Tuesday 24 January 2012

Tu Hạnh Nhẫn Nhục Có Phải Là Im Lặng Chịu Đựng Không

SEN VÀNG NGÁT HƯƠNG

KỶ NIỆM 1 NĂM TVCP

LỄ TRUYỀN THỌ QUY Y

Tình Mẹ Trong Con









HT Thích Thánh Nghiêm
Việt Dịch: Thích Minh Quang
Nhẫn Nhục là hạnh thứ ba trong Lục độ. Độ có nghĩa là vượt qua biển khổ phiền não. Nhẫn Nhục độ quả thật cũng có nghĩa là im lặng chịu đựng. Ví dụ như Kinh Di Giáo nói: “Người có thể tu hạnh nhẫn nhục mới là bậc đại nhân có sức mạnh lớn. Nếu vị đó không thể nhẫn chịu cái độc của lời mắng nhiếc như uống nước cam lộ, thì không được gọi là người nhập đạo có trí huệ.” Du Già Sư Địa luận quyển 57 cũng nói: “Thế nào là nhẫn nhục? Do ba loại hành tướng nên biết: Một, là không phẫn nộ; Hai, không oán trách; Ba, không có tâm ác hại.” Ngoài ra, Đại Trí Độ Luận quyển 6 cũng nói: “Bị chúng sanh dùng mọi cách để ác hại, song tâm không sân hận; được mọi sự cung kính cúng dường, song tâm không hoan hỷ…đó gọi là nhẫn nhục trong hàng chúng sanh.”
Cũng sách đó, quyển 15 nói: “Nhẫn trước sự cung kính cúng dường của chúng sanh và những người sân não, dâm dục, đó gọi là sanh nhẫn. Nhẫn pháp cúng dường, cung kính của họ , và nhẫn pháp phiền não dục, đó là phấp nhẫn.” Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới quyển 7 cũng nói: “Nhẫn có hai loại: Một là thế gian nhẫn, chính là nhẫn nại sự đói khát, lạnh nóng, khổ vui; Thứ hai là xuất thế gian nhẫn, chính là có thể nhẫn tín, giới, thí, văn, huệ, chánh kiến không sai lầm, nhẫn Phật, Pháp, Tăng, nhẫn mắng chửi, đánh đập, ác khẩu, ác sự, tham, sân, si.v.v…Có thể nhẫn việc khó nhẫn, có thể thí xả việc khó thí xả.”.
Từ những nội dung Kinh luận dẫn ra ở trên, cho thấy hàm nghĩa hai chữ nhẫn nhuc rất rộng, có ý từ chối dục lạc và tiếp nhận các khổ. Tiếp nhận sự nhục mạ vô lý, từ chối người đẹp ngả dựa vào lòng, không phải là điều người bình thường nhẫn được; tin nhận những pháp môn trong Phật Pháp, cũng không phải là điều mọi người đều làm được. Nói chung, nếu đối với những việc không có liên quan đến mình, còn có thể nhẫn chịu; còn nếu đối với những việc liên quan đến mình như danh lợi, quyến thuộc, nam nữ… thì thật khó mà nhẫn.
Phật Pháp không chỉ nhẫn cho mình, mà còn nhẫn cho chúng sanh. Khi đến trình độ vô tránh, thì tám gió thổi không động, tức cảnh giới an nhiên bất động trước lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Cho nên Bồ tát giải thoát gọi là được vô sanh pháp nhẫn. Đối với sáu tình bên trong (sáu căn) mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không chấp trước; đối với sáu trần bên ngoài sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp không tiếp nhận, tức là pháp nhẫn. Nếu làm được: Gặp mọi bức hại không sân, nhận sự cúng dường không hoan hỷ, tức không còn có ta tiếp thọ, cũng không còn có người khiến ta tiếp thọ. Có thể đạt được trình độ như thế, thì gọi là sanh nhẫn. Đây không những là cảnh giới của Bồ tát thánh vị, mà cũng là mục đích tu hành Phật Pháp. Nếu nhẫn được thì mình an ổn, người khác cũng được an ổn, mọi người hòa hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Cho nên nhẫn nhục là chuẩn tắc tốt nhất, để xây dựng thế gian hòa hợp an vui.
Theo tiêu chuẩn này, dường như nhẫn nhục là im lặng chịu đựng. Tất cả oan ức, nhục mạ, hủy báng, công kích đều nên tiếp nhận tất cả, không có phản kháng. Thực ra, không phải hoàn toàn như vậy. Chúng ta cần phải chú ý, nếu nhẫn nhục không phải xuất phát từ trí tuệ, thì có thể tạo thành tai nạn lớn hơn. Do đó, việc thông qua trí tuệ quán chiếu, thật vô cùng quan trọng. Ví dụ như nói, gió, mưa, nước, lửa không cách nào khống chế, song có thể đề phòng trước, tìm cách tránh đi, giảm thiểu tai hại, tổn thất. Còn nghiệp báo thì phải can đảm đối diện, chấp nhận, song cũng có thể thông qua sự nỗ lực để cải đổi mức độ nghiệp báo.
Cho nên, nếu đối cả hai không có tổn hại mà còn có ích thì cần phải tiếp nhận; nếu đối với người có ích, còn mình vô ích, thì có thể xem xét để chấp nhận; còn đối với cả hai chẳng những vô ích mà còn có hại, thì phải tìm cách tránh đi, hay chuyển biến. Ví dụ, biết rõ đối phương là con voi dữ, chó điên, người cuồng, gặp ai cắn nấy, gặp người liền giết, thì đương nhiên phải tìm cách ngăn chặn, vì họ đã bất hạnh, đừng khiến họ gây tạo thêm nhiều điều bất hạnh. Song ta không thể có tâm báo thù, ăn miếng trả miếng, mà phải dựa trên nguyên tắc từ bi để xử lý. Riêng bản thân ta, phải luôn phản tỉnh, hổ thẹn sám hối. Đối với người mất đi lý trí, nên thông qua phương thức quản thúc, giáo hóa, khiến họ trở lại bình thường. Điều này đối với bản thân họ, cho đến cả xã hội, và tất cả chúng sanh, có công đức thật vô cùng to lớn.
Chuaminhthanh





Hướng về Thành đạo
Đức Thế Tôn thành đạo bằng con đường nào? Bằng con đường chí thiện, có nội dung đoạn trừ các lậu hoặc, để thành tựu Niết-bàn và giáo hóa chúng sinh.
- Điểm Đến Chí Thiện
Sau những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, Thế Tôn nói: "Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh".[1]

Như vậy, điểm cùng đích mà khi xuất gia Thế Tôn hướng tới là điểm chí thiện. Cùng đích của chí thiện là Diệt đế tức là Niết-bàn hay tịch tịnh tuyệt đối. Vì sao? Vì nó là đời sống không còn bị sanh, già, bệnh, chết chi phối. Cùng đích của chí thiện là vô sanh, bất diệt, nơi không còn bất cứ một bóng dáng nào của tham dục và ngã tưởng.

- Đường Lớn Mở Ra

Thế Tôn đã đi đến cùng đích của chí thiện bằng con đường nào? Bằng con đường Thánh đạo tám chi.

Do đi trên cao đường nầy, Thế Tôn đã vượt ra khỏi hai cực đoan là khổ hạnh ép xác và buông lung trong các dục. Sống với đời sống ép xác khổ hạnh, khiến con người có cái nhìn lãnh cảm với cuộc đời và hờ hững với những gì đang hiện hữu; và sống với tâm buông lung trong các dục, khiến cho con người quá nhiệt tình với các nhu cầu của lòng tham, nên bị mù quáng và chết điếng bởi nó.

Nên, Thánh đạo tám chi, con đường vượt ra khỏi hai cực đoan ấy, để đi đến cùng đích của chí thiện và Thế Tôn đã đi đến cùng đích ấy bằng con đường nầy.

Vì vậy, đức Thế Tôn nói: "Nầy các Tỳ-kheo! Quý vị tu tập, cần phải từ bỏ hai cực đoan ấy. Tôi sẽ nói cho quý vị biết về con đường Trung đạo, quý vị phải hết lòng nghe, ghi nhớ và nỗ lực thực hành!

Thế nào là con đường Trung đạo? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Con đường đủ tám yếu tố như vậy, gọi là Trung đạo. Đây là con đường đi tới an lạc, trí tuệ,giác ngộ và Niết-bàn". [2]

Như vậy, Thế Tôn thành đạo là do Ngài đã tự mình đi trên con đường nầy và con đường lớn đã mở ra, dẫn Ngài đến chỗ an lạc chí thiện, trí tuệ minh triệt, giác ngộ tối thượng và Niết-bàn tuyệt đối.

- Đoạn Trừ Lậu Hoặc Và Chứng Tam Minh

Thế Tôn đoạn trừ các lậu hoặc bằng con đường nào? Bằng con đường thiền quán với sự có mặt của Chánh tư duy, sau khi đã đi qua hỷ lạc, do các loại thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền đem lại, Ngài dừng lại ở nơi Tứ thiền, với tâm thuần tịnh, không còn các bóng dáng của khổ thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ và niệm tưởng, và bấy giờ Ngài đi vào thiền quán, lấy "lão tử" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "sanh"; lấy "sanh" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "hữu"; lấy "hữu" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "thủ"; lấy "thủ" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "ái'; lấy "ái" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "thọ"; lấy "thọ" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "xúc"; lấy "xúc" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "lục nhập"; lấy "lục nhập" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "danh sắc"; lấy "danh sắc" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "thức"; lấy "thức" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "hành"; lấy "hành" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "vô minh"; lấy "vô minh" làm đối tượng tư duy để thấy rõ "vô minh" diệt, thì "hành" diệt; "hành" diệt, thì "thức" diệt; "thức" diệt, thì "danh sắc" diệt; "danh sắc" diệt, thì "lục nhập" diệt; "lục nhập" diệt, thì "xúc" diệt; "xúc" diệt, thì "thọ" diệt; "thọ" diệt, thì "ái" diệt; "ái" diệt, thì "thủ" diệt; "thủ" diệt, thì "hữu" diệt; "hữu" diệt, thì "sanh" diệt; "sanh" diệt, thì "lão tử" diệt.

Sau khi đã tư duy và thấy rõ như vậy, Ngài liền thấy và biết một cách như thật rằng, chính "ái, thủ và hữu" là tác nhân và tác duyên hiện tại để "sanh lão tử" có mặt; và "vô minh, hành" là tác nhân, tác duyên quá khứ để cho "thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ" có mặt, và toàn bộ "khổ uẩn" đời nầy và đời sau có mặt, nên Ngài đã dùng năng lực của Giới, Định và Tuệ hay các yếu tố trợ đạo và chánh đạo, để chặt đứt "ái, thủ và hữu"; chặt đứt "vô minh và hành", khiến các lậu hoặc đều dứt sạch; và bằng tuệ giác, Ngài đã soi chiếu vào tự thân, thấy rõ nhân duyên của mình, từ một kiếp, hai kiếp cho đến vô lượng kiếp, trong quá khứ với tên như vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy, với quốc độ như vậy, với hành nghiệp như vậy... với sự thấy rõ như vậy,gọi là Túc mạng minh. Ngài đã chứng minh nầy, cuối canh một của đêm Thành đạo.

Tiếp tục thiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi chiếu nhân duyên và nghiệp quả của chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp quả của những loài chúng sanh sinh ra từ sự ẩm ước; từ trứng; từ thai; và từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như vậy, gọi là Thiên nhãn minh. Ngài chứng minh nầy vào cuối canh hai của đêm Thành đạo.

