Phần II
NGHI LỄ
THỌ PHÁP HÀNH THIỀN TUỆ
Phàm khởi đầu công việc gì trong tôn giáo, điều trước tiên phải có
nghi lễ để tỏ lòng tôn kính, có niềm tin vững chắc; việc tiến hành thiền tuệ lại
càng thiết yếu hơn. Khi Ðức Phật còn hiện tiền, các hàng đệ tử nào, nếu có cơ
hội đến xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ từ nơi Ðức Phật; còn
không, thì đến xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ từ vị đại
Trưởng Lão, vị Trưởng Lão, vị Ðại Ðức v.v...
Như vậy, nghi lễ thọ
pháp hành là việc làm theo truyền thống từ thời kỳ Ðức Phật cho đến nay, tất cả
mọi người Phật tử là bậc xuất gia, cũng như hàng tại gia nghiêm chỉnh làm theo
một cách tôn kính với đức tin trong sạch nơi Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng
bảo.
Trước khi làm lễ thọ
pháp hành thiền tuệ, nếu hành giả là người cận sự nam
hoặc cận sự nữ nên thọ trì Tam quy và
8 giới phần đầu hành phạm hạnh từ vị thiền sư.
Ðể cho thân, khẩu, ý
được trong sạch, hành giả nên làm lễ sám hối tội lỗi của mình trước vị thiền sư
chứng minh, để tránh được sự tai hại do xúc phạm đến Tam bảo hoặc các bậc có
giới đức trong sạch.
1- Nghi Thức Sám
Hối
Hành giả nên sám hối
rằng:
Kính bạch Ðại Ðức,
xin phép Ngài, con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm
đến Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo cùng các bậc Thầy Tổ, từ trước cho đến
hiện tại này. Kể từ nay về sau, con hết sức cố gắng thu thúc không để tái
phạm.
Kính xin Ngài chứng
minh cho con, xin Ngài từ-bi chấp nhận những lỗi lầm của con. Bạch
Ngài.
Do tác ý thiện tâm
này, khiến cho tất cả mọi điều tai hại không xảy đến với con; nguyện vọng thực
hành pháp hành thiền tuệ mong giải thoát khổ tử sanh luân hồi của con cho sớm
được thành tựu.
(Ðảnh lễ 3
lần)
Vị Ðại Ðức thiền sư
khuyên dạy rằng:
Này hành giả, con đã
nhận biết lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam
bảo cùng các bậc Thầy Tổ, từ trước cho đến hiện tại này. Sư chứng minh và chấp
nhận sự thành tâm sám hối, sửa chữa của con.
Vậy, kể từ nay về
sau, con phải nên cố gắng thu thúc thân khẩu ý tránh không để tái phạm. Người
nào nhận biết được lỗi lầm của mình, biết sám hối sửa chữa đúng theo pháp luật
của Ðức Phật, thì người ấy chắc chắn sẽ tiến hóa mọi thiện pháp trong giáo pháp
của Ðức Phật.
Hành giả bạch:
Sādhu! Bhante! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Bạch Ngài.
2- Nghi Lễ Thọ Tam Quy
Cùng Tám Giới Hành Phạm Hạnh
Hành giả đảnh lễ vị thiền sư, xin thọ
trì Tam quy cùng 8 giới phần đầu hành phạm hạnh như sau:
Ahaṃ [1] Bhante, tisaraṇena
saha, ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmi [2] , anuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha me [3]
Bhante.
Dutiyampi, Ahaṃ
Bhante, tisaraṇena saha, ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha me Bhante.
Tatiyampi, Ahaṃ
Bhante, tisaraṇena saha, ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha me Bhante.
Nghĩa:
Kính bạch Ðại Ðức,
con xin thọ trì Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới, kính xin Ðại Ðức từ bi
truyền Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới cho con, Bạch Ngài.
Kính bạch Ðại Ðức,
con xin thọ trì Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới, kính xin Ðại Ðức từ bi
truyền Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới cho con, lần thứ nhì, Bạch
Ngài.
Kính bạch Ðại Ðức,
con xin thọ trì Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới, kính xin Ðại Ðức từ bi
truyền Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới cho con, lần thứ ba, Bạch
Ngài.
Hành giả đảnh lễ vị
thiền sư 3 lần.
* Vị thiền sư hướng
dẫn hành giả rằng:
(Sư đọc đúng câu
nào, con nên đọc theo đúng câu ấy).
Nếu có nhiều hành
giả thì:
Ts:- Yamahaṃ
vandāmi, taṃ vadetha.
(Sư đọc đúng câu
nào, các con nên đọc theo đúng câu ấy)
Ts:- Namo tassa
Bhagavato Arahato Sammā-sambuddhassa. (3lần)
(Con đem hết lòng
thành kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bậc A-ra-hán, bậc Chánh Ðẳng
Giác).
Hg:- Namo tassa
Bhagavato Arahato Sammā-sambuddhassa. (3lần)
Vị Ðại Ðức thiền sư
truyền đúng từng chữ từng câu chấm dứt, hành giả đọc lặp theo đúng từng chữ từng
câu như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.Dutiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.Tatiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Ts:-
Tisaraṇagamanaṃ paripunnaṃ.
Hg:- Āma, Bhante.
Chánh mạng đệ bát
giới:
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
3- Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
5- Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
6- Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
7- Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
8- Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Hg:- Āma, Bhante.
Nghĩa:
Tam
quy:
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.
Ts:- Nghi thức
quy y Tam bảo đầy đủ chỉ có bấy nhiêu!
Hg:- Bạch Ngài,
Dạ xin vâng.
Chánh mạng đệ bát
giới (Ājīvaṭṭhamakasīla)
1- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự sát sanh.
2- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự trộm cắp.
3- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự tà dâm.
4- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự nói dối.
5- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự nói lời chia rẽ.
6- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự nói lời thô tục.
7- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa sự nói lời vô ích.
8- Con xin thọ trì điều học, là tác ý tránh xa cách sống tà mạng.
Ts :- Con đã thọ
trì Tam quy cùng chánh mạng đệ bát giới, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong
sạch làm nền tảng, để hoàn thành mọi phận sự Tứ thánh đế bằng pháp không dể
duôi, tiến hành Tứ niệm xứ.
Hg:- Bạch Ngài,
Dạ xin vâng.
Nhận xét về giới
ājīvaṭṭhamakasīla:
Hành giả là bậc xuất
gia Tỳ khưu, Sa di hoặc hàng tại gia, cận sự nam, cận sự nữ đều phải hành giới
hạnh tuỳ theo địa vị của mình, và còn phải hành thêm giới
ājīvaṭṭhamakasīla này nữa.
Vậy, giới ājīvaṭṭhamakasīla như thế
nào?
Giới
ājīvaṭṭhamakasīla là gồm 8 giới, giới thứ 8 tránh xa cách sống tà mạng,
nghĩa là sống chánh mạng, do đó gọi ājīvaṭṭhamakasīla: chánh mạng đệ bát
giới.
Chánh mạng đệ bát
giới có 8 giới là chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng như sau:
1- Tránh xa sự sát
sanh,
2- Tránh xa sự trộm cắp,
3- Tránh xa sự tà dâm,
3 giới này thuộc về chánh nghiệp.4- Tránh xa sự nói dối,
5- Tránh xa sự nói lời chia rẽ,
6- Tránh xa sự nói lời thô tục,
7- Tránh xa sự nói lời vô ích,
4 giới này thuộc về chánh ngữ.8- Tránh xa cách sống tà mạng, sống theo chánh mạng thuộc về chánh mạng.
2- Tránh xa sự trộm cắp,
3- Tránh xa sự tà dâm,
3 giới này thuộc về chánh nghiệp.4- Tránh xa sự nói dối,
5- Tránh xa sự nói lời chia rẽ,
6- Tránh xa sự nói lời thô tục,
7- Tránh xa sự nói lời vô ích,
4 giới này thuộc về chánh ngữ.8- Tránh xa cách sống tà mạng, sống theo chánh mạng thuộc về chánh mạng.
Như vậy, chánh
mạng đệ bát giới; này gồm có chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng
thuộc về phần giới trong Bát Chánh Ðạo.
Ba chánh:
chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng này là 3 tâm sở
sanh riêng biệt trong dục giới đại thiện tâm, vì mỗi
tâm sở có đối tượng khác nhau. Nhưng 3 tâm sở này chắc chắn đồng sanh
cùng nhau trong siêu tam giới tâm (Thánh Ðạo Tâm và Thánh Quả
Tâm) có Niết Bàn là đối tượng; cho nên,
ājīvaṭṭhamakasīla (chánh mạng đệ bát giới) này còn gọi là
ādibrahmacariyakasīla [7]
: Giới hành đạo phạm hạnh phần đầu.
Thật vậy, hành giả
tiến hành thiền tuệ cần phải có giới ājīvaṭṭhamakasīla hoàn toàn trong
sạch trọn vẹn trước tiên làm nền tảng; nghĩa là phải có thân hành
thiện: thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; khẩu
hành thiện: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô
tục, không nói lời vô ích; và sống theo chánh mạng, trước tiên
làm nền tảng để cho định và tuệ phát
sanh.
Nếu hành giả có
ājīvaṭṭhamakasīla không trong sạch trọn vẹn, thì định và
tuệ không phát sanh, làm sao chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả
được!
Ðức Phật
dạy:
"Pubbeva kho panassa
kāyakammaṃ vacīkammaṃ ājīvo suparisuddho hoti...". [8] "Trước tiên, hành
giả phải có thân nghiệp, khẩu nghiệp; chánh mạng hoàn toàn trong sạch trọn vẹn
...".
Ðó chính là
ājīvaṭṭhamakasīla hoặc ādibrahmacariyakasīla làm nền tảng căn bản
để cho định và tuệ phát sanh, tăng trưởng đến giai
đoạn cuối là chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh
Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.
Cho nên, đối với
hành giả dầu bậc xuất gia là Tỳ khưu có Tỳ khưu giới; là Sa di có Sa di giới; là
cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới; bát giới; thập giới, và còn phải nghiêm chỉnh
hành trì giới ājīvaṭṭhamakasīla hoàn toàn trong sạch, trọn vẹn để làm nền
tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.
3- Nghi Lễ Hiến Dâng
Sanh Mạng
Sanh mạng rất quý
giá đối với mỗi chúng sinh nói chung, con người nói riêng; song chánh pháp còn
quý giá hơn sanh mạng.
Hành giả có ý nguyện
cầu chánh pháp, nên hiến dâng sanh mạng của mình, vì sự lợi ích lớn lao, sự tiến
hoá, sự an lạc lâu dài.
3.1- Hiến dâng sanh
mạng đến Ðức Phật
Hành giả tiến
hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ một mình nơi
thanh vắng, có khi phát sanh sợ hãi hoặc các hàng phi nhân quấy nhiễu hoặc các
loài thú dữ có thể làm hại đến sanh mạng, làm cản trở việc tiến hành thiền định
hoặc tiến hành thiền tuệ của mình.
Ðể tránh những trở
ngại cho việc tiến hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ, hành giả phải nên
đến hầu Ðức Thế Tôn thành kính dâng sanh mạng của mình đến Ngài, trước khi tiến
hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ, đọc lời hiến dâng sanh mạng như
sau:
Imāhaṃ Bhagavā attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi. [9] (3 lần)
Kính bạch Ðức Thế Tôn, con xin thành kính hiến dâng lên Ngài sanh mạng này của con.
Sau khi hành giả đã
hiến dâng sang mạng của mình đến Ðức Thế Tôn xong rồi, nên phát sanh đức tin
trong sạch trọn vẹn nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, Tam bảo, vì vậy, sanh mạng
được an toàn, sự tiến hành thiền tuệ được thuận lợi, phát triển, tiến hóa trong
thiện pháp.
Ðức Phật
dạy:
3.2- Hiến dâng sanh
mạng đến vị thiền sư
Hành giả tiến
hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ, nếu chưa hiểu
biết rõ tường tận về pháp hành, chưa có kinh nghiệm về pháp hành, chưa biết nhận
xét thế nào là hành đúng, thế nào là hành sai, mà ngộ nhận, phát sanh tâm ngã
mạn, khó dạy,... như vậy, thì thiện pháp không tăng trưởng.
Ðể cho thiện pháp
tăng trưởng, hành giả phải đến gần gũi thân cận với vị thiền sư thông thạo về
pháp học, đầy đủ kinh nghiệm về pháp hành, để nương nhờ đúng theo nghi lễ như
sau:
Imāhaṃ Bhante attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi. [11] (3 lần)
"Kính bạch Ngài Ðại Ðức, con xin thành kính dâng đến Ngài sanh mạng này của con".
Hành giả có đức tin
trong sạch trọn vẹn nơi vị thiền sư, đã hiến dâng sanh mạng của mình, nương nhờ
vị thiền sư rồi; hành giả là người dễ dạy, biết vâng lời vị thiền sư, Ngài chỉ
dẫn thế nào, hành giả nên hành theo thế ấy.
Hành giả sau khi đã
làm lễ hiến dâng sang mạng đến Ðức Phật để được an toàn sanh mạng, tránh điều
trở ngại cho việc tiến hành thiền định hoặc tiến hành thiền tuệ; và đã làm lễ
hiến dâng sanh mạng đến vị thiền sư, để tỏ ra là người đệ tử dễ dạy, biết vâng
lời chỉ dẫn của vị thiền sư.
3.3- Nghi lễ thọ
pháp hành thiền tuệ:
Chánh
Pháp của Ðức Phật gồm có pháp học, pháp hành và pháp thành: 4 Thánh Ðạo,
4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Ðể tỏ lòng tôn kính
Pháp bảo, người đệ tử, hành giả cần phải làm Lễ Cầu Pháp, với tâm
tôn kính, trang nghiêm như sau:
Nibbānassa me Bhante sacchikaraṇatthāya vipassanākammaṭṭhānaṃ detha. (3 lần)"Kính bạch Ðại Ðức, kính xin Ngài từ-bi tế độ truyền dạy cho con pháp hành thiền tuệ để thực hành, hầu mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ sanh".
Nghi lễ thọ pháp
hành thiền tuệ xong. Vị thiền sư tận tâm truyền dạy, hướng dẫn pháp hành thiền
tuệ cho hành giả.
3.4- Cúng dường Tam
bảo và phát nguyện:
Tam bảo: Phật bảo,
Pháp bảo, Tăng bảo là nơi quy y nương nhờ cao cả nhất đối với các hàng Phật tử.
Ðể tỏ lòng tôn kính ngôi Tam bảo, người Phật tử ngày đêm thường lễ bái cúng
dường, Ðức Phật dạy cúng dường có 2 cách:
- Āmisapūjā:
cúng dường bằng phẩm vật như: trầm thơm, cành hoa... cúng Ðức Phật, Ðức Pháp, và
những thứ vật dụng cúng dường đến chư Ðại Ðức Tăng.
-
Paṭipattipūjā: cúng dường bằng pháp hành giới, định, tuệ...
Trong hai cách cúng dường này, Ðức Phật
tán dương ca tụng cách cúng dường bằng cách hành pháp gọi là cách cúng dường cao
thượng nhất.
Nhưng đến khi Ðức
Phật gần tịch diệt Niết Bàn, Ngài dạy chỉ có cách hành pháp mới
thật là cúng dường Ðức Phật một cách cao thượng nhất mà thôi.
Như trong bộ chú
giải Pháp cú, tích Ðại Ðức Attadattha:
Khi Ðức Phật truyền
dạy cho chư Tỳ khưu được rõ, thời gian tịch diệt Niết Bàn của Ngài không còn
lâu.
Chư Tỳ khưu, thường
đến hầu hạ Ðức Phật với lòng tôn kính yêu thương, riêng Ðại Ðức
Attadattha nghĩ: "Ðức Thế Tôn còn thời gian không lâu sẽ tịch diệt
Niết Bàn, còn ta vẫn chưa diệt được tham ái, ta nên cố gắng tiến hành thiền tuệ,
chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo -- A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền". Nghĩ vậy, Ngài ở nơi thanh vắng
một mình để tiến hành thiền tuệ, có số Tỳ khưu chê trách Ngài không biết kính
yêu Ðức Phật. Ðức Phật biết rõ điều ấy, nên truyền dạy một Tỳ khưu gọi Tỳ khưu
Attadattha đến.
Ðức Phật bèn hỏi
Ngài:
- Này con, con
nghĩ thế nào mà hành động như vậy?
- Kính bạch Ðức
Thế Tôn, con được nghe biết Ðức Thế Tôn không còn bao lâu nữa sẽ tịch diệt Niết
Bàn, con cố gắng tiến hành thiền tuệ để chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Ðạo --
A-ra-hán Thánh Quả, trong khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền.
Nghe vậy, Ðức Thế
Tôn nói: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Rồi Ngài
dạy:
"Bhikkhave, yassa
mayi sineho atthi, tena Attadatthena viya bhavituṃ vaṭṭati. Na hi gandhādīhi
pūjentā maṃ pūjenti, dhammā-nudhammapaṭipattiyā pana maṃ pūjenti, tasmā aññenapi
Attadatthasadiseneva bhavitabbaṃ". [12]
(Này chư Tỳ khưu, Tỳ
khưu nào có lòng kính yêu Như Lai, Tỳ khưu ấy nên noi gương theo như Tỳ khưu
Attadattha. Thật vậy, những người cúng dường bằng hương hoa v.v... chưa phải là
cúng dường Như Lai cao thượng. Những người tiến hành theo pháp hành thiền tuệ
chứng đắc siêu tam giới pháp, mới thật là cúng dường Như Lai cao
thượng. Vì vậy, những người khác nên thực hành giống như Tỳ khưu
Attadattha).
Ðến khi Ðức Phật sắp
tịch diệt Niết Bàn, chư thiên các cõi trời mang những đóa hoa trời, hương trời,
âm thanh trời... đến cúng dường Ðức Phật.
Khi ấy Ðức Phật dạy
Ðại Ðức Ānanda:
"Này Ānanda, sự cúng
dường những phẩm vật từ cõi trời như thế ấy, chưa phải tỏ lòng tôn kính Như Lai,
hay tôn trọng, hay kính yêu, hay cúng dường, hay lễ bái Như Lai.
Này Ānanda, Tỳ khưu,
Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ nào theo hành pháp hành thiền tuệ chứng đắc
siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo Giới --
Ðịnh -- Tuệ, thực hành theo chánh pháp. người ấy mới thật tôn kính Như Lai, tôn
trọng, kính yêu, cúng dường, lễ bái Như Lai một cách cao thượng.
Như vậy, này Ānanda,
trong Phật giáo này, các con nên học tập rằng: "Chúng ta nên theo hành pháp
hành thiền tuệ, chứng đắc siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh
theo giới -- định -- tuệ, thực hành theo chánh pháp". [13]
Ðể tỏ lòng tôn kính
tuyệt đối nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, hành giả thành kính cúng dường bằng
cách hành pháp đọc bằng lời như sau:
Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Buddhaṃ pūjemi.
Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Dhammaṃ pūjemi.
Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Saṃghaṃ pūjemi.Con đem hết lòng thành kính cúng dường đến Ðức Phật bằng pháp hành thiền tuệ này.
Con đem hết lòng thành kính cúng dường đến Ðức Pháp bằng pháp hành thiền tuệ này.
Con đem hết lòng thành kính cúng dường đến Ðức Tăng bằng pháp hành thiền tuệ này.
Lời phát nguyện
(Patthanā):
Mục đích cứu cánh
của mình không bị sai lệch, không thay chiều đổi hướng, hành giả phải nên thành
tâm đọc lên lời phát nguyện để cho mọi chúng sinh nghe hiểu rõ ý nguyện tha
thiết của mình rằng:
Addhā imāya paṭipattiyā jāti-jarā-maraṇamhā parimuccissāmi. (3 lần)
(Chắc chắn, bằng pháp hành thiền tuệ này, con sẽ giải thoát khỏi cảnh khổ sanh, lão, tử).
Như vậy, mục đích
cứu cánh đã rõ ràng, hành giả tiến hành thiền tuệ không có nguyện vọng gì khác,
mà chỉ có một ý nguyện duy nhất là chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát
mọi cảnh khổ sanh-lão-tử hoặc giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba
giới, bốn loài mà thôi.
4- Phận Sự Của Vị Thiền
Sư
Vị thiền sư như một
người bạn thân thiết (kalyāṇamitta) của hành giả, với tâm từ chỉ dẫn, dạy
bảo hành giả những sự lợi ích, sự tiến hóa trong pháp hành thiền tuệ.
Vị thiền sư dạy
rằng:
- Hành giả là người
có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã quy y nương nhờ nơi Ðức Phật, Ðức Pháp,
Ðức Tăng đã thọ trì ājīvaṭṭhamakasīla: chánh mạng đệ bát giới rồi, cần
phải giữ gìn giới hạnh của mình cho được trong sạch trọn vẹn, để làm nền tảng
vững chắc cho pháp hành.
- Hành giả đã xin
thụ giáo pháp hành thiền tuệ rằng: "Nibbānassa me Bhante sacchikaraṇatthāya
vipassanākammaṭṭhānaṃ detha".
