Monday, 4 November 2013

Phần II

Phật Pháp

Không làm việc ác.
Làm những việc thiện.
Thanh lọc tâm.
Đó là lời dạy của chư Phật.
-oOo-
[15]

Phật Giáo là gì?

"Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ qủa thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu." -- Trung A Hàm


Tam Tạng Kinh
Đức Phật đã nhập diệt, nhưng Giáo Lý cao siêu mà Ngài đã dày công hoằng dương trong bốn mươi lăm năm trường vẫn còn lưu lại đến ngày nay cho nhân loại, trọn vẹn, đầy đủ, và hoàn toàn tinh túy.
Mặc dầu giáo huấn của Đức Thế Tôn không được ghi chép ngay lúc bấy giờ trên giấy trắng mực đen, các vị đệ tử của Ngài luôn luôn nhuần nhã nằm lòng và truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, vào năm thứ tám triều đại Ajatasattu (A Xà Thế), năm trăm vị đại đệ tử A La Hán của Ngài kết hợp lần đầu tiên tại Rajagaha (Vương Xá) để nhắc lại những Phật ngôn quý báu. Đức Ananda - vị đệ tử trung thành đã được diễm phúc luôn luôn ở bên cạnh Đức Thế Tôn và hân hạnh được nghe tất cả giáo huấn của Ngài - và Đức Upali, được chọn đứng lên trả lời những câu hỏi. Đức Ananda, được đề cử trình bầy những lời khuyên dạy (Sutta, kinh), Đức Upali về những vấn đề có liên quan đến giới luật (Vinaya), và cả hai vị luân phiên trả lời các câu hỏi về phần Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), giáo lý cao siêu. Đó là lần kết tập đầu tiên, tập trung toàn thể giáo lý của Đức Phật và sắp xếp rành mạch thành ba tạng (Tam Tạng Kinh: Tạng Luật, Tạng Kinh và Tạng Luận).
Vì có những khuynh hướng làm sai lạc Giáo Pháp nên sau đó hai lần [1] , một trăm năm và hai trăm ba mươi sáu năm, các vị A La Hán lại kết tập lần thứ nhì và thứ ba để đọc lại Phật ngôn.
Vào khoảng năm 83 trước D.L, dưới triều vua Vatta Gamani Abhaya [2] xứ Sri Lanka (Tích Lan), các vị A La Hán lại kết tập một lần nữa tại Aluvihara [3], một ấp nhỏ của đảo Sri Lanka (Tích Lan), lối 30 cây số cách Kandy. Tại đây, lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo, Tam Tạng Pali (Nam Phạn) được ghi chép trên lá buôn [4] nhờ sự cố gắng liên tục và tầm mắt thấy xa của chư vị Đại Đức A La Hán. Đến ngày nay, và trong tương lai, không có lý do nào để chỉ trích, và cũng không thể nào các học giả tân tiến làm sai lạc tách cách trong trắng của giáo lý thuần túy.
Kể về lượng, ba Tạng kinh (Tipitaka), gồm trọn vẹn Giáo Lý của đức Phật, bằng mười một lần quyển thánh kinh của Ki-tô Giáo.
Phạn ngữ Tipitaka (Bắc Phạn: Tripitaka) có nghĩa là ba cái giỏ. Ba cái giỏ ấy là: giỏ đựng Luật (Vinaya Pitaka), giỏ đựng Kinh (Sutta Pitaka) và giỏ đựng Luận (Abhidhamma Pitaka, Vi Diệu Pháp), tức ba Tạng: Luật, Kinh và Luật
Tạng Luật (Vinaya Pitaka)
Tạng Luật được xem là cái neo vững chắc để bảo tồn con thuyền giáo hội trong những cơn phong ba bão táp của lịch sử. Phần lớn tạng Luật đề cập đến giới Luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni. Ngót hai mươi năm sau khi Thành Đạo, Đức Phật không có ban hành giới luật nhất định để kiểm soát và khép chư tăng vào kỹ cương. Về sau, mỗi khi có trường hợp xảy diễn, Đức Phật đặt ra những điều răn thích hợp. Tạng Luật nêu rỏ đầy đủ lý do tại sao và trường hợp nào Đức Phật ban hành một giới, và mô tả rành mạch các nghi thức hành lễ sám hối (Vinaya) của chư tăng. Lịch trình phát triển đạo giáo từ thuở ban khai, sơ lược đời sống và chức nhiệm của Đức Phật, và các chi tiết về ba lần kết tập Tam Tạng là những điểm khác được đề cập đến trong Tạng Luật. Một cách gián tiếp, đây là những tài liệu hữu ích về lịch sử thời thượng cổ, về các cổ tục ở Ấn, về kiến thức và trình độ thẩm mỹ thời bấy giờ. Người đọc Tạng Luật không khỏi ngạc nhiên và thán phục tánh cách dân chủ trong phương pháp thành lập và tổ chức Giáo Hội Tăng Già, việc sử dụng tài sản, mức độ luân lý cao thượng của chư Tăng và khả năng xuất chúng của Đức Phật trong việc điều hành Giáo Hội.
Ngài Zetland viết:
"Và rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên được biết rằng những nguyên tắc sơ đẳng trong quốc hội của chúng ta ngày nay (Anh Quốc) đã có sẵn trong Giáo Hội Phật Giáo Ấn Độ, từ hơn hai ngàn năm về trước. [5] "
Tạng Luật gồm năm quyển:
Vibhanga:
1. Parajika Pali (Tội nặng)
2. Pacittiya Pali (Tội nhẹ)
Khandaka:
3. Mahavagga Pali (Phần lớn)
4. Cullavagga Pali (Phần nhỏ)

5. Parivara Pali (Giới toát yếu)
Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Tạng Kinh đại để gồm những bài Pháp có tánh cách khuyên dạy mà trong nhiều cơ hội khác nhau, Đức Phật giảng cho các bậc xuất gia và hàng cư sĩ. Một vài bài giảng của các vị đại đệ tử như các ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), Moggallana (Mục Kiền Liên) và Ananda (A Nan Đà) cũng được ghép vào Tạng Kinh và cũng được tôn trọng như chính lời Đức Phật vì đã được Đức Phật chấp nhận. Phần lớn các bài Pháp này nhằm vào lợi ích của chư Tỳ Khưu và đề cập đến đời sống thánh thiện của các bậc xuất gia. Nhiều bài khác liên quan đến tiến bộ vật chất và tinh thần, đạo đức của người cư sĩ. Kinh Sigalovada [6] chẳng hạn, dạy về bổn phận của người tại gia. Ngoài ra còn có những bài giảng lý thú dành cho trẻ em.
Tang Kinh giống như một quyển sách ghi lại nhiều quy tắc để coi theo mà thực hành, vì đó là các bài Pháp do Đức Phật thuyết giảng ở nhiều trường hợp khác nhau cho nhiều người có căn cơ, trình độ, và hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi trường hợp, Đức Phật có một lối giảng để người thính Pháp có thể lãnh hội dễ dàng. Thoáng nghe qua hình như mâu thuẫn, nhưng phải nhận định đúng Phật ngôn theo mỗi trường hợp riêng biệt mà Đức Phật dạy điều ấy. Tỷ như để trả lời môt câu hỏi về cài "Ta", có khi Đức Phật giữ im lặng, có khi ngài giải thích dong dài. Nếu người vấn đạo chỉ vì tánh tò mò muốn biết thì Ngài làm thinh, không trả lời. Nhưng với người cố tâm tìm hiểu chân lý thì Ngài giảng dạy rành mạch và đầy đủ.
Tạng kinh gồm năm bộ:
1. Digha Nikaya, Trường A Hàm, chép lại những bài Pháp dài.
2. Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, những bài Pháp dài bậc trung.
3. Samyutta Nikaya , Tạp A Hàm, những câu kinh tương tợ nhau.
4. Anguttara Nikaya, Tăng nhứt A Hàm, những bài Pháp sắp xếp theo con số.
5. Khuddaka Nikaya, Tiểu A Hàm, những câu kệ vắn tắt.
Riêng bộ Khuddaka Nikaya (Tiểu A Hàm) chia làm 15 tập:
1. Khuddaka Patha, những bài ngắn.
2. Dhammapada, Kinh Pháp cú, con Đường chân lý.
3. Udana, Khúc ca hoan hỷ.
4. Itivuttaka, những bài kinh bắt đầu bằng cụm từ "Phật dạy như thế này".
5. Sutta Nipata, những bài kinh sưu tập.
6. Vinama Vatthu, câu chuyện những cảnh trời.
7. Peta Vattthu, câu chuyện cảnh giới ngạ quỷ.
8. Theragatha, Trưởng Lão Tăng Kệ.
9. Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ.
10. Jataka, những câu chuyện tái sinh của Bồ Tát: Túc Sanh Truyện, hay Kinh Bổn Sanh.
11. Niddesa, những bài trần thuật, Nghĩa thích.
12. Patisambhida, quyển sách đề cập đến kiến thức Phân Giải.
13. Apadana, đời sống của chư vị A La Hán.
14. Buddhavamsa, tiểu sử của Đức Phật.
15. Cariya Pitaka, những phẩm hạnh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.5/11/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment