Ý nghĩa của kinh và tụng kinh
I. Ý nghĩa của chữ "kinh"
Chắc có người sẽ cho rằng đặt vấn đề "kinh là gì?" là một việc làm
không cần thiết nếu không muốn nói là ngớ ngẩn. Nhưng thật sự thì vấn đề
có cần thiết hay không? Ðiều này chỉ có thể trả lời trọn vẹn khi chúng
ta tường lãm về nội dung của chữ Kinh trong Phật giáo.
Chúng ta
biết, ngày đức Phật còn ở đời, đức Phật không hề viết sách. Tất cả kim
ngôn hay lời dạy của ngài được truyền thừa bằng hình thức truyền khẩu,
từ thế hệ này sang thế hệ khác, rồi về sau mới được ghi chép lại thành
dạng văn bản. Bài viết này không nhằm nghiên cứu ý nghĩa chữ kinh từ góc
độ lịch sử trong suốt quá trình hình thành ba kho tàng kinh điển, mà
chỉ giới hạn trong phạm vi tìm hiểu ý nghĩa từ nguyên của chữ kinh trong
Phật giáo.
Các nhà Phật học Trung Quốc truyền thống cho rằng
kinh là "khế hợp." Khế ở đây bao gồm hai phạm trù khế lý và khế cơ. Khế
lý là nội dung ý nghĩa của những lời giảng dạy phải được đặt trên con
đường trung đạo, không thiên lệch vào sự chấp mắc nào. Khế cơ là sự thể
hợp với từng căn cơ đối tượng. Khế lý và khế cơ có giá trị xuyên suốt
thời gian và không gian. Theo nghĩa này, kinh là chân lý siêu tuyệt của
các chân lý mặc ước và công ước.
Tác giả của Luận Phật Ðịa còn
đi xa hơn, khi giải thích: "Khế là phù hợp với tinh thần giáo lý mầu
nhiệm của các đức Phật trong ba thời, đồng thời còn đáp ứng một cách sát
sao với sự lãnh hội của đương cơ tiếp nhận giáo pháp ấy." Theo đó, sự
khế lý mà thiếu khế cơ hay khế cơ mà không có khế lý thì chẳng được gọi
là kinh.
Các nhà chú sớ kinh điển của Trung Quốc không dừng lại
tại đó, còn đi sâu vào việc khai thác sự đa dạng về ý nghĩa của kinh.
Theo họ, kinh gồm có năm nghĩa: (1) pháp bổn nghĩa, (2) vi phát nghĩa,
(3) dũng tuyền nghĩa, (4) thằng mặc nghĩa, (5) kết man nghĩa. Một số nhà
chú sớ kinh điển định nghĩa chữ kinh với năm nghĩa hơi khác với năm
nghĩa trên: (1) xuất sanh, (2) hiển thị, (3) tuyền dũng, (4) thằng mặc,
(5) kết man. Các cách định nghĩa chữ kinh như vừa nêu xem có phần phong
phú, đa dạng, nhưng thật chất đã đi vượt quá ý nghĩa từ nguyên của chữ
kinh trong Phật giáo.
Trong đạo Phật, ý nghĩa chữ kinh ban đầu
rất đơn giản. Kinh trong tiếng Sanskrit viết là sùtra, và trong tiếng
Pali viết là sutta, chỉ có nghĩa đen là sợi dây hay những lời giảng dạy
của đức Phật về đạo đức, chân lý và giải thoát. Nó liên hệ đến sự nghe,
nghe những lời dạy của đức Phật. Nói cách khác, kinh là những lời dạy
của Phật hay các vị thánh đệ tử của Phật được thể hiện dưới dạng thức
của một bài pháp thoại. Trong ý nghĩa rộng hơn, chữ kinh còn ám chỉ cho
(1) các thể loại văn học Phật giáo, (2) ba kho tàng văn học Phật giáo
thường được biết đến qua thuật ngữ "tam tạng" (Sanskrit: tripi.taka,
Pali: tipi.taka). Trong một số ngữ cảnh nhất định, kinh được ám chỉ cho
phần pháp thoại (sutta) hay kinh tạng (sutta pi.taka), một trong ba kho
tàng văn học Phật giáo. Nói đúng hơn, nó bao gồm những lời dạy của chánh
pháp, những phương thức hành trì hay các pháp môn được đức Phật và các
vị thánh đệ tử của ngài giảng dạy, dù được biểu thị dưới dạng ngôn ngữ
truyền miệng hay văn tự.
Các vị thánh đệ tử đầu tiên của đức
Phật là nhóm năm anh em Kiều-trần-như, mười vị đệ tử lớn và 1250 vị
tỳ-kheo đều có nhiều cuộc đối đáp về đạo lý và con đường tu tập với các
người theo bà-la-môn giáo và các tôn giáo tín ngưỡng bấy giờ. Các đối
thoại mang tính cách xiển dương và truyền bá đạo pháp như vậy được xem
là các pháp thoại, có giá trị tương đương với lời Phật dạy trong nhiều
trường hợp cụ thể. Nên các pháp thoại đó cũng được xem là kinh, tức một
dạng khác của lời Phật dạy.
Như vậy khái niệm "kinh" chỉ chung
cho các lời dạy đạo lý hoặc là các pháp thoại mang tính đối thoại của
đức Phật với chúng đệ tử hoặc người khác, hoặc các pháp thoại của các vị
thánh tăng đối với nhau hay đối với người ngoại đạo. Ý nghĩa ban đầu
của kinh chỉ đơn giản có thế, dù dưới dạng truyền khẩu hay được biên tập
thành văn bản.
Theo đó, chúng ta thấy ý nghĩa của chữ kinh chỉ
là một khái niệm bao quát, chỉ chung các lời dạy của Phật về đạo đức và
con đường tu tập (dhamma) và những phép tắc quy định đời sống của cộng
đồng tu sĩ sống dưới sự bảo hộ và hướng dẫn của Phật (vinaya). Nó hoàn
toàn không mang cáccý nghĩa như "pháp bổn," "vi phát," "dũng tuyền,"
"kết man," "xuất sanh," " hiển thị " hay ý nghĩa "khế lý, khế cơ" như
các nhà sớ giải Trung Quốc đã áp đặt. Nói như vậy không có nghĩa phủ
định tính chất khế lý và khế cơ trong lời Phật dạy mà chỉ nhằm xác định
rằng bản chất kinh điển vốn không có khế lý và khế cơ. Chỉ có con người
ứng dụng kinh, giảng dạy kinh có khế lý và khế cơ hay không mà thôi. Nói
cách khác tính khế lý và khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào vị pháp sư qua
sự trình bày pháp thoại đến với quần chúng thính giả hơn là bản thân của
pháp thoại đó được biểu hiện dưới hình thức lời nói hay văn tự. Văn tự
hay ngôn ngữ có giới hạn, không thể làm chức năng xứng hợp như chính con
người của đức Phật và các vị thánh đệ tử của ngài. Văn tự kinh điển dù
là hình thức ghi chép các Phật ngôn, nhưng không vì thế mà tự chúng có
tính chất khế lý hay khế cơ. Ý nghĩa thâm sâu của kinh nếu không được vị
pháp sư trình bày một cách sáng sủa, chính xác và hợp đối tượng thì
người nghe có thể dẫn đến các tình trạng ngộ nhận, thối thất đạo tâm và
như vậy là mất hết khế lý và khế cơ. Ðiều này chứng tỏ rằng tự bản thân
kinh điển không có tính chất khế lý hay khế cơ. Tính cách khế lý và khế
cơ tùy thuộc rất nhiều vào người giảng đạo và người nghe. Thuyết giảng
pháp thoại mà không nắm bắt được đối tượng nghe pháp sẽ có thể dẫn đến
tình trạng suy thối đức tin chánh pháp ở người nghe. Ngược lại thuyết
pháp phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng thấm nhuần lợi ích và an lạc
thì sự thuyết pháp đó đã thành tựu ý nghĩa khế lý và khế cơ rồi. Như vậy
lợi ích hay tác hại của một buổi pháp thoại đối với người nghe tùy
thuộc rất nhiều vào phương tiện giảng dạy và phong cách trình bày của vị
pháp sư, chứ không phải là bản thân của kinh điển văn tự.
Do
đó tất cả các ý nghĩa gán vào kinh thế này thế nọ chỉ là cách thể hiện
một sự hảo tâm của một cố gắng áp đặt, hơn là thể hiện đúng đắn nghĩa lý
của chữ kinh. Trên ý nghĩa này, các chú sớ và giải thích ý nghĩa chữ
kinh theo phong cách của các nhà Phật học Trung Quốc như nêu ở trên là
một việc làm xem ra không cần thiết, nếu không muốn nói là có thể dẫn
đến các lạc dẫn về ý nghĩa từ nguyên của nó, phát sanh ra sự sai lầm
trong ứng dụng.
Kinh là một thuật ngữ Phật học nhưng thuật ngữ
này không phải là sản phẩm đầu tiên của đạo Phật. Các tôn giáo Ấn Ðộ và
trên thế giới đều gọi những lời dạy của đấng giáo chủ của họ là kinh,
như kinh điển Veda, kinh Upanisad, kinh thánh (Do thái giáo, Tân ước,
Cựu ước). Ngày nay, kinh điển còn được dùng với ý nghĩa là các sách vở
chỉ nam về một học thuyết hay chủ nghĩa, chẳng hạn như kinh điển
Mác-lênin, kinh điển Tư bản v.vẨ Thậm chí người Ấn Ðộ cổ và hiện đại còn
lạm dụng khi gọi quyển sách hướng dẫn về nghệ thuật làm tình là kinh,
kinh tình dục (Kàma Sùtra). Do đó, không nên áp đặt ý nghĩa khế lý khế
cơ lên chữ kinh.
Chữ kinh trong Phật giáo được dùng để chỉ cho
lời Phật dạy dưới hình thức văn tự hay truyền khẩu, có giá trị hướng
thượng, phát triển đạo đức, thiền định và trí tuệ. Nó vượt lên trên các
kinh sách của tôn giáo, học thuyết khác ở chỗ các kinh sách này chỉ chú
trọng nhiều đến phương diện kiến thức mà không đặt nặng về phần thực
hành.
II. Ý nghĩa của tụng Kinh
Có nhiều Phật tử khi
được hỏi "tại sao anh/chị/ông/bà tụng kinh?" liền trả lời không ngần
ngại rằng "vì tụng kinh có nhiều phước báu, nên chúng tôi tụng." Ðối với
nhiều Phật tử, tụng kinh là con đường gặt hái phước báu cho bản thân,
người thân quyến và gia đình mình. Nhiều người khác thì cho rằng tụng
kinh để được các đức Phật và Bồ-tát phù hộ cho tai qua nạn khỏi, mua may
bán đắc, làm ăn phát tài, cửa nhà thịnh vượng. Nói chung tụng kinh để
mang lại phước lộc và thọ cho mình và gia đình mình. Mặc dù không phản
ánh đúng ý nghĩa và mục đích của sự tụng kinh trong Phật giáo nhưng
những câu trả lời như vậy đã trở thành nếp nghĩa của nhiều Phật tử.
1. Như đã trình bày ở phần trên, kinh là lời Phật dạy về đạo đức,
phương thức tu tập, cải hóa thân tâm, đem lại hạnh phúc cho mình và
người ở đời này và đời sau, do đó, sự tụng kinh có ý nghĩa đạo đức rất
lớn. Tụng kinh trước nhất và quan trọng hơn hết là để "hiểu chính xác
lời Phật dạy, ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày, đem lại lợi lạc cho bản
thân và tha nhân." Tụng kinh là dịp tốt nhất để chúng ta có thể học hỏi,
tư duy về lời Phật dạy rồi áp dụng chúng vào đời sống hằng ngày của
chúng ta. Chính sự áp dụng lời Phật dạy, sau quá trình tư duy và thể
nghiệm, giúp chúng ta gặt hái những điều chúng ta mong muốn trong cuộc
sống, như sự an lạc và hạnh phúc. Bản thân của sự tụng kinh vốn không có
phước báu nào cả, nếu người đọc tụng không chịu chú tâm vào lời kinh để
tìm ra ý đạo ẩn chứa trong đó. Các hình thức và thói quen tụng kinh như
một cái máy lập, rõ ràng không mang lại kết quả thực tiễn nào, trái lại
còn làm mất thời giờ, công sức mà không có ích lợi gì cả. Kinh điển của
Phật là tấm bản đồ, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta sống đời chân
chánh, để gặt hái kết quả hạnh phúc ở đời này và đời sau. Ðọc tấm bản đồ
để biết được con đường, để đi đúng đường, để đến đúng đích. Con đường
đó là con đường thánh gồm tám yếu tố: quan điểm chân chánh, tư duy chân
chánh, lời nói chân chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh,
nỗ lực chân chánh, chánh niệm và thiền định chân chánh. Ðây là con đường
mà ba đời chư Phật đã đi qua, diệt trừ tận gốc rễ của khổ đau, đạt được
an lạc và giải thoát. Người Phật tử cần phải siêng năng nhớ nghĩ, ứng
dụng con đường trung đạo đó để tự cứu độ chính mình, thông qua sự hướng
đạo của Phật trong kinh điển. Nói cách khác, tụng kinh là cách học hỏi
chánh pháp của Phật để ứng dụng chánh pháp vào đời sống, đem lại an lạc
và hạnh phúc cho tự thân.
2. Tụng kinh trong Phật giáo còn là
một dịp tốt giúp chúng ta trau dồi và phát triển ba nghiệp trong sạch và
an tịnh. Trong giờ phút tụng kinh, nhờ sự chú tâm chuyên nhất vào lời
kinh, tâm ý của chúng ta chấm dứt sự bám víu vào các duyên thế sự. Tâm ý
của chúng ta nhờ đó trở nên thanh tịnh và thuần khiết. Tâm của chúng ta
xa lìa các tâm lý tham lam, sân hận, si mê và các tâm lý âm tính khác,
có hại cho tâm tư, tình cảm, nhân cách và đạo đức của bản thân. Trong tư
thế ngồi bất động để tụng kinh, thân thể chúng ta đang từng bước trở
nên an tịnh, thuần khiết, nhờ đó chúng ta tránh được tất cả các hành vi
xấu ác của thân như giết chóc, trộm cướp, quan hệ tình dục bất chánh.
Ngòai ra, do miệng đọc tụng lời kinh, các lời nói mang tính chất sai sự
thật, ác độc, thêm bớt và nói lời vô nghĩa không có cơ hội để phát
triển. Khi đọc kinh thì miệng của chúng ta xướng lên những lời lẽ đạo
đức, trí tuệ, nhờ đó chúng ta có cơ hội vun trồng các hạt giống thiện.
Như vậy, trong hành động tụng kinh, chúng ta xa lìa được mười nghiệp ác,
ba của ý, ba của thân và bốn của lời. Nói cách khác, trong khi tụng
kinh chúng ta đã huấn luyện 3 nghiệp của mình về con đường lương thiện
và đạo đức. Sự huấn luyện đó giúp chúng ta xa lìa các nghiệp ác, huân
tập các điều thiện. Sự tụng kinh do đó đã trở thành một sự tu tập thân,
khẩu và ý trong đạo Phật.
Nói chung, mục đích tụng kinh trong
đạo Phật không phải để trả bài hay tính công với Phật, mà là nhằm tìm
hiểu chính xác lời Phật dạy, rồi ứng dụng vào đời sống hằng ngày. Tụng
kinh không phải để cầu nguyện Phật và Bồ-tát gia hộ cho mình, gia đình
và thân quyến tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến chức, làm ăn thịnh
vượng, tuổi thọ tăng trưởng, sở nguyện tùy tâm, kết tường như ý. Tụng
kinh cũng không phải là sự mua bán hay trao đổi về sức khỏe, tài sản,
giàu sang và phước báu. Tụng kinh để trau dồi ba nghiệp thanh tịnh, phát
triển các hành lành, sống đời đạo đức, vô ngã và vị tha, để mình và
người được an lạc và hạnh phúc. Muốn được vậy, khi tụng kinh, người Phật
tử phải chí thành, hướng tâm về nội dung kinh, ghi khắc sâu chân lý
Phật dạy, ứng dụng vào từng trường hợp cụ thể của cuộc sống, để khắc
phục đau khổ, nhổ sạch gốc rễ của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê.
Tụng kinh như vậy là một sự tu tập: bỏ ác làm lành, một sự an tịnh ba
nghiệp, phát triển các đức tính tốt trong mỗi chúng ta. Tụng kinh có
nhiều lợi ích như thế cho nên người Phật tử phải chuyên cần tụng niệm
lời Phật dạy.
III. Cách thức tụng kinh
Cách thức tụng
kinh trong Phật giáo có phần khác nhau tùy theo từng truyền thống. Trong
Phật giáo Nguyên thủy, sự tụng kinh chỉ đơn thuần là sự trùng tuyên lại
lời Phật dạy, để nhớ lời ngài dạy sâu hơn và để ứng dụng vào cuộc sống
khi có cơ duyên thích hợp. Trong Phật giáo Bắc tông, tụng kinh đã trở
thành một nghi thức và nghi lễ hẳn hoi, với sự hỗ trợ của các pháp khí
và nhạc cụ, như chuông, mõ, trống, kiểng, khánh, v.v. Sự tụng kinh ở
nhiều nơi đã trở thành một lễ nhạc có âm điệu trầm bổng, du dương, gây
nhiều cảm hứng tốt ở người nghe.
Dù bạn theo truyền thống nào
đi nữa, điểm quan trọng mà bạn phải chú ý là tụng kinh để hiểu và ứng
dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống. Do đó, trong khi tụng niệm, bạn
đừng để cho kỷ thuật tán tụng trở thành cái chánh yếu của khóa lễ, mặc
dù kỷ thuật này có thể giúp cho người tụng lẫn người nghe dễ lắng tâm và
phát khởi niềm tin. Nội dung và ý tưởng của kinh là phần "cốt lõi nhất"
mà ta cần phải chú tâm thật sâu thì mới có thể lãnh hội hoàn toàn. Do
đó, chỉ chú trọng đến "kỹ thuật tụng hay" mà không nắm bắt được ý kinh
thì việc tụng kinh có thể trở nên vô ích và mất thời giờ. Người tụng
phải chú tâm hoàn toàn vào nghĩa lý của kinh, tư duy và liên tưởng về
nghĩa lý đó, để hiểu rõ lời dạy của Ðức Phật (tụng kinh giả minh Phật
chi lý), rồi ứng dụng sự hiểu biết đó vào cuộc sống hằng ngày. Chính sự
ứng dụng lời kinh vào cuộc sống mới thật sự đem lại phước báu, an lạc và
giải thoát cho chúng ta. Do đó, ta không nên chỉ tụng niệm bằng miệng
mà còn phải tụng niệm bằng tâm. Tụng niệm bằng tâm thì ta mới tránh được
thái độ tụng niệm như để trả bài cho Phật hay như một cái máy lặp, chỉ
phát ra âm thanh về chánh pháp nhưng không phát khởi được niềm tin chân
chánh cũng như sự hiểu biết và thái độ quyết chí hành trì chánh pháp ấy.
Tụng niệm bằng tâm thì ngay khi tụng niệm, chúng ta đang an trú trong
từng giây phút của trạng thái định và đây là nền tảng để trí tuệ vô lậu,
giải thoát phát sanh. Như vậy, trong một hành vi tụng niệm bằng tâm, ba
trạng thái giới định huệ đã có thể hội đủ nhờ vào thái độ chuyên chú để
tìm ra lý đạo.
* * *
Nói tóm lại tụng Kinh không phải
là dịp để cầu phước mà là cơ hội để trau dồi ba nghiệp cho thanh tịnh,
an lạc. Tụng kinh không phải là buổi cầu nguyện, van xin mà là lúc chúng
ta nên chuyên chú, lắng tâm, tư duy về lời Phật dạy, để ứng dụng vào
đời sống hằng ngày. Tụng kinh còn là cách học hỏi chánh pháp, phát khởi
niềm tin chân chánh về lời Phật dạy. Tụng kinh để gieo giắt các hạt
giống từ bi, trí tuệ vào trong tâm khảm, để gặt hái hoa trái của an lạc
và hạnh phúc ở hiện tại và tương lai, cho mình và cho người.
Tụng kinh mang nhiều ý nghĩa đức đức tích cực như thế, phàm làm đệ tử
Phật phải nên siêng năng đọc tụng kinh điển để thông điệp từ bi và trí
tuệ của đức Phật tỏa sáng sự sống của chúng ta và tất cả chúng sanh.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).TAM THANH.( MHDT ).14/5/2012.
No comments:
Post a Comment