Sunday 4 December 2011

Cuộc đời của Ngài Hoàng tử xuất gia

Là một Hoàng tử nên Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) hiểu rất rõ không đâu tham – sân – si như đời sống trong cung đình. Ngài đã thoát ly tổ ấm và rời bỏ cuộc đời vàng son, nhung lụa oai phong trước tiền hô hậu ủng của cuộc sống hoàng cung để đi vào con đường mới, chu du khắp Ấn Độ truyền bá về những cái đẹp của cuộc sống bình đẳng và giảng thuyết Luân hồi – Luật nhân quả – Nghiệp báo.
Cuộc đời của Đức Thích Ca mâu Ni ly kỳ hấp dẫn từ sự ra đời trên nhân thế đến khi lập gia đình và nhất là bước quyết định đi tìm con đường đạo. Đức Phật không đơn giản tu chỉ biết ngồi thiền quán và giảng Pháp. Ngài có một trí tuệ xuất sắc biết vận dụng sức mạnh của tâm đạo, reo đạo vào đời một cách sáng suốt, từng người, từng hoàn cảnh, dù đó là dân nghèo hay là kẻ cướp. Lòng từ của Ngài cũng mạnh mẽ thu hút như một uy lực. Ngài trở thành một người kỳ tài biết tổ chức, biết quy tụ Tăng chúng. Trí tuệ và lòng từ của Ngài đã vượt khỏi quan san từ lãnh địa Ấn Độ lan tỏa khắp nhân gian tạo nên một tôn giáo lớn mạnh của 1 trong 4 tôn giáo lớn trên thế giới. Con đường đạo Pháp được mở ra như một loại thế giới mới. một trật tự mới như bậc thiên tư kỳ tài.


Lúc đó, Hoàng Hậu Ma Da. mẹ của Bồ Tát Thụ Thai. Bà nằm mộng thấy một con voi trắng từ núi vàng, núi bạc đến và mang cho bà một cành hoa sen

Vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch, 625 trước tây lịch, Bồ Tát đản sanh ở vườn Lâm Tỳ Ni. Sau khi đản sanh, Ngài bước bảy bước , và mỗi bước có hoa sen đỡ chân Ngài. Ngài tuyên bố rằng : ” Ta là bậc Chí Tôn cao quý nhất giữa chư thiên và loài người “

Đạo sĩ Kaladevila viếng thăm, ông bật cười rồi lại khóc, ông cười vì rồi đây nhân loại sẽ được hưởng ánh đạo vàng và khóc vì nghĩ rằng sau khi mình chết sẽ tái sinh vào cõi phi phi tưởng xứ không nghe được pháp mầu

Trong lễ Hạ Điền, Hoàng tử Sĩ Đạt Ta ( Siddhattha – Bồ Tát của chúng ta
Ngài ngồi thiền định và nhập định sơ thiền sau khi quán chiếu, xuy xét sự khổ của chúng sinh bằng cặp mắt tuệ giác trong lễ Hạ Điền (côn trùng bị lưỡi cày cắt đứt tung lên mặt đất chim chóc thi nhau mổ sẻ… lỗi khổ nhọc của người nông phu…)

Hoàng tử cứu con thiên nga bị Đề bà Đạt Đa bắn
Hoàng tử Sĩ Đạt Ta (siddhattha) trình diễn kỹ năng bắn cung bằng cách nhấc một cái cung mà không ai trong cuộc thi nhấc và kéo nổi
Hoàng Tử Sĩ Đạt Ta Thuần Phục ngựa Kiền Trắc
Hoàng Tử Sĩ Đạt Ta thành hôn với công chúa Da Du Đà La


Ngày nọ Hoàng Tử Sĩ Đạt Ta đi dạo và chứng kiến bốn cảnh tượng tại bốn cổng thành mà từ trước tới nay chưa bao giờ được chứng kiến vì sắc lệnh của đức vua không muốn Hoàng nhi trông thấy những cảnh tượng đó. Bốn cảnh Tượng đó là: Người già, người bệnh, và người chết và cuối cùng là một người xuất gia

Trong ngày La Hầu La, con trai của Ngài chào đời sau khi yến tiệc vui mừng Ngài thấy cảnh tượng nhàm chán thế sự - các cô vũ nữ đang me say trong giấc ngủ đã biểu lộ những nét xấu xa, Hoàng Tử Sĩ Đạt Ta quyết định từ bỏ thế gian để xuất gia
Hoàng Tử Sĩ Đạt Ta cùng người hầu Sa Nặc ( channa) và ngựa Kiền Trác vượt sông ANOMA đi xuất gia tìm đạo Ngài cắt tóc lém lên không trung chư thiên đã nhận lấy xây tháp cúng dường trên cõi trời – áo choàng và gươm báu chao cho Sa Nặc cùng ngựa Kiền Trác chở về .

Bồ tát tu học nơi ẩn sĩ A La La Ca Lam đạt đến cấp thiền Vô Sở hữu xứ. Nhưng Tất Đạt Đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình, nên quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát

Nơi Ưu Đà La Ma tử thì học đạt đến cấp phi tưởng xứ, nhưng tất Đạt Đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của minh nên đã quyết tâm tự mình đi tìm đường giải thoát.


Nhưng Tất Đạt Đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình nên quyết tâm tự mình đi tìm đường giải thoát và có 5 tỳ kheo (5 anh em Kiều Trần Như đồng hành)




Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, Tất Đạt Đa nhận ra đó là không phải phép tu dẫn đến giác ngộ và bắt đầu ăn uống trở lại, năm tỳ kheo kia thất vọng bỏ đi. Nàng Sjata dâng Bồ Tát bát cháo sữa bằng vàng. Nàng nghĩ rằng Ngài là thiên thần (vì Ngài rất hảo tướng có 32 tướng tốt) Sau khi dùng sữa xong Ngài ném bát xuống dòng sông phát nguyện
Bồ Tát chiến thắng Ma Vương dước cội cây Bồ Đề

Ba Nàng công chúa của Ma Vương cố dùng mỹ nhân kế để lôi cuốn Đức Phật, nhưng cuối cùng họ thất bai hoàn toàn


Sau 49 ngày thiền định, mặc dù bị Ma vương quấy nhiễu Tất Đạt Đa đạt giác ngộ hoàn toàn ở tuổi 35. Từ thời điểm đó, Tất Đạt Đa biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh
Hai Thương buôn tên Tapussa và Bhallika cúng dường Đức Phật bữa cơm và họ là hai người quy y nhị bảo đầu tiên


Đức Phật gặp vị ẩn sĩ trên đường vị này hỏi thầy của Ngài là ai Đức Phật nói Ta không có Thầy vì pháp mà Ngài đang có là do Ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy, vì quá chú trọng tới quan niệm thầy tổ nên vị này đã bỏ nỡ cơ hội học pháp của mình



Đức Phật bắt đầu giảng Pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến nghiệm Giác ngộ cà giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm bước đường đi tu của mình. Ngài giảng Tứ Diệu Đế, duyên khởi và quy lậut nhân quả (Nghiệp). Tại vuờn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba La Nại, Ngài bắt đầu nhừng bài giảng đầu tiên được gọi là “Chuyển Pháp Luân”. Nam anh em Trần Kiều Như đó đã trở thành năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật và cũng là hạt nhân đầu tiên của Tăng già.


Đức Phật thuyết pháp cho công tủ Ya Sa. sau đó Ngài cho Yasa và năm mươi tư người bạn xuất gia .

Cha mẹ, vợ con của Yasa là những người quy y Tam Bảo đầu tiên

Đức Phật rời vườn Lộc Uyển đi về phía nam đến xứ Ưu Lầu tần Loa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín Đạo thờ lửa là Ngài Ma Ha Ca Diếp.


Đức Phật nhiếp phục rắn lớn trong nhà thờ lửa của ẩn sĩ uruvela kassapa (Ma Ha Ca Diếp)

Ẩn sĩ Uruvela kassapa (Ma Ha Ca Diếp) xin vào Tăng Đoàn

Hai người em của Ma Ha Ca Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1.200 vị xin quy y theo Phật.

Nhớ lời hẹn xưa với vua Tần Bà Xa La, Ngài đến xứ Ma Kiệt Đà vào thành Vương Xá để độ cho vua. Vua Tần Bà Xa La gặp lại Ngài vui mừng khôn xiết, truyền dây tịnh xá Trúc lâm để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ chúng sanh.





Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm thì vua Tịnh Phạn nghe tin Ngài đã thành Phật liền truyền sứ giả thỉnh Ngài về Ca Tỳ La Vệ, nhưng cả 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm không trở về. Thì ra 9 người này sau khi đến Trúc lâm nghe Phật thuyết Pháp đã say mê quên cả sứ mạng của mình và xin thọ Pháp xuất gia. Đến lần thứ 10, vua Tịnh Phạn sai 1 cận thần rất thân tín là Ưu Đà Di đến Trúc lâm mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ Vương xá trở về Ca Tỳ La Vệ, Đức Phật đã thuyết Pháp độ cho biết bao nhiêu người. Về tới ca Tỳ La Vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Dù chỉ trong thời gian ngắn ấy, Đức Phật đã cảm hóa được tất cả dòng họ Thích và cả dòng họ Thích đều quy y và một số người trong dòng họ xin xuất gia theo Phật: Đó là ông Nan Đà, A Nan Đà, A Nậu Lâu Đà, La Hầu…


Công chúa Da Du Đà la chỉ tay bảo La Hầu La hãy chạy xuống và xin gia tài của cha con


Đức Phật cho La Hầu La gia tài của mình không phải là tài sản thế gian mà là tài sản xuất thế gian Ngài thu nhận La Hầu La vào tăng đoàn. Vua Tịnh Phan Buồn khổ sau đó Vua yêu cầu Đức Phật không cho Phép giới tử xuất gia mà cha mẹ chưa đồng ý ( trong trường hợp dưới 18 tuổi) . Đức Phật nhận lời

Sau khi về thăm gia đình và quê hương, Đức Phật và các đệ tử tiếp tục đi truyền đạo. Ngài đến thành Xá Vệ là kinh đô của nước Kiều tát la tuộc quyền thống trị của vua Ba Tư Nặc. Trong thành này có mộ vị đại thần tên là Tu Đạt Đa giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng, côi cút nên được gọi danh hiệu là trưởng giả Cấp Cô Độc, ông rất ngưỡng mộ Đức Phật nên đã trút hết tất cả tiền của, vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái từ Kỳ Đà để làm Tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở thuyết Pháp độ chúng sanh.


Đức Phật giải quyết tranh chấp nước trên cùng một giòng sông khi mùa khô can đến giữa một bên là tộc nội một bên là tộc ngoại



Ngài Mục Kiền Liên dùng Thần thông bay lên lấy cái bát bằng gỗ quý theo lời thách đố của một người: “Nếu trên đời ai là A La Hán thì hãy bay lên mà lấy cái bát và nó sẽ thuộc về người đó”. Chuyện đến tai Đức Phật từ đó Đức Phật không cho phép lạm dụng thần thông !



Ông Bà La Môn thấy Đức Phật có 32 tướng của bậc đại nhân nên quyết tâm gả con gái cho Ngài. con gái của ông từ trước tới nay có rất nhiều người tới hỏi nhưng ông không đồng ý nhưng Đức Phật từ chối.

Bị từ chối con gái ông Bà La Môn ôm hận trong lòng và thề sẽ trả thù sau này cô ta làm vợ vua nhằm lúc Đức Phật và Ngài A Nan tới đây hoằng pháp bà ta cho người tới chửi vả.
Ngoại đạo chôn xác gần tịnh xá vu khống cho Đức Phật và Tăng Đoàn
Nàng Chin Cha làm bụng giả vu khống Đức Phật




Tướng cướp Vô Não cố ý giết mẹ để đủ bộ sưu tập ngón tay người, nhưng khi thấy phật ông đổi ý giết Ngài và ra lệnh Ngài đứng lại. Ngài nói: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi còn ngươi thì chưa”. Nghĩa là Ngài đã dừng sự sát sanh, dừng sanh tử luân hồi còn ngươi thì chưa. Tướng cướp thức tỉnh xin xuất gia sau đó đắc quả A La Hán.














Người đàn bà này tới xin Đức Phật làm cho con bà sống lại. Ngài nói hãy tới xin hạt cải của nhà nào không có người chết ta sẽ làm cho con bà sống lại, bà đã tỉnh ngộ và xin quy y Tam Bảo.

Ngài A Nan xin nước của cô thôn nữ thuộc giai cấp thủ đà la ( giai cấp thấp nhất thời Ấn Độ



















“Không bao lâu thân này sẽ nằm dài trên đất bị vất bỏ vô thức như khúc cây vô dụng”. Câu pháp cú Ngài đọc khi tới chăm sóc một tỳ khưu già sắp qua đời khi Ngài đọc dứt câu kệ trên vị Tỳ khưu già khai triển tuệ minh sát đắc A La Hán Thánh quả và Nhập diệt sau đó
Ngài Mục Kiền Liên tới độ ông trưởng gia keo kiệt







Cây Đại Bồ đề A Nan














Vào năm đói kém dân chúng mất mùa việc khất thực gặp khó khăn nhưng mỗi vị sư và Đức Phật được cúng một nắm cám từ ông chủ ngựa có 500 con ngựa khi ông đi qua đây.

Tăng đoàn bị chia rẽ Đức Phật một mình đi vào rừng và được sự chăm sóc bởi voi và thú rừng




Devadata mưu toan hãm hại Đức Phật bằng cách cho tượng Nalagiri uống rượu mạnh đến say rồi xua nó chạy thẳng vào người Đức Phật. Khi tượng Nalagiri đang hung dữ lao đến gần thì đại đức A Nan Đa lật đật đứng chặn truớc định hy sinh chịu cho voi đạp lên mình cứu nguy Đức Phật. Nhưng Dức Thế Tôn dùng tâm t (Metta) cảm hoa voi say.


Sau đó Devadatta âm mưu với Thái Tử Ajatasattu (A Xà Thế) toan sát hại Đức Phật. Ông ta xúi dục Ajatasattu giết cha đoạt ngai vàng. Phần ông ta sẽ giết Đức Phật để nắm quyền chưởng quản Giáo Hội Tăng Già. Kẻ bất hiếu, Ajatasattu, thành công mưu sát người cha có tâm đạo nhiệt thành. Còn Devadatta thì thuê những tay thiện xạ đi giết Đức Thế Tôn. Nhưng trái với điều ông mong muốn, tất cả những người được thuê ấy, lúc gần đến Đức Phật đều xin quy y Tam Bảo và theo Ngài. Mưu đồ bất thành, Devadatta quyết tâm chính ông ta sẽ ra tay sát hại Đức Phật.


Trong lúc Đức Phật đi bên sườn núi Gijihakuta (núi Linh Thứu) ông trèo lên trên cao xô 1 tảng đá to lăn xuống chỗ Đức Phật. Nhưng tảng đá lăn chếch vào một tảng đá khác chỉ có 1 mảnh nhỏ văng nhẹ vào chân Đức Phật. Một vị lương y là Jivaka đã đến săn sóc vết thương của Ngài.












Vua Tỳ Lưu Ly đem quân trinh phạt dòng họ Thích Ca, nhưng cả ba lần vua đem quân thấy Đức Phật ngồi đó thì cả ba Vua hiểu ý đem quân trở về. Lần thứ tư vua cho quân đi ban đêm, Đức Phật biết không thể cản được nghiệp mà trước đó dòng họ Thích đã tạo, nên Ngài không xuất hiện nữa !
Đức Phật sắp nhập Niết Bàn dưới hai cây Sala
Ngài A Nan ra giấu cho cụ già là Thế Tôn đã mệt nhưng Đức Phật đã tiếp nhận ông cụ vào Tăng Đoàn
Phân chia xá lợi Phật ...

Kết tập Tam Tạng lần thứ nhất












HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).5/12/2011.
 

No comments:

Post a Comment