Tu Ðạo Không Nên Tranh Hơn
Hiện nay trong Thiền
Thất, các hành giả dụng công nhưng là loại công phu hời hợt. Người ta coi thiền
như là một cuộc đua, để tranh nhau về nhất. Anh có thể ngồi trong ba tiếng đồng
hồ thời tôi sẽ ngồi trong năm tiếng, hơn anh một bậc. Nếu thiền mà còn mang tâm
lý đó thì quý vị ngộ làm sao được? Cho dù quý vị ngồi tới tám vạn đại kiếp cũng
không thể nào minh tâm kiến tánh được. Tại sao vậy? Chỉ vì quý vị có tâm hơn
thua. Có câu rằng:
Tranh, do tâm hơn
thua
Là đi ngược với
Ðạo
Trong tâm sanh bốn
tướng
Làm sao đạt tam
muội?
Bốn câu kệ trên dùng để
cảnh giác người tu không được sanh tâm tranh. Khi công phu đầy đủ, trí huệ hiển
bày, tự nhiên sẽ có người khác phẩm bình đưa ta lên hạng nhất. Như vậy mới là
hạng nhất thật sự. Còn như trong tâm quý vị tham đứng hạng nhất, thì đây là tâm
hơn thua, đi ngược với Ðạo.
Người tu hành phải giống
như nước. Tánh của nước là khiêm nhượng, không tranh công, không tham đức, cái
gì tốt thì để cho người, cái gì xấu thì giữ lấy cho mình. Lão tử nói: Cái thiện
tột cùng giống như nước. Nước đem lợi ích cho vạn vật mà không tranh. Nước ở nơi
mà mọi người khinh rẻ, do đó nước hợp với Ðạo".
Thiện tột cùng chỉ những
hành giả ưu hạng. Họ được ví như nước. Nước chảy tới những chỗ thấp, nước đem
lại lợi ích cho muôn vật mà không tranh công tranh đức. Bất kể đối với loài nào,
chim chóc, cá tôm, động vật hay thực vật, bất kể sanh ra do thai, do trứng, do
khí ẩm, hay là hóa sanh, nước đều đối xử ngang nhau và cho đều tất cả. Người tu
hành cũng vậy, đối với tất cả chúng sanh đều coi như cha mẹ của mình trong quá
khứ, như các vị Phật trong tương lai. Người tu phải rải tâm từ bi, tìm các
phương tiện để cứu chúng sanh ra khỏi bể khổ; trú ở những nơi mà chúng sanh
không muốn trú. Có được những tư tưởng đó thì hành giả đã gần tới Ðạo. Còn như
tâm hơn thua là không hợp với tông chỉ của kẻ tu hành, ngược lại với Ðạo
vậy.
Người tu hành không nên
có bốn tướng.
- Ai tu đó? Như tự cảm
thấy là không có ai tu, tức là không có tướng ngã (vô ngã tướng).
- Tự mình không cảm thấy
hơn thua với ai, tức là không có tướng của người (vô nhân tướng).
- Không thấy tướng mình,
không thấy tướng người, tự nhiên tướng chúng sanh cũng không (vô chúng sanh
tướng).
- Như đã không có tướng
chúng sanh thì lấy đâu ra tướng của thọ mạng? Vậy là vô thọ giả
tướng.
Như nếu còn tư tưởng
muốn tranh hơn kém, tất nhiên sẽ có bốn tướng; có bốn tướng thì không sao đạt
được tam-muội. Nghĩa lý đó chúng ta phải thực tập, mài dũa cho nhiều. Tóm lại,
ai còn bốn tướng là phàm phu, ai không có bốn tướng là Bồ-tát.
Người tu phải ghi nhớ
bốn câu kệ trong Kinh Kim Cang:
Hết thảy các pháp hữu
vi
Như mộng, huyễn, bọt,
hình
Như sương, như điện
chớp
Nên quán chúng như
vậy.
Phàm cái gì có hình có
tướng đều là pháp hữu vi. Pháp hữu vi cũng giống như một giấc mộng, một thứ
huyễn hóa, một cái bọt nước, một cái bóng hình, một tia điện chớp, toàn là những
thứ hư vọng không có thực chất. Hết thảy mọi thứ đều phải quán như vậy, mới có
thể hiểu minh bạch lẽ chân thật, để chúng ta không chấp trước, không bị vọng
tưởng quấy nhiễu.
Kinh Kim Cang còn nói:
"Tâm quá khứ chẳng có được, tâm hiện tại chẳng có được, tâm vị lai chẳng có
được". Tại sao tâm quá khứ chẳng có được (bất khả đắc)? Bởi quá khứ đã qua
rồi, quan tâm tới nó làm gì nữa? Tâm hiện tại cũng chẳng có được, bởi cớ gì? Bởi
trong hiện tại các niệm nối tiếp không ngừng. Quý vị bảo đây là hiện tại, nhưng
khi nói xong thì cái hiện tại đó cũng qua rồi, thời gian chẳng chịu ngưng lại.
Tại sao tâm vị lai chẳng có được? Bởi vị lai là chưa có tới. Cho nên quá khứ,
hiện tại, vị lai, ba tâm này chẳng có được. Nếu quý vị theo đúng Pháp mà Phật
chỉ dạy để tu hành thì ngay đó có thể đạt được cảnh giới Niết-bàn.
Người tu Ðạo phải y theo
chánh tri chánh kiến, coi đó là mẫu mực để tinh tấn thực tập. Lúc tu là lúc "lìa
tướng ngôn thuyết", bởi không còn gì để nói ra nữa; cũng là lúc "lìa tướng tâm
duyên", vì không còn duyên nào để tâm theo đuổi; "lìa tướng văn tự", vì không
còn chữ nghĩa gì để tả ra. Nếu đã không nói được ra, thì có gì để ghi nhớ? Còn
cái gì mà chúng ta không buông bỏ được? Còn gì nữa để chúng ta quan tâm? Quý vị!
Hãy dụng công ngay tại chỗ đó, thay vì dụng công hời hợt ở cái vỏ
ngoài!
Có người nghĩ rằng: "Hôm
nay tham thiền, chân mình không bị đau, lưng không bị mỏi, đến giờ khai tịnh mà
cũng không hay". Nói như vậy tức là người đó đã ngủ quên, tất nhiên chẳng còn
hay biết gì hết. Ðừng ngộ nhận cảnh giới đó, kẻo lại bị tẩu hỏa nhập
ma!
Quý vị nên chú ý! Khi
tham thiền gặp cảnh lạ, quý vị cũng đừng quan tâm, đừng chú ý, cứ để tự nhiên,
đừng cho cảnh lạ lay chuyển. Kinh Lăng Nghgiêm giảng về điểm này rất rõ. Mong
các hành giả tìm nghiên cứu phần "Ngũ Thập Ấm Ma" cho tường tận. Kinh
Lăng Nghiêm là một tấm gương quý báu cho người tham thiền, do đó tất cả những ai
tu phải nghiền ngẫm bộ Kinh đó.
Mục Ðích Của Người Tu Hành Là Thành Phật
Vì lẽ gì mà tu hành? Tu
hành để thành Phật. Thành Phật bằng cách nào? Bước đầu là "chẳng làm điều ác,
nguyện làm các việc thiện". Bước kế tiếp là "chuyên cần tu Giới Ðịnh Huệ, dập
tắt tham sân si". Tiến lên bước nữa "phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-tát" . Vì các
lẽ ấy, khi chưa thành Phật, người tu phải chọn con đường sáng sủa quang đãng mà
đi. Chớ nên mưu đồ quanh co, tìm con đường tắt gập ghềnh, mà bị lạc hướng. Xin
hãy lưu ý! Hãy cẩn thận!
Người tu hành chân chánh
cứ y theo pháp mà tu tập, không ngại khổ, không sợ khó, mạnh dạn dấn thân, tới
thẳng Phật quả. Có câu nói như sau:
Mài chầy thép thành kim
khâu
Công đức vẹn tự nhiên
thành
Dụng công cho đến chỗ
tận cùng, tự nhiên Phật quả thành tựu. Còn như tự khoe mình tài giỏi, có công
đức thì chẳng bao giờ thành Phật được.
Khi nào Ngũ nhãn khai
mở, quý vị sẽ thấy chư Phật mười phương tu hành như thế nào mà thành Phật quả;
quý vị có thể thấy chư Bồ-tát mười phương tu hành cách nào mà được quả Bồ-tát;
quý vị có thể thấy mười phương A-la-hán đã dụng công ra sao để tới quả A-la-hán.
Trong một thoáng, quý vị nhận được ngay các cảnh giới đó.
Người có thần thông Ngũ
nhãn chỉ cần thời gian một niệm là đã thông đạt rõ ràng tất cả lời Phật dạy ghi
trong Tam Tạng Giáo Ðiển, cũng như thấu hết Thực tướng các pháp.
Trong lời nguyện tam quy
có những câu:
- Tự quy y Phật, đương
nguyện chúng sanh, thể giải đại Ðạo, phát vô thượng tâm.
- Tự quy y Pháp, đương
nguyện chúng sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như hải.
- Tự quy y Tăng, đương
nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.
Nếu như có thể "thâm
nhập Kinh tạng, trí huệ như hải", thì lúc đó không chỗ nào là không thông, không
chỗ nào không rõ, không chỗ nào không biết, không chỗ nào không thấy, đó là lúc
khai ngộ triệt để. Chớ giữ cái nhỏ, để mất cái lớn; chớ tham những cảnh giới nhỏ
nhoi làm che mờ trí huệ Ðại Viên Kính. Theo lối đó là không thể thâm nhập Kinh
tạng, không thể có trí huệ như hải.
Người có đại trí huệ thì
tuyệt đối không tham những cảnh giới nhỏ, bởi những ai ham những cảnh đó tức họ
không biết phân biệt chân giả. Họ lẫn lộn vàng thau, coi thau là vàng ròng, thậm
chí pha lê cũng giống như loài đá vậy. Tại sao vậy? Họ không phân biệt được đâu
là thiệt, đâu là giả.
Người tu Ðạo phải có
chánh tri chánh kiến, không đảo lộn phải trái và đen trắng phải phân minh, chớ
không thể lấy mắt cá làm hạt châu, chẳng thể nhập nhằng che mắt người khác Nếu
không vậy là có tà tri tà kiến, muôn đời không thành Phật.
Như thế nào là chánh tri
chánh kiến? Nói một cách đơn giản, chúng ta phải gạt ba cái độc là tham sân
si, giữ cho thân tâm thanh tịnh, trí huệ sẽ hiển bày và chiếu sáng, khiến
cho sự đen tối của vô minh tan biến, phiền não được diệt trừ. Tới được cảnh giới
này thì chứng quả, mong quý vị hướng tới mục tiêu đó tinh tấn tu
hành.
Quý vị ngồi trong Thiền
đường, trông bề ngoài có vẻ như đương tham thiền nhưng bên trong chính là đương
đuổi theo vọng tưởng. Các vọng tưởng này dẫn chúng ta lúc thì lên trời, lúc
xuống đất, lúc làm quỷ đói, lúc làm súc sanh. Những loại đó đều sanh ra từ gốc
trong tham sân si. Bảo rằng siêng năng tu giới định huệ, nhưng kỳ thực không tu
giới định huệ; nói là diệt tham sân si, nhưng kỳ thực không diệt tham sân si. Kỳ
quặc như vậy đó! Chẳng cứ riêng đời này mới như vậy, mà đời đời kiếp kiếp mình
theo lối đó, cho nên mới có chuyện đi lên đi xuống, quẩn quanh trong sáu nẻo
luân hồi, không bao giờ ngừng lại. Làm kiếp con chó, cảm thấy mình là nhất; làm
kiếp con mèo, cũng cảm thấy mình là nhất; nói tóm lại bất luận trong kiếp chúng
sanh nào cũng tự coi mình là hạng nhất. Tại sao vậy? Tại có chấp trước bởi vô
minh. Nếu như thực lòng tu Ðạo, cố gắng tham thiền thì mới có thể giải thoát
khỏi cảnh luân hồi và chứng được Niết-bàn an lạc.
Có một số tu hành thiếu
nghiêm túc đã để cho thời gian trôi qua uổng phí. Thấy mọi người ngồi, mình cũng
ngồi; mọi người đi ta cũng đi; ai làm sao thì mình làm vậy. Những người đó đem
vấn đề sanh tử của chính mình ném lên tận chín tầng mây xanh, không coi nó là
quan trọng tí nào, nên không quyết tâm tu, không chịu dập tắt vọng tưởng. Họ
ngồi ở đấy, nhưng đầu óc thì hết tâm tưởng này đến tâm tưởng khác, một ngày có
đến tám vạn bốn ngàn vọng tưởng mà còn thấy chưa đủ. Vọng tưởng! Lại vọng tưởng!
Vọng tưởng làm cho tâm nhiễu loạn tơi bời, thần hồn điên đảo, quả thật đáng xót
thương!
Vậy thì làm sao cho hết
vọng tưởng? Hãy tham thoại đầu, không có cách gì khác. Tuy thoại đầu cũng là
vọng tưởng, nhưng nó có tác dụng làm cho tinh thần của quý vị tập trung lại,
không cho tâm đi ra ngoài rong ruổi. Ðây chính là cách lấy độc trị độc, dùng một
vọng tưởng để khống chế các vọng tưởng khác, lấy một vọng tưởng làm đề mục để
tham, tham đi tham lại, nên không còn vọng tưởng khác. Khi hành giả tới được
trình độ không còn vọng tưởng nữa đó chính là thời cơ khai ngộ. Khi đó, một lời,
một cử chỉ, một hành động cũng có thể mở cho quý vị cánh cửa khai
ngộ.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.( TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.9/12/2012 ).THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment