Tây Tạng Huyền Bí |
Một Cuộc Điểm Đạm Huyền Môn .
Sau khi tôi đã dự kiến độ nửa chục cuộc
xác ướp trong các tu viện khác nhau, ngày nọ vị sử trưởng tu viện Chakpori cho
mời tôi đến và nói:
- Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm, đạo hữu sẽ được điểm đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ý muốn của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp tục mang danh hiệu Lạt Ma thôi như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt cho đạo hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.
Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nhìn nhận, tôi đã đảm nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp, cách đây độ chừng sáu thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đã quay giáp trọn một vòng.
Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại phòng riêng và cho tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "Chết giả" vị Lạt Ma ấy nói:
- Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về dương thế, thì con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết. Sự học về các cõi giới vô hình đã đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ còn đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ vượt qua cõi sống và cõi chết và con sẽ đi ngược dòng thời gian để truy nguyên đến tận cái dĩ vãng vô cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.
Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong ba tháng trường, tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc khổ. Bất hạnh thay, tôi lại còn phải dùng thêm những món cỏ thuốc mùi rất nồng nặc ngoài ra những bữa ăn thường ngày. Người ta khuyên tôi nên chỉ nghĩ đến những gì "Trong sạch và thánh thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong một tu viện!) thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói tóm lại, tôi phải trải qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một kỷ luật nghiêm khắc và trải qua những giờ công phu thiền định lâu dài.
Sau cùng, ba tháng đã trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố rằng thời gian đã điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi. Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận thấy bụng tôi thật trống rỗng. Sau đó, người ta đưa tôi xuống những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện Potala. Chúng tôi đi xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm đuốc soi đường, còn tôi thì không. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang mà tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ đầu cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt. Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay vòng trước mặt tôi và
đưa chúng tôi đến một đường hầm
khác rất hẹp và tối tăm, nơi đó xông lên một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị
và mùi hương trầm. Đi xa hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn chặn bởi một cánh
cửa thếp vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng khua rít
vang vội ra tận đằng xa. Những ngọn đuốc được dập tắt và thay thế bằng những
ngọn đ
èn bơ. Chúng tôi bước vào một
ngôi đền ở dưới hầm, được đục khoét trong núi đá từ nhiều thế kỷ trước bởi những
cuộc địa chấn do hỏa diệm sơn gây ra. Ngày xưa những dòng phún thạch từ trong
lòng đất đã trải qua những dãy hành lang này trước khi đến miệng núi lửa. Tôi
thầm nghĩ: "Bây giờ thì là những người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua con đường
này, và họ tự nghĩ rằng mình là thần thánh. Nhưng trong giờ phút này, tôi cần
phải tập trung tư tưởng đến cuộc lễ, nhiều chúng tôi đã đến ngôi đền Minh Triết
Huyền Bí".
Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ dư những người đi theo hộ tống đã mất dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ còn một mình tôi ở lại với ba vị hiền giả lão thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn và bình tĩnh đợi ngày khuất núi để được gọi lên cõi trời, ba ông lão này có lẽ là ba vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đ
èn bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn
cháy nghi ngút. Tiết trời rất lạnh lẽo, một cơn lạnh lẽo rất lạ lùng, không hề
có trên mặt đất. Cơn im lặng rất thâm trầm, và những tiếng động rất hiếm đến từ
bên ngoài càng làm cho sự im lặng ấy trở nên lạ lùng hơn nữa. Những đôi giày ủng
lót bằng nỉ của chúng tôi không thấy một tiếng động nào; chúng tôi lướt đi qua
những cái bóng. Tôi nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung
màu vàng nghệ của các Sư Trưởng. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà cảm thấy trên
da thịt một luồng điện chạy lăn tăn như kiến bò, và có hiện tượng phóng điện
toát ra từ cái thân hình tôi. Hai bàn tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào
quang. Tôi nhận thấy các vị Sư Trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng giống y như
tôi. Khí trời khô ráo và sự cọ sát bởi những áo tràng của chúng tôi đã gây nên
một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư Trưởng bèn đưa cho tôi một
chiếc đũa vàng và nói nhỏ thì thầm:
- Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.
Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó làm cho tôi giật mình nhảy nhỏm, mọi việc đều êm đẹp.
Những ngọn đ
èn bơ lần lượt được thắp sáng bởi
những bàn tay vô hình. Khi tôi nhìn rõ hơn dưới ngọn đ
èn bơ loe lét, tôi thấy những pho tượng
khổng lồ mạ vàng, trong đó có vài pho tượng chôn ngập đến nửa thân mình dưới một
đống ngọc quý và châu báu. Một tượng phật xuất hiện từ trong bóng tối; tượng ấy
to lớn đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi dây lưng. Những hình tượng khác cũng
ẩn hiện chập chờn trong bóng tối; đó là các vị thần, biểu tượng của những dục
vọng và thử thách mà con người phải vượt qua trước khi thực hiện Chân
Ngã.
Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một Bánh Xe Luân Hồi Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh sáng lập lòe nó dường như xoay tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá. Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đã biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo không thể nào ai biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc, đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng mập mờ của những ngọn đ
èn bơ làm cho bóng tối càng thêm âm u huyền
bí. Chúng tôi đi với những bước đi ngập ngừng do dự, thỉnh thoảng lại xẩy chân
và trợt ngã. Bầu không khí thật nặng nề khó thở dường như toàn khối Địa Cầu
đ
è nặng lên vai chúng tôi. Tôi có cảm giác
như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất. Sau cùng, sau một khúc quanh, một
động đá mở rộng trước mặt chúng tôi, một động đá chiếu sáng ngời những ánh vàng;
có những mạch vàng xen kẽ với những lớp đá tảng trên vách. Trên vòm đá cao vút
trên đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản ảnh ánh sáng lập lòe của những
ngọn đ
èn bơ, chiếu lóng lánh như ánh
sao chiếu trên nền trời trong một đ
êm không trăng.
- Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm, đạo hữu sẽ được điểm đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ý muốn của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp tục mang danh hiệu Lạt Ma thôi như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt cho đạo hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.
Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nhìn nhận, tôi đã đảm nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp, cách đây độ chừng sáu thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đã quay giáp trọn một vòng.
Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại phòng riêng và cho tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "Chết giả" vị Lạt Ma ấy nói:
- Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về dương thế, thì con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết. Sự học về các cõi giới vô hình đã đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ còn đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ vượt qua cõi sống và cõi chết và con sẽ đi ngược dòng thời gian để truy nguyên đến tận cái dĩ vãng vô cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.
Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong ba tháng trường, tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc khổ. Bất hạnh thay, tôi lại còn phải dùng thêm những món cỏ thuốc mùi rất nồng nặc ngoài ra những bữa ăn thường ngày. Người ta khuyên tôi nên chỉ nghĩ đến những gì "Trong sạch và thánh thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong một tu viện!) thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói tóm lại, tôi phải trải qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một kỷ luật nghiêm khắc và trải qua những giờ công phu thiền định lâu dài.
Sau cùng, ba tháng đã trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố rằng thời gian đã điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi. Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận thấy bụng tôi thật trống rỗng. Sau đó, người ta đưa tôi xuống những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện Potala. Chúng tôi đi xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm đuốc soi đường, còn tôi thì không. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang mà tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ đầu cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt. Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay vòng trước mặt tôi và
Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ dư những người đi theo hộ tống đã mất dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ còn một mình tôi ở lại với ba vị hiền giả lão thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn và bình tĩnh đợi ngày khuất núi để được gọi lên cõi trời, ba ông lão này có lẽ là ba vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đ
- Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.
Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó làm cho tôi giật mình nhảy nhỏm, mọi việc đều êm đẹp.
Những ngọn đ
Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một Bánh Xe Luân Hồi Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh sáng lập lòe nó dường như xoay tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá. Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đã biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo không thể nào ai biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc, đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng mập mờ của những ngọn đ
Tây Tạng Huyền Bí |
Ở chính giữa động đá, có một ngôi nhà màu đen và sáng ngời,
dường như làm bằng gỗ mun. Trên tường có những hình biểu tượng và sơ đồ lạ lùng
giống như những hình vẽ mà tôi đã thấy trên những vách đá dưới hầm khi tôi thám
hiểm cái hồ nước dưới lòng đất trước đây. Chúng tôi bước vào nhà do một cửa lớn
và cao. Bên trong tôi thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá đen có chạm hình và khắc
những dòng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không có đậy nắp. Nhìn vào bên trong
tôi bèn muốn đứt hơi thở và thình lình tôi cảm thấy rất yếu. Vị Tiên Chỉ, cao
niên nhất trong ba vị Sư Trưởng mới nói với tôi:
- Con hỡi, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như những đấng Thần minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này còn là một đồng bằng, chưa có núi non gì cả. Các vị ấy đã từng dong dũi trên đất liền, trong khi những vùng biển cả còn đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác còn chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đã được điểm đạo trong giới huyền môn) mới được thấy mà thôi.
Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa khinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân hình của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới lớp vàng bên ngoài. Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba thước tây và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm thước. Đầøu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi mắt ngay thẳng và thụt vô sâu. Gương mặt họ tươi như hồi còn sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót vì sợ làm cho họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị triù các bầu tinh tú, như bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.
Vị tiên chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:
- Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy dĩ vãng và con cũng sẽ biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian khổ. Nhiều người không còn sống sót sau cơn thử thách và nhiều người đã thất bại nhưng không ai rời khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đã vượt qua cơn thử thách. Con đã chuẩn bị sẵn sàng chưa và con có bằng lòng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy không?
Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư Trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp bằng, lòng bàn tay lật ngửa. Một cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm một ngọn đ
èn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn: Chỉ
còn lại một mình tôi với những cái xác ướp của những vị tiền bối của một thế hệ
đã qua. Thời gian trôi đi, tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đ
èn của tôi đem theo đã cạn bơ và vụt tắt.
Trong một lúc, tôi nhìn thấy cái bấc đ
èn còn ngúm đóm lửa tàn, và ngửi thấy một
mùi bốc cháy, rồi kế đó mọi sự đều biến mất và không còn gì nữa.
Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng và bóng tối dầy đặc chung quanh đ
è nặng lên tôi. Quả thật đó là
cái im lặng của nhà mồ.
Thình lình thân hình tôi cứng đơ và trở nên bất động như một xác chết. Tay chân tôi đã tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cõi chết, chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới lòng đất và ánh sáng mặt trời. Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn thân tôi rũ liệt.
Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh chớp mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống; trong một lúc tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không gian. Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay phất phơ trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình tôi, tỏa ra một sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống.
Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết như mọi tử thi khác, lần lần, tôi phân biệt những điển dị đồng nhỏ giữa cái xác của tôi với cái xác của những người khổng lồ nằm gần bên đó là một điều rất lý thú. Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương thời: Làm sau những người chủ nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện của những cái xác ướp khổng lồ này? Tôi đang còn suy nghĩ... thì thình lình tôi trở nên ý thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tuởng của tôi. Dường như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẫu chuyện dụng vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những hình ảnh tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm nhãn quan siêu linh của tôi. Tôi có cảm giác rằng từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm. Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi: Những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của tôi phất phơ và
đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi
trong giông bão. Tâm thức tôi bị dày vò, cấu xé một cách đau đớn phủ phàng bởi
một con trốt xoay tít với muôn nghìn đám lửa. Tôi cảm thấy bị bỏ rơi,cô đơn độc
chiếc, như một mảnh bèo trôi dạt giữa một vũ trụ bấp bênh vô định. Một đám sương
mù
đen kịt bao phủ lấy tôi và
đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng,
nó không phải là của trần gian.
Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đã dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi: Tôi nằm dài một cách uể oải trên bãi cát được sửi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nhìn những tàn cây thốt nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đã phản đối: Tôi chưa hề nhìn thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một chàng trai dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm cây. Những giọng nói càng đến gần và xuất hiện một đám người da sậm như đồng cỏ và nô đ
ùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả đều
cùng lứa như nhau! Tôi nhìn lại thân mình: Tôi cũng vậy, tôi cũng là một người
khổng lồ. Những ấn tượng tiếp diễn theo nhau trong trí tôi: Ngày xưa, hàng bao
nhiêu nghìn muôn năm trở về trước, quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, những
sự luân chuyển của nó lại đi theo một hướng ngược chiều. Những ngày lại ngắn hơn
và nóng hơn bây giờ. Những nền văn minh vĩ đại đã được xây dựng nên và nhân loại
thời ấy thông thái hơn người đời nay. Từ chốn không gian bên ngoài bổng nhiên
một bầu hành tinh di động xẹt ra và chạm cào trái đất, làm cho trái đất bị dội
ngược lại, bật ra khỏi vĩ đạo của nó, và xoay ngược chiều những cơn giông bảo
làm chấn động biển cả và nước biển trào lên các lục địa, nước biển tràn ngập
khắp nơi, quả địa địa cầu lại rung chuyển bởi những cơn động đất dữ dội. Nhiều
vùng lục địa bị sụp lở và chìm xuống nước, những vùng khác lại trồi lên mặt
biển. Xứ Tây Tạng, được đội lên trên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, không còn
là một xứ nhiệt đới có bờ biển, một nơi nghĩ mát có thời tiết ôn hòa, dễ chịu
nữa. Những dãy núi cao vút, những quả diệm sơn phun lửa và phun thạch bao vây
chung quanh, chặt chịa như vách thành. Trên vùng thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra
thành những vực thẩm, tại đó loài cầm thú và thảo mộc của những thời đại đã qua
vẫn tiếp tục sinh trưởng. Nhưng có rất nhiều điều mà tôi không tiện nói ra, và
một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi thật quá thiêng liêng và có tính cách quá
riêng tư để có thể công bố trong một quyển sách dành cho đại chúng.
Sau một thời gian, những linh ảnh đã lu mờ dần và biến mất. Lần lần tôi đã mất cả ý thức về cõi siêu linh và cả ý thức về cõi phàm trần. Sau đó, tôi có cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo kinh khủng vì nằm dài quá lâu trên một phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cỗ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến "Thăm dò" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.
- Con hỡi, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như những đấng Thần minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này còn là một đồng bằng, chưa có núi non gì cả. Các vị ấy đã từng dong dũi trên đất liền, trong khi những vùng biển cả còn đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác còn chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đã được điểm đạo trong giới huyền môn) mới được thấy mà thôi.
Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa khinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân hình của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới lớp vàng bên ngoài. Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba thước tây và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm thước. Đầøu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi mắt ngay thẳng và thụt vô sâu. Gương mặt họ tươi như hồi còn sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót vì sợ làm cho họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị triù các bầu tinh tú, như bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.
Vị tiên chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:
- Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy dĩ vãng và con cũng sẽ biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian khổ. Nhiều người không còn sống sót sau cơn thử thách và nhiều người đã thất bại nhưng không ai rời khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đã vượt qua cơn thử thách. Con đã chuẩn bị sẵn sàng chưa và con có bằng lòng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy không?
Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư Trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp bằng, lòng bàn tay lật ngửa. Một cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm một ngọn đ
Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng và bóng tối dầy đặc chung quanh đ
Thình lình thân hình tôi cứng đơ và trở nên bất động như một xác chết. Tay chân tôi đã tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cõi chết, chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới lòng đất và ánh sáng mặt trời. Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn thân tôi rũ liệt.
Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh chớp mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống; trong một lúc tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không gian. Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay phất phơ trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình tôi, tỏa ra một sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống.
Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết như mọi tử thi khác, lần lần, tôi phân biệt những điển dị đồng nhỏ giữa cái xác của tôi với cái xác của những người khổng lồ nằm gần bên đó là một điều rất lý thú. Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương thời: Làm sau những người chủ nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện của những cái xác ướp khổng lồ này? Tôi đang còn suy nghĩ... thì thình lình tôi trở nên ý thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tuởng của tôi. Dường như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẫu chuyện dụng vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những hình ảnh tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm nhãn quan siêu linh của tôi. Tôi có cảm giác rằng từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm. Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi: Những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của tôi phất phơ và
Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đã dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi: Tôi nằm dài một cách uể oải trên bãi cát được sửi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nhìn những tàn cây thốt nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đã phản đối: Tôi chưa hề nhìn thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một chàng trai dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm cây. Những giọng nói càng đến gần và xuất hiện một đám người da sậm như đồng cỏ và nô đ
Sau một thời gian, những linh ảnh đã lu mờ dần và biến mất. Lần lần tôi đã mất cả ý thức về cõi siêu linh và cả ý thức về cõi phàm trần. Sau đó, tôi có cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo kinh khủng vì nằm dài quá lâu trên một phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cỗ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến "Thăm dò" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.
Tây Tạng Huyền Bí |
- A, y đã trở lại với chúng ta. Chúng ta đã đến kịp
giờ.
Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần tôi. Những ngọn đ
èn bơ và ba vị Sư
Trưởng.
- Con hỡi, con đã vượt qua cuộc thử thách con đã nằm trên phiến đá này suốt ba ngày ba đ
êm. Bây giờ, con đã nhìn thấy, con đã trải
qua sự chết và con đã sống lại.
Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo vì yếu sức và vì không cử động lâu. Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cỗ mà tôi không bao giờ quên suốt đời tôi, tôi đã thở bầu không khí lạnh như băng trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát làm cho tôi muốn xỉu va tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những gì tôi nhìn thấy, bởi tất cả những gì mà cái kinh nghiệm vừa qua đã cho tôi biết. Về đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa lòng; đ
êm đó khi tôi đi ngủ, tôi hiểu rằng những
lời tiên tri sẽ được thực hiện và không bao lâu tôi phải rời khỏi xứ Tây Tạng để
đi đến những xứ xa lạ. Bây giờ, khi tôi đã biết những xứ ấy rồi, tôi có thể nói
rằng đối với tôi những xứ ấy có vẻ kỳ dị hơn là tôi tưởng tượng!
Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông hạnh phúc thì một người kỵ mã phi nước đại chạy ngang. Khi y nhìn ra Minh Gia Đại Đức, y đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa hất văng những đám mây bụi xoay tít trong cơn gió lốc. Y xuống ngựa và nói:
- Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt Ma Lâm Bá.
Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn choàng theo nghi lễ truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư cho tôi với ba lần váy chào y bèn lui gót thót lên lưng ngựa và phóng nước lớn đi ngay.
Lúc ấy tôi không còn e dè sợ sệt gì nữa; kinh nghiệm vừa rồi của tôi ở dưới hầm điện Potala đã đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn mở bao thơ và
đọc bức thông điệp trước khi chuyển giao
cho Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Tôi nói:
- Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết đấng thậm thâm. Ngài cũng có mời sư phụ cùng đến.
Sư phụ tôi đáp:
- Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm dò những ý định thầm kín của đức Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao lâu con sẽ lên đường sang Trung Hoa. Còn thầy, thì... như thầy đã nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giã cõi trần để quay về thượng giới. Chúng ta hãy vui với ngày hôm nay va tận dụng thời giờ ít oi còn lại.
Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen thuộc đến vườn Ngọc Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên đường Lingkhor và
đến trước cổng vườn. Minh Gia Đại Đức cùng
đi với tôi. Hai thầy trò chúng tôi cùng có một tư tưởng giống nhau: Có lẽ chúng
tôi đang cùng đi chung một lần cuối cùng để viếng thăm đấng thậm thâm. Những cảm
nghĩ đó chắc hẵn đã hiện rỏ trên nét mặt của tôi vì khi tôi ngồi một mình với
Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài nói:
Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần tôi. Những ngọn đ
- Con hỡi, con đã vượt qua cuộc thử thách con đã nằm trên phiến đá này suốt ba ngày ba đ
Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo vì yếu sức và vì không cử động lâu. Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cỗ mà tôi không bao giờ quên suốt đời tôi, tôi đã thở bầu không khí lạnh như băng trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát làm cho tôi muốn xỉu va tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những gì tôi nhìn thấy, bởi tất cả những gì mà cái kinh nghiệm vừa qua đã cho tôi biết. Về đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa lòng; đ
Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông hạnh phúc thì một người kỵ mã phi nước đại chạy ngang. Khi y nhìn ra Minh Gia Đại Đức, y đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa hất văng những đám mây bụi xoay tít trong cơn gió lốc. Y xuống ngựa và nói:
- Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt Ma Lâm Bá.
Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn choàng theo nghi lễ truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư cho tôi với ba lần váy chào y bèn lui gót thót lên lưng ngựa và phóng nước lớn đi ngay.
Lúc ấy tôi không còn e dè sợ sệt gì nữa; kinh nghiệm vừa rồi của tôi ở dưới hầm điện Potala đã đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn mở bao thơ và
- Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết đấng thậm thâm. Ngài cũng có mời sư phụ cùng đến.
Sư phụ tôi đáp:
- Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm dò những ý định thầm kín của đức Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao lâu con sẽ lên đường sang Trung Hoa. Còn thầy, thì... như thầy đã nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giã cõi trần để quay về thượng giới. Chúng ta hãy vui với ngày hôm nay va tận dụng thời giờ ít oi còn lại.
Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen thuộc đến vườn Ngọc Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên đường Lingkhor và
Tây Tạng Huyền Bí |
- Giờ phút chia ly, để mỗi người đi một đường bao giờ cũng đầy
sự sầu thảm bi ai. Ở đây, trong ngôi nhà mát này, ta đã suy gẫm nhiều giời về
vấn đề tối hậu nầy, là nên ở lại hay nên đi khi xứ sở ta bị nạn ngoại xâm? Dầu
cho ta quyết định như thế nào cũng có người phải chịu khổ sở. Lâm Bá con hỡi,
con đường của con đã được vạch sẵn và tất cả con đường đều khó nhọc gian nan.
Gia đình, tổ quốc, bạn bè... con phải bỏ hết tất cả. Con sẽ gặp trên bước đường
đời của con như con đã biết trước, sự hiểu lầm, sự nghi nan, đố kỵ cùng sự ngược
đãi tra tấn và tất cả những gì đau khổ đắng cay. Cách xử thế của những người
ngoại quốc rất kỳ dị và không thể giải thích. Như ta đã nói với con, họ chỉ tin
nơi những gì họ có thể làm, những gì họ có thể phân chất trong các phòng thí
nghiệm khoa học. Còn cái khoa học quan trọng nhất là khoa học về chân ngã, thì
họ không quan tâm. Đó là con đường của con, con đường mà con đã chọn trước khi
sinh ra ở kiếp này. Ta đã quyết định biệt phái con sang Trung Hoa năm ngày
nữa.
Năm ngày! Chỉ còn năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ dài đến năm tuần lễ.
Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi với nhau một lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.
- Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo tin cho cha mẹ con hay trước.
Cha mẹ tôi? Thầy tôi đã đối xử với tôi còn hơn cả bậc phụ mẫu. Và không bao lâu người sẽ từ giả cuộc đời: Người sẽ từ trần trước khi tôi quay trở về Tây Tạng trong vài năm sau. Di tích của người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ vàng đặt tại phòng các vị hóa thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như một cái áo cũ đã trở nên vô dụng.
Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một mình và
đi bộ như cái ngày mà tôi rời khỏi nhà
để đi vào tu viện. Nhưng trong thời gian
qua tôi đã trở nên một vị Lạt Ma và một vị Sư Trưởng. Cha mẹ tôi đợi tôi ở nhà
và
đón tiếp như một vị thượng khách. Tối hôm
ấy tôi lại đến văn phòng của cha tôi để ký tên vào quyển gia phả và ghi vào đó
những tước vị của tôi. Sau đó, tôi lại đi bộ trở về tu viện, nó đã trở nên nhà
của tôi từ bấy lâu nay.
Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên đường tôi đến bái yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi nó vài lời từ giả và ngày ban ân huệ cho tôi. Lòng tôi se thắt khi tôi từ biệt ngày. Cả ngày và tôi đều biết rằng tôi gặp ngày trở lại khi ngày từ trần ở cõi giới bên kia.
Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc bình minh, bước đi chậm chạp và lòng không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước chân trên con đường thiên lý không một mái nhà riêng, hướng về những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất cả. Đi đến điểm cao tột của truông núi, tôi quay đầu nhìn lại rất lâu, và
đó cũng là cái nhìn cuối
cùng của tôi xuống thành phố thánh địa Lhassa.
Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN,AUSTRALIA,SYDNEY=2/11/2012 ).MHDT.
Năm ngày! Chỉ còn năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ dài đến năm tuần lễ.
Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi với nhau một lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.
- Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo tin cho cha mẹ con hay trước.
Cha mẹ tôi? Thầy tôi đã đối xử với tôi còn hơn cả bậc phụ mẫu. Và không bao lâu người sẽ từ giả cuộc đời: Người sẽ từ trần trước khi tôi quay trở về Tây Tạng trong vài năm sau. Di tích của người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ vàng đặt tại phòng các vị hóa thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như một cái áo cũ đã trở nên vô dụng.
Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một mình và
Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên đường tôi đến bái yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi nó vài lời từ giả và ngày ban ân huệ cho tôi. Lòng tôi se thắt khi tôi từ biệt ngày. Cả ngày và tôi đều biết rằng tôi gặp ngày trở lại khi ngày từ trần ở cõi giới bên kia.
Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc bình minh, bước đi chậm chạp và lòng không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước chân trên con đường thiên lý không một mái nhà riêng, hướng về những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất cả. Đi đến điểm cao tột của truông núi, tôi quay đầu nhìn lại rất lâu, và
Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN,AUSTRALIA,SYDNEY=2/11/2012 ).MHDT.
No comments:
Post a Comment