[Qui Y] - [Phật] - [Pháp] - [Tăng]
Thâu Âm MP3 bài giảng TạngAnhViệt lưu trữ tại đây [OPEN HERE]- MP3 Recording of teachings in Tib-Eng-Viet
Đoạn sổ tay này ghi chép từ bài giảng phần 1, 2 và 3, bổ xung với bài giảng của thầy Kirti Tsenshab Rinpoche. Đây không phải là bản đánh máy của bài giảng.
This is not a transcript of the teachings, only notes from students based mainly on Geshe Thubten Dawa teachings, part 1, 2 and 3, added with a few clarifications coming from Kirti Tsenshab Rinpoche teachings on the Uttaratantra on the same topic.
QUI Y TAM BẢO
Bất kể một công phu hành trì Phật giáo đại thừa nào cũng phải có đủ 3 phần:
- Đầu: qui y tam bảo, phát tâm bồ đề
- Giữa: công phu hành trì chính
- Chót: hồi hướng công đức
Ba phần này quan trọng, phải có đủ.
Vậy trước tiên thầy sẽ giảng về công phu Qui Y Tam Bảo.
Dù là tụng theo ngôn ngữ nào, Tạng, Phạn, Anh, hay Việt mặc dầu, nội dung lời qui y vẫn như nhau:
Con về nương dựa Phật,
Con về nương dựa Pháp,
Con về nương dựa Tăng
Qui y là nương dựa. Vậy qui y Tam Bảo là nương dựa Phật, Pháp và Tăng. Gọi là Bảo, vì đây là vừa quí, vừa hiếm.
Ý nghĩa của Tam Bảo có nhiều mức độ. Có nghĩa thông thường (common) là ý nghĩa phần lớn ai cũng đã biết. Lại có nghĩa phi thường (uncommon), chỉ thấy nói trong Đại thừa. Ở đây thầy giảng về nghĩa phi thường của Tam Bảo.
Muốn qui y, ít ra phải biết mình qui y những gì. Không rõ là gì mà qui y thì chẳng có ý nghĩa gì cho lắm. Như vậy công phu qui y sẽ rất khô cằn, không nhiều lợi ích. Tâm qui y có vững chắc thuần tịnh hay không, tùy mình có hiểu rõ đối tượng qui y hay không. Biết Tam Bảo là gì, vì sao nên qui y, qui y thì được lợi ích gì. Càng hiểu rõ về Tam Bảo thì tâm qui y lại càng thêm vững chắc.
Ghi chú bên lề: cuối buổi học thứ hai, hỏi thầy thì biết ý nghĩa Tam Bảo thầy dạy dựa vào luận giải kinh Bát Nhã của đức Di Lạc, do ngài Vô Trước biên soạn. Nằm ở hai bộ luận Uttaratantra và Hiện Quán Trang Nghiêm. Như vậy không những là ý nghĩa tam bảo ở đây là của Đại thừa, mà còn là Đại Thừa Trung Quán Tông. Theo đức Dalai Lama thì đây là tông phái trình bày chân tướng của thực tại một cách chính xác nhất.
PHẬT
Định nghĩaPhật, tiếng Tây tạng gọi là San-gye
Âm đầu, "San", có nghĩa là đoạn diệt tất cả những gì cần đoạn diệt, nghĩa là đoạn diệt toàn bộ phiền não chướng và trí chướng [còn gọi là sở tri chướng, nghĩa là chướng ngại đến từ tập khí phiền não, làm ngăn ngại trí toàn giác]
Âm sau, "gye" , có nghĩa là thành tựu tất cả những gì những gì cần thành tựu, nghĩa là có được trí toàn giác, là cái trí biết đúng và biết khắp cả, đầy đủ mọi thiện đức không thiếu thứ chi.
Vậy Phật, hay Sangye, có nghĩa là tâm giác ngộ, hay là người giác ngộ, rốt ráo đoạn diệt mọi chướng ngại, thành tựu mọi thiện đức.
Phẩm chất
Đức Phật như vậy có đủ tám phẩm chất như sau:
(Phật) 1. Tự Tánh Thân: Svabhavakaya
Phẩm chất thứ nhất, là bản tánh tự nhiên thanh tịnh, thoát mọi ô nhiễm, không sinh diệt, không nhân duyên, là tánh không của tâm giác ngộ của Phật, còn gọi là niết bàn vô trú, là tự tánh thân.
Bản tánh tự nhiên thanh tịnh này là chân tánh của tâm Phật, và cũng là chân tánh của tâm của chúng sinh, là vì tánh không của tâm Phật và tánh không của tâm chúng sinh vốn đồng như nhau. Khác nhau chỉ ở chỗ tâm của chúng ta bị chướng ngại ngăn che mắt tuệ nên không có khả năng thấy được chân tánh của mình.
Vì chân tánh của tâm Phật và chân tánh của tâm chúng sinh giống nhau, cho nên chúng sinh có khả năng tu thành Phật. Và vì Phật đã thoát mọi chướng ngại còn chúng sinh thì còn bị đủ loại chướng ngại ngăn che, cho nên chúng sinh vẫn phải tu mới thành Phật.
Để hội nhập chân tánh, phải dựa vào tín tâm: một lòng hướng về Phật, hướng về chân tánh Tâm Phật vốn có trong tâm của mình. Tâm hướng Phật là điều giúp chúng ta hiển lộ chân tánh của mình. Cho nên cần hiểu rõ phẩm chất thứ nhất này của Phật để hiểu rằng bản tánh tâm mình và bản tánh tâm Phật vốn không khác, từ đó có được niềm tin xác quyết là mình có thể thành Phật, tự tin nơi bản tánh của tâm mình để mà khởi chí nguyện muốn thành Phật.
(Phật) 2. Trí Pháp Thân: Jnana-Dharma-kaya
Phẩm chất thứ hai, là trạng thái tách lìa chướng ngại ô nhiễm của tâm Phật. Vì tách lìa mọi chướng ngại ô nhiễm, nên tâm Phật tỏa ra cùng khắp không ngăn ngại. Biết đúng, đủ, cùng khắp, nhiệm vận hoạt dụng, không chút dụng công.
Nói nhiệm vận hoạt dụng là nghĩa gì? Thầy Kirti Tsenshab Rinpoche giảng trong Uttaratantra nói rằng, ví dụ chúng ta khi muốn làm một việc gì thì phải suy nghĩ, quyết định, rồi thực hiện v.v... làm một việc nhỏ cũng cần rất nhiều giai đoạn, nhiều công sức. Còn Tâm Phật vì không còn ngăn ngại, nên việc Phật làm luôn tự nhiên không gián đoạn, không tác ý, không khởi cộng, tự động và tức khắc xong ngay. Vì vậy mà gọi là nhiệm vận hoạt dụng.
Khác với phẩm chất thứ nhất, phẩm chất thứ hai này do nhân duyên mà có. Nhân duyên như thế nào? Bồ tát tận cùng địa vị (địa thứ 10) nhập đại định, quán tánh không, cho đến khi trí chướng vi tế cuối cùng tan biến hết, vào ngay thời điểm đó, từ điểm tâm thức chúng sanh cuối cùng trong dòng tâm thức của đại bồ tát đoạn dứt, chuyển thành trí Phật. Ví như quét nhà, còn bụi thì còn quét, hết bụi thì nhà sạch. Tương tự như vậy, chướng ngại xả bỏ trọn vẹn rồi, cái còn lại là trạng thái vắng bặt mọi chướng ngại ô nhiễm. Trạng thái sau khi dẹp sạch mọi chướng ngại, đó chính là Trí Pháp Thân, là phẩm chất thứ hai nói ở đây..
(Phật) 3. Không thể từ ngoài mà biết – sangye nyi rang
Phẩm chất thứ ba, đó là Phật thì không thể nghĩ bàn [bất khả tư nghì]. Có nghĩa là:
- không thể dùng ngôn từ giải thích
- không thể dựa vào tri kiến phàm phu, hay dựa vào khái niệm, để mà hiểu
- chỉ có Phật mới có thể biết đúng như sự thật
Nói cách khác, Tâm giác ngộ của Phật, chúng ta không thể chứng biết bằng cách nghe người khác nói, hay là học hỏi tư duy. Không thể dựa vào văn tuệ, tư tuệ để mà chứng biết, mà bắt buộc phải nhờ tu tuệ, nghĩa là phải nhập định, nhiếp tâm quán tánh không, quán chân tánh của tâm, rồi từ trong định quán tánh không mà chứng biết.
Ba phẩm chất nói trên của Phật (1, 2, 3) đều là Tự Lợi.
Ba phẩm chất tiếp theo đây của Phật, 4, 5, 6, đều là Lợi Tha .
(Phật) 4. Đại Trí
Trí Phật có nghĩa là trí toàn giác, bao gồm:
- trí biết chân tánh của vạn vật
- trí biết tướng hiện qui ước của sự vật
Trí toàn giác là trí biết đúng và khắp. Nghĩa là sự thật như thế nào thì biết hết tất cả, và biết đúng như sự thật. Với cái trí như vậy, Phật biết rõ chúng sinh cần gì để có thể hướng dẫn chúng sinh thoát khổ một cách hữu hiệu.
(Phật) 5. Đại Bi
Khi còn tu học, Phật đã vì tất cả chúng sinh mà phát tâm nguyện muốn tu thành Phật, cho nên khi thành Phật, tâm Bi là một phẩm chất luôn có, với chức năng hướng dẫn chúng sinh trên mọi bước đường tu cứu cánh và qui ước.
(Phật) 6. Đại Lực
Bao gồm lực của Trí và của Bi. Lực này có khả năng bẻ gãy chuỗi 12 duyên khởi, phá tận gốc rễ nhiễm tâm và vô minh.
Tiếp theo là hai phẩm chất nền tảng của 6 cái trên
(Phật) 7. Tự Lợi
Phẩm chất thứ bảy là Tự Lợi, bao hàm ba phẩm chất 1-2-3.
Vì 1, 2, 3 đều là Pháp Thân, là chân tánh của tâm Phật, có khả năng tự lợi.
(Phật) 8. Lợi Tha
Phẩm chất thứ 8 là Lợi Tha, bao hàm ba phẩm chất 4-5-6.
Đây là Sắc Thân có khả năng tác thành cho chúng sinh, mang lợi ích cho người khác.
Ghi chú:
- Pháp thân là Dharmakaya, bao gồm Tự Tánh Thân (Svabhavakaya) và Trí Pháp Thân (Jnana-Dharma-Kaya),
- Sắc Thân là Rupakaya, thân có sắc tướng, bao gồm Thọ Dụng Thân (Sambhogakaya, còn gọi là Báo Thân), và Biến Hóa Thân (Nirmanakaya, còn gọi là Hóa thân hay Ứng thân)
Như vậy 8 phẩm chất của Phật, 3 cái đầu ứng vào với Pháp Thân, ba cái sau ứng vào với Sắc Thân, đầy đủ tính tự lợi, lợi tha. Trong tâm của Phật,có đại bi hướng về tất cả chúng sinh, nên mọi điều Phật làm, đều là vì chúng sinh; lại có đại trí, là trí toàn giác biết đúng và đủ, nên Phật có khả năng chỉ cho chúng sinh biết điều gì cần bỏ, điều gì cần theo. Vì có đại bi và đại trí nên Pháp của Phật dạy là điều chắc thật, không hư ngụy, không sai lầm. Đức Phật như vậy được gọi là đấng Thế Tôn, Bhavagan, xứng đáng cho chúng ta tin tưởng, nương dựa.
PHÁP
Định nghĩa
Pháp là sự trong sáng và thanh tịnh trong tâm đấng giác ngộ. Trong sáng có nghĩa là viên mãn mọi tánh đức, và thanh tịnh là đoạn diệt mọi chướng ngại nhiễm tâm.
Phẩm chất
Pháp có 8 phẩm chất như sau
(Pháp) 1. Không thể nghĩ
Pháp vượt ngoài phạm trù tư duy suy nghĩ. Nghĩa là khi chúng ta muốn quán xét về chân tướng của sự vật, xem có phải là
- có hiện hữu, hay là
- không hiện hữu, hay là
- vừa có vừa không có, hay là
- không phải vừa có vừa không có
xét như vậy, vẫn không thể tìm ra chân tướng, cho nên mới nói Pháp thì không thể tư duy.
(Pháp) 2. Không thể bàn
Pháp thì vượt ngoài phạm trù của khái niệm, ý tưởng, chữ nghĩa, mô tả, không thể dùng lời nói để diễn tả cho chính xác đúng như sự thật.
(Pháp) 3. Không đến từ ngoài
Pháp chỉ có thể thấy đúng như sự thật qua kinh nghiệm thực chứng của của đấng giác ngộ, vượt ngoài mọi phạm trù đối đãi phân biệt cho nên không thể đến từ bên ngoài, chỉ thân chứng mới có thể biết đúng như sự thật. .
Ba phẩm chất nói trên của Pháp (1, 2, 3) đều là diệt đế
Ba phẩm chất tiếp theo đây của Pháp (4, 5, 6), đều là đạo đế
(Pháp) 4. Trong [Tịnh]
Pháp vốn trong. Trong vì bản chất vốn tự nhiên trong. Chỉ cần dứt ô nhiễm là tánh trong hiển lộ. Phẩm chất này sát theo nguyên văn gọi là trí giác vô cấu [stainless exalted wisdom]
(Pháp) 5. Sáng [Chiếu]
Pháp vốn sáng. Sáng vì không ngăn ngại, nên chiếu soi khắp cả. Nói khắp cả, có nghĩa là soi chiếu hết thảy các pháp thâm sâu, thấy rõ chân tánh của thực tại (là tánh không), nói cách khác, thấy đúng sự thật; và cũng soi chiếu hết thảy các pháp quảng đại, thấy rõ tướng hiện phong phú của vạn pháp, nói cách khác, thấy đủ và khắp.
(Pháp) 6. Hóa giải
Pháp vốn có khả năng hóa giải ba chất độc tham sân và si.
Từ tâm chúng sinh cho đến tâm Phật đà, người tu cần qua năm chứng đạo.
Mỗi chứng đạo có những chướng ngại nào cần quét, Pháp sẽ giúp quét sạch. Vì vậy mà nói Pháp có khả năng hóa giải.
Tiếp theo là hai phẩm chất nền tảng của 6 cái trên
7. Diệt Đế
Bao gồm ba phẩm chất 1, 2, 3 của Pháp.
Đây là trạng thái khách thể của tâm sau khi đoạn diệt toàn bộ mọi chướng ngại (phiền não chướng và trí chướng). Nói " khách thể", là tạm dùng chữ để diễn tả trạng thái đạt đến sau khi đoạn diệt nhị chướng. [objective state]
8. Đạo Đế
Bao gồm ba phẩm chất 4, 5, 6, của Pháp.
Đây là cái tâm chủ thể sau khi đoạn diệt nhị chướng. Nói "chủ thể" cũng là tạm dùng chữ để diễn tả cái tâm làm nhân tố tách lìa chướng ngại. [subjective mind]
Pháp có tám phẩm chất quí hiếm như vậy. Cần tìm hiểu cho sâu cho tận tường, để có thể khởi tâm qui y thuần tịnh nơi Pháp.
TĂNG
Định Nghĩa
Nguyên văn tiếng Tạng gọi Tăng là "Gedun"
"Ge" nghĩa là tốt lành, thiện, ứng vào Phật quả. "Dun" nghĩa là tín tâm, hướng về.
Vậy có thể nói định nghĩa của Tăng là những bậc thượng nhân hướng về thượng pháp.
Tăng như vậy phải là hành giả Đại thừa, từ Kiến Đạo trở lên.
Giải thích thêm:
Chứng đạo có 5, Tích Lũy Đạo, Gia Hành Đạo, Kiến Đạo, Tu Tập Đạo, Vô học đạo.
Năm chứng đạo, Đại thừa và Thanh Văn thừa đều có, và đều khác nhau. Ở đây là nói đến kiến đạo trong Đại thừa.
Hành giả Đại thừa ở giai đoạn gia hành đạo, nhập định quán vô ngã. Vô ngã có nhiều mức độ, ở đây là nói đến tâm vô minh căn bản, bẩm sinh chấp có một thực tại khách quan độc lập và cố định. Vô ngã như vậy bao gồm vô nhân ngã và vô pháp ngã, là tánh không của Đại thừa. Hành giả nhập định quán tánh không như vậy, đến khi thấy được tánh không qua kinh nghiệm trực chứng, ngay thời điểm ấy bước vào kiến đạo, nhập địa bồ tát thứ nhất. Người tu như vậy thuộc về Tăng Bảo
Bồ tát vào kiến đạo vì đã chứng được tánh không, cho nên đã nắm được liều thuốc hóa giải vô minh căn bản, có khả năng hóa giải chướng ngại (phiền não chướng và trí chướng), không còn thoái chuyển, vì vậy mà gọi là bậc thượng nhân, thuộc hàng Tăng bảo. Tuy nhiên, có thuốc hóa giải nhưng vẫn chưa phải là hóa giải được cả, phải từng phần hóa giải kể từ Kiến đạo cho đến địa vị Phật thì hóa giải trọn vẹn. Vì vậy tám phẩm chất của Tăng Bảo, Phật có được toàn phần, còn các bậc thượng nhân kiến đạo đại thừa chỉ mới có từng phần.
Nói về Tăng Bảo cứu cánh và Tăng Bảo qui ước: Tăng Bảo qui ước là những bậc thượng nhân, bồ tát từ kiến đạo trở lên. Còn Tăng Bảo cứu cánh, thì không phải ứng vào con người, mà là ứng vào trạng thái tối hảo của tâm thức, là diệt đế và đạo đế trong tâm Phật, nói cách khác, là trạng thái tâm mà tất cả những gì cần đoạn diệt đều đã đoạn diệt, tất cả những gì cần viên thành thì đều đã viên thành.
Phẩm chất
Tám phẩm chất của Tăng như vậy có thể qui nạp thành hai loại:
Rigpa: phẩm chất giác ngộ / chứng biết / viên thành
Trolwa: phẩm chất xả bỏ / đoạn diệt / siêu thoát
(Tăng) 1. Chứng Chân đế (chân lý cứu cánh, đây là cảnh giới chân thật vạn pháp)
Là trí thấy được chân tướng của thực tại, trực chứng tánh không. Sự vật vốn hiện hữu như thế nào thì thấy đúng như vậy.
Thấy được như vậy, là vì 1/ tâm thể vốn tự nhiên trong sáng, và 2/ nhiễm tâm vốn không tự tánh, tách lìa khỏi tâm thể.
(Tăng) 2. Chứng Tục đế (chân lý qui ước, đây là cảnh giới phong phú của tướng hiện)
Thấy được Tục đế nên thấy được tiềm năng có thể thành Phật của tất cả chúng sinh, thấy được Phật tánh trong dòng tâm thức của chúng sinh.
(Tăng) 3. Chứng tâm bản lai thanh tịnh
Thấy được chân tánh của chúng sinh, thấy chúng sinh vốn tự nhiên thanh tịnh, sung mãn mọi tiềm năng chuyển trí phàm phu thành trí giác siêu việt của bậc thượng nhân..
Ba phẩm chất nói trên của Tăng (1, 2, 3) là nói đến khía cạnh giác ngộ của tâm Phật
Ba phẩm chất tiếp theo đây của Tăng (4, 5, 6) là nói đến khía cảnh xả bỏ (siêu thoát) của tâm Phật..
Hành giả nhập định trực chứng tánh không, từng phần đoạn diệt cho đến dứt hết mọi chướng ngại.
(Tăng) 4. Đoạn diệt tham chướng
Là xả bỏ toàn bộ mọi tâm lý phiền não xáo trộn
(Tăng) 5. Đoạn diệt trí chướng
Là xả bỏ toàn bộ những gì khiến ngăn ngại áng ngữ trí toàn giác
(Tăng) 6. Đoạn diệt tiểu nguyện chướng
Là xả bỏ tâm nguyện vị kỷ, vì mình mà tu. Phật đà và các vị bồ tát từ địa thứ 8 trở lên thì không còn vướng vào loại chướng ngại này nữa.
Tiếo Theo là hai phẩm chất nền tảng của sáu cái trên
(Tăng) 7. Giác ngộ
Là Rigpa, nền tảng của phẩm chất 1, 2, 3
(Tăng) 8. Siêu thoát
Là Trolwa , nền tảng của phẩm chất 4, 5, 6
Vì Tăng có những phẩm chất siêu việt như vậy, nên xứng đáng cho mình nương dựa.
Tiếp theo thầy Dawa giảng thêm về Phật qua cách trình bày khác, nói về những phẩm chất tuyệt bậc của Phật qua Thân, Khẩu và Ý. Thầy chỉ nói sơ lược, thân Phật có 32 tướng hảo chính, 80 tướng phụ, biểu hiện con người phi thường. Khẩu Phật có 60 diệu âm, ví dụ có khi Phật thuyết pháp thì bất kể người căn cơ cao thấp gì cũng đều được lợi ích. Ý Phật có 10 lực, 4 vô úy, biết rõ căn cơ chúng sinh, biết nói ngôn ngữ của chúng sinh, đại từ đại bi đại hỉ đại xả v.v...
Thầy khuyến khích học trò ra công tìm hiểu càng rõ càng tốt về Phật, nếu không thể biết hết mọi chi tiết về Thân Khẩu Ý của Phật, ít ra cũng phải biết rõ về 8 phẩm chất nói ở đây, về Tự Tánh Thân, Trí Pháp Thân, về sự không thể nghĩ bàn, về Đại Trí, Đại Bi và Đại Lực của Phật. Nếu đối tượng qui y không có Trí, thì làm sao biết chúng ta cần gì để mà giúp? Nếu không có Bi, thì đã chẳng muốn giúp chúng ta, nếu không có Lực, thì đã chẳng có khả năng giúp. Nếu đối tượng qui y thiếu những phẩm chất nói trên, thì qui y chỉ hoài công. Vì vậy phải tìm hiểu cho rõ về đối tượng mà chúng ta qui y. Qui y Phật, là qui y 1 đức Phật với đầy đủ những phẩm chất như vậy, rất đặc biệt, quí hiếm, xứng đáng cho chúng ta qui y, vì không hư ngụy, không giả dối, đầy đủ khả năng.
Cuối buổi giảng thầy đọc câu kệ thỉnh Phật, ý nghĩa như sau:
Với Đại Trí, xin Phật thương tưởng đến con
Với Đại Bi, xin Phật giữ gìn cho con
Với Đại Lực, xin Phật bảo vệ chở che con.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.15/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment