Phần IIIVẤN ÐÁP
(tiếp theo)
-ooOoo-
37-
Vấn: Ác pháp nào làm
chướng ngại trong sự phát triển pháp hành thiền tuệ?
Ðáp: Mọi ác pháp đều có
thể làm chướng ngại trong sự phát triển pháp hành thiền tuệ, nhất là ba ác pháp:
tham ái, tà kiến, ngã mạn nương nhờ đối tượng, chủ thể làm chướng
ngại trong sự tiến hành thiền tuệ ngay ban đầu.
- Tham ái:
đó là tâm tham muốn: muốn biết danh pháp, sắc pháp; muốn biết sự sanh,
sự diệt; muốn biết trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; muốn
chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả và Niết
Bàn.
Tâm tham này thuộc về tâm ác luôn luôn
có tâm sở si (vô minh), là ác pháp làm chướng ngại trong sự tiến hành
thiền tuệ, không thể thấy rõ biết rõ thực tánh của các pháp.
- Tà
kiến: đó là tâm tham hợp với tà kiến. Tà kiến ở đây là ngũ uẩn tà
kiến: tà kiến chấp trong ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp cho là ta, người, đàn ông,
đàn bà, chúng sinh, v.v...
Tà
kiến này thuộc về tâm ác đồng sanh với tâm sở si (vô minh),
là ác pháp làm chướng ngại trong sự tiến hành thiền tuệ, không thể thấy rõ biết
rõ thực tánh của các pháp.
- Ngã
mạn: đó là tâm tham không hợp với tà kiến. Ngã mạn tự quan trọng
hoá ta là hành giả như các hành giả khác, hoặc ta là hành giả hơn các hành giả
khác, ta là hành giả thua các hành giả khác.
Ngã
mạn
này thuộc về tâm ác đồng sanh với tâm sở si (vô minh), là ác pháp
làm chướng ngại trong sự tiến hành thiền tuệ, không thể thấy rõ biết rõ thực
tánh của các pháp.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ, nếu có ác pháp nào nương nhờ nơi đối tượng và chủ thể, thì tâm bị ô
nhiễm, làm chướng ngại trong sự phát triển pháp hành thiền tuệ.
38-
Vấn: Tham ái, tà
kiến, ngã mạn phát sanh do nương nhờ nơi đâu? Diệt tham ái, tà kiến, ngã mạn
bằng cách nào?
Ðáp: Tham ái, tà
kiến, ngã mạn phát sanh do nương nhờ nơi chủ thể và đối tượng. Khi hành giả
quan trọng hoá chủ thể và đối tượng, thì tâm tham ái, tâm tà kiến,
tâm ngã mạn nương nhờ nơi chủ thể và đối tượng ấy mà phát sanh.
* Nếu hành giả
quan trọng hoá chủ thể nghĩ rằng: "ta đang tiến hành thiền tuệ",
thì tham ái, tà kiến, ngã mạn sẽ nương nhờ nơi chủ thể như
sau:
- Tâm tham ái
nương nhờ nơi chủ thể phát sanh: ta muốn thấy, ta muốn biết thực
tánh của danh pháp, sắc pháp; ta muốn thấy, muốn biết sự sanh, sự diệt của danh
pháp, sắc pháp; ta muốn thấy, muốn biết trạng thái vô thường, trạng thái khổ,
trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, v.v...
- Tâm tà kiến
nương nhờ nơi chủ thể phát sanh: ta đi để tiến hành thiền tuệ; ta
đứng, ta ngồi, ta nằm..., để tiến hành thiền tuệ.
- Tâm ngã mạn
nương nhờ nơi chủ thể phát sanh: ta là hành giả đang tiến hành
thiền tuệ như các hành giả khác, hơn các hành giả khác, thua các hành giả khác,
v.v...
* Nếu hành giả
quan trọng hoá đối tượng đi, đứng, ngồi, nằm, v.v..., thì tham ái, tà
kiến, ngã mạn sẽ nương nhờ nơi đối tượng như sau:
- Tâm tham ái
nương nhờ nơi đối tượng đi, đứng, ngồi, nằm,..., muốn đối tượng
ấy sẽ đem lại sự lợi ích, đối tượng ấy cho thấy rõ biết rõ thực tánh của
nó.
- Tâm tà kiến
nương nhờ nơi đối tượng đi, đứng, ngồi, nằm..., thấy sai chấp lầm
nơi sắc đi cho là ta đi để tiến hành thiền tuệ; nơi sắc
đứng cho là ta đứng, nơi sắc ngồi cho là ta ngồi, nơi
sắc nằm cho là ta nằm,... để tiến hành thiền tuệ.
- Tâm ngã mạn
nương nhờ nơi đối tượng đi, đứng, ngồi, nằm... cho rằng: ta là
hành giả tiến hành thiền tuệ, thì oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm... phải khác hơn
người thường; do tâm ngã mạn tạo nên oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm... không tự
nhiên, v.v...
Khi tâm tham ái,
tâm tà kiến, tâm ngã mạn nương nhờ nơi chủ thể và nương nhờ nơi
đối tượng mà phát sanh, thì sẽ làm chướng ngại cho việc tiến hành thiền
tuệ không thể phát triển được.
Ðể diệt tham ái,
tà kiến, ngã mạn bằng cách hành giả không nên quan trọng hoá chủ thể
và đối tượng, nên có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác (chủ
thể) và có đối tượng (đi, đứng, ngồi, nằm,...) một cách tự
nhiên.
Diệt tham ái, tà
kiến, ngã mạn có 2 giai đoạn:
1- Giai đoạn diệt
từng thời.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ cho đến khi trí tuệ thiền tuệ thứ tư (trong 16 trí tuệ
thiền tuệ) phát sanh gọi là udayabbayañāṇa: trí tuệ thiền tuệ thấy rõ
biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái
vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã:
- Khi trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, thì có thể diệt được
ngã mạn tự quan trọng hoá mình so với người.
- Khi trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái khổ, thì có thể diệt được
tham ái tham đắm say mê trong danh pháp, sắc pháp.
- Khi trí tuệ thiền
tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô ngã, thì có thể diệt được
tà kiến chấp ngã, chấp thủ từ danh pháp, sắc pháp cho là
ta.
2- Giai đoạn diệt
đoạn tuyệt.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ phát triển tuần tự từ trí tuệ thiền tuệ tam giới cho đến
trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, có Niết Bàn làm đối
tượng, chứng đắc tuần tự 4 Thánh Ðạo Tuệ:
- Chứng đắc Nhập Lưu
Thánh Ðạo Tuệ, có khả năng diệt đoạn tuyệt hoàn toàn tà kiến và
tất cả các pháp thuộc tà kiến; nhưng bậc Nhập Lưu Thánh Ðạo Tuệ chưa có khả năng
diệt đoạn tuyệt được tham ái và ngã mạn.
- Chứng đắc Nhất Lai
Thánh Ðạo Tuệ, có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái, ngã mạn
loại thô trong cõi dục giới; nhưng bậc Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ chưa có
khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái, ngã mạn loại vi tế.
- Chứng đắc Bất Lai
Thánh Ðạo Tuệ, có khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái, ngã mạn
loại vi tế trong cõi dục giới; nhưng bậc Bất Lai Thánh Ðạo Tuệ chưa có
khả năng diệt đoạn tuyệt được tham ái, ngã mạn trong cõi sắc giới và cõi vô sắc
giới.
- Chứng đắc A-ra-hán
Thánh Ðạo Tuệ, có khả năng diệt đoạn tuyệt hoàn toàn tham ái, ngã mạn
không còn dư sót.
39-
Vấn: Trong bài kinh
Tứ Niệm Xứ, đoạn kết của mỗi đối tượng Ðức Phật dạy: "Iti ajjhattaṃ vā kāye
kāyānupassī viharati". (Hành giả có trí tuệ tỉnh giác thường theo dõi thấy rõ
biết rõ thân trong thân của mình), về đoạn này không có thắc mắc; còn đoạn sau
Ðức Phật dạy: "bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati". (Hành giả có trí tuệ tỉnh
giác thường theo dõi thấy rõ biết rõ thân trong thân bên ngoài của người khác).
Hành giả tiến hành tứ niệm xứ sống một mình nơi thanh vắng, có trí tuệ tỉnh giác
thường theo dõi thấy rõ biết rõ thân trong thân bên ngoài của người khác. Vậy,
đoạn kinh này nên hiểu thế nào?
Ðáp: Trong toàn bài kinh
Tứ Niệm Xứ gồm có 21 đối tượng, mỗi đối tượng phần đoạn kết Ðức Phật đều dạy:
"Iti ajjhattaṃ vā ... bahiddhā vā... ajjhattabahiddhā vā...".
Trong Chú giải bài
kinh này giảng giải rằng:
- Iti ajjhattaṃ
vā’ti evaṃ attano vā... (hoặc bên trong của mình như vậy).-
Bahiddhā vā’ti parassa vā... (hoặc bên ngoài của người khác).-
"Ajjhattabahiddhā vā’ti kālena attano, kālena parassa... (hoặc khi thì bên
trong của mình ..., khi thì bên ngoài của người khác...).
Ví
dụ:
Ðối tượng 4 oai nghi, nên hiểu như vầy:
Tiến hành tứ niệm xứ
hoặc tiến hành thiền tuệ có đối tượng tứ oai nghi là đối tượng thiền tuệ, hành
giả tiến hành thiền tuệ đến khi phát sanh trí tuệ thứ nhất gọi là
nāmarūpaparicchedañāṇa: trí tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của mỗi danh
pháp, mỗi sắc pháp là pháp vô ngã, không phải ta, không phải
người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh, không phải
vật này vật kia, v.v... bằng chánh kiến thiền tuệ này, nên diệt
từng thời được tà kiến chấp ngã. Trí tuệ thứ nhất này đạt đến
thanh tịnh thứ nhất gọi là Chánh kiến thanh tịnh
(Diṭṭhivisuddhi). Khi ấy, tà kiến chấp ngã không thể nương
nhờ cả nơi đối tượng lẫn nơi chủ thể bên trong của
mình.
Hành giả tiếp tục
tiến hành thiền tuệ, trí tuệ phát triển và tiến hóa tuần tự phát sanh trí
tuệ thứ nhì gọi laø nāmarūpapaccayapariggahañāṇa:
trí tuệ thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi sắc pháp, mỗi danh pháp bằng
paccakkhañāṇa: trí tuệ trực tiếp thấy rõ biết
rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp bên trong của mình như thế
nào, làm nền tảng căn bản, để có khả năng thấu triệt bằng anumānañāṇa: trí
tuệ gián tiếp thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi
danh pháp, mỗi sắc pháp bên ngoài của người khác (bahiddhā) cũng như thế
ấy. Hơn thế nữa, trí tuệ nầy còn có khả năng đặc biệt thấu triệt được nhân duyên
phát sanh mọi danh pháp, mọi sắc pháp trong quá khứ, trong vị lai cũng như thế
ấy nữa.
Cho nên, trí tuệ thứ
nhì nầy đạt đến thanh tịnh thứ nhì gọi là Trí tuệ thoát lý
hoài nghi thanh tịnh (Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi), khi ấy, diệt từng
thời được hoài nghi về sự sanh của mọi danh pháp, mọi sắc pháp
ngay ở hiện tại, trong quá khứ và trong vị lai; cả bên trong của mình lẫn bên
ngoài của người khác.
Như vậy, trí
tuệ thứ nhì này thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi
sắc pháp bên trong của mình như thế nào, lại còn có khả năng thấu triệt, thấy rõ
biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp bên ngoài của người
khác cũng như thế ấy, và thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi
sắc pháp hiện tại bên trong của mình như thế nào; lại còn có khả năng thấu
triệt, thấy rõ biết rõ nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp trong
quá khứ, trong vị lai cả của mình lẫn của người khác cũng như thế ấy, nên diệt
được hoài nghi từng thời.
Hành giả tiến hành
thiền tuệ, trí tuệ thứ nhất phát sanh diệt từng thời được tà
kiến chấp ngã, và trí tuệ thứ nhì phát sanh diệt từng thời
được hoài nghi về sự sanh của danh pháp, sắc pháp; cho nên, hành
giả được gọi là bậc Tiểu Nhập Lưu (Cūḷasotāpanna) chưa phải
là Bậc thánh Nhập Lưu, bởi vì, bậc Thánh Nhập Lưu phải trải qua đủ 16 loại trí
tuệ thiền tuệ, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo, Nhập
Lưu Thánh Quả có Niết Bàn làm đối tượng, diệt đoạn tuyệt được tà kiến chấp
ngã và tâm hoài nghi vĩnh viễn không bao giờ phát sanh
trong tâm bậc Thánh Nhập Lưu.
40-
Vấn: Muốn trở thành
bậc Thánh Nhập Lưu, cần phải có điều kiện như thế nào?
Ðáp: Tất cả các thiện
pháp phát sanh do bởi nhiều nguyên nhân:
- Nguyên nhân
xa: những tiền kiếp trong quá khứ đã từng gieo duyên (nhân) lành trong
Phật giáo, đã tạo đầy đủ 10 pháp ba la mật, có 5 pháp
chủ: tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp
chủ, v.v... đó là những thiện pháp làm nền tảng, làm nhân duyên lành hỗ trợ cho
sự tiến hành thiền tuệ.
Những nguyên nhân xa
nầy, chỉ có Ðức Phật mới thấy rõ biết rõ được căn duyên của mỗi chúng sinh;
ngoài Ðức Phật ra, không có một ai có khả năng biết được chúng sinh nào có khả
năng trở thành bậc Thánh nhân, ngay cả chính mình. Cho nên, mỗi người trong
chúng ta chớ nên tự coi thường mình, mà hãy nên cố gắng tinh tấn
tiến hành thiền tuệ cho đúng theo Pháp hành Trung đạo; nếu chính
mình có đủ duyên (nhân) lành, có khả năng chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào đó,
thì diễm phúc biết dường nào! Nếu chưa chứng đắc (Thánh Ðạo, Thánh Quả),
thì âu cũng là một cơ hội tốt để bồi bổ pháp hạnh ba la mật, 5 pháp chủ, để tạo
duyên lành sẽ chứng đắc trong vị lai.
- Nguyên nhân
gần: kiếp hiện tại, trong kinh Sotāpattiyaṅgasutta [1] Ðức Phật dạy có 4
chi pháp cần thiết để trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, 4 chi pháp là:
1-
Sappurisasaṃseva: gần gũi thân cận
với bậc Thiện trí trong Phật giáo.
2- Saddhammassavana: lắng nghe chánh pháp của bậc Thiện trí ấy.
3- Yonisomanasikāra: hiểu biết trong tâm bằng trí tuệ biết đúng theo 4 trạng thái của danh pháp, sắc pháp.
4- Dhammānudhammapaṭipatti: tiến hành thiền tuệ hướng đến sự chứng đắc siêu tam giới pháp: 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
2- Saddhammassavana: lắng nghe chánh pháp của bậc Thiện trí ấy.
3- Yonisomanasikāra: hiểu biết trong tâm bằng trí tuệ biết đúng theo 4 trạng thái của danh pháp, sắc pháp.
4- Dhammānudhammapaṭipatti: tiến hành thiền tuệ hướng đến sự chứng đắc siêu tam giới pháp: 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Ðó là 4 chi pháp cần
thiết để trở thành bậc thánh Nhập Lưu là bậc thánh thứ nhất trong Phật
giáo.
Bậc Thánh Nhập Lưu
đã nhập vào dòng thánh chảy theo tuần tự đến bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất
Lai, bậc Thánh A-ra-hán cao thượng nhất trong Phật giáo.
Ðó là nguyện vọng
cao cả nhất của người Phật tử chúng ta.
Có nguyện vọng như
vậy, điều trước tiên, hành giả cần phải gần gũi thân cận với bậc Thiện trí trong
Phật giáo, là những vị thiền sư thông thạo rành rẽ về pháp học, có đầy đủ kinh
nghiệm về pháp hành thiền tuệ để nương nhờ học hỏi.
- Lắng nghe chánh
pháp của bậc Thiện trí, chánh pháp đó là 4 pháp niệm xứ, 4 pháp tinh tấn, 4 pháp
thành tựu, 5 pháp chủ, 5 pháp lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp chánh đạo. Ðó là
những pháp để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và
Niết Bàn.
- Khi tiến hành
thiền tuệ, hành giả cần phải có yonisomanasikāra hiểu biết rõ trong tâm
bằng trí tuệ biết đúng theo 4 trạng thái của danh pháp, sắc pháp làm nhân duyên
cho chánh niệm trí tuệ tỉnh giác phát sanh và phát triển.
- Hành giả tiến hành
thiền tuệ chỉ hướng tâm đến sự chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn mà
thôi, mong giải thoát khổ sanh là giải thoát mọi cảnh khổ.
41-
Vấn: Ðức Phật dạy:
"Sabbe dhammā anattā: Tất cả các pháp là pháp vô ngã". Tất cả các pháp ấy
là những pháp nào? Hành giả biết những pháp ấy bằng cách
nào?
Ðáp: Ðức Phật dạy: "Tất
cả các pháp là vô ngã". Vô ngã nghĩa là pháp không phải ta, không phải của ta,
không phải người, không phải của người, không phải đàn ông, không phải đàn bà,
không phải chúng sinh, v.v...
A- Tất cả các pháp
ấy là:
- Pháp hữu vi là
pháp vô ngã.
- Pháp vô vi là pháp vô ngã.
- Pháp vô vi là pháp vô ngã.
Pháp hữu
vi là pháp được cấu tạo do bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết,
vật thực; pháp hữu vi ấy là tâm, tâm sở, sắc pháp trong tam giới được
phân chia thành:
- Ngũ uẩn:
sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là pháp vô ngã;
- 12
xứ: 6 xứ bên trong: nhãn, nhĩ, tỷ, thiện, thân, ý và 6 xứ bên ngoài:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; v.v... Tóm lại có 2 pháp: sắc pháp và
danh pháp trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) có sự sanh, sự
diệt; có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã.
Pháp vô
vi là pháp không bị cấu tạo do bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời
tiết, vật thực; pháp vô vi ấy là Niết Bàn và chế định
pháp, không có sự sanh, sự diệt; không có trạng thái vô thường, trạng
thái khổ, trạng thái vô ngã. Song Niết Bàn và chế định pháp thuộc pháp vô
ngã.
Như Ðức Phật
dạy:
Aniccā sabbe
saṅkhārā, dukkhānattā ca saṅkhatā.
Nibbānañceva paññatti, anattā īti nicchayā. [2]
Nibbānañceva paññatti, anattā īti nicchayā. [2]
Tất cả pháp hữu vi,
danh pháp và sắc pháp,
Ðều có ba trạng thái, vô thường, khổ, vô ngã.
Niết Bàn và chế định, thuộc về pháp vô ngã.
Ðều có ba trạng thái, vô thường, khổ, vô ngã.
Niết Bàn và chế định, thuộc về pháp vô ngã.
B- Hành giả biết
những pháp vô ngã ấy bằng trí tuệ do lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu; bằng trí
tuệ do tư duy; bằng trí tuệ do tiến hành thiền tuệ.
* Trí tuệ biết do
lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu:
Nhờ gần gũi thân cận
với bậc Thiện trí trong Phật giáo, được lắng nghe học hỏi, hoặc nghiên cứu kinh
sách Phật giáo, nên mới hiểu biết: ngũ uẩn là vô ngã. Nghĩa là:
- Sắc uẩn là vô
ngã.
- Thọ uẩn là vô ngã.
- Tưởng uẩn là vô ngã.
- Hành uẩn là vô ngã.
- Thức uẩn là vô ngã.
- Hoặc sắc pháp là vô ngã.
- Danh pháp là vô ngã.
- Thọ uẩn là vô ngã.
- Tưởng uẩn là vô ngã.
- Hành uẩn là vô ngã.
- Thức uẩn là vô ngã.
- Hoặc sắc pháp là vô ngã.
- Danh pháp là vô ngã.
Hiểu biết được
rằng:
- Nhãn thức
tâm có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần, hình dạng,... không phải ta
thấy. Ngoài 2 nhãn thức tâm này ra, không có một tâm nào khác có khả năng nhìn
thấy sắc trần, hình dạng được. Nhãn thức tâm chỉ có một phận sự duy nhất là nhìn
thấy sắc trần, hình dạng mà thôi, hoàn toàn không thể thấy được ta, người,
đàn ông, đàn bà, chúng sinh, v.v... nào cả.
- Nhĩ thức
tâm có 2 tâm làm phận sự lắng nghe thanh trần, âm thanh,... không phải
ta nghe. Ngoài 2 nhĩ thức tâm này ra, không có một tâm nào khác có khả năng nghe
thanh trần, âm thanh được. Nhĩ thức tâm chỉ có một phận sự duy nhất là nghe
thanh trần, âm thanh mà thôi, hoàn toàn không thể nghe biết được tiếng Việt,
tiếng Anh, v.v... nào cả.
- Tỷ thức
tâm có 2 tâm làm phận sự ngửi hương trần, các loại mùi,... không phải ta
ngửi. Ngoài 2 tỷ thức tâm này ra, không có một tâm nào khác có khả năng ngửi
hương trần, các loại mùi được. Tỷ thức tâm chỉ có một phận sự duy nhất là ngửi
hương trần, các loại mùi mà thôi, hoàn toàn không thể biết được mùi thơm nước
hoa, mùi hôi tử thi, v.v...
- Thiệt thức
tâm có 2 tâm làm phận sự nếm vị trần, các loại vị,... không phải ta nếm.
Ngoài 2 thiệt thức tâm này ra, không có một tâm nào khác có khả năng nếm vị
trần, các loại vị được. Thiệt thức tâm chỉ có một phận sự duy nhất là nếm vị
trần, các loại vị mà thôi, hoàn toàn không thể biết được vị ngọt của đường,
vị mặn của muối, v.v...
- Thân thức
tâm có 2 tâm làm phận sự xúc giác với xúc trần: cứng, mềm, nóng,
lạnh,... không phải ta xúc giác. Ngoài 2 thân thức tâm này ra, không có một tâm
nào khác có khả năng xúc giác cứng, mềm, nóng, lạnh... được. Thân thức tâm chỉ
có một phận sự duy nhất là xúc giác cứng, mềm, nóng, lạnh mà thôi, hoàn toàn
không thể biết được sắt cứng, bông mềm, lửa nóng, thời tiết lạnh,
v.v...
- Ý thức
tâm có 79 tâm làm phận sự biết pháp trần gồm mọi đối tượng chân nghĩa
pháp và chế định pháp,... không phải ta biết.
- Khi ý thức
tâm biết đối tượng chân nghĩa pháp, thì biết được thực tánh của danh
pháp là vô ngã; thực tánh của sắc pháp là vô ngã, không phải ta, không phải
người, v.v...
- Khi ý thức
tâm biết đối tượng chế định pháp, thì biết phân biệt ta, người, đàn
ông, đàn bà, chúng sinh, vật này, vật kia, môn học này, môn học kia, v.v...
Chế định pháp vốn là pháp vô ngã.
Những sự hiểu biết
ấy do trí tuệ lắng nghe, học hỏi, hoặc nghiên cứu kinh sách Phật
giáo.
* Trí tuệ biết do tư
duy:
Nhờ có trí tuệ biết
do lắng nghe, học hỏi, nghiên cứu làm nền tảng cho sự tư duy đúng đắn để phát
sanh trí tuệ.
Trí tuệ biết do tư
duy rằng:
- Nhìn thấy được
hình dạng do nhờ nhãn thức tâm nhìn thấy, chứ không phải ta
nhìn thấy, bởi vì khi nhắm mắt, cái ta vẫn có, mà không
nhìn thấy được gì, hoặc người mù vẫn có cái ta, mà cũng không nhìn thấy mọi cảnh
vật trước mặt.
Nhãn thức
tâm phát sanh do hội đủ nhân duyên, không phải do một ai cả. Nhân duyên
sanh nhãn thức tâm là:
Sắc trần,
hình dạng tiếp xúc với tịnh nhãn sắc (mắt), do
sự tiếp xúc ấy sanh nhãn thức tâm nhìn thấy được sắc trần, hình
dạng ấy.
Cho nên, chỉ có
mắt cũng không thể nhìn thấy sắc trần; như khi đang ngồi trầm ngâm
tâm suy tư về vấn đề gì, dù mắt đang mở cũng không nhìn thấy rõ những vật trước
mặt hoặc chỉ có tâm cũng không thể nhìn thấy được sắc trần, như
khi đang nhắm mắt.
Vậy muốn nhìn thấy
sắc trần, hình dạng nào, thì phải có tâm phát sanh do nương
nhờ tịnh nhãn sắc (mắt) gọi là nhãn thức tâm
mới nhìn thấy được sắc trần, hình dạng ấy, chắc chắn không phải ta nhìn thấy
được sắc trần, hình dạng ấy.
Tương tự như
vậy,
- Lắng nghe được âm
thanh do nhờ nhĩ thức tâm lắng nghe, chứ không phải ta lắng nghe,
bởi vì khi bịt lỗ tai, cái ta vẫn có, mà không nghe được gì, hoặc
người điếc vẫn có cái ta, mà cũng không nghe mọi âm thanh quanh mình.
Nhĩ thức
tâm phát sanh do hội đủ nhân duyên, không phải do một ai cả. Nhân duyên
sanh nhĩ thức tâm là:
Thanh
trần, âm thanh tiếp xúc với tịnh nhĩ sắc (tai), do sự
tiếp xúc ấy sanh nhĩ thức tâm nghe được thanh trần, âm thanh
ấy.
Cho nên, chỉ có
tai cũng không thể nghe được thanh trần; như khi đang ngủ say, dù
có tai cũng không nghe được âm thanh nào hoặc chỉ có tâm cũng
không thể nghe được thanh trần, như khi bịt lỗ tai.
Vậy muốn nghe thanh
trần, âm thanh nào, thì phải có tâm phát sanh do nương nhờ
tịnh nhĩ sắc (tai) gọi là nhĩ thức tâm mới
nghe được thanh trần, âm thanh ấy, chắc chắn không phải ta nghe
được thanh trần, âm thanh ấy.
- Ngửi các mùi, nếm
các vị, xúc giác cứng, mềm, nóng, lạnh..., biết pháp trần đều do mỗi tâm tương
xứng làm phận sự của mình, không phải một ai khác.
Mỗi pháp nào phát
sanh đều do nhân duyên của mỗi pháp ấy.
Như vậy gọi là trí
tuệ biết pháp vô ngã do tư duy.
* Trí tuệ biết do
tiến hành thiền tuệ:
Sau khi đã lắng
nghe, học hỏi và tư duy đúng đắn về pháp hành thiền tuệ; hiểu rõ mỗi danh pháp,
mỗi sắc pháp và phương pháp tiến hành thiền tuệ rồi, hành giả tiến hành thiền
tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sanh theo tuần tự như sau:
- Trí tuệ thứ
nhất gọi là nāmarūpaparicchedañāṇa: trí tuệ thấy rõ biết rõ, phân
biệt rõ mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp đúng theo thực tánh của chúng
là pháp vô ngã: không phải ta, không phải người, không phải đàn
ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh nào,... chánh kiến thiền
tuệ phát sanh, nên diệt được tà kiến theo chấp
ngã.
- Trí tuệ thứ
nhì gọi là nāmarūpapaccayapariggaha-ñāṇa: trí tuệ thấy rõ biết rõ
nhân duyên phát sanh mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp; nên biết rõ
không một ai có quyền năng tạo ra được danh pháp, sắc pháp nào, chính là
pháp vô ngã.
- Trí tuệ
thiền tuệ thứ ba gọi là sammasanañāṇa: trí tuệ thiền tuệ thấy rõ
biết rõ sự diệt của mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp do nhân duyên
diệt, nên thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của
danh pháp, sắc pháp.
- Trí tuệ
thiền tuệ thứ tư gọi là udayabbayañāṇa: trí tuệ thiền tuệ thấy rõ
biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp
ngay hiện tại: sự sanh của danh pháp, sắc pháp là do nhân duyên sanh; sự diệt
của danh pháp, sắc pháp là do nhân duyên diệt, nên thấy rõ trạng thái vô thường,
trạng thái khổ, trạng thái vô ngã rõ ràng hơn...
Như vậy gọi là trí
tuệ biết pháp vô ngã do tiến hành thiền tuệ.
42-
Vấn: Trạng thái vô
ngã với pháp vô ngã giống và khác nhau như thế nào?
Ðáp: - Tất cả các
pháp hữu vi là danh pháp, sắc pháp có sự sanh, sự diệt, nên có 3
trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Như
vậy, trạng thái vô ngã là trạng thái của danh pháp, sắc pháp thuộc
pháp hữu vi.
- Tất cả cả các pháp
gồm cả pháp hữu vi và pháp vô vi là pháp vô
ngã (không thuộc của ai).
Pháp hữu
vi đó là danh pháp, sắc pháp.
Pháp vô
vi đó là Niết Bàn và chế định pháp (không có sự sanh, sự diệt, không
có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô
ngã).
Như vậy, pháp hữu vi
là pháp vô ngã, có trạng thái vô ngã.
Pháp vô vi là pháp
vô ngã mà không có trạng thái vô ngã.
43
Vấn: Tất cả các pháp
là vô ngã, không phải ta, không phải người, v.v... Vậy, cái ngã (ta) do đâu mà
có? Diệt ngã bằng cách nào?
Ðáp: Ðức Phật dạy: Tất
cả các pháp là vô ngã.
Theo chánh kiến
thiền tuệ thấy đúng biết đúng rằng:
- Các sắc pháp là vô
ngã, không phải ta, không phải người, v.v...
- Các danh pháp là vô ngã, không phải ta, không phải người, v.v...
- Các danh pháp là vô ngã, không phải ta, không phải người, v.v...
A- Tà kiến chấp
ngã:
Theo tà kiến chấp
ngã cho rằng: Sắc pháp cho là ta, danh pháp cho là ta.
Sở dĩ gọi là ngã
(ta), là vì tâm tà kiến nương nhờ nơi sắc pháp ấy, danh
pháp ấy thấy sai chấp lầm cho là ngã (ta). Song sự thật, cái ngã
(cái ta) vốn không có thật, hoàn toàn không có thật, chỉ tâm tà
kiến chấp ngã là có thật mà thôi, chính tâm tà kiến chấp ngã thấy sai
chấp lầm từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ngã, là
ta.
Ví
dụ:
Một người đi đường ban đêm không có đèn, nhìn thấy sợi dây ngoằn ngoèo nằm giữa
đường, rồi thấy sai chấp lầm từ sợi dây ngoằn ngoèo kia cho là con rắn độc. Sự
thật, không có con rắn độc nào, chỉ có thấy sai chấp lầm từ sợi dây ngoằn ngoèo
ấy cho là con rắn độc mà thôi.
* Tà kiến chấp
ngã nương nhờ nơi sắc pháp:
- Khi thân
đi hoặc sắc đi thuộc về sắc pháp là vô ngã, thì tâm tà
kiến chấp ngã nương nhờ nơi sắc đi ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là
ta đi. Theo sự thật thực tánh pháp chỉ có dáng đi, tư thế đi
toàn thân di chuyển bước đi gọi là sắc đi mà thôi. Nếu tâm
tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi sắc đi ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho
là ta đi.
Tương tự như vậy,
- Khi thân
đứng hoặc sắc đứng thuộc về sắc pháp là vô ngã, thì tâm tà
kiến chấp ngã nương nhờ nơi sắc đứng ấy, mà thấy sai chấp lầm cho
là ta đứng. Theo sự thật thực tánh pháp chỉ có dáng đứng, tư
thế đứng toàn thân đứng yên gọi là sắc đứng mà thôi. Nếu
tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi sắc đứng ấy, thì đâu có thấy sai chấp
lầm cho là ta đứng.
- Khi thân
ngồi hoặc sắc ngồi thuộc về sắc pháp là vô ngã, thì tâm tà
kiến chấp ngã nương nhờ nơi sắc ngồi ấy, mà thấy sai chấp lầm cho
là ta ngồi. Theo sự thật thực tánh pháp chỉ có dáng ngồi, tư
thế ngồi toàn thân ngồi yên gọi là sắc ngồi mà thôi. Nếu
tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi sắc ngồi ấy, thì đâu có thấy sai chấp
lầm cho là ta ngồi.
- Khi thân nằm
hoặc sắc nằm thuộc về sắc pháp là vô ngã, thì tâm tà kiến
chấp ngã nương nhờ nơi sắc nằm ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là
ta nằm. Theo sự thật thực tánh pháp chỉ có dáng nằm, tư thế
nằm toàn thân nằm yên gọi là sắc nằm mà thôi. Nếu tâm tà
kiến chấp ngã không nương nhờ nơi sắc nằm ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho
là ta nằm, v.v...
* Tà kiến chấp
ngã nương nhờ nơi danh pháp:
- Khi nhãn
thức tâm nhìn thấy sắc trần, hình dạng, nhãn thức tâm thuộc về danh pháp
là vô ngã gọi là danh thấy, thì tâm tà kiến chấp ngã nương nhờ nơi
danh thấy ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là ta thấy. Nếu tâm tà kiến
chấp ngã không nương nhờ nơi danh thấy ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là
ta thấy.
- Khi nhĩ thức
tâm nghe thanh trần, âm thanh, nhĩ thức tâm thuộc về danh pháp là vô ngã
gọi là danh nghe, thì tâm tà kiến chấp ngã nương nhờ nơi danh nghe
ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là ta nghe. Nếu tâm tà kiến chấp ngã
không nương nhờ nơi danh nghe ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta
nghe.
- Khi tỷ thức
tâm ngửi hương trần, các loại mùi, tỷ thức tâm thuộc về danh pháp là vô
ngã gọi là danh biết ngửi, thì tâm tà kiến chấp ngã nương nhờ nơi
danh biết ngửi ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là ta
ngửi. Nếu tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi danh biết
ngửi ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta
ngửi.
- Khi thiệt
thức tâm nếm vị trần, các loại vị, thiệt thức tâm thuộc về danh pháp là
vô ngã gọi là danh biết nếm, thì tâm tà kiến chấp ngã nương nhờ
nơi danh biết nếm ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là ta
nếm. Nếu tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi danh biết
nếm ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta
nếm.
- Khi thân
thức tâm xúc giác với xúc trần, cứng mềm, nóng lạnh..., thân thức tâm
thuộc về danh pháp là vô ngã gọi là danh biết xúc giác, thì tâm tà
kiến chấp ngã nương nhờ nơi danh biết xúc giác ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là
ta xúc giác. Nếu tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi danh
biết xúc giác ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta xúc
giác.
- Khi ý thức
tâm biết pháp trần gồm có đối tượng chân nghĩa pháp và đối tượng chế
định pháp:
Khi ý thức tâm
biết đối tượng chân nghĩa pháp, nghĩa là biết danh pháp,
sắc pháp là vô ngã, thì tâm tà kiến chấp ngã nương nhờ danh pháp, sắc pháp ấy,
mà thấy sai chấp lầm cho là ta biết danh pháp ấy, ta biết sắc pháp
ấy. Nếu tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi danh pháp ấy, sắc pháp
ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta biết danh pháp ấy, ta biết sắc
pháp ấy.
Khi ý thức
tâm biết đối tượng chế định pháp là pháp vô ngã nghĩa là
biết ta, biết người, biết đàn ông này, đàn bà kia, biết loại chúng sinh này,
biết vật này, vật kia, biết môn học này, môn học kia, v.v... thì tâm tà kiến
chấp ngã nương nhờ nơi đối tượng chế định pháp ấy, mà thấy sai chấp lầm cho là
ta biết ta, ta biết người, ta biết đàn ông này, đàn bà kia, ta
biết loại chúng sinh này, ta biết vật này, vật kia, ta biết môn học này, môn học
kia, v.v... Nếu tâm tà kiến chấp ngã không nương nhờ nơi đối tượng chế định
pháp ấy, thì đâu có thấy sai chấp lầm cho là ta biết đối tượng chế định
pháp ấy.
Do đó, cái gọi là ta
(ngã) hoàn toàn không có thật; nếu có cái ta (ngã) là thật, thì
trong những cái gọi là ta (ngã) ấy, cái ta (ngã) nào là cái ta
(ngã) thật? Vì vậy, theo sự thật tất cả các pháp không có cái ta
(ngã) thật. Cho nên, tất cả các pháp đều là pháp vô
ngã.
B- Diệt
ngã:
Như đã trình bày,
cái ngã, cái ta vốn không có thật, hoàn toàn không có thật, chỉ có
tâm tà kiến chấp ngã là có thật mà thôi. Cho nên, không có phương
pháp diệt ngã, vì không có cái ngã để diệt, chỉ có phương pháp diệt tâm tà
kiến chấp ngã mà thôi. Khi diệt được tâm tà kiến chấp ngã bằng chánh
kiến thiền tuệ rồi, thì không còn thấy sai chấp lầm từ danh pháp, từ sắc pháp
cho là ngã, là ta nữa.
Phương pháp diệt tà
kiến chấp ngã:
Hành giả tiến hành
thiền tuệ, khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ danh pháp sắc pháp là
pháp vô ngã, không phải ta, không phải người, không phải
đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh, không phải vật nầy vật kia,
v.v...; khi ấy, chánh kiến thiền tuệ (vipassanāsammādiṭṭhi),
thấy đúng, biết đúng thực tánh của danh pháp, sắc pháp là pháp vô ngã,
nên diệt được tà kiến chấp ngã từng thời trong tam giới, đạt đến Chánh
kiến thanh tịnh (diṭṭhivisuddhi).
Trí tuệ thiền tuệ
phát triển tăng trưởng đến chánh kiến thánh đạo tuệ (Maggasammādiṭṭhi),
đó là Nhập Lưu Thánh Ðạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt tà kiến chấp ngaõ
thật sự không còn dư sót. Cho nên, bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn chấp
ngã (ta) nữa, bởi vì đã diệt đoạn tuyệt được tà kiến chấp ngã, đồng thời
diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tà kiến khác không còn dư sót.
44-
Vấn: Pháp hành thiền
tuệ là pháp hành dẫn đến giải thoát khổ như thế nào?
Ðáp: Pháp hành thiền tuệ
là pháp hành dẫn đến giải thoát khổ tuỳ theo mỗi hạng chúng sinh:
1- Hạng thiện trí
phàm nhân tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp; nhưng chưa có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế, chưa chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả nào, chưa trở thành bậc Thánh
nhân, vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân.
* Giải thoát khổ
kiếp hiện tại:
Hạng thiện trí phàm
nhân này là bậc Tiểu Nhập Lưu có chánh kiến thiền tuệ, có đức tin trong sạch nơi
Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, có giới hạnh trong sạch, có định tâm vững chắc, có
trí tuệ sáng suốt, cho nên bậc Tiểu Nhập Lưu này ít khổ tâm, tâm thường được an
lạc nhiều.
* Giải thoát khổ
kiếp vị lai:
Hạng thiện trí phàm nhân này sau khi
chết, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh cõi thiện giới: cõi người, cõi trời
dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, tuỳ theo năng lực quả thiện
nghiệp của mình đã tạo; dù thuộc vào hạng chúng sinh nào cũng là bậc có trí tuệ
đặc biệt hưởng được quả báu an lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy.
2- Hạng thiện trí
phàm nhân tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo -- Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập
Lưu, là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo.
* Giải thoát khổ
kiếp hiện tại:
Bậc Thánh Nhập Lưu
này có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam bảo không lay chuyển, có giới hạnh
hoàn toàn trong sạch, có định và tuệ sáng suốt. Bậc Thánh này vĩnh viễn không
bao giờ khổ do tà kiến và hoài nghi nữa, bởi vì đã
diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não này rồi, tâm thường được an lạc
nhiều.
* Giải thoát khổ
kiếp vị lai:
Bậc Thánh Nhập Lưu này sau khi chết,
chắc chắn không còn bị tái sanh vào 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ,
súc sanh), do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiện giới: cõi người, cõi
trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, tuỳ theo năng lực quả
thiện nghiệp của mình đã tạo; dù tái sanh vào hạng chúng sinh nào cũng là bậc
Thánh Nhập Lưu và chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết
Bàn, giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.
3- Bậc Thánh Nhập
Lưu tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Nhất Lai Thánh Ðạo -- Nhất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhất
Lai, là bậc Thánh thứ nhì trong Phật giáo.
* Giải thoát khổ
kiếp hiện tại:
Bậc Thánh Nhất Lai
này có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam bảo không lay chuyển, có giới, định,
tuệ sáng suốt. Bậc Thánh này vĩnh viễn không bao giờ khổ do tâm sân loại
thô nữa, bởi vì đã diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại thô này rồi,
tâm thường được an lạc nhiều.
* Giải thoát khổ
kiếp vị lai:
Bậc Thánh Nhất Lai
này sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả chỉ còn tái sanh một kiếp nữa mà thôi,
trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết Bàn,
giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.
4- Bậc Thánh Nhất
Lai tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc Bất Lai Thánh Ðạo -- Bất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Bất
Lai, là bậc Thánh thứ ba trong Phật giáo.
* Giải thoát khổ
kiếp hiện tại:
Bậc Thánh Bất Lai
này có giới, định, tuệ sáng suốt, đặc biệt có định tâm vững chắc. Bậc Thánh này
vĩnh viễn không bao giờ khổ do tâm sân loại vi tế nữa, bởi vì đã
diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại vi tế này rồi, tâm thường được an lạc
nhiều.
* Giải thoát khổ
kiếp vị lai:
Bậc Thánh Bất Lai
này sau khi chết, chắc chắn không còn tái sanh trở lại cõi dục giới nữa, do sắc
giới thiện nghiệp cho quả chắc chắn hoá sanh làm phạm thiên trong cõi trời sắc
giới tuỳ theo bậc thiền sở đắc của mình, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh
A-ra-hán trong cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tử
sanh luân hồi trong tam giới.
5- Bậc Thánh Bất Lai
tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh
của danh pháp sắc pháp là pháp vô ngã; thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh
pháp sắc pháp; thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc A-ra-hán Thánh Ðạo -- A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, là bậc Thánh thứ tư cao thượng nhất trong Phật
giáo.
* Giải thoát khổ
kiếp hiện tại:
Bậc Thánh A-ra-hán
này có giới, định, tuệ đầy đủ, đặc biệt nhất là có tuệ đầy đủ. Bậc Thánh này
hoàn toàn không còn khổ tâm nào do phiền não, bởi vì đã diệt đoạn tuyệt được mọi
phiền não như: tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội
lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi,... không còn dư sót, cho nên tâm của Ngài thường
được an lạc.
* Giải thoát khổ
kiếp vị lai:
Bậc Thánh A-ra-hán
này đến khi hết tuổi thọ, đồng thời cũng là lúc tịch diệt Niết Bàn, không còn
tái sanh kiếp sau, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài.
Do đó, pháp hành
thiền tuệ là pháp hành dẫn đến giải thoát khổ sanh là giải thoát
mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi.
Ðó là mục đích cứu
cánh của tất cả mọi người Phật tử.
ÐOẠN
KẾT
Chandavato kiṃ nāma kammaṃ na sijjhati.
Vīriyavato kiṃ nāma kammaṃ na sijjhati.
Cittavato kiṃ nāma kammaṃ na sijjhati.
Paññavato kiṃ nāma kammaṃ na sijjhati.
Bốn pháp đề thành
tựu:
Người có nguyện vọng không có việc gì mà không thành tựu.
Người có tinh tấn không có việc gì mà không thành tựu.
Người có tâm nguyện không có việc gì mà không thành tựu.
Người có trí tuệ không có việc gì mà không thành tựu.
Ðối với hành giả
tiến hành thiền tuệ, ít nhất cũng có đủ 4 pháp trên. Như vậy, đã thành tựu được
ít nhiều, chỉ cần kiên trì, ắt có ngày được thành tựu viên mãn.
Ðối với hành giả
tiến hành thiền định "cái được" là phần thêm vào, như chứng
đắc được bậc thiền, chứng đắc được pháp thần thông; còn đối với hành giả
tiến hành thiền tuệ "cái được" đi đôi với "cái mất",
như trí tuệ thiền tuệ phát sanh diệt dần phiền não tham, sân, si...:
- Nhập Lưu Thánh Ðạo
Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não: tà kiến và hoài
nghi.
- Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não: tâm sân loại thô.
- Bất Lai Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não: tâm sân loại vi tế; tâm sân hoàn toàn không còn nữa.
- A-ra-hán Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được bảy loại phiền não: tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; cùng tất cả mọi phiền não khác không còn dư sót nữa.
- Nhất Lai Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não: tâm sân loại thô.
- Bất Lai Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não: tâm sân loại vi tế; tâm sân hoàn toàn không còn nữa.
- A-ra-hán Thánh Ðạo Tuệ phát sanh, thì diệt đoạn tuyệt được bảy loại phiền não: tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; cùng tất cả mọi phiền não khác không còn dư sót nữa.
Trong Phật giáo có
đầyđủ 4 loại thiện pháp:
1- Dục giới thiện
pháp
2- Sắc giới thiện pháp
3- Vô sắc giới thiện pháp
4- Siêu tam giới thiện pháp
2- Sắc giới thiện pháp
3- Vô sắc giới thiện pháp
4- Siêu tam giới thiện pháp
Trong 4 loại thiện
pháp này, dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp và vô sắc giới thiện pháp có
trong Phật giáo và cũng có ngoài Phật giáo. Còn siêu tam giới thiện pháp chỉ có
trong Phật giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật giáo.
Trong các loại dục
giới thiện pháp, loại dục giới thiện pháp phát sanh từ pháp hành thiền tuệ có
tính chất đặc biệt hơn cả, là thấy rõ biết rõ được thực tánh của các pháp, dẫn
đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo -- Thánh Quả và Niết
Bàn, giải thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Ðối với người Phật
tử là bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ chớ nên dể duôi, nên tinh tấn
tiến hành thiền tuệ, dù ít, dù nhiều cũng đã tạo được thiện pháp đặc biệt gieo
duyên lành trong Phật giáo; để khỏi phải hối tiếc khi tuổi già sức
yếu.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.24/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment