tố quan trọng độc nhất quyết định tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp là động lực hay
ý định của người tạo nghiệp. Đại Sư Tsongkhapa nói: "giống như nam châm hút
sắc, ý định làm cho tâm chịu sự thu hút của ý nghĩ tốt, xấu hay trung tính".
Nếu ý định của chúng ta chịu ảnh hưởng của ba độc tham, sân, si thì dù hành
động, nói năng hay suy nghĩ gì thì chúng ta cũng sẽ gây ác nghiệp. Luận Sư Long
Thọ nói: "những hành động được tạo tác bởi tham, sân, si đều là ác nghiệp,
chính ác nghiệp này sẽ mang lại đau khổ cho ta và sẽ dẫn ta đầu thai vào cõi
thấp".
Tuy
nhiên nếu chúng ta có những động lực từ bi, khoan dung và trí tuệ thì mọi hành
động, lời nói, ý nghĩ của chúng ta đều là thiện nghiệp. Luận Sư Long Thọ nói: "
những nghiệp được tạo không phát xuất từ tham, sân, si là thiện nghiệp, chính
thiện nghiệp này sẽ mang lại hạnh phúc cho ta và sẽ dẫn ta tái sanh vào cõi lành
trong những kiếp sau".
Nếu ý
định của chúng ta pha trộn tốt xấu thì nghiệp cũng pha trộn tốt xấu. Nếu ý định
là trung tính thì chúng ta cũng tạo nghiệp trung tính, sản sanh nghiệp quả không
tốt cũng không xấu và tái sanh vào cõi không cao không thấp.
Đôi khi chúng ta thấy người tốt chịu sự khổ đau và người xấu lại sung sướng. Tại sao vậy? câu trả lời là vì nghiệp quả của hai người này chưa chín muồi. Mỗi người chúng ta đã tạo vô số nghiệp trong vô số kiếp quá khứ. Mỗi hành động của chúng ta được ghi nhận trong hàm tàng thức (alayavijnana, A Lại Da Thức, thức chứa đựng tất cả những kinh nghiệm đời sống con người). Hàm tàng thức là trạng thái tâm trung tính, không chủ động, vô thức, và là nền móng của kinh nghiệm đời sống luân hồi. Tất cả những hành động được ghi nhận trong hàm tàng thức trở thành lực tác động và sẽ sinh ra nghiệp quả trong những kiếp tương lai của chúng ta. Những nghiệp quả này là sự chín muồi của những chủng tử nghiệp mà chúng ta đã gieo trồng trong hàm tàng thức, và có thể là quả ngọt, quả đắng hay trung tính. Đức Phật dạy: " tâm thức giống như biển cả, nghiệp giống như những đợt sóng".
Như
vậy người xấu được thọ hưởng sự thành công bây giờ là đang hưởng kết quả của
những nghiệp tốt quá khứ nào đó, còn người tốt phải chịu đau khổ là đang nhận
lãnh những hậu quả của những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong quá khứ. Khi những
nghiệp quả tốt và xấu này chấm dứt thì những nghiệp quả tốt và xấu khác sẽ xuất
hiện với những người tốt và những người xấu đó.
Những
nghiệp quả chín muồi theo thứ tự nào? Theo quy luật tổng quát thì những nghiệp
nghiêm trọng và mạnh nhất sẽ chín muồi trước. Kế tiếp cận tử nghiệp, tức là
những nghiệp mà chúng ta tạo vào lúc sắp lìa đời. Loại nghiệp chín muồi thứ ba
là những nghiệp mà chúng ta đã dùng nhiều thời gian nhất để tạo và quen thuộc
nhất. Và rồi, nghiệp quả sẽ xuất hiện theo thứ tự thời gian, bắt đầu với những
nghiệp mà chúng ta đã tạo trước. Như vậy chúng ta sẽ nhận lãnh một số nghiệp quả
trong kiếp này và một số nghiệp quả khác trong những kiếp sau.
Chúng
ta có vô số chủng tử nghiệp nhưng chúng ta không biết đến sự hiện hữu của chúng,
và phần lớn chúng tiềm ẩn hoặc chưa chín muồi. Khi một chủng tử nghiệp chín muồi
thì chúng ta sẽ thọ lãnh nghiệp báo của mình. Trong kinh sách Phật Giáo có tỷ dụ
một một người bị một con chuột độc cắn, nếu người đó bị cắn vào mùa đông thì
chất độc chưa có hiệu lực. Nhưng đến mùa xuân, khi người đó nghe thấy tiếng sấm
báo hiệu sang mùa thì chất độc sẽ phát tác, nếu người đó không dùng thuốc giải
độc. Như vậy, đúng thời đúng lúc, nếu chúng ta không làm gì để hóa giải, nghiệp
quả chín muồi của chúng ta sẽ báo ứng. Đức Phật từng dạy: "Nghiệp của người
thế gian một khi đã tạo tác, không bao giờ tan mất dù có trải qua một trăm đại
kiếp, đến khi đúng thời đúng đúng lúc, nghiệp ấy sẽ trổ quả".
Nếu
biết ngừng lại và tịnh hóa những ác nghiệp, chúng ta sẽ có thể biến đổi, giảm
bớt, hay giải trừ chúng hoàn toàn. Một thiện nghiệp mạnh mẽ có thể xóa bỏ nhiều
ác nghiệp. Với động lực càng mạnh, càng thanh tịnh, thiện nghiệp của tất cả
chúng ta càng có nhiều oai lực. Chúng ta không nên xem thường những nghiệp do ý
sinh ra. Đức Phật cũng dạy: " Làm một việc tốt nhỏ, đời sau sẽ hưởng phúc lạc
lớn, thành tựu những ý định lớn, cũng giống như những hạt giống tốt sẽ giúp dẫn
đến vụ gặt được mùa".
Điều
ngược lại cũng vậy, một ác nghiệp lớn có thể làm suy yếu hay tiêu tan những
thiện nghiệp.
Động
lực là quan trọng nhất, nhưng sức mạnh của một nghiệp nào đó cũng tùy thuộc vào
việc nó có được tạo tác qua bốn giai đoạn sau đây hay không. Ví dụ một hành động
bố thí. Trước hết chúng ta cần phải có một cái gì để bố thí, tức là một
vật bố thí. Sau đó chúng ta cần có động lực
vốn là nhân tố hoàn toàn quan trọng. Thứ ba là sự thực thi hạnh bố thí. Khi vật
bố thí được nhận thì khi đó việc bố thí mới hoàn thành. Một hành động hội đủ bốn
giai đoạn này là một nghiệp được tạo tác trọn vẹn và sẽ mang lại nghiệp quả cho
người tạo nghiệp.
Chuỗi
nhân duyên của nghiệp là vô hạn. Một nghiệp nhân có thể sản sinh nhiều quả báo.
Một nghiệp nhân có thể sản sinh của nhiều nhân duyên khác nhau. Khi nhận một quả
báo, chúng ta gieo trồng nhiều nhân duyên mới. Mỗi phương diện và mỗi khoảnh
khắc của đời sống được sản sinh và duy trì bởi một mạng lưới những nhân duyên,
nghĩa là tất cả mọi vật đều được nối kết, sản sinh và hoạt động tùy thuộc lẫn
nhau.
Vượt qua nhân duyên:
Nghiệp
nhân là sự thật của đời sống, nhưng mục tiêu tối hậu của chúng ta là vượt lên
trên sự tạo nghiệp. Điều này sẽ xảy ra khi chúng ta đạt đến trạng thái giác ngộ
trọn vẹn và không còn ngã chấp nữa. Khi đã thoát khỏi nhân duyên gây ra nghiệp,
chúng ta được tự do giúp đỡ chúng sanh theo vô số phương tiện, vì chúng ta đã có
tính toàn giác để biết đúng nhu cầu của mỗi sinh linh và có quyền năng hiển lộ
trong bất cứ hình dạng và âm thanh nào mang đến lợi ích cho chúng
sanh.
Để
vượt lên trên sự tạo nghiệp, chúng ta trước hết chỉ tạo thiện nghiệp. Càng tạo
nhiều thiện nghiệp, chúng ta càng gặt hái nhiều quả an lạc và do đó càng tạo
nhiều phúc lạc lớn hơn. Như vậy dần dần chúng ta buông bỏ ngã chấp. Cuối cùng
chúng ta sẽ chứng nghiệm một chút chân tánh quang minh của mình. Khi không còn
ngã chấp nữa, chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ trọn vẹn. Con đường tạo tác thiện
nghiệp sẽ đưa chúng ta trở về sự an lạc tối thượng vốn có ở trong mọi người và ở
trong mọi thời gian.
Cuộc đời là ảo mộng?
Có
những giáo lý nói rằng cuộc đời là ảo mộng và những giáo lý khác nói rằng cuộc
đời do nghiệp tạo ra. Đối với các bậc Thầy giác ngộ đã thoát khỏi sự kiểm soát
của luật nhân quả thì thế gian này là ảo mộng và không có cái gì chắc thật cả.
Các vị không còn tham dục hoặc sân hận, vì mọi sự vật đều được xem là ảo
giác.
Đối
với đa số chúng ta thì sự vật thế gian đều có vẻ chắc thật. Khi còn hoạt động
qua nhân duyên, chúng ta còn phải làm theo luật nhân quả. Vì nghiệp lực của
chúng ta, các hiện tượng có vẻ có sự hiện hữu thực sự và liên tục. Nhưng kỳ thật
thì chúng ta đang ngủ với một giấc mộng và chưa thức tỉnh.
Giáo
lý Phật Giáo dạy rằng thế gian là do tâm tạo. Nhưng có thể chúng ta thắc mắc làm
sao tâm của mình có thể tạo ra quả núi lớn đang đứng trước mắt mình? không ai
nói rằng tâm tạo ra quả núi, mà là tâm tạo ra ý niệm quả núi. Dù có quả núi hay
không, nếu không có tâm thì những ý tưởng, từ ngữ, hay ý nghĩ quả núi có thật
hay không có thật sẽ không xuất hiện. Trong Bách Nghiệp Kinh (Karmashataka
Sutra) Phật dạy: "Những nghiệp khác nhau, tạo ra những cõi giới khác
nhau".
Trong
Đại Bi Kinh (Mahakarunapundararika Sutra) Đức Phật dạy: " Nghiệp sản sinh và
làm hiển lộ thế gian, nghiệp tạo ra chúng sanh, nghiệp sinh ra chúng, nghiệp có
thể hóa chúng".
A Tỳ
Đạt Ma Câu Xa Luận (Abhidharmakosa) cũng ghi: "Nghiệp sinh ra mọi hiện tượng
trong thế gian".
Người
ta có thể hỏi, nếu cuộc đời là ảo mộng thì tại sao chúng ta lại ra sức cải thiện
đời sống của mình làm gì? đời sống của chúng ta được dựa trên những phản ứng và
những phản chiếu của thói quen tâm trí của chúng ta, vốn thực sự không có thật.
Nhưng chúng ta phải cố gắng cải thiện đời sống ảo mộng của mình, nếu không chúng
ta sẽ tiếp tục đau khổ vì những sự vật huyền ảo. Vì không nhận ra chúng là ảo
ảnh nên chúng ta chịu đau khổ cứ như là chúng có thật.
Cần
phải thấu hiểu nghiệp báo:
Khi thực sự hiểu rõ thế nào là nghiệp, chúng ta sẽ không cố ý tạo những ác nghiệp, dù nhỏ nhất. Dù những ý nghĩ xấu chưa xuất hiện, chúng ta cũng bắt đầu thanh lọc tâm ta ngay từ bây giờ.
Trong
tu viện của tôi ở Tây Tạng, và trước thời của tôi, có một vị đại sư tài năng tên
là Khenpo Damcho, khi còn nhỏ Ngài khó nhớ những gì mà mình đã học. Một hôm,
Thầy của Ngài ngồi ngay trước mặt Ngài và bảo Ngài lập lại một trăm lần một câu
trong một bài học, và hai Thầy trò luân phiên xướng lên câu đó. Sau đó Thầy của
Ngài bảo Ngài nói câu đó một mình, nhưng Ngài cũng không nhớ nổi để có thể lập lại. Thấy
vậy Thầy của Ngài cho Ngài niệm một câu Thần chú ngắn của Phật Tịnh Hóa (Buddha
of Purification) một ngàn lần. Ngay sau khi niệm xong, trí nhớ của Ngài hoàn
toàn thay đổi, và việc học của Ngài bắt đầu tiến triển mạnh. Ngài trở thành một trong những học giả sáng
chói nhất trong thời đại của mình. Tại sao? vì việc niệm câu thần chú đã tạo
thiện nghiệp giải trừ những ác nghiệp gây chướng ngại cho tâm trí của
Ngài.
Chúng
ta cũng có thể sửa đổi nghiệp của mình với sự tinh tấn. Điều then chốt là luyện cho tâm ta xa lánh ác nghiệp và
tạo thiện nghiệp cho đến khi trở nên hoàn thiện, thoát khỏi lưới nghiệp
huyễn ảo. Một khi được nếm thành quả nỗ lực
của mình, niềm tin vào nghiệp báo và việc hành trì tu tập của chúng ta sẽ gia
tăng và được thiết lập vững chắc trong tâm ta.
Cuộc đời đầy khổ đau:
Tất cả
chúng ta đều muốn có hạnh phúc, nhưng khi còn kẹt trong vòng luân hồi với những
hoạt động thế gian, chúng ta sẽ không thể tìm thấy hạnh phúc, vì thế gian này
thực sự không đáng thoả mãn và đầy khổ đau. Chúng ta phải hết sức vận dụng trí
tuệ để hiểu thấu điều này.
Nhiều
người cho Phật Giáo là bi quan vì nói rằng đời là khổ. Nhưng học giả nổi tiếng
thế giới, Hòa Thượng Tiến Sĩ Walpola Rahula
từng viết: " Phật Giáo không bi quan, không lạc quan mà chỉ nói lên sự thật.
Phật Giáo nhìn sự vật một cách khách quan".
Khi
thực sự thấy sự vô ích của việc tìm hạnh phúc trong thế gian huyền ảo, chúng ta
sẽ không tham muốn nữa, mà sẽ đi theo con đường diệt khổ, đắc Niết Bàn an lạc.
Đây là sự minh triết của đạo pháp và quả vị.
Chúng
ta cần phải đối diện với đau khổ thế gian vì một lý do khác. Nếu muốn đắc đạo,
chúng ta cần phải bắt đầu ngay ở đây chứ không phải ở một nơi nào khác trong dự
định. Đó là lý do mà bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn nói về Khổ Đế
(truth of suffering), một trong bốn chân lý vi diệu, vốn là giáo lý trung ương
của Ngài. Và đó là lý do mà chúng ta cũng nên tìm hiểu đời sống một cách khách
quan. Nếu cuộc đời của chúng ta phần lớn đã chìm đắm trong mê lầm và đau khổ thì
chúng ta nên nhìn nhận như vậy và biết rằng đó là nơi khởi hành để mình tiến tới
trên đường đạo.
Đau
khổ: chân lý thứ nhất
Chúng
ta hãy xét thêm tính chất của sự đau khổ mà mình đang phải chịu. Chúng ta đều
quen thuộc với sự đau khổ mà mình trông thấy ở xung quanh, ví dụ như: u uất, đau
buồn, than thở và bệnh tật... Sự đau khổ phổ quát này được Phật Giáo gọi là "
khổ khổ" (suffering of suffering).
Nếu
nhìn kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy một loại khổ đau khác nhuộm màu tất cả những niềm
vui và những sự hài lòng của mình. Chúng ta lo ngại tất cả những điều tốt đẹp sẽ
phải chấm dứt hay biến đổi theo đúng quy luật tự nhiên. Con cháu chúng ta sẽ
trưởng thành và xa cách, những người thân yêu rồi sẽ chết, chúng ta sẽ trở nên
già yếu. Những điều tốt không chỉ chấm dứt mà còn có thể biến thành nguồn đau
khổ. Việc kinh doanh có thể làm cho chúng ta thê thảm vì phá sản. Thuốc lá gây
ung thư phổi. Loại khổ đau này được gọi là "hoại khổ", khổ do biến
đổi.
Ở mức
sâu hơn là "hành khổ", khổ có ở khắp nơi. Sự đau khổ này có ở ngay trong năm
uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vốn tạo nên thân thể và tâm thức con người, và ở trong đó không có gì thực sự
đáng hài lòng. Đức Phật nói : "Tất cả các pháp hữu vi đều biến dịch và hư
hoại" (all compounded things are subject to change and decay). Pháp hữu vi
là những hiện tượng phát sinh từ nhân duyên. Chúng được tạo ra bởi những nguyên
nhân của đau khổ, những ác nghiệp của những ý niệm nhị nguyên và phiền não, với
những điều kiện mang lại đau khổ. Vậy, phải sinh ra là khổ.
Có thể
nói hành khổ dẫy đầy thế gian này đến mức chúng ta trở nên vô cảm với nó. Lý do
một phần chúng ta không nhận thức được nó là vì chúng ta đã không biết gì về một
cõi sống nào khác và như vậy không có gì để so sánh với đời sống thế gian của
mình.
Vậy
chúng ta hãy xét tình trạng sống của mình từ quan điểm của các vị Thần. Trong
cuốn "Hành Trình Giác Ngộ" (Enlightened Journey) của tôi, tôi đã trình
bày những hình ảnh đơn giản sau đây: Hãy tưởng tượng chúng ta có "thân ánh sáng"
giống như cầu vòng và giống như thân của những sinh linh ở cõi trời. Đó là thân
ánh sáng phi vật chất nên chúng ta có thể di chuyển bằng cách bay trên không.
Không có bóng tối xung quanh chúng ta, chúng ta không cần phải có ánh sáng mặt
trời hay mặt trăng, vì thân ánh sáng của chúng ta chiếu sáng khắp vùng xung
quanh. Không có sự đau nhức nào vì thân của chúng ta là vô vật chất và bất hoại.
Chúng ta sống với thân này trong nhiều năm. Rồi một hôm thân ánh sáng này
bỗng biến đổi thành thân có thịt, xương, da,
máu và đủ loại chất bẩn. Chúng ta chỉ có thể di chuyển bằng hai chân bước từng
bước một. Chúng ta không thể trông thấy gì nếu không có nguồn ánh sáng khác.
Thân thể của chúng ta dễ bị xâm phạm bởi những vật khác, dễ gẫy, đứt hay bị cắt
thành từng mảnh, không thể lành lặn trở lại hay đi đứng trở lại nếu chúng ta
không cẩn thận trông chừng, tránh né và luồn lách mọi vật chung quanh bất cứ lúc
nào. Đây phải là một loại khổ không thể nào chịu đựng nổi.
Tất
nhiên, sự hoan lạc của các vị Thần không thể so sánh được với sự an lạc của cõi
vô thượng. Vì cũng sống trong cõi luân hồi nên các vị Thần chắc chắn phải có sự
đau khổ. Khi nghiệp quả tốt của họ chấm dứt, họ sẽ chết trong sự lo sợ kinh
khủng vì cảm thấy tương lai đau đớn đang chờ đợi mình trong kiếp sau ở một trong
những cõi thấp.
Chúng
ta nên nhớ lời Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tính giác ngộ
này là mục tiêu để chứng ngộ bằng những pháp tu tập khác nhau như thiền quán.
Nhưng đối với đa số chúng ta thì Phật tánh bị che phủ bởi gió nghiệp vốn có gốc
rễ là tâm ngã chấp, và bởi những cảm xúc phiền não. Vì vậy chúng ta trở nên vô
minh và đau khổ và phải lang thang mãi trong sáu cõi luân hồi, giống như cái bàn
xoay của người thợ làm đồ gốm quay vòng vòng. Đức Phật dạy: " Do vô minh tham
muốn và biến dịch, trong các cõi của người, trời và ba cõi thấp; năm cõi sinh
linh quay cuồng giống như cái bàn xoay của người thợ gốm".
Giống
như một con ong bay quanh trong căn phòng đóng kín, chúng ta liên tiếp tái sinh
trong các cõi luân hồi tùy theo nghiệp báo của mình.
1/ Nếu
tâm ta đầy sân hận và đã làm hại người khác thì vào lúc chết, thần thức của
chúng ta sẽ xuất hiện trong hình dạng kiếp tái sinh trong địa ngục. Những đặc
tính của địa ngục như nóng cháy, hoặc lạnh như băng, đau đớn hoặc buồn thảm, áp
chế, hung dữ, sẽ là đời sống của chúng ta.
2/ Nếu
ta keo kiệt bỏn xẻn, sau khi chết chúng ta sẽ thấy mình tái sinh trong cảnh khốn
khổ, bị hành hạ, đói khát và thiếu thốn, vốn là những đặc điểm của cõi quỷ
đói.
3/ Nếu
tâm ta và những hành động ta đầy vô minh và mê muội, chúng ta sẽ thấy mình tái
sinh vào cõi súc sinh, thú vật, chịu sự mê muội, hành hạ, phải kéo cày hay chuyên chở vật nặng, và bị giết để lấy
thịt.
4/ Nếu
có tâm ganh tỵ, chúng ta sẽ thấy mình tái sinh trong loài bán thần Atula, hiếu
chiến, và do lo sợ, ganh tị chúng ta sẽ rơi
vào những cuộc xung đột và âm mưu bất tận.
5/ Nếu
ta có ý nghĩ và hành vi kiêu ngạo, sau khi chết thần thức ta sẽ xuất hiện như
những vị Thần ở cõi trời, nơi chúng ta sẽ phí thời giờ với những thú vui cho đến
khi chết và rơi xuống những cõi thấp.
6/ Nếu
tâm ta và hành động có tính tham dục và chấp thủ, chúng ta sẽ tái sinh trở lại
làm người.
Ở cõi
người có nhiều cơ hội để tu tập và phát triển tâm linh, nhưng dù tái sinh làm
người, chúng ta vẫn có thể đi lạc ra ngoài đường đạo và tái sinh trong cõi thấp.
Có thể chúng ta mắc phải tính ganh tị và sân hận để rồi tạo nghiệp xấu. Kiếp
người cũng đầy khó khăn tới mức không có gì bảo đảm cho chúng ta sẽ có sức mạnh
để tu tập.
Phải
xét những khó khăn mà chúng ta đối diện từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Trước
hết chúng ta phải trải qua sự ra đời và tuổi ấu thơ. Rồi nếu may mắn, chúng ta
sẽ sống khoảng hai mươi năm kế tiếp với trường học. Sau đó chúng ta xây dựng gia
đình và dành phần lớn thời gian cho việc kiếm
sống. Cuối cùng là tuổi già, sức yếu. Đủ các thứ bệnh tật làm cho chúng ta phải
lo nghĩ, đau đớn và trông mong. Chúng ta có thể không còn tiền bạc và của cải
nữa. Cái chết sẽ chực chờ chúng ta ở ngoài cửa và kiếp sống của chúng ta sẽ chấm
dứt. Thân người của chúng ta sẽ tan rã thành cát bụi và tên tuổi của chúng ta
biến mất khỏi ký ức của thế gian. Chỉ có tâm thức của chúng ta chuyển di qua các
cõi luân hồi, trừ khi chúng ta đạt đến giải thoát hay tái sinh trong một cõi
tịnh độ, nơi chúng ta sẽ không bao giờ thoái hóa về mặt tâm linh và sẽ chứng đạt
giải thoát trọn vẹn.
Ngoài
những khó khăn này, con người còn phải chịu bốn nổi khổ trong suốt kiếp sống:
khổ vì phải nhận những gì mà mình không muốn, khổ vì mất những gì mình thích,
khổ vì không có được những gì mình muốn có, và khổ vì phải gặp những gì mình
ghét. Cách độc nhất để thoát khỏi những nổi khổ này là làm ba điều sau
đây:
- Nhận
ra những tính chất xấu, cảm xúc xấu và hành vi xấu của mình.
-
Chuyển hóa từ xấu sang tốt.
- Phát
triển từ tốt đến hoàn thiện.
Tham
vọng cũng có thể là một tính tốt. Tây Phương đặc biệt đề cao tâm lý "mình có
thể làm được", nhưng chúng ta cần phải biết dùng tham vọng một cách khôn
ngoan. Nếu chạy đua marathon mà lại muốn tới đích ngay thì không thể thắng cuộc
đua nếu không đi qua hơn bốn mươi hai cây số. Vậy khi nhắm vào phần thưởng cao
nhất tức Phật quả, chúng ta cần phải đi từ bước đầu tiên, đó là biết mình đang ở
vị trí nào. Chúng ta cần nhận ra rằng cuộc đời của mình có nhiều điều xấu và
nhiều đau khổ. Rồi chúng ta phải có ý muốn khẩn cấp tự giải thoát khỏi tù ngục
do chính mình tạo ra. Chúng ta cần phải chuyển hóa từ xấu đến tốt bằng cách gây
dựng những đức tính an lạc, từ bi và chánh kiến. Sau cùng, chúng ta phải đạt đến
sự hoàn thiện và thoát khỏi sự trói buộc của tâm lý sợ đau khổ và muốn hạnh phúc
bằng cách tự giải thoát khỏi gốc rễ của đau khổ.
Phật
Giáo có một cách tự giải thoát khỏi gốc rễ của đau khổ qua việc tu tập từng bước
một cho đến khi đạt đến trạng thái giác ngộ trọn vẹn. Như vậy Phật Giáo chủ
trương rộng mở, một quan điểm không có hai biên kiến bi quan và lạc quan. Luận
Sư Long Thọ nói:" Đối với người chứng ngộ tánh Không, thì tất cả đều khả
hữu".
Tiềm năng lớn của đời người:
Nhiều
người có bản tánh hiền hòa, vui vẻ và khôn ngoan. Chỉ riêng sự hiện diện của họ
cũng có thể mang lại niềm an lạc cho mọi người chung quanh. Tất cả chúng ta đều
có thể đánh thức những phẩm tánh như vậy trong tâm mình, miễn là chúng ta có ý
định và cố gắng đạt được điều này. Mỗi người chúng ta đều có chân tánh giác ngộ.
Những phẩm tánh đích thực của chúng ta là an lạc và trí tuệ. Những cảm xúc xấu
và những lời nói không lành mạnh là những phiền não, một loại ô nhiễm, chứ không
phải tính chất đích thực của chúng ta.
Đó là
lý do Phật Giáo dạy rằng đời người rất quý báu, chúng ta có thể dùng sự vô
thường để phát triển đời sống của mình, chúng ta có thể dùng luật nhân quả để có
sự chết an lạc và tái sinh hoan hỷ, và tất cả chúng ta đều có thể đạt đến giác
ngộ viên mãn, vì đây chính là chứng ngộ chân tánh của chính mình. Chúng ta có
thể đạt đến an lạc và trí tuệ không chỉ cho đời này mà còn cho những kiếp sau,
và không chỉ cho riêng mình mà còn cho vô số người khác.
Nếu
chúng ta gây dựng tâm an lạc, có chánh kiến và củng cố những thói quen tốt này
trong tâm trí thì tâm an lạc này sẽ chuyển hóa đời sống và tâm tánh của chúng
ta. Những tình trạng không may mắn sẽ ít ảnh
hưởng tới chúng ta, và sức mạnh an lạc sẽ thắng thế. Nhưng nếu không lợi dụng cuộc đời của mình ngay bây giờ
thì trong tương lai chúng ta sẽ rơi vào sự mê muội, lo sợ và đau đớn.
Để đạt
mục tiêu này, chúng ta phải đi theo con đường đạo. Đường đạo có thể là bất cứ
con đường nào dẫn đến tâm an lạc, giải trừ tính chấp thủ, thanh lọc cảm xúc
phiền não, cải thiện lời nói và hành vi của chúng ta. Đây là cách độc nhất để
chuyển tính xấu thành thiện nghiệp, tạo công đức và chứng ngộ trí
tuệ.
Đường
đạo của chúng ta có thể có một vài hay tất cả những pháp thực hành sau
đây:
-
Thiền quán hơi thở và theo dõi hơi thở trong từng khoảnh khắc để làm cho tâm trí
an tĩnh và đánh thức trí tuệ.
- Gây
dựng ý nghĩ và tình cảm từ bi đối với người khác và thực hành tâm từ bi bằng
cách phục vụ nhu cầu của người khác một cách vô vị kỷ.
- Tôn
thờ một sự hiện diện thiêng liêng mở tâm trí chúng ta một cách vô hạn, giải trừ
mọi phiền não của chúng ta.
- Có ý
thức trông thấy và chuyển hóa tất cả những đối
tượng của tâm trí thành nguồn lợi ích.
- Quán
niệm về tâm bình đẳng đối với chủ thể và đối tượng.
- Cố
gắng thấy và cảm nhận những gì đang diễn ra
trong đời sống là không thật, giống như một
giấc mộng do khuynh hướng tâm chúng ta dựng lên và củng cố.
Mục
cuối cùng ở trên là một phương diện đặc thù của Phật Giáo Tây Tạng được dùng
trong pháp Yoga mộng và những pháp thiền khác. Việc luyện tâm để thấy cuộc đời
là ảo mộng giúp giải trừ sự bám giữ và tham muốn đời sống này. Rồi khi cái chết
và kinh nghiệm sau khi chết đến với chúng ta, chúng ta sẽ thấy chúng giả ảo,
giống như những giấc mộng, và sẽ có thể đối phó với chúng một cách dễ
dàng.
Trong
giấc ngủ có khi người ta nhận ra là mình đang mộng và những gì đang diễn ra chỉ
là một giấc mộng. Có những cách tập luyện để có ý thức như vậy, một kỹ thuật được gọi là mộng tỉnh táo. Chúng ta
có thể học cách "thức dậy" trong những giấc
mộng của mình và nhận ra rằng chúng là mộng, do đó giải trừ mối lo sợ hay đe dọa
nào đó và chuyển nó thành điều tốt. Cũng giống như vậy, sau khi qua đời, khi
chúng ta ở trong cõi trung ấm Bardo, nếu chúng ta có thể nhận ra tất cả những gì
xảy ra với mình trong cõi đó chỉ là những ảo ảnh thì mọi kinh nghiệm đáng sợ kia
sẽ không có hiệu lực nữa mà còn chuyển thành những điều tốt.
Các vị
Thầy dạy rằng nếu luyện pháp Yoga mộng, chúng ta sẽ có thể nhận ra những trạng
thái sau khi chết (trạng thái chân tánh và bardo, tức là giai đoạn chuyển tiếp)
đúng tính chất thật của chúng ta, đó là huyễn ảo. Thêm nữa, nếu có thể nhận ra
những giấc mộng chỉ là mộng bảy lần, chúng ta sẽ có thể nhận ra cõi bardo. Có
những người nói rằng dễ biến đổi những kinh nghiệm bardo hơn là những kinh
nghiệm mộng.
Theo
đạo sư Tsele, ý nghĩ của chúng ta là điều quan trọng nhất khi luyện tập cách đối
phó với những giấc mộng và cõi bardo. Chúng ta nên tạo thói quen tự nhắc nhở
mình rằng tất cả những gì mình làm hay thấy đều là một giấc mộng hay cõi bardo.
Nếu quán niệm sâu xa sự thật này, chúng ta chắc chắn thành công trong việc đối
phó với cõi bardo sau khi chết.
Để
thành công trong việc luyện tập cho lúc chết và sau khi chết, Phật Giáo Đại Thừa
dạy chúng ta trước hết hãy tìm môt vị Thầy thông thái, đáng tin cậy. Rồi chúng
ta phải học những giáo lý của các vị Thầy. Chúng ta nên tìm hiểu kỹ những gì mà
mình đã học được và chứng nghiệm trí tuệ của các giáo lý bằng thiền quán. Chúng
ta phải mở rộng tâm của mình đối với chúng sinh, thông cảm với họ giống như với
Mẹ của mình. Chúng ta nên cư xử với chúng sinh với thái độ bình đẳng, từ ái và
vui vẻ. Chúng ta nên luyện sáu hạnh hoàn hảo: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ chứng ngộ chân tánh. Jigme Lingpa phát nguyện như
sau: "Trong cuộc đời tôi nguyện tu tập, làm hài lòng vị đạo sư, nương tựa trí
tuệ học, phân biện và thiền quán, gây dựng hạnh xả ly, thái độ giác ngộ và sáu
hạnh hoàn hảo".
Giáo
lý Drogchen (Đại Hoàn Thiện) dạy rằng cần phải biết mình sẽ làm gì sau khi chết,
khi chúng ta gặp "tánh quang minh" và " hình ảnh quang minh hiện diện tự nhiên"
xuất hiện cùng với chân tánh. Để biết phải làm gì, chúng ta phải hành thiền thâm
mật ngay trong kiếp này. Chúng ta trước hết phải hiểu tính chất thật của tâm trí
của mình, rồi phải duy trì và củng cố sự hiểu biết đó bằng cách thiền quán về
nó. Khi chứng ngộ chân tánh của mình, chúng ta sẽ cảm nhận tất cả những gì xuất
hiện trước mắt mình, dù trong ý thức của mình, trong đời sống hay lúc chết đều
là sự hiện diện và biểu lộ của chân tính đó. Vì vậy Longchen Rabjam viết: "
Trong cuộc đời, ngay khoảnh khắc hiện tại này, chúng ta phải chứng ngộ trí tuệ
của chân tâm là pháp thân. Rồi duy trì lực thiền quán tự nhiên đó trong trạng
thái quang minh. Rồi mọi hiện tượng sẽ xuất hiện như lực trí tuệ hiện diện tự
nhiên".
Chúng
ta có cơ hội tuyệt vời trong kiếp này, nếu chúng ta đi theo đường đạo và thành
tựu chứng ngộ chân tánh của mình và đó là Phật quả.
Chúng
ta cũng có cơ hội tốt để chuyển di thần thức đến một cõi tịnh độ nếu chúng ta
tôn thờ các vị Phật như Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc. Do tu tập pháp
Phowa, tức chuyển di thần thức, chúng ta có thể tái sinh trong cõi tịnh một cách
trực tiếp, không cần phải đi qua những giai đoạn khác nhau của tiến trình chết.
Một hành giả khác cũng có thể làm pháp Phowa cho chúng ta, khi chúng ta còn
sống, hấp hối hay ở trong cõi bardo.
Nếu
chưa đạt thành tựu cao nào, dù đã tích lũy nhiều công đức, chúng ta sẽ trải qua
những kinh nghiệm lúc chết và đây là đề tài của chương kế tiếp.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).29/4/2012.
No comments:
Post a Comment