Vipassanākammaṭṭhāna
nghĩa là gì?
Vipassanākammaṭṭhāna gồm có 2 từ ghép:
- Vipassanā:
là trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng
thái vô ngã của danh pháp sắc pháp.
-
Kammaṭṭhāna: đối tượng danh pháp sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp
(paramatthadhamma) là đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Vipassanā
kammaṭṭhāna: trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp,
sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả
và Niết Bàn.
Trước tiên hành giả
cần phải học hỏi, cho hiểu biết rõ tường tận các danh pháp, các
sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp
(paramatthadhamma) để làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ, đó
là điều tối quan trọng hàng đầu.
Nếu hành giả sử dụng
đối tượng danh pháp, sắc pháp thuộc chế định pháp (paññattidhamma) làm
đối tượng của pháp hành, thì kết quả chắc chắn không dẫn đến sự chứng ngộ chân
lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo -- 4 Thánh Quả và Niết Bàn -- giải thoát
khổ sanh...
Bởi vậy cho nên,
hành giả cần phải học hỏi cho hiểu biết rõ tường tận mỗi danh pháp, mỗi
sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp, để sử dụng làm đối tượng
của pháp hành thiền tuệ, và cần phải hiểu biết rõ phương pháp tiến hành thiền
tuệ đúng theo Pháp hành Trung đạo. Ðó cũng là điều tối quan trọng.
Bởi vì, nhờ sự hiểu biết đúng đắn, hành giả mới có thể hành theo đúng
được.
Tất cả mọi danh pháp
sắc pháp trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đều có thể làm
đối tượng của pháp hành thiền tuệ trong giai đoạn đầu;
trí tuệ thiền tuệ tiến triển đến giai đoạn cuối, mới có
Niết Bàn làm đối tượng của Thánh Ðạo Tâm và
Thánh Quả Tâm.
Như vậy, tất cả mọi
danh pháp sắc pháp trong tam giới làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ đều có
giá trị như nhau, không hơn không kém. Cho nên, hành giả không nên coi trọng
danh pháp sắc pháp này, coi khinh danh pháp sắc pháp kia, để tâm trung dung
trong mọi đối tượng, để tránh được tâm tham, hài lòng trong đối
tượng này, và cũng tránh được tâm sân, không hài lòng trong đối
tượng kia. Nhờ vậy, sự tiến hành thiền tuệ của hành giả đúng theo Pháp
hành Trung đạo.
Bốn oai nghi: oai
nghi đi, oai nghi đứng, oai nghi ngồi, oai nghi nằm thuộc về sắc pháp
là sắc tứ đại kết hợp, liên quan với nhau, có thể làm đối tượng của pháp
hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt cả đối tượng
sắc pháp lẫn chủ thể danh pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái
khổ, trạng thái vô ngã dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4
Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ sanh.
Bốn oai nghi là sắc
pháp như thế nào?
- Oai nghi
đi đó là dáng đi, tư thế đi là sắc pháp phát sanh từ tâm
gọi là sắc đi.
- Oai nghi
đứng đó là dáng đứng, tư thế đứng là sắc pháp phát sanh từ
tâm gọi là sắc đứng.
- Oai nghi
ngồi đó là dáng ngồi, tư thế ngồi là sắc pháp phát sanh từ
tâm gọi là sắc ngồi.
- Oai
nghi nằm đó là dáng nằm, tư thế nằm là sắc pháp phát
sanh từ tâm gọi là sắc nằm.
(Phần pháp học và
pháp hành của đối tượng 4 oai nghi nên xem lại phần trước).
Khi thực tập tiến
hành pháp hành thiền tuệ, buổi ban đầu, hàng ngày, hành giả nên đến trình pháp
với vị thiền sư, để được sự chỉ dẫn trực tiếp, lắng nghe lời phê bình của vị
thiền sư, vâng lời chỉ dẫn, dạy bảo của vị thiền sư, bỏ cách hành sai, hành theo
cách hành đúng, cố gắng tinh tấn liên tục, để làm tăng trưởng chánh niệm, trí
tuệ tỉnh giác, làm tiến hoá trí tuệ thiền tuệ tam giới đến
trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới.
-ooOoo-
[13] Dīghanikāya, phẩm Mahāvagga, Kinh
Mahāparinibbānasutta.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment