Ðời Là Một Biển Khổ Ðầy Mồ Hôi Và Nước Mắt
Có
một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng
uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những
khoái lạc vật chất.
Nhưng
họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng
khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng
uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng
chát.
Khế
kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cõi
đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là
tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sương bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của
cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong
ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật.
Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một
cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ Diệu
Ðế.
B. Chánh Ðề
I. Ðịnh Nghĩa Chữ Khổ Ðế (DUKKHA)
Khổ
đế do chữ Dukkha mà ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó
kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình
khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hãi v.v..
"ÐẾ" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.
Khổ
đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự
thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.
II. Luận Về Sự Khổ Của Thế Gian
Kể
cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ theo
kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ
(bát khổ).
1. Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
a) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
Thật
thế, mỗi một chúng sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ,
cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày,
không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng được. Hơn nữa,
cái thân ấy cũng không bền chắc, mà trái lại rất mong manh: khát nước độ
ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi
trùng độc...thế là mạng vong.
Lại
trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn
nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh
tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng
v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ".
b) Hoại khổ. Trong
Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt". Thực
thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn tại
mãi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái
đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân
người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du! Cái búa tàn ác của
thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi phút
mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế
bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho
thời gian hủy diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật
là khổ sở, tủi nhục, đớn đau !.
c) Hành khổ.
Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá
hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự
do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng
phút từng giây. tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng
xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con
vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy:
"tâm viên, ý mã".
Nếu
xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong kín
sâu, nằm dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô
cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. ta giận,
ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều là do
tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.
Nói
tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục
vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành
khổ".
2.
Tám khổ: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian có
thể chia ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũngk ngoài ba khổ
kia.
Tám
loại khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất
đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta hãy
nói rõ về tám nỗi khổ ấy.
a) Sanh khổ: Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.
Khổ
trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới
có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất
thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng
nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi gần sanh, sự đau đớn
của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng
phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn,
ngũ tạng suy kém. Còn rủi bị nghịc thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn
nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt
đời.
Còn
con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều
điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng
tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở
trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. mẹ ăn no thì con bị
ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản,
thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa
thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "Khổ a ! Khổ a !". Thật đúng
như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
"Thảo nào lúc mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !"
Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.
Về
vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức
uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải
cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát
cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất vả làm lụng,
vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.
Nhưng
chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường,
thiếu thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời
chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa
không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có
những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường:
muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt
mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu
phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Ðó là còn chưa nói dến
những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh
khỏi được.
Về
phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều
khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì nhiều,
chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.
Muốn
tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả
về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học trong sách
vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ
sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó,
lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì hết,
thế là người giận kẻ buồn khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách
trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu thêm, bị
bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về sự học
thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. ta sẽ bị người
này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ...bao
nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào là
ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.
Tóm lại, về vật chất hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.
b) Lão khổ. Ca dao có câu:
"Già nua là cảnh cảnh điêu tàn
Cây già cây cỗi, người già người si".
Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.
Khổ
thể xác. Càng già, khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ
càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các giác
quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân
run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.
Ðã
vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như
trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không chút gì
gọi là vui thú cả !
Khổ
tinh thần. Người xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều,
nhục lắm ! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng lu mờ.
Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành động như kẻ ngây dại:
ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa
ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ
trẻ. Thật đúng là "Lão khổ".
c) Bệnh khổ.
Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở không gì hơn là cái đau !
Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lăt vặt như đau răng, nhức đầu,
đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v...đều làm cho con người phải
rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày khó
chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống
không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là khổ não.
Thân
đã đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một lần đau, chỉ còn hai
bàn tay trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết mấy".
Ngoài
ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu, lo sợ. Mỗi
lần trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn khoăn ngồi
đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, biếng cười, bỏ công ăn
việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".
d) Tử khổ. Trong
bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái
làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ chết đến đổi ở trong hoàn
cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến
cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y
như ung thư, bịnh hũi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà
những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.
Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?
Về
thân xác. Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới
biết cái chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ mắt,
méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân...Trong lúc
ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ thử vào
người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết
dần dần sình lên, trong rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy
nước tanh hôi khó chịu vô cùng.
Về
tinh thần. Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót
thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo mình
một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không còn gì
đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này !
Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật là "tử khổ".
e) Ái biệt ly khổ. Trong
cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm
thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai
loại: sanh ly và tử biệt.
Sanh
ly khổ. Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn
cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã, bão
lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi,
người gốc kia nhớ chờ. thật đau lòng xót dạ ! Người đời thường nói: "Thà
lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
Tử
biệt khổ. Nhưng mặc dù xã cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ
chết rồi bao thuở được vum vầy? Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một sự
biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau. Do đó, lâm phải
cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có
người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố. Ðó là cái
khổ của "tử biệt".
g) Cầu bất đắc khổ (thất vọng). Người
ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong
một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất
bại bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người
ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất
ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng
may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ
bến. Dưới đay, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời
thường gặp nhiều nhất.
Thất
vọng vì công danh. Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà
phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành
giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên
phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh
vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối
với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may
ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia Thiều đã
nói:
"Gót danh lợi, bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu !"
Thất
vọng vì phú quý. Số người thất vọng vì công anh đã nhiều. Nhưng sô
người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều
người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian
chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến
bị nhục nhã theo, thực là khổ !
Thất
vọng vì tình duyên. Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải
điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại
nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên
trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu bất
đắc khổ".
h) Oán tắng hội khổ. Con
người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong
cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay ! Ở đời khi mong
muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa,
lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày ! Cái khổ phải biệt ly đối với
hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ đối với
hai người ghét nhau cũng như thế ấy.
Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".
Chưa
nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến
thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa
với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi
vào lại phải gặp nhau mãi ! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều
khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt
giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn
tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà
con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét còn
thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay !
Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã
thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một
ngày xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ".
i) Ngũ ấm xí thạnh khổ. Cái
thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ ấm (năm món che đậy):
sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy,
con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy
luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đột,
mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau đây:
Bị
luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ
đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.
Bị thất tình, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.
Bị
vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thức một cách sai
lầm: có ta, có người, còn, mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo,
khổ não.
Ấy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."
III. Ðức Phật Nêu Rõ Những Nỗi Khổ Ấy Ðể Làm Gì?
Có
người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo
những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì
nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra
làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo tưởng
tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít
sống một cách hồn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến
những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt
chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi
đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường
được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một vịệc nhẫn tâm như thế?
Những
câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét
một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm khi
nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi mà
Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ của
trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:
1. Gặp cảnh không khủng khiếp: Những
nỗi khổ mà Ðức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không ai
tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không già,
không chết? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc,
không bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả những
điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về
cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị
thực tế phủ phàng xé tan đi mất ! Và khi ấy, cuộc thế tràn truồng, xấu
xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ
thường quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị
để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có
nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.
Trái
lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp
cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà
trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ
như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc
bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn,
nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen
sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn
loạn, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.
2. Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi
chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều
thì lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục
vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh
chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dập chúng ta xuống vực thẳm
mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết
lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi
ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng
mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.
3. Gắng sức tu hành để thoát khổ: Khi
đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong
ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh
giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang
cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm
đường thoát ra.
C. Kết Luận
Biết Khổ Phải Tìm Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Ðể Diệt Trừ
Chúng
ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như
tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không an, ví
như nhà lửa", tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự
biết, nên phải bị trầm luân.
Nay
chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển
khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xã lánh nó.
Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng
làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường
đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi
muốn trừ bênh, phải tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn
trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt,
tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt
chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng.
Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.
Nguyên
nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của tứ
diệu đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập sách
này.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT. ( 3 LAN ).28/3/2012.
No comments:
Post a Comment