Ngài vừa chứng Thiên nhãn minh, thì ngay lúc ấy, sấm sét nổ tung vang trời, mưa bắt đầu tuôn xuống xối xả. Nhưng Ngài vẫn điềm nhiến bất động, dẫn tâm hướng đến Lậu tận trí và biết đúng như thật: đây là khổ; đây là tập khởi của khổ; đây là sự vắng mặt của khổ; và đây là con đường chấm dứt sự khổ.

Sau khi đã có Chánh kiến như vậy rồi, Ngài lại tiếp tục quán chiếu để thấy rõ:

"Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những kiến thức mê lầm. Đây là những mê lầm do vô minh.

Đây là nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm. Đây là nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là nguyên nhân của sự mê lầm do vô minh.

Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân mê lầm. Đây là vắng mặt nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân sinh khởi vô minh.

Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những ước muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những kiến thức mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những mê lầm do vô minh".

Bằng con đường thiền quán, soi rọi tâm thức như thế, Ngài đã loại trừ hết thảy dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ngài tự biết mình đã giải thoát hoàn toàn, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ lậu hoặc nào và tự tuyên bố:

"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn tái sanh nữa".

Với Chánh kiến đối với các lậu hoặc ở nơi tự tâm như vậy, gọi là Lậu tận minh. Ngài đã chứng được minh nầy, vào cuối canh ba của đêm Thành đạo.

Cùng ngay lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên của hết thảy mọi ngôn ngữ và âm thanh, nên Ngài đã chứng Thiên nhĩ thông. Tiếp tục thiền quán, Ngài chứng được Tha tâm thông, biết rõ tâm của hết thảy chúng sanh. Và ngay sau đó, Ngài chứng luôn Thần túc thông, không còn bất cứ một chướng ngại nào đối với bước chân đi của Ngài.

Chướng ngại đã qua, nắng ấm đã lên, Ngài nhìn muôn vật mỉm cười và tự nhủ:

"Cửa vô sanh bất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành". Bấy giờ là vào ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, lúc Ngài 35 tuổi.[3]

- Thành Đạo Và Hoằng Pháp

Sau khi đức Thế Tôn, đoạn sạch hết thảy lậu hoặc, chứng đắc Tam minh và thành tựu Lục thông, Ngài thành bậc Như Lai, A-la-hán, bậc Vô thượng giác với đầy đủ mười phẩm tính giác ngộ.

Ngài nói: "Này các Tỳ kheo! Trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy được gọi là Như Lai".[4]

Và ở trong kinh Mật Hoàn, đức Thế Tôn đã khẳng định sự thuyết pháp của Ngài cho những người chất vấn rằng: "Ngài thuyết pháp không phải để tranh luận với một ai giữa đời".[5] Và Tôn giả Mahakaccana đã nói cho các hiền giả về sự thuyết pháp của Thế Tôn rằng: "Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, Ngài trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành Brahma, vị thuyết giả, diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị Pháp chủ, NhưLai". [6]

Sau khi thành đạo, với cái biết như vậy, với cái thấy như vậy, với Chánh pháp như vậy... sau nhiều tuần lễ yên lặng quán chiếu, Ngài đã thương đời, thương chúng sanh chìm đắm trong vô minh khổ hải sinh tử, nên Ngài đã đến vuờn Nai để chuyến vận Pháp luân, kêu gọi năm anh em Kiều Trần Như, nên từ bỏ hai cực đoan: một là ép xác khổ hạnh; hai là buông lung trong các dục; và hãy thực hành Trung đạo là Bát chánh đạo. Sau đó Ngài chuyển vận pháp luân Tứ Thánh Đế ba lần gồm: thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển với đầy đủ mười hai hành tướng cho năm anh em Kiều Trần Như. Từ đó Phật, Pháp, Tăng có mặt một cách đầy đủ cả sự và lý ở trong thế gian. Phật là đấng Thế Tôn, Pháp là Bát Thánh đạo, trục quay của Tứ Thánh Đế và Tăng đoàn có mặt đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như, được thiết lập trên nền tảng Thánh đạo với bản thế thanh tịnh và hòa hợp.

Bấy giờ, Tăng đoàn của Thế Tôn càng ngày càng lớn mạnh, chánh pháp càng lúc càng được tuyên dương rộng rãi, rạng ngời khắp xứ Ấn độ bấy giờ.

Đối với sự nghiệp hoằng pháp, đức Thế Tôn dạy: "Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả nỗ lực thiên kiến, tùy miên về mọi chấp trước kiến xứ, sự an tịnh của mọi hành động, sự vứt bỏ mọi chấp trước, sự diệt trừ khát ái, để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn".[7]

Như vậy, sau khi thành đạo, đối với con đường hoằng pháp, Ngài nói: "Ngài thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời".[8]

Nói một cách khác, vì thương chúng sanh thọ khổ mà Phật có mặt ở trong thế gian và thuyết pháp, giáo hóa đem lại Chánh kiến và sự an ổn cho cõi đời. Trong sự giáo hóa và thuyết pháp của Ngài đã có sự thống nhất và xuyên suốt một mục đích duy nhất như Ngài nói: "Chư Tỳ kheo! Xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ".[9]

Với lý tưởng hoằng pháp để diệt khổ cho chúng sanh, Thế Tôn sau khi thành đạo, Ngài đã lên đường chuyển vận bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai và thành lập Tăng đoàn, để cùng Ngài hoằng pháp, đem những điều tốt đẹp, cao quý do Ngài đã giác ngộ truyền bá cho nhân loại khắp cả muôn nơi.

Giáo lý do Ngài giảng dạy không hề có sự tranh hơn thua với ai, mà chỉ nhắm thẳng tới sự diệt tận khổ đau cho con người, nếu con người biết chấp nhận pháp, nương tựa pháp và hành trì theo pháp, thì nhất định ngay trong đời sống nầy khổ đau sẽ bị diệt tận.

Ở trong các kinh điển, đức Phật đã dạy rằng: "Những ai đến với Ngài không phải để nói hay để tranh cãi mà đến để thấy và chứng ngộ".

Tăng đoàn có mặt giữa cuộc đời và đi khắp thế gian, cũng chỉ vì mục đích ấy, chứ không vì bất cứ mục đích nào khác. Nghĩa là không tranh giành hơn thua với ai, với đoàn thể nào, mà chỉvì lợi ích và an lạc cho đa số; vì lòng thương đối với cuộc đời, mà thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sanh không bị tham dục, sân hận và si mê ám hại, như đức Phật nói ở trong kinh Đại bổn:

"Này các Tỳ kheo! Hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng với đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ.

Này các Tỳ kheo! Hãy thuyết giảng Chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng Chánh pháp sẽ bị nguy hại".[10]

- Kỷ Nguyên Mới

Như vậy, ta thấy ngày Thành đạo của đức Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên của Chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo nên.

Tâm cũng vô thường như bất cứ những sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của của nó được thay đổi. Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giới con người là Bát Thánh Đạo. Thực hành Bát Thánh Đạo, do đức Phật công bố tại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, thì những khổ đau của thế giới con người sẽ bị diệt tận.

Nên, ngày Thành đạo của Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại, một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của Chánh kiến, Chánh tư duy,... từ bậc Giác ngộ hoàn toàn. Và một niềm tin mới, một niềm tin mọi khổ đau của con người có thể diệt tận và hạnh phúc, an lạc của con người có thể có mặt ngay trong đời sống này.

Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn lại mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên từ bỏ mọi huyền đàm, suy tưởng, và phải biết đối diện với cái thực tế trước mắt, là khổ và diệt khổ, bằng con đường thực nghiệm, đoạn tận phiền não ở nội tâm, chứ không phải bằng con đường nô lệ thần linh qua việc tế tự, lễ nghi để cầu xin ban ân sủng hay tìm cầu chạy bươn theo hướng trục vật.

Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên của ý thức tự giác và tự nguyện. Tự giác và tự nguyện học đạo, tự giác và tự nguyện tầm đạo, tự giác và tự nguyện ứng dụng đạo, tự giác và tự nguyện chứng đạo, tự giác và tự nguyện hoằng đạo, để đem lại sự an bình và tốt đẹp cho cuộc đời.

Chính ý thức tự giác, tự nguyện ấy là khởi điểm cho mọi nền tảng hạnh phúc và văn minh của nhân loại. Con người không thể nào có hạnh phúc, khi bị người khác sai sử. Nếu bị người khác sai sử làm vua, làm tổng thống, làm người xuất gia cho đến ngay cả bị sai sử làm hòa thượng đi nữa, vẫn bị khổ đau như thường. Nó khổ đau, vì những việc làm ấy không có gốc rễ từ ý thức tự nguyện và tự giác. Và xã hội loài người không thể nào có văn minh, tiến bộ, nếu trong những lãnh vực sinh hoạt của chúng, thiếu ý thức tự giác và tự nguyện này.

Vì vậy, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn là ngày mở ra một kỷ nguyên mới, về đời sống ý thức tự giác và tự nguyện để làm lực đẩy xã hội loài người đi lên.

Và ngày Thành đạo của đức Thế Tôn là ngày không những mở đầu cho sự có mặt của trí tuệ toàn hảo của bậc Đại Giác Ngộ, mà còn là ngày khởi đầu hạnh nguyện đại bi và trách nhiệm giáo hóa của Ngài đối với muôn loài như Ngài đã nói:

"Ngài thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời".[11]

Với trách nhiệm ấy, không đến với Ngài từ bất cứ quyền uy nào, mà từ ý thức tự nguyện, tự giác với đầy đủ hai chất liệu của đại trí và đại bi, khiến cho ngày thành đạo của Ngài đối với nhân loại là một nhu cầu khẩn thiết và trở thành bất tử trong lịch sử văn minh củathế giới con người.

Lịch sử ấy chỉ có nghĩa đích thực, khi nào những người đệ tử của Ngài, có đời sống biết nương tựa Pháp, học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, sống với đời sống như vậy, thì không có đời sống nào cao quý hơn; biết cúng dường Phật bằng học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự cúng dường nào cao hơn; biết thiết lập đạo tràng để học Pháp, hành theo pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự thiết lập nào cao hơn; biết thương yêu và phụng sự cuộc đời bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự thương yêu và phụng sự nào cao hơn;và biết làm lễ kỷ niệm ngày thành đạo của đức Thế Tôn, bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ lễ kỷ niệm nào có ý nghĩa cao hơn nữa cả.

Vì vậy, là đệ tử Thế Tôn, chúng ta phải tu học tinh cần, để thấy Pháp và chứng ngộ Pháp, khiến mọi không gian đều là không gian của đạo, và khiến cho mọi thời gian đều là thời gian thực nghiệm đạo và chứng đạo, như Thế Tôn đã chứng và đã thành.

Đó là ý nghĩa hướng về và kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo của những hàng đệ tử Phật chúng ta.


CHÚ THÍCH
[1] Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr 163, ĐHVH 1973.
[2] Phật Thuyết Tam chuyển pháp luân kinh, số 110, Đại Chính 2.
[3] Tham khảo Kinh Thánh Cầu, Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, Trung bộ I, ĐHVH, 1973. Phẩm Phật Đà, Tương Ưng Bộ II, ĐTKVN, 1993. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 31, 32, Đại Chính 3.
[4] Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Tiểu Bộ I, Tu Thư PHVH 1982.
[5] Kinh Mật Hoàn, Trung Bộ I, tr109A, ĐHVH 1973
[6] Kinh đã dẫn như trên tr 111A.
[7] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 136B, ĐHVH, 1973.
[8] Kinh đã dẫn, tr 140A.
[9] Kinh đã dẫn, tr 140.
[10] Kinh Đại Bổn, Trường Bộ III, tr 45, ĐHVH, 1972.
[11] Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 140A, ĐHVH, 1973.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).24/1/2012.

No comments:

Post a Comment