Phần hai:
Tuệ phát sinh do tu tập
Thiền Định và Tuệ Quán
I. Thiền Định
1. Tuệ của thiền định
2. Ánh sáng tâm trí
3. Các pháp chân đế: 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa), Sát-na tâm và các lộ trình của tâm
4. Sự cần thiết của thiền định
5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán
6. Giải thích một số các chất vấn: Visuddhimagga, Jhāna, Cận định, Sát-na định, Ly dục ly ác pháp, định thế gian (hiệp thế) và xuất thế gian (thánh định).
7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rõ biết”
8. Đức Phật đã tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
2. Nguyên lý của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti, seeing as it is)
3. Thế nào là “hành thâm bát nhã”.
4. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
5. Bốn đạo lộ
6. Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
7. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học: Quy nạp và Diễn dịch
1. Tuệ của thiền định
2. Ánh sáng tâm trí
3. Các pháp chân đế: 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa), Sát-na tâm và các lộ trình của tâm
4. Sự cần thiết của thiền định
5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán
6. Giải thích một số các chất vấn: Visuddhimagga, Jhāna, Cận định, Sát-na định, Ly dục ly ác pháp, định thế gian (hiệp thế) và xuất thế gian (thánh định).
7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rõ biết”
8. Đức Phật đã tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
2. Nguyên lý của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti, seeing as it is)
3. Thế nào là “hành thâm bát nhã”.
4. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
5. Bốn đạo lộ
6. Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
7. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học: Quy nạp và Diễn dịch
*****
I. Thiền
Định
Các tôn giáo ở Ấn Độ đã tu tập và tích lũy một kho tàng
kiến thức to thật lớn về các loại Yoga và thiền định. Bản thân Đức Phật cũng đã
tu tập nhiều loại thiền định Bà La Môn trong sáu năm sống giữa các đạo sĩ vùng
Bắc Ấn. Thiền Định là nền tảng cho mọi khuynh hướng phát triển tâm linh từ xưa
cho đến nay.
1. Tuệ của
thiền định
Trái với một số quan điểm cho rằng thiền định không phát
sinh ra Tuệ, sự thực là Thiền Định có mang lại những tuệ nhất định, mà trong Đạo
Phật gọi là Jhāna-ñāṇa, tức tuệ của Jhāna (tuệ của thiền định). Khi nhập vào
an-chỉ định (appana samadhi), chủ thể nhận thức và đối tượng được nhân thức trở
thành một [17]. Có người đã nhân ra ngay trong chánh định, một tuệ về trạng thái
bất nhị. Chính cái cảm giác “một là tất cả, tất cả là một”, khiến các đạo sĩ đắc
định thỏa mãn, tự tin rao giảng về một sự “giải thoát vĩ đại”. Thực ra, “Một là
tất cả, Tất cả là một” chỉ có nghĩa là “Tiểu ngã là Đại ngã, Đại ngã là Tiểu
ngã” đó là một giải thoát của cái tôi nhỏ bé đến cái tôi rộng lớn hơn trong các
tầng trời mà chưa phải là giải thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, theo cái nhìn của
Đạo Phật. Mahathera Henepola Gunaratana trong cuốn “Con đường Thiền Chỉ và Thiền
Quán” (bản dịch của Ỳ Khưu Pháp Thông) đã nhận định:
“Trái với các bậc Alahán Tuệ giải thoát, những vị Alahán Câu phần giải thoát hưởng được hai loại giải thoát. Nhờ thành thục các thiền chứng vô sắc họ được giải thoát khỏi sắc thân (rūpakāya) hay thân vật lý, nghĩa là các vị có thể an trú trong các thiền tương ứng với các cảnh giới vô sắc ngay trong kiếp sống này. Nhờ chứng Alahán quả, các vị được giải thoát khỏi thân tâm lý hay danh thân (nāmakāya), tức ngay trong hiện tại thoát khỏi mọi phiền não và bảo đảm sự giải thoát tối hậu khỏi các sanh hữu tương lai. Các vị Alahán tuệ giải thoát chỉ có được loại giải thoát thứ hai trong hai loại giải thoát này mà thôi.”
Hơn thế nữa, thiền định khi phát triển đúng cách có khả năng đem lại năm tuệ đặc biệt gọi là “thắng trí” tức thần thông. Trong lịch sử, Đức Phật đã không hài lòng với những tuệ và thần thông phát sinh từ các tầng thiền định nên Ngài đã phải thực hiện thêm một phương pháp riêng gọi là Tuệ Quán (Vipassanā). Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật đã loại trừ thiền định, vốn là công phu trong sáu năm tu tập của ngài, mà chỉ có nghĩa là ngài đã cộng thêm vào công phu thiền định, một phương pháp tu tập gọi là tuệ quán, để đạt đến giải thoát tối thượng.
“Trái với các bậc Alahán Tuệ giải thoát, những vị Alahán Câu phần giải thoát hưởng được hai loại giải thoát. Nhờ thành thục các thiền chứng vô sắc họ được giải thoát khỏi sắc thân (rūpakāya) hay thân vật lý, nghĩa là các vị có thể an trú trong các thiền tương ứng với các cảnh giới vô sắc ngay trong kiếp sống này. Nhờ chứng Alahán quả, các vị được giải thoát khỏi thân tâm lý hay danh thân (nāmakāya), tức ngay trong hiện tại thoát khỏi mọi phiền não và bảo đảm sự giải thoát tối hậu khỏi các sanh hữu tương lai. Các vị Alahán tuệ giải thoát chỉ có được loại giải thoát thứ hai trong hai loại giải thoát này mà thôi.”
Hơn thế nữa, thiền định khi phát triển đúng cách có khả năng đem lại năm tuệ đặc biệt gọi là “thắng trí” tức thần thông. Trong lịch sử, Đức Phật đã không hài lòng với những tuệ và thần thông phát sinh từ các tầng thiền định nên Ngài đã phải thực hiện thêm một phương pháp riêng gọi là Tuệ Quán (Vipassanā). Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật đã loại trừ thiền định, vốn là công phu trong sáu năm tu tập của ngài, mà chỉ có nghĩa là ngài đã cộng thêm vào công phu thiền định, một phương pháp tu tập gọi là tuệ quán, để đạt đến giải thoát tối thượng.
2. Ánh sáng
tâm trí
Bản chất của thiền định (Jhāna) trong Phật Giáo Nguyên
Thủy là sự vắng lặng và tập trung. Nhưng bên cạnh đó, một công năng to lớn của
thiền định từ lâu không được bàn tới, là tạo ra “ánh sáng tâm trí”. Các đạo sĩ
Ấn Độ rất quen thuộc với các loại thiền định và ánh sáng tâm trí, ví dụ hiện nay
giáo phái San Mat vẫn đang tu tập ánh sáng này. Nếu Đạo Phật còn sống trên đất
Ấn có lẽ Phật tử sẽ không ngạc nhiên gì nhiều với cái gọi là “ánh sáng tâm trí”.
Rất tiếc Đạo Phật lại không còn được tồn tại trên chính vùng đất đã sản sinh ra
nó. Khi đi ra ngoài Ấn Độ, sự thực hành thiền định trong Đạo Phật ít đi, lâu
ngày “ánh sáng tâm trí” trở nên một điều xa lạ. Có thể hiểu “ánh sáng’ ở đây
theo cả hai nghĩa, nghĩa bóng hoặc nghĩa đen. Ajhan Brahm đã cố gắng mô tả loại
ánh sáng này trong cuốn sách nhỏ “The Jhāna” [18]. Định tâm mạnh mẽ sẽ tạo ra
ánh sáng mạnh mẽ, và chính nhờ ánh sáng ấy mà hành giả có thể đi sâu hay thể
nhập vào sự thực chân đế (paramattha sacca). Ánh sáng tâm trí đã được Đức Phật
giải thích trong Tăng Chi Kinh, chương nói về Hào quang (ābhāvagga) như
sau:
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại hào quang. Thế nào là bốn? Hào quang của mặt trăng, hào quang của mặt trời, hào quang của lửa và hào quang của trí tuệ (paññābhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại ánh sáng rực rỡ. Thế nào là bốn? Ánh sáng rực rỡ của mặt trăng, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh sáng rực rỡ của lửa, ánh sáng rực rỡ của trí tuệ (paññā pabhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh sáng của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh sáng của trí tuệ (paññā-āloko).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại sáng chói. Thế nào là bốn? Sự sáng chói của mặt trời, sự sáng chói của mặt trăng, sự sáng chói của lửa, sự sáng chói của trí tuệ (paññā-obhāso).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại rực rỡ. Thế nào là bốn? Sự rực rỡ của mặt trăng, sự rực rỡ của mặt trời, sự rực rỡ của lửa, sự rực rỡ của trí tuệ (paññā-pajjoto) [AN. 11.139]
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại hào quang. Thế nào là bốn? Hào quang của mặt trăng, hào quang của mặt trời, hào quang của lửa và hào quang của trí tuệ (paññābhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại ánh sáng rực rỡ. Thế nào là bốn? Ánh sáng rực rỡ của mặt trăng, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh sáng rực rỡ của lửa, ánh sáng rực rỡ của trí tuệ (paññā pabhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh sáng của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh sáng của trí tuệ (paññā-āloko).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại sáng chói. Thế nào là bốn? Sự sáng chói của mặt trời, sự sáng chói của mặt trăng, sự sáng chói của lửa, sự sáng chói của trí tuệ (paññā-obhāso).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại rực rỡ. Thế nào là bốn? Sự rực rỡ của mặt trăng, sự rực rỡ của mặt trời, sự rực rỡ của lửa, sự rực rỡ của trí tuệ (paññā-pajjoto) [AN. 11.139]
3. Các pháp
chân đế
Ánh sáng của Định của Định rất mạnh mẽ, đặc biệt là nó
có khả năng “nhận biết rõ ràng” hoặc “nhận biết như thực” những thực thể vi tế
gọi là “các pháp chân đế” (paramattha dhamma). Đây là sự thực nội hàm trong mọi
hiện hữu mà tri giác bình thường không nắm bắt được. Bằng thiền quán kết hợp với
năng lực của cận định khi vừa xuất ra từ chánh định, vị thiền sư nhận biết, hay
đôi khi còn gọi là “nhìn thấy”, cơ thể vật chất (sắc, rūpa) và tâm (danh, citta)
của chính mình như sau:
· 28 loại sắc pháp và các
tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)
Ánh sáng của Định của Định rất mạnh mẽ, đặc biệt là nó
có khả năng “nhận biết rõ ràng” hoặc “nhận biết như thực” những thực thể vi tế
gọi là “các pháp chân đế” (paramattha dhamma). Đây là sự thực nội hàm trong mọi
hiện hữu mà tri giác bình thường không nắm bắt được. Bằng năng lực đặc biệt của
tâm khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc khi vừa xuất ra khỏi
cận định (upacāra samādhi), vị thiền sư nhận biết, hay đôi khi còn gọi là “nhìn
thấy”, cơ thể vật chất (sắc, rūpa) và tâm (danh, citta) của chính mình như
sau:
· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)
Thế giới vật chất thực sự không có tính khối (thể tích), mà được cấu tạo bởi các thành phần cơ bản gọi là “sắc pháp”. Có 28 loại sắc pháp căn bản. Các sắc pháp lại tập hợp chung với nhau thành các tổ hợp Kalapa (rūpa-kalāpa). Có ba loại tổ hợp rūpa-kalāpa, một loại có 8 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp tám”, một loại có 9 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp chín”, và một loại có 10 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp mười”:
1 – Các tổ hợp tám (sắc) – aṭṭhaka (tám sắc căn bản)
2 – Các tổ hợp chín (sắc) – navaka (tám sắc căn bản cộng với sắc thứ chín)
3 – Các tổ hợp mười (sắc) – dasaka (chín sắc cộng với sắc thứ mười)
Nói chung sắc thân của chúng ta bao gồm ba loại tổng hợp sắc này trộn lẫn với nhau theo những cách khác nhau vậy thôi [19].
· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)
Thế giới vật chất thực sự không có tính khối (thể tích), mà được cấu tạo bởi các thành phần cơ bản gọi là “sắc pháp”. Có 28 loại sắc pháp căn bản. Các sắc pháp lại tập hợp chung với nhau thành các tổ hợp Kalapa (rūpa-kalāpa). Có ba loại tổ hợp rūpa-kalāpa, một loại có 8 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp tám”, một loại có 9 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp chín”, và một loại có 10 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp mười”:
1 – Các tổ hợp tám (sắc) – aṭṭhaka (tám sắc căn bản)
2 – Các tổ hợp chín (sắc) – navaka (tám sắc căn bản cộng với sắc thứ chín)
3 – Các tổ hợp mười (sắc) – dasaka (chín sắc cộng với sắc thứ mười)
Nói chung sắc thân của chúng ta bao gồm ba loại tổng hợp sắc này trộn lẫn với nhau theo những cách khác nhau vậy thôi [19].
Tổ hợp tám sắc: không có sự sống
Tổ hợp chín sắc: có sự sống (vì có sắc mạng căn)
Tổ hợp mười sắc: có sự sống và có rất nhiều loại vì yếu tố thứ10 gồm nhiều loại khác nhau.
Nhận biết vật chất, ở mức độ các sắc pháp và tổ hợp Kalāpa, gọi là… thấy “như thực”. Cách thấy biết và phân tích vật chất ra thành nhiều thành phần cơ bản trong Đạo Phật, rất giống như cách khoa học phân tích vật chất gồm các nguyên tử, nguyên tố và hợp chất khác nhau. Các thiền sư nhìn thấy các tổ hợp kalāpa và các sát na tâm sinh ra rồi diệt đi rất nhanh, nên suy ra các pháp chân đế được nhìn thấy có thể là các thành phần còn nhỏ hơn nguyên tử, tức là ở cấp độ hạt. Mới đây khoa học cũng tìm thấy các hạt Higgs là các hạt vừa sinh ra liền biến mất! Trong tương lai, cấu tạo vật chất theo mô hình kalāpa cũng có khả năng gợi ý một hướng phát triển mới cho khoa học..
Tổ hợp chín sắc: có sự sống (vì có sắc mạng căn)
Tổ hợp mười sắc: có sự sống và có rất nhiều loại vì yếu tố thứ10 gồm nhiều loại khác nhau.
Nhận biết vật chất, ở mức độ các sắc pháp và tổ hợp Kalāpa, gọi là… thấy “như thực”. Cách thấy biết và phân tích vật chất ra thành nhiều thành phần cơ bản trong Đạo Phật, rất giống như cách khoa học phân tích vật chất gồm các nguyên tử, nguyên tố và hợp chất khác nhau. Các thiền sư nhìn thấy các tổ hợp kalāpa và các sát na tâm sinh ra rồi diệt đi rất nhanh, nên suy ra các pháp chân đế được nhìn thấy có thể là các thành phần còn nhỏ hơn nguyên tử, tức là ở cấp độ hạt. Mới đây khoa học cũng tìm thấy các hạt Higgs là các hạt vừa sinh ra liền biến mất! Trong tương lai, cấu tạo vật chất theo mô hình kalāpa cũng có khả năng gợi ý một hướng phát triển mới cho khoa học..
· Sát-na tâm và các lộ
trình của tâm
Năng lực của thiền quán khi phối hợp với chánh định cũng
có thể nhận biết và phân biệt từng sát-na tâm cụ thể cũng như từng lộ trình của
tâm (cittavīthi). Abhidhamma mô tả chi tiết 121 tâm và chi tiết các
giai đoạn của các lộ trình tâm:
- Tri giác qua năm giác quan (năm môn) đã được mô tả đến từng sát-na tâm, qua một tiến trình gọi là ngũ môn lộ trình tâm. Theo sơ đồ bên dưới, Tri giác qua thị giác sẽ là một loạt tâm xuất hiện theo đúng một qui trình không đổi là 17 tâm liên tục kế tiếp nhau gọi là một lộ trình tâm (hay qui trình tâm). Đối với thị giác thì đây gọi là Nhãn môn lộ trình tâm.
- Tri giác qua năm giác quan (năm môn) đã được mô tả đến từng sát-na tâm, qua một tiến trình gọi là ngũ môn lộ trình tâm. Theo sơ đồ bên dưới, Tri giác qua thị giác sẽ là một loạt tâm xuất hiện theo đúng một qui trình không đổi là 17 tâm liên tục kế tiếp nhau gọi là một lộ trình tâm (hay qui trình tâm). Đối với thị giác thì đây gọi là Nhãn môn lộ trình tâm.
- Ý thức (có nhiều loại) ngang qua ý môn cũng có thể
được các thiền sư quán sát “như thực” trong từng sát na tâm, qua những tiến
trình gọi là Ý môn lộ trình tâm.
4. Sự cần
thiết của thiền định:
Bằng thiền quán, với năng lực của tâm khi vừa xuất ra
khỏi an-chỉ định (appanā-samādhi) hay cận định (upacāra samādhi), thiền sư có
thể biết và thấy các thành phần vi tế của tâm và vật, tức các pháp gọi là chân
đế. Sự thấy rõ các pháp chân đế là điều cần thiết để thực hiện thiền quán
(Vipassanā) một cách đúng đắn. Thế nào là đúng đắn? Trong suốt các bộ kinh, Đức
Phật đã nhắc lại nhiều lần phải nhận biết, phải nhìn giáo pháp của ngài một cách
như thật rõ biết với nghĩa “đen”(literal) của nó:
-
Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rõ biết
(pajānāti). Và như thật rõ biết gì?
Như thật rõ biết: "Ðây là Khổ". Như thật rõ biết: "Ðây
là Khổ tập". Như thật rõ biết: "Ðây là Khổ diệt". Như thật rõ biết: "Ðây là Con
Ðường đưa đến Khổ diệt".
Đã qua một thời gian rất lâu, ý nghĩa “như thật rõ biết”
của Đức Phật đã không còn thật rõ biết nữa. Đa số hiểu lầm “như thật rõ biết” là
sự hiểu biết bằng các khái niệm của trí óc. Ngay đây, chúng ta thấy rằng phương
pháp luận phân tích trong Đạo Phật, có phần tương đồng với phương pháp luận phân
tích của khoa học. Mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới, đều được khoa học cắt
chẻ chi li. Dĩ nhiên cũng phối hợp với sự tổng hợp. Nếu vật chất không được biết
tới cấp độ nguyên tử và hạt cơ bản thì làm sao có điện học và điện tử học. Làm
sao ta có nền văn minh đồ sộ như ngày nay! Thứ nữa, những điều vừa trình bày ở
trên, cho thấy thiền định là năng lực cần thiết phải có để thực hiện các tuệ
minh sát, ngay cả đối với tuệ đầu tiên đó là Tuệ phân biệt Danh và Sắc. Không có
thiền định thì không có khả năng nhận biết các sự thực vi tế, các pháp chân đế,
do đó không thể thực hiện thành công thiền quán về các tuệ giải thoát! Sự cần
thiết của thiền định, chỉ mới vừa được nêu ra trong thời gian gần đây. Có một số
thiền sư khi thực hiện thiền quán phối hợp với chánh định, đã thành công đúng
như mô tả trong kinh điển và chú giải. Sự phục hồi giáo pháp nguyên thủy gồm đầy
đủ tam học Giới-Định- Tuệ, đang dựa vào kết luận rất quan trọng
này.
5. Đạo Phật
sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán
Có một điều rất thú vị, nếu ta lại so sánh phương pháp
“dùng Định để đạt Tuệ” với việc khoa học dùng các công cụ để đạt hiểu biết về
thế giới khách quan bên ngoài. Vì sự giới hạn của các giác quan, con người không
thể trải nghiệm “như thực” toàn bộ thế giới. Do đó để tìm hiểu thế giới chung
quanh cho sự phát triển khoa học, con người cần có các công cụ hổ trợ. Ví dụ,
thoạt đầu là kính hiển vi thô sơ để nhìn các sinh vật nhỏ, kính thiên văn để
nhìn các thiên thể xa v.v…khoa học bây giờ cần đến những công cụ tối tân hơn nữa
như kính hiển vi điện tử, các vệ tinh để thám sát, các kính viễn vọng to lớn như
Hubble được phóng trên quĩ đạo. Mọi ngành khoa học đều có những công cụ riêng,
để thực hiện nghiên cứu khoa học của riêng nó. Tương tự như vậy, vì trí óc người
tu bình thường không thể thám sát và nhìn thấy cấu tạo vi tế của vật chất (Sắc)
cũng như sự xuất hiện vi tế của tâm (Danh) nên phải cần có một năng lực đặc biệt
để quán sát được các pháp “như thực”, đó chính là thiền định.
Đối tượng của Tuệ Quán là các pháp “chân đế” (paramattha), tức là các vật chất rất vi tế, các hiện tượng sinh ra và diệt đi rất nhanh. Do đó Tuệ Quán rất cần năng lực “nhìn xuyên thấu” với “tốc độ cao” của thiền định để làm công cụ. Năng lực của Tuệ quán, phối hợp với tâm vừa xuất ra khỏi an-chỉ định, có thể nhìn thấy rõ Danh (các tâm) và Sắc (vật chất) ở cấp độ vi tế. Có nghĩa là người tu định có thể tri giác từng tâm và các qui trình tâm, ngay cả có thể thấy vật chất ở cấp độ các tổ hợp Kalapa (rūpa kalāpa) tức thành phần cơ bản của vật chất (theo cái nhìn của Định). Năng lực của định có thể quan sát được tính vô thường của ngũ uẩn, những điều mà trí óc bình thường (mind) không thể trải nghiệm trọn vẹn được. Đây là chức năng thật sự của thiền định có trong giáo pháp nguyên thủy. Tuy nhiên, sau một thời gian dài bỏ qua pháp tu thiền định, các trường phái Theravāda trở nên xa lạ với sức mạnh phi thường này của thiền định. Vai trò của thiền định trong tu tập của Đạo Phật mới chỉ được phục hồi và phổ biến trong những năm gần đây!
Có rất nhiều tu sĩ luôn đặt câu hỏi: Làm sao trong tình trạng tâm vắng lặng cố định mà lại quan sát được các hiện tượng tâm và quá trình tâm, những cái vốn luôn vận hành? Đây chỉ là một vấn đề kĩ thuật, nhưng kĩ thuật này đã thất lạc khi thiền định đã bị quên lãng trong một thời gian quá lâu! Tại thời điểm này, khi Đạo Phật nguyên thủy đột nhiên có dấu hiệu hồi sinh, một số không ít các thiền sư có chứng đắc thiền định đã chứng minh được rằng:
- Khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc cận định (upacāra samādhi), tâm có trạng thái đặc biệt mạnh mẽ. Với tâm này, thiền sư có thể quán sát các hiện tượng vi tế của thân và tâm ở mức độ chân đế (paramattha). Thấy các pháp chân đế như thực là điều mà từ lâu rồi ít có người tin. Bằng an-chỉ định của các bậc thiền, người tu trong đời nay đã có thể thực hiện được điều rất khó tin đó. Tùy theo xuất ra từ một bậc thiền cao hay thấp, mà sự quan sát trở nên mạnh mẽ, rõ ràng nhiều hay ít. Trước đây không ai tin rằng có thể kết hợp Cận định với thiền quán mà thường lý luận rằng chỉ có Sát na định (khaṇika samādhi) [20] mới có thể kết hợp với thiền quán. Thực hành thiền quán với năng lực của sát na định dần dần trở thành niềm tin truyền thống của hầu hết các trường phái Theravāda.
Trong cuộc sống phát triển như hiện nay rất khó tu tập thành công các bậc định (theo các chú giải thì ngay từ xưa các thiền định cũng rất khó thực hiện). Đối với một người tu mà không thể đạt được an-chỉ định (appanā-samādhi) của một bậc thiền nào thì Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đề nghị tuệ quán phải được kết hợp với một mức tối thiểu là cận định (upacāra samādhi) của một bậc định thấp nhất (sơ thiền). Hoặc nếu người tu không có khả năng tu tập bắt đầu với thiền định, thì người đó có thể chọn cách bắt đầu tu tập bằng thiền tứ đại (Catudhātu Vavatthana) [21] vì năng lực của thiền tứ đại cũng tương đương với mức cận định.
Sự phục hồi việc tu tập thiền định trong Đạo Phật, tạo ra một loạt các phản ứng (giống như là một phản ứng tự vệ) từ các các quan điểm cũ, tức quan điểm không ủng hộ thiền định. Vì thế rất có nhiều hoài nghi và chất vấn được đưa ra:
Đối tượng của Tuệ Quán là các pháp “chân đế” (paramattha), tức là các vật chất rất vi tế, các hiện tượng sinh ra và diệt đi rất nhanh. Do đó Tuệ Quán rất cần năng lực “nhìn xuyên thấu” với “tốc độ cao” của thiền định để làm công cụ. Năng lực của Tuệ quán, phối hợp với tâm vừa xuất ra khỏi an-chỉ định, có thể nhìn thấy rõ Danh (các tâm) và Sắc (vật chất) ở cấp độ vi tế. Có nghĩa là người tu định có thể tri giác từng tâm và các qui trình tâm, ngay cả có thể thấy vật chất ở cấp độ các tổ hợp Kalapa (rūpa kalāpa) tức thành phần cơ bản của vật chất (theo cái nhìn của Định). Năng lực của định có thể quan sát được tính vô thường của ngũ uẩn, những điều mà trí óc bình thường (mind) không thể trải nghiệm trọn vẹn được. Đây là chức năng thật sự của thiền định có trong giáo pháp nguyên thủy. Tuy nhiên, sau một thời gian dài bỏ qua pháp tu thiền định, các trường phái Theravāda trở nên xa lạ với sức mạnh phi thường này của thiền định. Vai trò của thiền định trong tu tập của Đạo Phật mới chỉ được phục hồi và phổ biến trong những năm gần đây!
Có rất nhiều tu sĩ luôn đặt câu hỏi: Làm sao trong tình trạng tâm vắng lặng cố định mà lại quan sát được các hiện tượng tâm và quá trình tâm, những cái vốn luôn vận hành? Đây chỉ là một vấn đề kĩ thuật, nhưng kĩ thuật này đã thất lạc khi thiền định đã bị quên lãng trong một thời gian quá lâu! Tại thời điểm này, khi Đạo Phật nguyên thủy đột nhiên có dấu hiệu hồi sinh, một số không ít các thiền sư có chứng đắc thiền định đã chứng minh được rằng:
- Khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc cận định (upacāra samādhi), tâm có trạng thái đặc biệt mạnh mẽ. Với tâm này, thiền sư có thể quán sát các hiện tượng vi tế của thân và tâm ở mức độ chân đế (paramattha). Thấy các pháp chân đế như thực là điều mà từ lâu rồi ít có người tin. Bằng an-chỉ định của các bậc thiền, người tu trong đời nay đã có thể thực hiện được điều rất khó tin đó. Tùy theo xuất ra từ một bậc thiền cao hay thấp, mà sự quan sát trở nên mạnh mẽ, rõ ràng nhiều hay ít. Trước đây không ai tin rằng có thể kết hợp Cận định với thiền quán mà thường lý luận rằng chỉ có Sát na định (khaṇika samādhi) [20] mới có thể kết hợp với thiền quán. Thực hành thiền quán với năng lực của sát na định dần dần trở thành niềm tin truyền thống của hầu hết các trường phái Theravāda.
Trong cuộc sống phát triển như hiện nay rất khó tu tập thành công các bậc định (theo các chú giải thì ngay từ xưa các thiền định cũng rất khó thực hiện). Đối với một người tu mà không thể đạt được an-chỉ định (appanā-samādhi) của một bậc thiền nào thì Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đề nghị tuệ quán phải được kết hợp với một mức tối thiểu là cận định (upacāra samādhi) của một bậc định thấp nhất (sơ thiền). Hoặc nếu người tu không có khả năng tu tập bắt đầu với thiền định, thì người đó có thể chọn cách bắt đầu tu tập bằng thiền tứ đại (Catudhātu Vavatthana) [21] vì năng lực của thiền tứ đại cũng tương đương với mức cận định.
Sự phục hồi việc tu tập thiền định trong Đạo Phật, tạo ra một loạt các phản ứng (giống như là một phản ứng tự vệ) từ các các quan điểm cũ, tức quan điểm không ủng hộ thiền định. Vì thế rất có nhiều hoài nghi và chất vấn được đưa ra:
6. Giải thích
một số các chất vấn
Visuddhimagga
Cuốn Thanh Tịnh đạo (Visuddhimagga) xuất hiện và được Theravada
bảo tồn cách đây 1500 năm. Đây là một trong những cuốn chú giải tin cậy bên cạnh
cuốn Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga). Thanh Tịnh Đạo mô tả rất rõ ràng về bản chất
cũng như cách tu tập hệ thống tám định Jhanas: Bốn định hữu sắc (rupa jhanas) và
bốn định vô sắc (arupa jhana). Bên cạnh đó, mô tả đạo lộ tu chứng qua bảy giai
đoạn thanh tịnh với sự nhấn mạnh vai trò thiền định và năng lực phi thường của
Jhana khi kết hợp với thiền quán. Thanh Tịnh Đạo Luận dĩ nhiên không phải là
quan điểm cá nhân của Ngài Buddhaghosa như những lời công kích. Tất cả kiến giải
của Thanh Tịnh Đạo luận được rút ra từ các kinh Nikaya, Phân Tích Đạo (Tiểu Bộ)
và Abhidhamma. Thời gian mới đây, khi có một số vị sư thực hành thành công đạo
lộ mà Thanh Tịnh Đạo đã mô tả, thì có một số nghi vấn được nêu lên:
Các tu sĩ đó có thực sự đắc định, đắc tuệ hay không? Làm sao kiểm chứng? (Vì từ rất lâu, không thấy có ai thành công trên đạo lộ này!). Theo giới luật, các tu sĩ sẽ không công bố các định chứng hay sự giác ngộ của mình cho những người khác, ngoại trừ với các bậc tôn túc có mưc độ tu tập cao hơn. Nếu tin vào Giới luật, nhất là giới không vọng ngữ của các tu sĩ, thì có lẽ không cần đến câu trả lời.
Các tu sĩ đó có thực sự đắc định, đắc tuệ hay không? Làm sao kiểm chứng? (Vì từ rất lâu, không thấy có ai thành công trên đạo lộ này!). Theo giới luật, các tu sĩ sẽ không công bố các định chứng hay sự giác ngộ của mình cho những người khác, ngoại trừ với các bậc tôn túc có mưc độ tu tập cao hơn. Nếu tin vào Giới luật, nhất là giới không vọng ngữ của các tu sĩ, thì có lẽ không cần đến câu trả lời.
Jhānas
“Jhāyati” là một động từ, có hai nghĩa: một là thiêu đốt phiền não, hai là gắn tâm sâu vào đối tượng thiền để thiêu đốt phiền não. Danh từ của jhayati là jhāna. Trong Kinh Pali, từ Jhana được phổ biến trong nhiều bài kinh. Ví dụ bài kinh Mahasaccaka, Trung Bộ, số 36:
- Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi – ‘abhijānāmi kho panāhaṃ pitu sakkassa kammante sītāya jambucchāyāya nisinno vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharitā.
- Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. (Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt)
Vì trong kinh (suttas) không có phần giảng dạy chi tiết về cách thực hiện jhana, cho nên Ngài Buddhaghosa đã phải chú giải về cách thực hiện Jhana trong cuốn chú giải Thanh Tịnh Đạo. Từ đây nảy sinh bất đồng, với ý kiến cho rằng jhana giảng theo ngài Buddhaghosa là không chắc đúng với cách dạy của Đức Phật, mà hiện nay còn thất lạc! Thực vậy nếu cách thực hiện Jhana theo Đức Phật còn tồn tại thì sẽ không nảy sinh vấn đề gì cả. Tại thời điểm này người tu chỉ có hai lựa chọn: Một là theo sự hướng dẫn của ngài Buddhaghosa. Hai là phải tự đi tìm lại cách thực hiện Jhana được cho là “nguyên thủy” hơn.
Ta thử nhìn lại Jhāna theo Thanh Tịnh Đạo qua hai phần: hình thức tu tập và nội dung trải nghiệm.
- Hình thức tu tập: Định jhāna được phát triển từ niệm hơi thở đúng theo kinh Anapanasati, thêm vào sự tập trung tại mũi (touching point) đúng như có ghi chép trong kinh Tiểu Bộ (Patisambhidamagga).
- Nội dung trải nghiệm: ánh sáng nimitta (dùng làm chuẩn mực của sự nhập định) và ánh sáng trí tuệ (dùng để thực hiện Vipassana). Ánh sáng trí tuệ thì có mô tả rõ trong Tăng Chi Bộ kinh, nhưng Nimitta chỉ được mô tả trong Luận.
Jhana theo Thanh Tịnh Đạo bị công kích là tạo ra sự tưởng tượng (Paccavekkhā, imagination) khiến người tu nhìn thấy nimitta, các tổ hợp Kalapa, các sát na tâm và ngay cả các tuệ giải thoát!
Trả lời: các tu sĩ khi thực hiện Jhana (theo Thanh Tịnh Đạo) luôn biết rằng nimitta là do nghiệp cá nhân tác động vào sự nhận biết. Vì thế nimitta luôn có những hình tướng khác nhau tùy theo từng cá nhân riêng biệt. Khi thực hiện Vipassana, ngay cả đến giai đoạn thấy hào quang tràn ngập thân thể, trí tuệ minh mẫn cùng với niệm, tịnh, hỉ, lạc, xả v.v… thì các tu sĩ cũng được cảnh giác để nhận biết rằng đó chính là giai đoạn Vipassana bị ô nhiễm (upakkilesa). Pháp học đầy đủ với sự cảnh giác trong tu tập luôn là đối pháp để tránh mọi sai lệch trong thực hành. Thái độ phủ định “sạch bóc” mọi trải nghiệm, mọi thiền chứng như vừa nói ở trên cũng chính là thái độ phủ định sạch bóc một số kinh và các bộ luận như bô Phân Tích Đạo, bộ Vi Diệu Pháp…! Vậy Đạo Phật còn lại những gì? Những trường phái chống đối Thanh Tịnh Đạo chỉ có thể chứng minh tính đúng đắn của mình nếu thực sự đưa ra được một cách tu tập Jhana và Vipassana khác để thay thế. Hiện giờ thì vẫn chưa thấy có một đạo lộ tu tập nào khác được hoàn chỉnh để dẫn đến các Thánh quả một cách khẳng định!
Nguồn gốc của Jhana
Ngài trưởng lão U. Acinna, trường thiền Pa Auk, đã phát biểu về nguồn gốc Bà la môn của các định jhana hữu sắc và vô sắc (trong Thanh Tịnh Đạo) như sau:
“…Absorption concentration (appana samadhi) is also called Jhana. And there are eight types of Jhana: the four fine material Jhanas (rupa-jhana), and the four immaterial jhanas (arupa-jhanas). They also called the eight attainements (attasamapatti). The eight attainments are not unique to a Buddha Dispensation. Outside the Dispensation of a Buddha, they are taught by ascetics and wanderers, by Bodhisattas bound for full Enlightenment, and by Wheel turning kings.
(Quoted from: The workings of kamma, by Pa Auk Tawya sayadaw, pp. 94)
Điều xác nhận này, từ một trưởng lão tu tập theo Thanh Tịnh Đạo, thể hiện quan điểm coi Jhana (dù có nguồn gốc từ đâu) cũng vẫn có thể dùng làm phương tiện để thực hiện thành công pháp thiền quán của Đức Phật.
Rất nhiều quan điểm, rất nhiều tranh cãi về Định Jhana. Sau đây là thêm một ví dụ về Định Jhana dưới cây táo hồng:
Trong kinh Trung Bộ số 36, Đại kinh Saccaka, Đức Phật nhớ lại hồi còn bé đã trải nghiệm jhana dưới cây táo hồng (jambu) và Đức Phật quyết định thực hiện lại loại thiền định này dưới cội Bồ Đề. Ngài Ajahn Brahm đã cho rằng loại định này gọi là Jhana. Jhana có từ thời Đức Phât Ca Diếp trong quá khứ và do Đức Phật Gautama tái phát hiện sau một thời gian dài bị biến mất tại Ấn Độ [22]. Cũng với đoạn kinh như vậy, Ngài Thông Lạc tại Việt Nam lại cho rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là định của Bà la Môn và Đức Phật đã thực hiện một loại định riêng khác dưới cội Bồ Đề![23] . Tuy nhiên hầu hết mọi người, căn cứ trên văn mạch rõ ràng của đoạn kinh, đều hiểu rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là loại định riêng của Đức Phật không phải của Bà La Môn. Hiện nay, dù vẫn có sự phân biệt về Jhana “theo Kinh” hay Jhana “theo Luận”, đa số các nguồn Phật học Tây phương vẫn chỉ dùng một chữ Jhana để nói về thiền định của Phật Giáo.
Ngài trưởng lão U. Acinna, trường thiền Pa Auk, đã phát biểu về nguồn gốc Bà la môn của các định jhana hữu sắc và vô sắc (trong Thanh Tịnh Đạo) như sau:
“…Absorption concentration (appana samadhi) is also called Jhana. And there are eight types of Jhana: the four fine material Jhanas (rupa-jhana), and the four immaterial jhanas (arupa-jhanas). They also called the eight attainements (attasamapatti). The eight attainments are not unique to a Buddha Dispensation. Outside the Dispensation of a Buddha, they are taught by ascetics and wanderers, by Bodhisattas bound for full Enlightenment, and by Wheel turning kings.
(Quoted from: The workings of kamma, by Pa Auk Tawya sayadaw, pp. 94)
Điều xác nhận này, từ một trưởng lão tu tập theo Thanh Tịnh Đạo, thể hiện quan điểm coi Jhana (dù có nguồn gốc từ đâu) cũng vẫn có thể dùng làm phương tiện để thực hiện thành công pháp thiền quán của Đức Phật.
Rất nhiều quan điểm, rất nhiều tranh cãi về Định Jhana. Sau đây là thêm một ví dụ về Định Jhana dưới cây táo hồng:
Trong kinh Trung Bộ số 36, Đại kinh Saccaka, Đức Phật nhớ lại hồi còn bé đã trải nghiệm jhana dưới cây táo hồng (jambu) và Đức Phật quyết định thực hiện lại loại thiền định này dưới cội Bồ Đề. Ngài Ajahn Brahm đã cho rằng loại định này gọi là Jhana. Jhana có từ thời Đức Phât Ca Diếp trong quá khứ và do Đức Phật Gautama tái phát hiện sau một thời gian dài bị biến mất tại Ấn Độ [22]. Cũng với đoạn kinh như vậy, Ngài Thông Lạc tại Việt Nam lại cho rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là định của Bà la Môn và Đức Phật đã thực hiện một loại định riêng khác dưới cội Bồ Đề![23] . Tuy nhiên hầu hết mọi người, căn cứ trên văn mạch rõ ràng của đoạn kinh, đều hiểu rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là loại định riêng của Đức Phật không phải của Bà La Môn. Hiện nay, dù vẫn có sự phân biệt về Jhana “theo Kinh” hay Jhana “theo Luận”, đa số các nguồn Phật học Tây phương vẫn chỉ dùng một chữ Jhana để nói về thiền định của Phật Giáo.
Nimitta
Đối với nimitta-samadhi (thiền định có đi kèm dấu hiệu), nimitta là phương tiện để nhập thiền. Nimitta có nguy hiểm gì cho người tu tập không? Hoàn toàn không! Ngược lại chỉ có lợi ích, đó là thâm nhập vào an-chỉ định trở nên dễ dàng hơn. Sự thực về nimitta-samadhi chỉ có vậy, còn chấp nhận hay không dĩ nhiên là tùy vào sự lựa chon của người tu tập. Bên cạnh đó còn có các chất vấn liên quan như: Tại sao trong kinh (suttas) chỉ nói đến hệ thống bốn thiền mà Vi Diệu Pháp, Thanh Tịnh Đạo lại liệt kê đến năm thiền? Tại sao trong sơ- thiền, có nhiều bài kinh không nhắc đến “Định nhất tâm” (ekaggata) mà Vi Diệu Pháp hay Thanh Tịnh Tịnh Đạo đều có liệt kê như một trong năm thiền chi? [24] . Theo Thanh Tịnh Đạo, khi thiền lấy hơi thở làm đề mục, lúc đạt cận định, có sự xuất hiện của ánh sáng Nimitta [25]. Nimitta nghĩa là dấu hiệu (sign, “tướng”) của hơi thở. Nimitta của đề mục hơi thở có thể có nhiều hình tướng khác nhau. Các loại đề mục thiền khác nhau có thể cho ra các nimitta (signs) khác nhau. Thực tế là khoảng ba mươi năm trở lại đây, có những thiền sư thực hành niệm hơi thở với điểm xúc chạm ở mũi, thì trải nghiệm sự xuất hiện Nimitta giống như Thanh Tịnh Đạo đã mô tả ở trên. Có nhiều cách giải thích về Nimitta, theo một số các thiền sư, nimitta chính là hơi thở được cảm nhận ở mức độ các tổ hợp kalapa. Khi tâm thanh tịnh và tập trung các tổ hợp này phát sáng. Nimitta và ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko) là hai thực thể khác nhau. Có người có Nimitta trước rồi mới có ánh sáng trí tuệ, có người thì ngược lại. Nhờ có Nimitta làm đối tượng, các thiền sư mới có thể thâm nhập (absorbed) vào mức an-chỉ định (appanā-samādhi). Nếu như thiền định được dùng làm phương tiện thực hiện tuệ quán thì Nimitta cũng chỉ được dùng làm phương tiện để thực hiện an-chỉ định (appanā-samādhi). Tâm khi vào mức an chỉ định của tứ thiền có ánh sáng trí tuệ rất mạnh.
Các vị thày Theravada người Tây phương vốn thường không chấp nhận các chú giải (Atthakatha, commentaries), do đó phần nhiều cũng không chấp nhận Nimitta, không chấp nhận ánh sáng trí tuệ quá sáng, quá rực rỡ theo như cách mô tả của Thanh Tịnh Đạo. Bhikkhu Sona nói rằng các tu sĩ nên cẩn thận, tránh để các chú giải hướng dẫn sai [26]. Bởi vì nếu căn cứ vào Phân Tích Đạo (đoạn giảng về niệm hơi thở vào, hơi thở ra) và sự trải nghiệm của chính ông thì tâm thiền chỉ có thể sáng tựa “trăng thoát mây che”.[27].
Giáo pháp nguyên thủy đã dùng sánh sáng tâm trí để nhận biết các pháp chân đế, rồi từ đó đạt được các tuệ cần thiết cho giác ngộ cuối cùng. Giáo phái bí mật San Mat (thuộc đạo Sikh) cũng thiền để có ánh sáng, khi có ánh sáng thì cho là giác ngộ, ngoài ra không có lý luận giải thích gì cả! San Mat [28], khi truyền vào Việt Nam gọi là “pháp môn quán âm”. San Mat gọi hiện tượng thấy ánh sáng trong thiền định là thành Phật (vì hầu hết tín đồ San Mat tại Việt Nam là Phật tử). Cùng là ánh sáng xuất hiện trong thiền định nhưng sự hiểu biết đúng về bản chất loại ánh sáng đó thì rất khác nhau. Sự phục hồi của thiền định chắc chắn sẽ điều chỉnh một số hiểu lầm đáng tiếc về vai trò của thiền định trong thời gian vừa qua:
Cận-định
Vì bị bỏ quên quá lâu, không thực sự có trải nghiệm, nên sự hiểu biết về thiền định trong Phật giáo hiện nay chưa được phổ biến. Chỉ có một số ít các trường phái tu tập thiền định mới hiểu rõ cận định thực sự như thế nào! Ai cũng biết cận định (upacāra samādhi) là một trạng thái tâm ngay ngưỡng cửa, trước khi bước vào an-chỉ định (appanā-samādhi). Nhưng vần đề là nếu một người chưa từng nhập vào chánh định, chưa từng đi ngang qua nó, thì rõ ràng khó mà biết được cái ngưỡng cửa đó ra làm sao! Từ sự hiểu lầm đó, nên đã có sự ngạc nhiên và nghi ngờ đối với khả năng của cận định khi phối hợp với thiền quán.
Sát na định vs cận định
- An-chỉ định (appanā-samādhi) là lúc tâm “hòa nhập” (absorption) vào đối tượng, không phân biệt được chủ thể và đối tượng. Cận định (upacāra samādhi) là trạng thái tâm trước khi đi vào mức an chỉ, tức khi chủ thể còn phân biệt được với đối tượng. Khi vừa xuất ra khỏi an chỉ định hoặc cận định, tâm đặc biệt mạnh mẽ, có thể quan sát được các đối tượng của thiền quán ở mức chân đế và trong sự sinh diệt nhanh chóng của chúng . Ở trạng thái định và cận định có rất nhiều ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko) như mô tả của Kinh Tăng Chi [AN. 11.139]. Nhờ có ánh sáng trí tuệ, thiền định có khả năng phối hợp với tuệ quán (Vipassanā) để nhìn thấy các pháp vi tế thuộc chân đế như thành phần cấu tạo của tâm và vật chất (danh và sắc).
- Sát-na định (khaṇika samādhi) được giảng dạy phổ biến trong đa số các trường phái Theravada như là khả năng định trong vài sát na, dùng để di chuyển nhanh chóng khi quan sát các đối tượng. Tuy nhiên, kèm theo cách giải thích về sát-na định này là một ngụ ý không cần đến sự tu tập thiền định [20]. Thực ra sát na định của một người có tu tập định thì hoàn toàn khác với sát na định của một người không có tu tập định. Khác biệt ở chỗ nào? Sát na định của một người có định, có cường độ mạnh hơn, và năng lực nhận biết tinh vi hơn, nhờ ánh sáng tâm trí. Đối với những người có tu tập định thì Sát Na Định được hiểu như sau:
“A meditator uses either access concentration or jhāna concentration as the foundation of vipassanā and undertakes vipassanā defining mentality-materiality as impermanent (anicca), painful (dukkha) and not-self (anatta). The concentration that is associated with insight knowledge (vipassanā) in this way is called “khanikasamādhi”. [29]
Một thiền giả dùng hoặc cận định hoặc định bậc thiền (jhāna) như là nền tảng của thiền Vipassanā và thọ trì thiền Vipassanā xác định danh và sắc là vô thường (aṇicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Định kết hợp với minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo cách này được gọi là “khanikasamādhi” (sát-na định).
Một số các tên gọi của Định
- An Chỉ Định (appana samadhi) là mức định hoàn hảo dùng để so sánh với cận định (upacara samadhi) là mức định chưa hoàn hảo.
- Chánh Định (samma samadhi) là thiền định do Đức Phật dạy, khởi sinh do sự ly dục ly ác pháp. Chánh định khác với Tà Định, cái được ám chỉ Định không phải do Đức Phật dạy.
- Định xuất thế gian (lokuttara samadhi, supra mundiane samadhi, Thánh định) dùng để đối lập với Định thế gian (lokiya samadhi, mundiane samadhi, định của phàm phu)
- Thánh Định dùng để ám chỉ Định của các bậc thánh trong Đạo Phật. Thánh Định chính là Định xuất thế gian. Một người đắc Định nhưng chưa có Tuệ giải thoát thì cái Định này vẫn còn là Định phàm phu. Một vị thánh nhập vào Định thì Định đó là Thánh Định hay Định xuất thế gian. Vần đề này tham khảo thêm tại đây:
http://www.palikanon.com/english/the_jhanas/jhanas05.htm#top
- Nimitta samadhi (Định có đi kèm dấu hiệu): Các định Jhana
- Animitta samadhi (Định không có dấu hiệu), sunnata samadhi, apanihita samadhi:
Các Định có được từ tuệ minh sát, tuệ Đạo, tuệ Quả (theo Mahathera Ledi Sayadaw)
- Animitta cetosamadhi (Vô tướng tâm định): Định thứ chín trong quá trình tu tập định của ngài Moggallana, được đề cập đến trong kinh Godatta, Tương ưng tâm, chương VII, 41, Tương Ưng Bộ Kinh.
Sự phân biệt giữa các tên gọi về Định rất quan trọng. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về các danh từ này. Ví dụ thế nào mới là ý nghĩa thực của CHÁNH ĐỊNH (samma samadhi). Vì chánh định là một chi trong bát chánh đạo nên đương nhiên đa số mọi người cho rằng Định của Đức Phật đề cập trong kinh mới là Chánh Định. Định mô tả trong Thanh Tịnh Đạo hay các Định của Bà La Môn (gồm nhiều giáo phái) thì không phải là Chánh Định. Có quan điểm cho rằng chỉ có pháp Tuệ Quán (Vipassana) mới là pháp riêng biệt đặc thù của Đạo Phật, còn Định mà Đức Phật dạy cũng có cội nguồn từ di sản chung của nền Đạo học Ấn Độ. Nhưng có người khẳng định rằng Định của Đức Phật là riêng của giáo pháp Đức Phật vì nó là Định sinh ra từ sự ly dục ly ác pháp. Thật là rắc rối, vì có ai dám chắc rằng Định của Bà La Môn là loại Định của những người không ly dục, không ly ác pháp! Vì Bà La môn (Brahmin) nghĩa là những người chuyên gìn giữ phạm hạnh tức là đã có sự tu tập ly dục ly ác pháp rồi!
Vì bị bỏ quên quá lâu, không thực sự có trải nghiệm, nên sự hiểu biết về thiền định trong Phật giáo hiện nay chưa được phổ biến. Chỉ có một số ít các trường phái tu tập thiền định mới hiểu rõ cận định thực sự như thế nào! Ai cũng biết cận định (upacāra samādhi) là một trạng thái tâm ngay ngưỡng cửa, trước khi bước vào an-chỉ định (appanā-samādhi). Nhưng vần đề là nếu một người chưa từng nhập vào chánh định, chưa từng đi ngang qua nó, thì rõ ràng khó mà biết được cái ngưỡng cửa đó ra làm sao! Từ sự hiểu lầm đó, nên đã có sự ngạc nhiên và nghi ngờ đối với khả năng của cận định khi phối hợp với thiền quán.
Sát na định vs cận định
- An-chỉ định (appanā-samādhi) là lúc tâm “hòa nhập” (absorption) vào đối tượng, không phân biệt được chủ thể và đối tượng. Cận định (upacāra samādhi) là trạng thái tâm trước khi đi vào mức an chỉ, tức khi chủ thể còn phân biệt được với đối tượng. Khi vừa xuất ra khỏi an chỉ định hoặc cận định, tâm đặc biệt mạnh mẽ, có thể quan sát được các đối tượng của thiền quán ở mức chân đế và trong sự sinh diệt nhanh chóng của chúng . Ở trạng thái định và cận định có rất nhiều ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko) như mô tả của Kinh Tăng Chi [AN. 11.139]. Nhờ có ánh sáng trí tuệ, thiền định có khả năng phối hợp với tuệ quán (Vipassanā) để nhìn thấy các pháp vi tế thuộc chân đế như thành phần cấu tạo của tâm và vật chất (danh và sắc).
- Sát-na định (khaṇika samādhi) được giảng dạy phổ biến trong đa số các trường phái Theravada như là khả năng định trong vài sát na, dùng để di chuyển nhanh chóng khi quan sát các đối tượng. Tuy nhiên, kèm theo cách giải thích về sát-na định này là một ngụ ý không cần đến sự tu tập thiền định [20]. Thực ra sát na định của một người có tu tập định thì hoàn toàn khác với sát na định của một người không có tu tập định. Khác biệt ở chỗ nào? Sát na định của một người có định, có cường độ mạnh hơn, và năng lực nhận biết tinh vi hơn, nhờ ánh sáng tâm trí. Đối với những người có tu tập định thì Sát Na Định được hiểu như sau:
“A meditator uses either access concentration or jhāna concentration as the foundation of vipassanā and undertakes vipassanā defining mentality-materiality as impermanent (anicca), painful (dukkha) and not-self (anatta). The concentration that is associated with insight knowledge (vipassanā) in this way is called “khanikasamādhi”. [29]
Một thiền giả dùng hoặc cận định hoặc định bậc thiền (jhāna) như là nền tảng của thiền Vipassanā và thọ trì thiền Vipassanā xác định danh và sắc là vô thường (aṇicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Định kết hợp với minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo cách này được gọi là “khanikasamādhi” (sát-na định).
Một số các tên gọi của Định
- An Chỉ Định (appana samadhi) là mức định hoàn hảo dùng để so sánh với cận định (upacara samadhi) là mức định chưa hoàn hảo.
- Chánh Định (samma samadhi) là thiền định do Đức Phật dạy, khởi sinh do sự ly dục ly ác pháp. Chánh định khác với Tà Định, cái được ám chỉ Định không phải do Đức Phật dạy.
- Định xuất thế gian (lokuttara samadhi, supra mundiane samadhi, Thánh định) dùng để đối lập với Định thế gian (lokiya samadhi, mundiane samadhi, định của phàm phu)
- Thánh Định dùng để ám chỉ Định của các bậc thánh trong Đạo Phật. Thánh Định chính là Định xuất thế gian. Một người đắc Định nhưng chưa có Tuệ giải thoát thì cái Định này vẫn còn là Định phàm phu. Một vị thánh nhập vào Định thì Định đó là Thánh Định hay Định xuất thế gian. Vần đề này tham khảo thêm tại đây:
http://www.palikanon.com/english/the_jhanas/jhanas05.htm#top
- Nimitta samadhi (Định có đi kèm dấu hiệu): Các định Jhana
- Animitta samadhi (Định không có dấu hiệu), sunnata samadhi, apanihita samadhi:
Các Định có được từ tuệ minh sát, tuệ Đạo, tuệ Quả (theo Mahathera Ledi Sayadaw)
- Animitta cetosamadhi (Vô tướng tâm định): Định thứ chín trong quá trình tu tập định của ngài Moggallana, được đề cập đến trong kinh Godatta, Tương ưng tâm, chương VII, 41, Tương Ưng Bộ Kinh.
Sự phân biệt giữa các tên gọi về Định rất quan trọng. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về các danh từ này. Ví dụ thế nào mới là ý nghĩa thực của CHÁNH ĐỊNH (samma samadhi). Vì chánh định là một chi trong bát chánh đạo nên đương nhiên đa số mọi người cho rằng Định của Đức Phật đề cập trong kinh mới là Chánh Định. Định mô tả trong Thanh Tịnh Đạo hay các Định của Bà La Môn (gồm nhiều giáo phái) thì không phải là Chánh Định. Có quan điểm cho rằng chỉ có pháp Tuệ Quán (Vipassana) mới là pháp riêng biệt đặc thù của Đạo Phật, còn Định mà Đức Phật dạy cũng có cội nguồn từ di sản chung của nền Đạo học Ấn Độ. Nhưng có người khẳng định rằng Định của Đức Phật là riêng của giáo pháp Đức Phật vì nó là Định sinh ra từ sự ly dục ly ác pháp. Thật là rắc rối, vì có ai dám chắc rằng Định của Bà La Môn là loại Định của những người không ly dục, không ly ác pháp! Vì Bà La môn (Brahmin) nghĩa là những người chuyên gìn giữ phạm hạnh tức là đã có sự tu tập ly dục ly ác pháp rồi!
Ly dục, ly ác
pháp
Thiền định trực
tiếp sinh ra các tuệ cho sự giải thoát đối với các tôn giáo và giáo phái ở Ấn
Độ, và đóng góp gián tiếp cho sự giải thoát của Đạo Phật nguyên thủy, qua phương
pháp tuệ quán. Thiền định rất khó thực hiện vì cơ sở của sự đắc định (theo kinh
điển) là một trạng thái thanh tịnh do Giới hạnh, do “ly dục, ly ác pháp”. Trong
thời đại hiện nay, xã hội phát triển mạnh về đời sống vật chất, con người rất dễ
bị xáo động bởi các giá trị vật chất và đánh mất sự thanh tịnh tâm trí. Khi một
thời đại mà cả thế giới bị dục và tham khuấy động thì chắc chắn thiền định không
đủ duyên để thành tựu. Điều đó lý giải tại sao, trong một thời gian dài, thiền
định biến mất trong sự tu tập. Có những thắc mắc có vẻ rất bế tắc, ví dụ: rằng
làm sao để tu tập thiền định khi chưa có giác ngộ? Bởi vì sau lúc giác ngộ ta
mới có thể ly dục ly ác pháp. Nói cách khác là điều kiện “ly dục ly ác pháp” cho
việc tu tập thiền định là hoàn toàn mâu thuẫn và vô lý! Câu trả lời là: Trạng
thái gọi là ly dục, ly ác pháp lúc ấy, phải hiểu là cách ly dục, cách ly ác pháp
(tạm thời) trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Trạng thái ly dục ly ác
pháp “tạm thời” thường không xảy ra với những người có cuộc sống căng thẳng,
hoặc có tâm ô nhiễm nặng nề. Đối với người ít ô nhiễm, cuộc sống tu tập thích
hợp, sẽ có một khoảng thời gian đặc biệt nào đó khi tâm tạm thời xa dục xa ác
pháp, thì đó là thời điểm của sự đắc thiền. Dĩ nhiên chuyện có thể tu tập thiền
định thành công hay không chỉ được xác nhận bởi những người đắc định. Hữu duyên
cho ai được tiếp xúc với những vị này!
Định thế
gian (hiệp thế) và xuất thế gian (Thánh Định)
Khi chứng trú trong thiền định, người hành thiền cũng cố được tình trạng ly dục ly ác pháp đó. Tuy nhiên khi xuất khỏi thiền định thì trạng thái ô nhiễm có thể quay lại. Bởi vậy, trong trường hợp này, khi người hành thiền định chưa có giác ngộ thì thiền định của người đó được gọi là định “thế gian” (mundane Jhana). Tại sao biết là định thế gian mà vẫn phải thực hành? Vì thực hành định thế gian là rèn luyện một công cụ cần thiết để thực hành thiền quán. Trong sự thực hành đạo lộ đi tới giác ngộ, thiền định nên được xem là một phương tiện, hơn là một cứu cánh. Sau khi chứng nghiệm các tầng tuệ và giác ngộ, tức đạt một trong bốn quả Thánh, khi vị ấy nhập vào thiền định thì lúc này định của vị ấy được gọi là định “xuất thế gian” (supramundane jhana) mà nhiều người gọi là Thánh định. Phải khẳng định rằng một người khi bắt đầu tu tập thì không thể nào tu tập Thánh Định được cả, bởi vì Thánh Định tức Thánh Quả Định (Phalasamāpatti) chỉ có được sau khi giác ngộ! Thánh Quả Định là một loại thiền siêu thế có Níp Bàn làm đối tượng. Mong rằng tất cả những trình bày, phân tích về các vấn đề phức tạp và tế nhị này, có thể giúp xóa đi các định kiến gọi là sự “vô ích” và “nguy hiểm” của thiền định! Và cũng để hiểu rằng tại sao người tu phải chấp nhận một loại Định dùng làm phương tiện gọi là Định thế gian hay hiệp thế (mundane jhana)
Khi chứng trú trong thiền định, người hành thiền cũng cố được tình trạng ly dục ly ác pháp đó. Tuy nhiên khi xuất khỏi thiền định thì trạng thái ô nhiễm có thể quay lại. Bởi vậy, trong trường hợp này, khi người hành thiền định chưa có giác ngộ thì thiền định của người đó được gọi là định “thế gian” (mundane Jhana). Tại sao biết là định thế gian mà vẫn phải thực hành? Vì thực hành định thế gian là rèn luyện một công cụ cần thiết để thực hành thiền quán. Trong sự thực hành đạo lộ đi tới giác ngộ, thiền định nên được xem là một phương tiện, hơn là một cứu cánh. Sau khi chứng nghiệm các tầng tuệ và giác ngộ, tức đạt một trong bốn quả Thánh, khi vị ấy nhập vào thiền định thì lúc này định của vị ấy được gọi là định “xuất thế gian” (supramundane jhana) mà nhiều người gọi là Thánh định. Phải khẳng định rằng một người khi bắt đầu tu tập thì không thể nào tu tập Thánh Định được cả, bởi vì Thánh Định tức Thánh Quả Định (Phalasamāpatti) chỉ có được sau khi giác ngộ! Thánh Quả Định là một loại thiền siêu thế có Níp Bàn làm đối tượng. Mong rằng tất cả những trình bày, phân tích về các vấn đề phức tạp và tế nhị này, có thể giúp xóa đi các định kiến gọi là sự “vô ích” và “nguy hiểm” của thiền định! Và cũng để hiểu rằng tại sao người tu phải chấp nhận một loại Định dùng làm phương tiện gọi là Định thế gian hay hiệp thế (mundane jhana)
7. Mục đích
của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rõ biết”
Hãy nghe lời Đức Phật giải thích về vai trò của thiền
định trong Phẩm Định, chương XII, Tương Ưng sự thật, tập V, chương Đại
phẩm:
“ Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập
định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định,
như thật rõ biết (yathābhūtaṁ pajānāti) các pháp (dhamma). Và như thật rõ biết
gì? Như thật rõ biết: "Ðây là Khổ". Như thật rõ biết: "Ðây là Khổ tập". Như thật
rõ biết: "Ðây là Khổ diệt". Như thật rõ biết: "Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ
diệt".
Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định,
như thật rõ biết các pháp. Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để
rõ biết: "Ðây là Khổ". Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập".
Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt". Một cố gắng cần phải làm
để rõ biết: "Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt".
8. Đức Phật
đã tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định
Đức Phật có khuyến khích tu tập thiền định hay không?
Hãy xem lại kinh điển. Có rất nhiều những bài kinh, đoạn kinh, nói về sự cần
thiết và lợi ích của viêc tu tập thiền định. Ví dụ phẩm Thiền Định 1 và 2
(chương Một pháp, Tăng Chi Bộ Kinh), phẩm Định, tương ưng sự thật (chương XXII,
Tương Ưng Bộ Kinh), kinh Đại Bát Niết Bàn (Trung Bộ Kinh) và vố số những bài
kinh khác trong năm bộ Nikaya… Trong đoạn trích từ Đại Kinh Saccaka dưới đây:
Đức Phật kể lại sự tu tập bốn thiền hữu sắc của Ngài:
“…Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết,
trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi
dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và
trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an
trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này
Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa
đến giác ngộ".
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc
thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy
nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất
thiện".
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ gì
chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô
thực, ăn cơm chua". Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này
Aggivessana, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn
Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Aggivessana, khi thấy Ta
ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn Gotama
nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung
túc".
Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực
trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi
lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này
Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này
Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta.
Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú
Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy
lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Cuối cùng trước khi nhập diệt, lời di huấn của Đức Phật
để lại trong Kinh Đại Bát Níp Bàn (D.N, Mahaparinibbana):
“ Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây
là Tuệ. Ðịnh cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải
thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô
minh lậu…. »
II. Tuệ Quán
1. Phương
pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
Là một sáng tạo riêng của Đức Phật, là con đường dùng
trí tuệ để thực hiện giải thoát. Có thể có rất nhiều pháp môn cũng nói về trí
tuệ, nhưng ngoài giáo pháp của Đức Phật không có sự mô tả chi tiết về các tuệ,
cũng như không hề có sự mô tả về các qui trình thực hiện các tuệ. Cùng đặt cơ sở
trên kinh điển như Kinh Quán Niệm hơi thở, Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthāna) v.v..,
nhưng hiện nay có rất nhiều qui trình tu tập Vipassanā khác nhau được các trường
phái đề xướng. Hoặc nghiêng về quán thân (Kayānupassanā), hoặc nghiêng về quán
Tâm (Cittānupassanā), hoặc nghiêng về quán thọ (Vedanānupassanā). Hoặc có kết
hợp với thiền định hoặc không kết hợp với thiền định. Hoặc kết hợp với một mưc
độ định thật sâu, hoặc kết hợp với một mức định vừa hoặc nhẹ hơn. Dưới đây là
liệt kê (chỉ có tính sơ sài) về một số các trường phái Vipassanā kết hợp với mức
độ định sâu, vừa hoặc nhẹ như sau :
- Vipassanā kết hợp với định rất sâu :
Sayadaw Pa Auk Tawya, Myanmar
- Vipassanā kết hợp với mức độ định vừa
Ajahn Brahmavamso, người Anh, West Australia
- Vipassanā kết hợp với mức độ định nhẹ
Ayya Khemal, người Đức gốc Do Thái
Bhante Gunaratana, người Sri Lanka, Washington DC, U.S.A
Ajahn Thanissaro, người Mỹ, San Diego, Cali, U.S.A
- Vipassana trong kinh Nikayas
Có người cho rằng từ “Vipassana” không có trong kinh, mà chỉ là một từ được thêm vào phương pháp tu tập của Theravada, rất muộn về sau này. Điều công kích này hoàn toàn không đúng. Chữ Vipassana có trong rất nhiều kinh Nikaya. Dưới đây là một vài ví dụ:
- Samyutta 35.245: ‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ.
- Anguttara 2:173.“Dveme, bhikkhave, dhammā. Katame dve? Samatho ca vipassanā ca. Ime kho, bhikkhave, dve dhammā”.
Hoặc Anguttara,4,2:10
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ byākaroti, sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena.
Katamehi catūhi? Idha, āvuso, bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1003 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti. Tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1004 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
- Vipassanā kết hợp với định rất sâu :
Sayadaw Pa Auk Tawya, Myanmar
- Vipassanā kết hợp với mức độ định vừa
Ajahn Brahmavamso, người Anh, West Australia
- Vipassanā kết hợp với mức độ định nhẹ
Ayya Khemal, người Đức gốc Do Thái
Bhante Gunaratana, người Sri Lanka, Washington DC, U.S.A
Ajahn Thanissaro, người Mỹ, San Diego, Cali, U.S.A
- Vipassana trong kinh Nikayas
Có người cho rằng từ “Vipassana” không có trong kinh, mà chỉ là một từ được thêm vào phương pháp tu tập của Theravada, rất muộn về sau này. Điều công kích này hoàn toàn không đúng. Chữ Vipassana có trong rất nhiều kinh Nikaya. Dưới đây là một vài ví dụ:
- Samyutta 35.245: ‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ.
- Anguttara 2:173.“Dveme, bhikkhave, dhammā. Katame dve? Samatho ca vipassanā ca. Ime kho, bhikkhave, dve dhammā”.
Hoặc Anguttara,4,2:10
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ byākaroti, sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena.
Katamehi catūhi? Idha, āvuso, bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1003 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti. Tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1004 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
- Mười sáu tầng Tuệ:
Theo Kinh Trạm Xe (Rathavinīta Sutta) và theo Thanh Tịnh Đạo, sự tu chứng được thực hiện qua bảy giai đoạn thanh tịnh tâm: Hai giai đoạn đầu là Thanh tịnh tâm bằng Giới và thanh tịnh tâm bằng Định. Năm giai đoạn kế là thanh tịnh tâm bằng tuệ quán để thực hiện 16 tuệ căn bản:
1. Thanh tịnh giới,
Sīla-visuddhi (purification of morality)
2. Thanh tịnh tâm bằng định
Citta-visuddhi (purification of the mind by concentration)
3. Kiến thanh tịnh
Diṭṭhi-visuddhi (purification of view)
4. Đoạn Nghi thanh tịnh
Kaṅkhāvitaraṇa-visuddhi (purification by overcoming doubt)
5. Đạo và Phi Đạo Tri kiến thanh tịnh
Maggāmagga-ñāṇa-dassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path)
6 Đạo Hành Tri Kiến thanh tịnh
Paṭipadā-ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of the way)
7. Tri Kiến thanh tịnh
Ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision)
“Với sự trợ giúp của ánh sáng sáng xuyên thấu, rực tỏa từ một tâm có phối hợp với chánh định (sammāsamādhi), thiền giả thấu suốt vào các pháp chân đế (paramattha), tức là các pháp tạo nên tâm và thân. Thiền giả xác định rõ từng tâm (citta), từng tâm sở (cetasika), và từng loại sắc chân đế (rūpa) bằng phương tiện là các đặc tính (lakkhaṇa), phận sự (kicca), biểu hiện (paccupaṭṭhāna) và các nhân gần (padaṭṭhāna) tương ứng của chúng. Kế tiếp, phân biệt các nhân sanh ra danh-sắc này bao gồm các mối quan hệ nhân quả trong Lý Duyên Khởi (Paṭiccasamuppāda). Sau đó, hành giả quán xét ba đặc tính của các hành theo nhiều cách đặc biệt như đã được miêu tả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) để tu tập đúng đắn minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo từng tuệ một để có thể chứng đạt mục tiêu tối hậu của thiền vipassanā – chứng ngộ Niết-bàn.” [30]
Phải thấy được rằng, sự phân tích rạch ròi và sự mô tả chi li các tuệ và trí, chính là tinh hoa đặc thù của chánh pháp. Đức Phật là người dạy về các tuệ cần thiết để giải thoát và người tu phải dùng trải nghiệm cá nhân để thực chứng chân lý đó. Sự hiểu biết sâu rông về Pháp Học cũng như sự tin tưởng mạnh mẽ (Tín) về pháp học vẫn chưa đủ cho sự giác ngộ. Giống như khi ta chỉ biết một người nhưng chưa hề gặp mặt và nói chuyện (chưa có trải nghiệm) thì ta chưa đủ hiểu biết về người đó. Chỉ sau khi mặp mặt, bắt tay, nói chuyện trao đổi (đã có trải nghiệm) thì mọi sự hiểu biết (tuệ) về người ấy mới được đầy đủ. Phải “Biết cùng với Thấy” (Knowing and Seeing) mới sinh ra tuệ giác đầy đủ. Pháp Học, giảng bởi Đức Phật, chỉ được coi như một triết lý tức lý thuyết đối với người chưa giác ngộ. Nhưng ngay sau khi pháp học được trải nghiệm (experienced) thấy rõ như thực (bằng năng lực của Tuệ kết hợp với Định), người tu bấy giờ trở nên giác ngộ.
Theo Kinh Trạm Xe (Rathavinīta Sutta) và theo Thanh Tịnh Đạo, sự tu chứng được thực hiện qua bảy giai đoạn thanh tịnh tâm: Hai giai đoạn đầu là Thanh tịnh tâm bằng Giới và thanh tịnh tâm bằng Định. Năm giai đoạn kế là thanh tịnh tâm bằng tuệ quán để thực hiện 16 tuệ căn bản:
1. Thanh tịnh giới,
Sīla-visuddhi (purification of morality)
2. Thanh tịnh tâm bằng định
Citta-visuddhi (purification of the mind by concentration)
3. Kiến thanh tịnh
Diṭṭhi-visuddhi (purification of view)
4. Đoạn Nghi thanh tịnh
Kaṅkhāvitaraṇa-visuddhi (purification by overcoming doubt)
5. Đạo và Phi Đạo Tri kiến thanh tịnh
Maggāmagga-ñāṇa-dassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of what is the path and what is not the path)
6 Đạo Hành Tri Kiến thanh tịnh
Paṭipadā-ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of the way)
7. Tri Kiến thanh tịnh
Ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision)
“Với sự trợ giúp của ánh sáng sáng xuyên thấu, rực tỏa từ một tâm có phối hợp với chánh định (sammāsamādhi), thiền giả thấu suốt vào các pháp chân đế (paramattha), tức là các pháp tạo nên tâm và thân. Thiền giả xác định rõ từng tâm (citta), từng tâm sở (cetasika), và từng loại sắc chân đế (rūpa) bằng phương tiện là các đặc tính (lakkhaṇa), phận sự (kicca), biểu hiện (paccupaṭṭhāna) và các nhân gần (padaṭṭhāna) tương ứng của chúng. Kế tiếp, phân biệt các nhân sanh ra danh-sắc này bao gồm các mối quan hệ nhân quả trong Lý Duyên Khởi (Paṭiccasamuppāda). Sau đó, hành giả quán xét ba đặc tính của các hành theo nhiều cách đặc biệt như đã được miêu tả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) để tu tập đúng đắn minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo từng tuệ một để có thể chứng đạt mục tiêu tối hậu của thiền vipassanā – chứng ngộ Niết-bàn.” [30]
Phải thấy được rằng, sự phân tích rạch ròi và sự mô tả chi li các tuệ và trí, chính là tinh hoa đặc thù của chánh pháp. Đức Phật là người dạy về các tuệ cần thiết để giải thoát và người tu phải dùng trải nghiệm cá nhân để thực chứng chân lý đó. Sự hiểu biết sâu rông về Pháp Học cũng như sự tin tưởng mạnh mẽ (Tín) về pháp học vẫn chưa đủ cho sự giác ngộ. Giống như khi ta chỉ biết một người nhưng chưa hề gặp mặt và nói chuyện (chưa có trải nghiệm) thì ta chưa đủ hiểu biết về người đó. Chỉ sau khi mặp mặt, bắt tay, nói chuyện trao đổi (đã có trải nghiệm) thì mọi sự hiểu biết (tuệ) về người ấy mới được đầy đủ. Phải “Biết cùng với Thấy” (Knowing and Seeing) mới sinh ra tuệ giác đầy đủ. Pháp Học, giảng bởi Đức Phật, chỉ được coi như một triết lý tức lý thuyết đối với người chưa giác ngộ. Nhưng ngay sau khi pháp học được trải nghiệm (experienced) thấy rõ như thực (bằng năng lực của Tuệ kết hợp với Định), người tu bấy giờ trở nên giác ngộ.
2. Nguyên lý của Tuệ quán:
Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti, seeing as it
is)
Chỉ khi nhìn thấy rõ ràng (bằng năng lực
của cận định) các pháp “như chúng thực là”, chúng ta mới được hoàn toàn giác
ngộ. Rất nhiều sách về tâm linh và tôn giáo cũng nói về trạng thái nhìn “thấy
như thực” hoặc “thấy sự vật như nó là” (seeing everything as it is). Tuy nhiên
cách giải thích thì hoàn toàn không đúng, ví dụ giải thích “thấy như thực” là
quan sát sự vật mà không dựa vào cảm tính hay tiên kiến (prejudge) chủ quan. Đạo
Phật nguyên thủy dùng chữ “thấy như thực” theo một ý nghĩa khác. Đó là thấy “như
thực” cái thực tại nội hàm bên trong sự vật. Việc tu tập bắt đầu bằng quan sát
ngay trong thân thể của người tu, bởi vì lúc khởi đầu minh sát còn yếu. Khi
thuần thục thì có thể chuyển minh sát ra các đối tượng ngoài thân. Thấy cái
“thực tại nội hàm bên trong” nếu liên hệ với Phật giáo phát triển, giống như là
thấy “Tánh” hay “kiến tánh” (nếu muốn gọi kiểu như vậy). Con mắt xuyên thấu của
Tuệ quán (Vipassana) có thể “nhìn thấy như thực” nghĩa là nhìn thấy sự-vật ở mức
độ chân đế: Danh, Sắc cấu tạo như thế nào? Ngũ uẩn, duyên-hợp vận hành ra làm
sao? v.v…Điều này giác quan và tâm trí trong điều kiện bình thường không thể làm
được. Từ lúc Đạo Phật suy tàn, hơn hai ngàn năm cho đến tận hôm nay, biết bao
công sức tu tập đã trôi sông trôi biển, vì không hiểu ý nghĩa của việc thấy “như
chúng thực sự là”. Vì thế cũng không hiểu “kiến tánh thành Phật” là kiến cái
“tánh” nào và bằng “phương pháp” nào!
Thế giới của Danh và Sắc mà chúng ta đang thấy chỉ là hiện tượng bên ngoài. Thấy cái hiện tượng bên ngoài đó không phải là thấy như thực! Chỉ có thiền quán, dựa trên định lực mạnh mẽ, mới biết và thấy sự vật “như chúng thực là”. Triết học Tây phương bế tắc vì không nhìn thấy được sự vật “như chúng thực là”. Họ biết là trong mỗi vật hay hiện tượng có hàm chứa một nội dung mà tri giác (perception) con người không nắm bắt được và gọi đó là vật tự thân (thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon) [31]. Vật tự thân nói lên giới hạn của tri giác con người trong điều kiện sinh lý bình thường. Mặc dù khoa học cũng có thể dùng các công cụ tinh xảo để thâm nhập vào vật tự thân, nhưng cái biết và thấy đó chỉ là gián tiếp vì phải qua trung gian của công cụ. Đôi khi cái biết của khoa học cũng chỉ là một giả thuyết (hypothese) hợp lý, như giả thuyết về cấu trúc và các cầu nối giữa những nguyên tử v.v…Đó là những cấu trúc mà con người không trực tiếp nhìn thấy. Tuệ quán (với năng lực của cận định) giúp tri giác con người vượt qua điều kiện bình thường để thâm nhập trực tiếp vào thế giới của vật tự thân. Cái biết và thấy của thiền quán do đó khác với cái biết và thấy của khoa học. Các tổ hợp kalapa của vật chất, được trải nghiệm qua tuệ quán, khác với mô tả của khoa học về các nguyên tố và hợp chất. Đây là điều kì diệu và phi thường về cái biết và thấy như thực của tuệ quán!
Tuệ tri như chúng thực sự là (yathābhūtaṁ pajānāti’) chính là nguyên lý của tuệ quán và chính là phương pháp của Đạo Phật để nhìn thấy sự thực, tức các pháp chân đế (paramattha), nằm bên dưới các hiện tượng bề mặt. Do biết và thấy các pháp chân đế, do thu đạt được đủ các tuệ cần thiết, người tu tiến dần tới Đại giác ngộ. Trong lịch sử thời giáo pháp nguyên thủy, các bộ Nikaya hoàn toàn không ghi nhận được trường hợp nào không có thiền định, không có tuệ quán, không thấy các pháp như thực, mà lại… hốt nhiên đại ngộ!
Thế giới của Danh và Sắc mà chúng ta đang thấy chỉ là hiện tượng bên ngoài. Thấy cái hiện tượng bên ngoài đó không phải là thấy như thực! Chỉ có thiền quán, dựa trên định lực mạnh mẽ, mới biết và thấy sự vật “như chúng thực là”. Triết học Tây phương bế tắc vì không nhìn thấy được sự vật “như chúng thực là”. Họ biết là trong mỗi vật hay hiện tượng có hàm chứa một nội dung mà tri giác (perception) con người không nắm bắt được và gọi đó là vật tự thân (thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon) [31]. Vật tự thân nói lên giới hạn của tri giác con người trong điều kiện sinh lý bình thường. Mặc dù khoa học cũng có thể dùng các công cụ tinh xảo để thâm nhập vào vật tự thân, nhưng cái biết và thấy đó chỉ là gián tiếp vì phải qua trung gian của công cụ. Đôi khi cái biết của khoa học cũng chỉ là một giả thuyết (hypothese) hợp lý, như giả thuyết về cấu trúc và các cầu nối giữa những nguyên tử v.v…Đó là những cấu trúc mà con người không trực tiếp nhìn thấy. Tuệ quán (với năng lực của cận định) giúp tri giác con người vượt qua điều kiện bình thường để thâm nhập trực tiếp vào thế giới của vật tự thân. Cái biết và thấy của thiền quán do đó khác với cái biết và thấy của khoa học. Các tổ hợp kalapa của vật chất, được trải nghiệm qua tuệ quán, khác với mô tả của khoa học về các nguyên tố và hợp chất. Đây là điều kì diệu và phi thường về cái biết và thấy như thực của tuệ quán!
Tuệ tri như chúng thực sự là (yathābhūtaṁ pajānāti’) chính là nguyên lý của tuệ quán và chính là phương pháp của Đạo Phật để nhìn thấy sự thực, tức các pháp chân đế (paramattha), nằm bên dưới các hiện tượng bề mặt. Do biết và thấy các pháp chân đế, do thu đạt được đủ các tuệ cần thiết, người tu tiến dần tới Đại giác ngộ. Trong lịch sử thời giáo pháp nguyên thủy, các bộ Nikaya hoàn toàn không ghi nhận được trường hợp nào không có thiền định, không có tuệ quán, không thấy các pháp như thực, mà lại… hốt nhiên đại ngộ!
3. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
Thông tin đại chúng hiện nay không biết gì nhiều đối với một số sự thực về Đạo Phật. Trái với một lịch sử lâu dài hơn 2500 năm, được rất nhiều người châu Á sùng bái và tu tập dưới hình thức một Đạo Phật “tín ngưỡng”, Đạo Phật “giải thoát” thực sự đã suy tàn và dần dần biến mất. Trước tiên, Đạo Phật biến mất tại Ấn Độ, cái nôi sinh trưởng ra nó [33]. Sau đó Đạo Phật suy tàn tại Sri Lanka, nơi mà nó đã có một thời gian dài tránh khỏi sự đàn áp của đạo Bà La Môn Ấn Độ. Nới trú ngụ sau cùng của giáo pháp nguyên thủy hiện nay là tại Myanmar, một quốc gia lấy Đạo Phật làm quốc giáo. Tất cả những di tích về Đạo Phật mới chỉ tìm thấy trong thời gian khoảng 100 năm trở lại đây. Đặc biệt Lumbini, nơi Đức Phật sinh ra, chỉ mới được Unessco xác nhận là di tích lịch sử vào năm 1997. Các kinh điển Pali quí giá cũng mới được phương Tây dịch ra Anh ngữ, khi Ấn Độ còn là thuộc địa của người Anh. Vì giáo pháp của Đức Phật quá vĩ đại và sâu sắc nên qua thời gian, toàn bộ tinh hoa của giáo pháp nguyên thủy (do Đức Phật dạy) đã không còn được hiểu biết cặn kẽ nữa. Giáo pháp gọi là “nguyên thủy” hiện giờ chỉ dựa vào những suy luận trên Luật, Kinh, Thắng pháp và những cuốn chú giải. Khác với Đạo Phật “dạng tín ngưỡng” lúc nào cũng lan tràn phổ biến khắp nơi, giáo pháp nguyên thủy, tức giáo pháp thực sự do Đức Phật dạy để giúp con người đạt tới giải thoát, nói chung, phải được coi như đang trong thời kỳ phục dựng lại. Một Phật tử chân chánh phải nhìn thấy sự thực này và phải chấp nhận sự thực này nếu muốn phục hồi lại tinh hoa của chánh pháp! Các vị A La Hán cần phải xuất hiện và đồng thời các Phật tử phải phân biệt được và nhận ra sự xuất hiện của các vị A La Hán ấy. Giáo pháp của Đức Phật chỉ phục sinh nếu nó thực sự đưa lại giác ngộ. Nghĩa là, chỉ khi nào sự tu chứng trở nên phổ biến và lần lượt có các vị đắc chứng các quả Thánh!
Sự phục hồi của Vipassanā sau những năm dài thất lạc mới chỉ được khôi phục khoảng năm mươi năm trở lại đây, nhờ công của ngài Mahasi sau lần kiết tập kinh đển lần thứ sáu tại Yangon (1954). Vì mới phục dựng, nên mối quan hệ giữa thiền định và tuệ quán vẫn còn chưa được hiểu hết, không những ở giới cư sĩ mà ngay trong các tăng đoàn của các quốc gia mà Đạo Phật là quốc giáo! Tại thời điểm này, trong các tăng đoàn Theravada người ta thấy rất nhiều phương pháp tu tập khác nhau. Có quan điểm lại đứng trên lập trường của Phật giáo phát triển, cho rằng chỉ cần giữ đúng nguyên lý tu tập, còn về phương pháp thì có thể khác nhau. Nói đến phương pháp tức là nói đến pháp thực hành (patipatti) chứ không thể nói đến giáo thuyết hay pháp học được. Vậy nguyên lý trong pháp hành của giáo pháp nguyên thủy là gì? Có phải là nguyên lý “nhìn thấy như thực” Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và khi giác ngộ, nhìn thấy như thực các lộ trình tâm của bốn Đạo và bốn Quả sa môn. Trong sự không thống nhất các phương pháp thực hành, xuất hiện quan điểm xem nhẹ thiền định. Trong một thời gian dài, Phật tử Theravada dường như không còn nắm được ý nghĩa của thiền định nữa. Ví dụ như khi nói về định, các Phật tử thường lập lại lời dạy truyền thống: Định để làm gì? Định như hòn đá đè cỏ, dở hòn đá ra, cỏ mọc trở lại! Sự rập khuôn của người tu, do qui phục những định kiến truyền thống, vô tình đánh mất một nửa pháp hành của Đức Phật! Có người còn sợ, còn hoài nghi thiền định là ngoại đạo Bà La môn. Trong lịch sử, Bà La Môn cũng có thiền định với tám tầng thiền chứng. Dù có giống nhau ở điểm nào nhưng mục đích của thiền định Phật giáo và Bà La môn giáo là hoàn toàn khác nhau. Không có một sự vật hay hiện tượng hay khái niệm nào có thể xuất hiện và tồn tại một cách độc lập với những mối liên hệ xung quanh.. Đạo Phật cũng xuất hiện, tồn tại trong mối tương quan mật thiết với nền văn minh gốc rễ của nó. Lúc bắt đầu đi tu, sa môn Gautama cũng xuất phát từ các giáo thuyết của Bà La Môn, cũng được dạy và tu tập các thiền định của Bà la Môn như những tu sĩ khác trong rừng Khổ Hạnh (Uruvela). Chỉ sau này, khi giác ngộ hoàn toàn, ngài mới phê bình các quan điểm sai lầm của triết học Vệ Đà để hoàn chỉnh một giáo pháp riêng. Đối với pháp hành của Đạo Phật, chỉ có Tuệ Quán (Vipassanā) là phương pháp đặc thù riêng mà các Bà La Môn đương thời và trước đó chưa biết đến. Trong thời điểm hiện tại, sự thực về Đức Phật và giáo pháp của ngài chỉ còn lại trong các bộ kinh, coi như là bằng chứng duy nhất. Do đó, không có chọn lựa nào khác ngoài việc dựa trên kinh điển (một cách thận trọng) để tìm lại giáo pháp thực sự của Đức Phật. Trong các bộ Nikaya đã có sự mô tả rõ ràng phương pháp tu tập của Đức Phật, ví dụ kinh Saccaka kể lại việc Đức Phật đã thực hành Thiền quán sau khi đã vào tứ thiền:
“…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Ðây là Khổ”, biết như thật: “Ðây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Ðây là sự Diệt khổ”, biết như thật: “Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Ðây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát.” Ta đã biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. …”
Như mô tả của đoạn kinh trên: “…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến …” rõ ràng phải có tâm tương ứng với định mới có thể giúp người tu nhìn thấy rõ “như thực” các pháp chân đế (paramattha). Thực hành tuệ quán trên các pháp chân đế mới có thể thu hoạch các tuệ toàn mãn và nhờ đó mới đạt được giác ngộ. Nhờ có định lực mạnh mẽ người tu có thể nhận thấy rõ từng tâm (citta) trong qui trình tâm (vīthicitta) của mình và biết được sự chuyển biến của tâm lúc giác ngộ, lúc chuyển phàm thành thánh. Không có Định việc thực hành Vipassana không mang lại đủ tuệ cần thiết cho sự giác ngộ.
4. Bốn đạo lộ
Tuy nhiên, một cách chính xác theo kinh, có khả năng có đến bốn đạo lộ tu tập [34] xét về sự kết hợp giữa Định và Tuệ. Ngài Anan nói với các tỳ khưu, như sau:
- Ở đây, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỳ-khưu tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt. (Kinh Gắn Liền Cột Chặt, Tăng Chi Bộ kinh, IV.170)
Giải thích:
- Đạo lộ thứ nhất “Định trước Tuệ sau”: người tu phải cố đạt được từ một cho đến tám tầng thiền chứng. Bốn định hữu sắc và bốn định vô sắc là tám tầng thiền chứng (satipattana). Cách tu này rất khó tại thời điểm bắt đầu, sau đó đi rất nhanh qua các tầng tuệ vì năng lực Định đã rất vững mạnh..
- Đạo lộ thứ hai “Tuệ trước định sau” cũng rất phổ biến và người tu tập theo đạo lộ này gọi là “hành giả thuần quán”. Trái với mọi hiểu biết thường cho rằng thuần quán là không tu tập định gì cả. Vì như đã trình bày, nếu không có định, sẽ không thu được một tầng tuệ nào cả. Sayadaw Pa Auk giải thích như sau:
Những hành giả hành thẳng thiền Minh-sát (Vipassana) không có bất cứ một thiền chứng nào được gọi là thuần quán hành giả hay khô quán hành giả (sukkhavipassaka). Trước tiên họ phải hành thiền tứ đại, vốn là một đề mục thiền căn bản và bắt buộc cho mọi hành giả thuần quán. Với sự trợ giúp của định mạnh và vững chắc do hành thiền tứ đại đem lại, họ sẽ thấy các tổng hợp sắc (rūpakalāpa), hay các phân tử nhỏ của vật chất. Nhờ phân tích các kalāpa và thể nhập vào sắc tối hậu (sắc chân đế), họ phá vỡ được tính rắn chắc của sắc (vật chất). Kế đó họ phân biệt các căn xứ và đối tượng của danh cùng nhau để giúp cho việc quán các trạng thái tâm thiện và bất thiện. Sau đó, họ phải phân biệt các nhân của danh & sắc, và rồi quán sắc, danh và các nhân của chúng như vô thường, khổ và vô ngã. Theo cách này, khi minh sát trí của họ thuần thục, họ sẽ chứng ngộ Niết-bàn. Dĩ nhiên đây chỉ là một sự giải thích tóm tắt về sự thực hành của các hành giả thuần quán mà thôi. (Các câu hỏi và trả lời, Pa Auk Sayadaw).
Còn các Đạo lộ thứ ba và thứ tư, hiện chưa biết được trường phái nào đang thực hành!
Pháp Tuệ Quán luôn phải dùng cận định làm nền tảng dù đó là pháp tuệ quán của các hành giả đi theo con đường gọi là “thuần quán”! Xin nhấn mạnh một lần nữa, về thắc mắc rằng trong trạng thái định, tâm cột chặt vào đối tượng, lấy gì quan sát các hiện tượng đang xảy ra? Các thiền sư giải thích:
Khi nhập vào chánh định (appanā-samādhi) hay ở trạng thái cận định- upacāra samādhi) tâm trở nên trong sáng rực rỡ, thiền giả xuất ra khỏi định. Tâm khi vừa xuất ra khỏi định rất mạnh, có thể quan sát tất cả các pháp vi tế ở mức độ gọi là chân đế như đã mô tả ở trên! Quan sát và thấy “như thực” có nghĩa là như vậy!
6.Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
Khi thiền sinh thành tựu một bậc thiền, hoặc một tuệ minh sát thì thiền sinh phải trình các trải nghiệm của mình cho một vị thày phụ trách. Với sự hiểu biết tinh tế và các câu hỏi kiểm tra tế nhị, vị thầy có thể xác nhân sự thành công hay chưa thành công của từng thiền sinh. Nếu thiền sinh nói dối hay cường điệu các trải nghiệm của mình, thì chắc chắn sẽ bị phát hiện. Nói đến điều này để thấy rằng cái gì cũng cần tiêu chuẩn để xác chứng. Một bậc thiền, ví dụ sơ thiền phải được xác nhận với năm thiền chi (mental factors). Thế nào là Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ, Định nhất tâm v.v.. . Hiện tại có các thiền sư nổi tiếng nói về sự an lạc khi an trú trong hiện tại, nhưng trạng thái tâm đó được xác nhận như thế nào? Chánh pháp của Đạo Phật không hề mơ hồ về điều này, các tiểu chuẩn đã được liệt kê đầy đủ trong kinh điển để tránh cho người tu tập lầm lẫn giữa một cái an lạc dạng “tâm lý trị liệu” và một cái an lạc thực sự của một bậc thiền được xác chứng. (nhắc lại an lạc không phải là mục đích của thiền định như đa số mọi người lầm tưởng). Một tầng tuệ cũng được duyệt xét bởi vị thày hướng dẫn. Không thể có gian dối trong môi trường giới luật của Đạo Phật chân chính. Một điểm vô cùng đặc biệt trong giáo pháp nguyên thủy, là người tu thiền có thể nhìn thấy cụ thể và rõ ràng lô trình tâm giác ngộ của chính mình. Khi thực hành thành công, dù với niềm vui sướng nhưng thiền sinh luôn được khuyên rằng chỉ nên trao đổi với người cùng tu tập. Lý do: sự công kích mãnh liệt của thế gian! Chính vì lý do này, hiện nay mạch ngầm của chánh pháp vẫn âm thầm chảy! Khi thời điểm thuận lợi đến, nó sẽ dần hé lộ cho người đủ hữu duyên!
6. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học
Khoa học, cho đến nay, vẫn sử dụng những phương pháp lý luận (logic) chính, như diễn dịch, qui nạp, loại suy, phân tích, tổng hợp, biện chứng. Phương pháp quy nạp (induction) ví dụ như từ một thí nghiệm có tính riêng lẻ ta rút ra được một qui luật chung có tính phổ quát.
Khi nhập vào Định, thiền giả có được rất nhiều trải nghiệm mới lạ mà một tâm trí bình thường không thể có được như các chiều kích mới của không gian và thời gian, sự vắng lặng, tỉnh táo, sáng tỏ, tương quan chủ thể- khách thể thay đổi v.v… Đó là các tuệ do Định sinh ra. Có người đã nhân ra trong an chỉ định (appanā-samādhi) một tuệ về trạng thái bất nhị vì khi nhập vào chánh định, người nhận thức và đối tượng được trở thành một [16]. Từ những trải nghiệm này, khi xuất ra khỏi định, người tu định rút ra được những tri kiến, những quy luật về thế giới hoàn toàn mới mẻ mà trong đời sống trước đây, lúc chưa nhập định, họ chưa hề biết tới. Qui trình rút ra những tri kiến mới mẻ, từ trải nghiệm tâm linh (spiritual experiences) của thiền định, giống như qui trình qui nạp trong lý luận khoa học.
Phương pháp diễn dịch (deduction): ví dụ như từ một lý thuyết (theory) coi như tiền đề (premise), qua thực nghiệm minh chứng, ta xác chứng được lý thuyết đúng hay sai. Trong thực hành Tuệ Quán, với qui trình tu tập các tuệ minh sát được hướng dẫn sẵn (tức một lý thuyết có tính tiền đề) ta thực hiện trải nghiệm thiền quán, sau đó xác nhận tính chân lý của qui trình (và nhờ trải nghiệm “như thực” đó ta giác ngộ). Qui trình này giống hệt như qui trình diễn dịch trong các ngành khoa học hiện nay.
Cách mô tả, diễn giải và biện giải trong Kinh, Vi Diệu Pháp, Phân Tích Đạo, Thanh Tịnh Đạo…đều là phương pháp phân tích khoa học. Trong giáo pháp nguyên thủy có đề cập tới năng lực của bốn Tuệ phân tích của các bậc Thánh, thường gọi là Tứ Tuệ phân tích:
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ý nghĩa là trí về sự phân tích các ý nghĩa,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các pháp là trí về sự phân tích các pháp,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ngôn từ là trí về sự phân tích các ngôn từ,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các phép biện giải là trí về sự phân tích các phép biện giải là (có ý nghĩa) thế nào?
Như vậy, thật bất ngờ, ta thấy phương pháp luận trong Đạo Phật là một phương pháp cũng có logic giống như các phương pháp luận của khoa học. Đề cập đến mối liên hệ giữa cách tu tập trong đạo Phật với các logic khoa học như trên, chỉ nhằm mục đích loại bỏ quan niệm cho rằng trong tu tập cần phải bỏ qua lý trí mà chỉ cần trực giác. Trực giác (tuệ) không thể phát sinh nếu không có tu tập. Tuệ không phải tự dưng đột nhiên mà có nếu không có phương pháp đúng đắn do lý trí hướng dẫn. Dù là pháp học hay pháp hành yếu tố lý trí vẫn cần phải có. Qui trình tu tập Định và Tuệ rất xa với thần bí mà rất gần với khoa học.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.2/11/2012 ).
No comments:
Post a Comment