Saturday 25 May 2013

Kinh Thanh Tịnh Tỳ ni.

                                
       

 
KINH
THANH TỊNH TỲ NI PHƯƠNG QUẢNG
Hán dịch – Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
I. MỞ ĐẦU PHÁP THOẠI
Sự thành tựu một bài Kinh
Chánh văn:
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương Xá, cùng với 8.000 vị Tỳ-kheo Tăng và 12.000 vị Bồ-tát, cùng với các vị Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc và cõi Tịnh Cư thiên đều tập hợp đông đủ.
Lược giảng:
Trên đây là đoạn văn mở đầu pháp thoại Thanh Tịnh Tỳ-ni, từ chuyên môn gọi là sáu yếu tố để tạo thành sự hợp pháp một thời Kinh, một bài pháp. Theo Kinh Đại Niết Bàn (Trường bộ), Kinh Du Hành (A Hàm), Kinh Đại Bát Niết Bàn (Hán tạng), Luận Đại Trí Độ ghi: “Trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt, tôn giả A Nan bạch Phật: Đầu các Kinh khi kiết tập, nên để chữ gì? – Đức Phật đáp: Nên để “Tôi nghe như vầy…”.
Trong đó, Tôi nghe là thành tựu về niềm tin chính xác, là Tôn giả A Nan đã nghe Kinh này do Đức Phật nói. Một thời là thành tựu về thời gian. Đức Phật là thành tựu về Chủ thể thuyết pháp, Đức Phật là chủ giảng. An trú tại núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà là thành tựu về xứ sở, địa điểm nói Kinh này. Với 8.000 vị Tỳ-kheo, 12.000 vị Bồ-tát v.v… là thành tựu về số chúng tham dự Pháp hội. Đặc biệt, có chư Thiên Ngũ Tịnh Cư là năm cõi trời thuộc Tứ thiền, Sắc giới là: Vô Phiền thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Kiến thiên, Thiện Hiện thiên, Sắc Cứu Cánh thiên (Hữu Đảnh thiên). Vua trị vì cõi này là Đại Tự Thiên vương. Đức Phật và các Bồ-tát thường thị hiện nói pháp ở cảnh giới chư Thiên này.
II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA PHÁP THOẠI
Chánh văn:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng với đại chúng vô lượng trăm ngàn người, đang cung kính vây quanh mà nói pháp.
Khi ấy, có một vị Thiên tử tên là Tịch Điều Phục Âm đã đến dự và đang ngồi trong Pháp hội này.
Lược giảng:
Thiên tử Tịch Điều Phục Âm là đương cơ thuyết pháp, có nghĩa là người thưa hỏi chính trong Pháp hội để Đức Phật bắt đầu Pháp thoại Thanh Tịnh Tỳ-ni. Nói cách khác, Ngài là nhân vật chính.
Chánh văn:
Lúc đó, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo bày cánh tay hữu, gối hữu chấm đất (quỳ gối), chắp tay hướng về Đức Thế Tôn và bạch: “Thưa Đức Thế Tôn, Ngài Văn Thù Sư Lợi đang ở đâu? Nay đại chúng muốn ra mắt Ngài Và đồng thời muốn nghe pháp từ vị thiện Trượng phu này nói”.
Lược giảng:
Thiên tử hỏi Phật:
Thiên tử là tiêu biểu cho Trí dụng, là tất cả hành động, suy nghĩ, đều từ Căn Bản trí phát sinh, do đó Thiên tử muốn chỉ cho đại chúng thấy biết về Căn Bản trí của chính mình. Sự kiện này theo Kinh điển lấy Bồ-tát Văn Thù làm cơ sở để lý giải. Vì Bồ-tát Văn Thù là tiêu biểu cho Căn Bản trí.
Chánh văn:
Đức Phật bảo Tịch Điều Phục Âm như sau: Nầy Thiên tử ! Cách phương Đông 10 ngàn cõi Phật, ở đấy có một cõi Phật tên là Bửu Chủ, và trong cõi ấy có một Đức Phật tên là Bảo Tướng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, hiện tại đang nói pháp và ngài Văn Thù Sư Lợi đang ở cõi Bửu Chủ trên, đồng thời vì chư Đại Bồ-tát mà lần lượt nói pháp.
Lược giảng:
Đức Phật trả lời câu hỏi của Thiên tử, để chỉ cho tất cả cảnh giới Phật, chư Phật mười phương không ngoài nhứt tâm niệm, do đó Pháp giới Tâm làm căn bản, cho nên dù xa nhưng không xa, vì không ngoài Tâm pháp giới. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trên đầu một sợi lông hiện ra vô số thế giới chư Phật. Không một pháp nào không từ Pháp giới phát sinh, cuối cùng không một pháp nào không trở về Pháp giới”.
Chánh văn:
Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm bạch Đức Thế Tôn! Cúi mong hãy hiện tướng để khiến cho ngài Văn Thù Sư Lợi đến cõi này. Tại sao? Thưa Đức Thế Tôn, con nghe pháp của tất cả Thanh văn, Duyên giác, nhưng không bằng nghe pháp của ngài Văn Thù Sư Lợi, chỉ trừ Đức Như Lai, ngoài ra tất cả vị khác nói pháp thì không thể hơn được ngài Văn Thù Sư Lợi. Và khi Ngài nói pháp thì tất cả cung ma đều tối tăm, bị che tối, và có thể đánh đổ được tất cả chúng ma, loại trừ được tăng thượng mạn, và an trụ vào sự diệt tăng thượng mạn. Đồng thời, nếu ai chưa phát tâm Bồ-đề thì phát tâm Bồ-đề; còn người nào đã phát tâm rồi thì an trụ không thể thối chuyển; với những ai đáng được thu nhiếp thì thu nhiếp; với những ai đáng xả bỏ thì xả bỏ, và thuận theo Đức Như Lai, muốn cho Chánh pháp an trụ lâu dài.
 
Lược giảng:
Thiên tử Tịch Điều Phục Âm tán thán uy đức Văn Thù Sư Lợi, nhứt là tác dụng hiệu năng giáo pháp ngài Văn Thù Sư Lợi trình bày gồm có bảy tác dụng mà chỉ có một Đức Như Lai là bì kịp. Còn các vị khác thì không thể sánh bằng.
Chánh văn:
Lúc đó, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm Thiên tử Tịch Điều Phục Âm, rồi thời Ngài liền phóng bạch hào quang tạng, chiếu khắp cõi Phật Ta-bà này xong, rồi liên tiếp chiếu khắp cõi Phật của Đức Bảo Tướng ở cách phương Đông mười ngàn cõi Phật.
Lược giảng:
Đức Phật đáp ứng yêu cầu của Thiên tử, phóng hào quang chiếu khắp Ta-bà, sau đó chiếu sáng cõi Bửu Chủ của Đức Phật Bảo Tướng. Vì Tuệ giác Trung đạo của các Đức Phật là đồng nhau, do đó dung thông vô ngại và hiểu thấu lẫn nhau.
Chánh văn:
Khi ấy, chư đại Bồ-tát ở thế giới Bửu Chủ thấy hào quang này rồi, liền bạch Đức Phật Bảo Tướng như sau: Thưa Thế Tôn! Đây là tướng hào quang gì mà có ánh sáng chiếu khắp thế giới này?
Lược giảng:
Những ý nghĩ của chúng hội ở thế giới Bửu Chủ: Đối với chư Phật, Văn Thù Sư Lợi là Căn Bản trí thì biết rõ vấn đề, nhưng vì Đại chúng thì chưa trực nhận cho nên chưa biết rõ nên mới hỏi Phật.
Chánh văn:
Đức Phật trả lời:
Đức Phật Bảo Tướng bảo các vị Bồ-tát rằng: Nầy Thiện nam tử! Cách Tây phương mười ngàn cõi Phật có quốc độ tên là Ta-bà và trong thế giới ấy có một Đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh Biến Tri hiện đang nói pháp, và Đức Phật ấy đã phóng ra một lằn hào quang tạng, và hào quang này thấu suốt mười ngàn cõi Phật và chiếu đến cõi này.
Lược giảng:
Theo yêu cầu của Đại chúng, Đức Phật Bảo Tướng đã trả lời chi tiết những ý nghĩa sâu xa mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn biểu thị, đó là Chúng hội ở thế giới Ta-bà muốn ra mắt ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.
Chánh văn:
Khi ấy, các vị Bồ-tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Do nhân duyên gì Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri phóng ra một lằn hào quang tạng?
Lược giảng:
Đại chúng hỏi Phật Bảo Tướng về lý do mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra lằn hào quang tạng.
Chánh văn:
Đức Phật đáp: Ở thế giới Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai có vô lượng ức Bồ-tát đều tập hợp, và Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Thiên Vương, tất cả bốn chúng đều muốn ra mắt Văn Thù Sư Lợi đồng tử, và nghe pháp do ngài Văn Thù Sư Lợi nói. Vì nhân duyên ấy, cho nên thỉnh Đức Thích Ca Mâu Ni phóng ra một lằn hào quang tạng.
Lược giảng:
Đức Phật Bảo Tướng trả lời câu hỏi của Đại chúng là lý do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra lằn hào quang tạng đến thế giới này.
Chánh văn:
Bấy giờ, Đức Bảo Tướng Như Lai bảo ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Nay ông có thể qua thế giới Ta-bà vì Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng cúng Chánh Biến Tri muốn gặp ông, và Đại chúng cũng muốn ra mắt và nghe pháp của ông.
Lược giảng:
Đức Phật Bảo Tướng Như Lai bảo Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi qua thế giới Ta-bà để yết kiến Đức Phật Thích Ca và cho đại chúng ra mắt Ngài. Đây là một cử chỉ tôn trọng, vì Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi đã biết trước những gì sẽ đưa đến khi hào quang tạng xuất hiện. Tuy nhiên, phải chờ ý kiến của Phật Bảo Tướng, có nghĩa là Phật Bảo Tướng sai đi làm Phật sự, và Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi lãnh sứ mệnh của Phật, xem như là Tăng sai, chớ không bao giờ tự ý, dù Căn Bản trí đầy đủ thể, tướng và dụng.
Chánh văn:
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Đức Bảo Tướng Thế Tôn: Thực ra, thì nay tôi cũng đã biết điềm hào quang trên như thế.
Lược giảng:
Đây là lời xác định của Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, vì mọi vấn đề đều từ Căn Bản trí phát sinh.
Chánh văn:
Khi ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử cùng đông đủ mười ngàn vị Bồ-tát đầu mặt đảnh lễ chân Đức Bảo Tướng Như Lai, và trong khoảng thời gian như người tráng sĩ duỗi cánh tay, rồi cùng mười ngàn vị Bồ-tát ở thế giới Bửu Chủ đều ẩn mặt, để đến thế giới Ta-bà và trụ trên hư không, nhưng không hiện hình. Và đồng thời mưa các thứ hoa để cúng dường Đức Như Lai và Đại chúng. Với xác hoa cao lên đến gối, màu tạp sắc (hỗn hợp) và đẹp đẽ, mùi hương thật vừa ý.
Lược giảng:
14. Bồ-tát là Pháp hải tạng, là 

Trong Pháp giới vô tận, mọi sự dung thông với nhau là không có gì trở ngại, nhứt là thành tựu Thần thông du hý Tam muội, do đó được tự tại ẩn, hiện, qua lại trong ba cõi và mười phương thế giới để thi hành Phật sự, Bồ-tát đạo v.v… Cũng như Kinh Di Đà nói: Mỗi buổi sáng, các chúng sanh ở cõi Cực Lạc, lượm đầy đãy hoa, đi cúng dường các Đức Phật mười phương, rồi trở về thọ trai trưa vẫn đúng giờ không trễ nãi, đây là Thần thông du hý tự tại của chúng sanh ở thế giới Tây phương Cực Lạc, mà Tây phương Cực Lạc cũng là hiện hữu trong pháp giới vô tận.
Chánh văn:
Lúc đó, tất cả đại chúng khi thấy mưa hoa này rồi, liền bạch Đức Thế Tôn rằng: Đây là tướng gì mà mưa hoa như thế này?
Lược giảng:
Như trên đã nói, Phật và Bồ-tát Văn Thù vì tương ưng giữa Căn Bản trí và Hậu đắc trí, từ Bản giác và Thỉ giác hiệp nhứt, nên biết rõ tất cả các pháp hiện hữu và biến động xảy ra. Trái lại, đại chúng vì chưa thực chứng, cũng như chưa an trú Căn Bản trí, nên không hiểu rõ, Trí dụng, do đó mới hỏi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chánh văn:
Đức Phật bảo: Nầy Thiện nam tử ! Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử cùng đông đủ mười ngàn vị Bồ-tát đến thế giới Ta-bà này, đang trụ trên hư không, nhưng không hiện hình và mưa hoa để cúng dường Ta.
Lược giảng:
Đức Phật trên cơ sở Hậu đặc trí, trả lời câu hỏi của Đại chúng về hiện tượng vừa mới xảy ra trên cơ sở Pháp giới vô tận, Căn Bản trí diệu dụng bất tư nghì.
Chánh văn:
Đại chúng yêu cầu:
Khi đó, tất cả Đại chúng đều đồng thanh bạch Phật: Nay chúng tôi muốn ra mắt và tận mắt thấy ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử, cũng như hình dung các vị Bồ-tát ấy.
Lược giảng:
Để thể hiện tâm cung kính khát ngưỡng, nên Đại chúng một lần nữa bạch Phật là muốn ra mắt và mục kích tận mắt thấy Bồ-tát Văn Thù cũng như các Bồ-tát khác đang ẩn mình không hiện.
Chánh văn:
Lúc đó, ngài Văn Thù Sư Lợi và mười ngàn vị Bồ-tát từ trên hư không bước xuống, đảnh lễ chân Đức Phật, đi quanh bên hữu và đồng thời dùng thần lực hóa làm một cái tòa xong, rồi ngồi qua một bên.
Lược giảng:
Sau khi Đại chúng đã hết lòng thành kính muốn ra mắt Bồ-tát Văn Thù, và các Bồ-tát khác, nên các Ngài ứng hiện theo yêu cầu, như Cổ đức nói: “Hữu cầu tất ứng, hữu nguyện tất thành”
Chánh văn:
Khi ấy, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm bạch Đức Thế Tôn như sau: Tôi muốn nghe pháp do ngài Văn Thù Sư Lợi nói, và sự kiến lập ngôn luận của Ngài rất được nhiều người muốn nghe.
Lúc đó, Đức Phật bảo Thiên tử ! Nay tùy theo sự nghi của ông như thế nào thì cứ tự ý hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi đây.
Thiên tử bạch Phật: Muốn nghe pháp từ Bồ-tát Văn Thù như lời ước nguyện, trình bày trước đây và Đức Phật đã tùy hỷ để cho Thiên tử tự do thưa hỏi với Bồ-tát Văn Thù.
Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Ở cõi Phật Bảo Tướng nói pháp như thế nào, mà Ngài thích ở cõi ấy?
Lược giảng:
Câu hỏi đầu tiên của Thiên tử là về nói pháp. Tại sao? Vì Phật là Pháp chủ, là người phát sinh ra Phật pháp, do đó Thiên tử dựa trên cơ sở Hữu pháp để hỏi Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi.
Chánh văn:
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử ! Không sanh tham dục, không diệt tham dục; không sanh sân khuể, không diệt sân khuể; không sanh ngu si, không diệt ngu si; không sanh phiền não, không diệt phiền não. Tại sao? Vì pháp Vô sanh, nên cuối cùng không có diệt.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trên lập trường các pháp là không tướng, nên trả lời là không. Vì không nên tất cả tướng đều không, không sanh, không diệt, thường trú vắng lặng tuyệt đối.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thế thì phải chăng là chúng sanh ở thế giới Bửu Chủ không sanh và không diệt tham dục, sân khuể, ngu si và phiền não ư ?
Lược giảng:
Vì không đạt được lý tưởng tuyệt đối của các pháp, nên Thiên tử đặt nghi vấn với Bồ-tát Văn Thù về ý nghĩa trên.
Chánh văn:
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử, không phải như vậy.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trên cơ sở lập trường Chơn không Diệu hữu của Bát-nhã mà xác lập vấn đề, nên phủ nhận.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Đức Phật Bảo Tướng nói pháp để đoạn trừ cái gì (cái gì được đoạn trừ ?).
- Nếu tất cả là không, thì Phật Bảo Tướng nói pháp để làm gì? Vì pháp có hiệu năng là đoạn trừ phiền não, chứng quả Bồ-đề.
Đáp: Vì không sanh không diệt mà nói pháp. Tại sao? Vì cõi Phật Bảo Tướng không biết đoạn và không có tu chứng. Vì chúng sanh cõi ấy trọng Đệ nhứt nghĩa đế, chứ không trọng nghĩa Thế tục đế.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù lập lại ý nghĩa không mà trả lời Thiên tử, nhưng ở bình diện khác là quan điểm Đệ nhứt nghĩa đế.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là Đệ nhứt nghĩa đế?
- Đáp: Thiên tử ! chúng sanh cõi ấy không trụ sanh, không trụ diệt, không có tư tưởng hữu xứ; không có tư tưởng vô xứ, không phải tướng một, không phải tướng không (= có), không phải tướng có (= không), không có thể hình dung (= không), không phải không thể hình dung (= có), không phải phi tâm khả tận, vô tận, vô hữu năng tận. Như thế gọi là Đệ nhứt nghĩa đế.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù xác lập ý nghĩa Đệ nhứt nghĩa không là ly khai tất cả tướng, hiện tượng tâm lý, cũng như không gian, thời gian … tất cả đều là không. Như Hương Hải Thiền sư nói:
“Muôn pháp về không,
Không chỗ nương.
Chơn như vắng lặng hiện Chơn thường.
Thấu suốt nguồn tâm, không chỗ chỉ.
Nước Tâm bóng nguyệt, tuyệt suy lường”.
Chánh văn:
- Nầy Thiên tử ! Về nghĩa, tức là phi tâm, phi tâm tương tục; phi ngôn thuyết cú; không có đây, không có kia, cũng không có trung gian, như thế gọi là Đệ nhứt nghĩa đế.
- Nầy Thiên tử ! Lại nữa, nghĩa tức là không có thể được, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ văn tự. Như vậy, gọi là Đệ nhứt nghĩa đế. Tại sao? Vì Đức Phật nói tất cả âm thanh đều là hư vọng.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù xác lập ý nghĩa Đệ nhứt nghĩa đế là không. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chơn như là ly khai tất cả tướng, tất cả tâm phân biệt, không có hình tướng, cao thấp, bình đẳng, một vị, là nhứt như”.
Mặt khác, Luận Đại Thừa Khởi Tín cũng xác lập: “Không phải là văn tự, ngôn ngữ, câu cú, ngôn thuyết, tất cả đều xa lìa, nên gọi là Chơn như”.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, Đức Như Lai nói pháp có thể là hư vọng ư ?
Lược giảng:
Khi nghe Bồ-tát Văn Thù trình bày lý Đệ nhứt nghĩa đế, vì không hiểu thấu ý nghĩa tuyệt đối, bất nhị, vô ngôn, nên sanh ý nghĩ như thế và đã hỏi Bồ-tát Văn Thù như trên.
Chánh văn:
Đáp: Nầy Thiên tử ! Đức Như Lai nói pháp không chơn thật và cũng không hư vọng. Tại sao ? Vì Như Lai không có hai tướng; không có tâm trụ, không có ngôn ngữ để nói; không phải là pháp hữu vi, cũng không phải là pháp vô vi; không phải nói chơn thật, cũng không phải nói phi chơn thật, không phải nói hư vọng, cũng không phải nói phi hư vọng, vì không có hai tướng.
- Nầy Thiên tử ! Ý ông nghĩ sao, Đức Như Lai hóa ra một người. Rồi nếu người đó có nói năng thì là thật hay là hư vọng ?
- Đáp: Không phải thật, cũng không phải hư vọng. Tại sao? Vì Đức Như Lai hóa ra một người không có thật.
Lược giảng:
Thiên tử thừa nhận ý chỉ của Bồ-tát Văn Thù về ý nghĩa người nói pháp và pháp được nói, cũng như là người biến hóa không thật.
Chánh văn:
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Đúng vậy, Nầy Thiên tử. Tất cả các pháp không có thành tựu nên Như Lai nói pháp không thật cũng không hư vọng. Cho nên gọi là vô nhị.
Lược giảng:
Như Kinh Giải Thâm Mật nói: “Với lý Thắng Nghĩa đế, không phải một hay khác. Ai cho là một hay khác, là hiểu biết không đúng”. Đây cũng là lý Vô nhị và ly ngôn vậy.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi. Thế nào là Đệ nhứt nghĩa đế (thế nào là Như Lai Đệ nhứt nghĩa?).
Lược giảng:
Vì chưa đạt được nghĩa lý Đệ nhứt nghĩa không, nên Thiên tử tiếp tục đặt nghi vấn đối với Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, và Bồ-tát giải thích tiếp.
Chánh văn:
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử ! Không có người hay nói Đệ nhứt nghĩa. Tại sao? Vì không có ngôn thuyết (nói năng) và cũng không có người hay nói. Và khi nói pháp này xong có 500 vị Tỳ-kheo, không thọ các pháp, tâm hết các lậu được giải thoát và 200 vị Thiên tử chứng được Pháp nhẫn (Vô sanh Pháp nhẫn).
Lược giảng:
Tóm lại, như Kinh Lăng Già nói: “Từ Bồ-đề Đạo tràng, cho đến thành Thi-na, khoảng giữa hai nơi ấy, Ta chưa từng nói một lời”. Sau khi nghe Bồ-tát Văn Thù trình bày về ý nghĩa Đệ nhứt nghĩa đế, đại chúng được lợi ích vô cùng như Kinh văn đã đề cập.
Chánh văn:
Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm nói với ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: Về Đệ nhứt nghĩa đế thì thật là khó hiểu.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Nầy Thiên tử ! Đúng vậy. Về Đệ nhứt nghĩa đế thì thật là khó hiểu. Nếu như người không chơn chánh tu hành thì không thể hiểu được.
- Thiên tử hỏi: Thế nào là Bồ-tát không chơn chánh tu hành?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nếu như không có nói năng mà biết đoạn, biết tu và biết chứng, như vậy gọi là chơn chánh tu hành. Tại sao? Vì nếu có tướng thì là tham dục, là hý luận. Hơn nữa, nếu như có nói là nên biết, nên đoạn, nên tu, nên chứng thì không gọi là chơn chánh tu hành.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử. Thế nào là Bồ-tát không chơn chánh tu hành? Đó là, nên biết, nên đoạn, nên tu, nên chứng là không chơn chánh tu hành. Tại sao? Như Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Pháp của Ta niệm nhưng vô niệm, hành nhưng vô hành, tu nhưng không có tu, chứng nhưng không có chứng, mới là chơn thật tu”. Nói khác đi, như Tổ Hiện Quang nói: “Pháp tu cũng là huyễn, người tu cũng là huyễn, biết cả hai đều là huyễn, mới thực là ly huyễn”. Có nghĩa là đạt được lý không, giác ngộ, giải thoát. Nên Kinh Viên Giác xác định: “Ly huyễn tức là giác ngộ”.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là Bồ-tát chơn chánh tu hành?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Là nếu như chơn như bình đẳng, pháp giới bình đẳng thì ngũ nghịch cũng bình đẳng. Và nếu như chơn như và pháp giới bình đẳng thì kiến chấp cũng bình đẳng. Nếu như pháp phàm phu bình đẳng thì pháp học và vô học cũng bình đẳng. Nếu như pháp Thanh văn bình đẳng thì pháp Duyên giác cũng bình đẳng; pháp bình đẳng và pháp Phật cũng bình đẳng. Nếu như sanh tử bình đẳng, pháp Niết-bàn bình đẳng thì phiền não, kiến chấp, tranh tụng cũng bình đẳng.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi: Thế nào là Bồ-tát chơn chánh tu hành? Ở đây, Bồ-tát quán thấy các pháp đều là tự tánh bình đẳng, nên các pháp đều bình đẳng, dù là pháp thế gian, hay xuất thế gian, nhân hay quả, Thánh vị v.v… đều bình đẳng như nhau. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật và chúng sanh, ba thứ ấy không sai khác, là bình đẳng nhứt như”.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, thế nào là tranh tụng bình đẳng và phiền não cũng bình đẳng?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Vì Không nên bình đẳng, vì Vô tướng nên bình đẳng; vì Vô nguyện nên bình đẳng. Tại sao? Vì không phân biệt khác.
- Nầy Thiên tử ! Ví như đồ báu không, nên đồ bằng đất cũng không. Và trong đó không giới bình đẳng, nên không có khác. Và không có các thứ, vì không có hai tướng. Nầy Thiên tử ! Thế thì phiền não không, tranh tụng không, không có sai khác, vì bình đẳng không có hai tướng.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi:  Thế nào là tranh tụng bình đẳng và phiền não bình đẳng? Ở đây đặt ngược vấn đề là vì Niết-bàn, sanh tử bình đẳng nên phiền não, tranh tụng bình đẳng. Nói như thế nghĩa là, vì Niết-bàn có tướng giải thoát, không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác, Vô nguyện giải thoát. Nên Kinh Bát Nhã nói: “Thành Niết-bàn có ba cửa để vào là Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát. Do ba môn giải thoát mà vào được thành Niết-bàn”.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Bồ-tát có tu về Thánh đế không?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử ! Nếu các Bồ-tát không tu về Thánh đế thì làm sao nói pháp Thanh văn?
- Nầy Thiên tử ! Bồ-tát tu hành về Thánh đế thì có quán. Trái lại, Thanh văn tu hành Thánh đế thì không có quán. Bồ-tát tu hành Thánh đế thì nhàn nhã. Trái lại, Thanh văn tu hành Thánh đế thì không nhàn nhã. Bồ-tát tu hành Thánh đế thì có duyên, còn Thanh văn tu hành Thánh đế thì không có duyên. Hơn nữa, Bồ-tát tuy tu hành Thánh đế nhưng có chánh quán và không chứng thực tế chơn như. Bồ-tát tu hành Thánh đế thì có phương tiện thiện xảo, không bỏ sanh tử và cầu Niết-bàn. Đồng thời, Bồ-tát khi tu hành Thánh đế cũng quán tất cả pháp.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử: Bồ-tát có tu hành Thánh đế không? Ngài khẳng định rằng có, nhưng sự tu Thánh đế của Bồ-tát thì khác với sự tu Thánh đế của Thanh văn. Nói như thế có nghĩa là, Bồ-tát tu Thánh đế mang tính tích cực, nên khác nhau là thế. Cụ thể như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện nói: Trên cơ sở vô lượng Khổ đế, Bồ-tát phát nguyện thứ nhứt trong bốn thệ nguyện lớn là  “Chúng sanh vô biên nguyền độ hết”. Trên cơ sở vô lượng phiền não, Bồ-tát thực hành lời nguyện thứ hai “Phiền não vô tận đều đoạn hết”. Trên cơ sở vô lượng Đạo đế, Bồ-tát lập lời nguyện thứ ba “Vô lượng Pháp môn đều học hết”. Trên ý nghĩa vô lượng Diệt đế, Bồ-tát phát nguyện thứ tư “Phật đạo Vô thượng nguyện chứng thành”. Do đó, Bồ-tát không bỏ sanh tử, chúng sanh, cũng không mong cầu chứng Niết-bàn, vì chứng được lý Vô sở trụ của Bồ-tát, để từ đó nhậm vận độ sanh không chướng ngại, tự tại, giải thoát, an trú lý không, nhưng là Chơn không Diệu hữu.
Chánh văn:
Nầy Thiên tử ! Ví như có một người từ bỏ thân chủ và bạn bè, riêng một mình muốn đi qua con đường hoang vắng, tâm họ rất sợ sệt không dám trở lại.
- Nầy Thiên tử ! Thế thì Thanh văn cũng vậy, họ sợ sanh tử, không dám trở lại thế gian; xả bỏ tất cả chúng sanh không trở lại nơi sanh tử; không quán Phật pháp, không có thiện xảo phương tiện, tu hành Thánh đế một mình, không có bè bạn.
- Nầy Thiên tử ! Như vị đại thương chủ có nhiều quyến thuộc và nhiều của cải, lương thực dồi dào làm cho nhiều người được lợi ích, muốn qua con đường hoang vắng.
- Nầy Thiên tử ! Cũng vậy, Bồ-tát là đại thương chủ, có nhiều quyến thuộc, thành tựu lợi ích lớn về pháp Phật; nhiều pháp tư lương, đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật; thành tựu bốn pháp nhiếp hóa chúng sanh. Đồng thời, đều duyên quán khắp tất cả chúng sanh, xoay sự quán sanh tử trở lại chánh quán Phật pháp. Từ một cõi Phật nầy đến một cõi Phật khác, đầy đủ thiện xảo phương tiện, tu hành Thánh đế.
- Nầy Thiên tử ! Như một vật thưa và mỏng rồi dùng hương của hoa Chiêm-bà, Tu-mạn, Bà-sư để xông ướp thì mùi hương mau thoát ra. Nầy Thiên tử ! Vậy thì hàng Thanh văn tu về Thánh đế thì sự mau chóng cũng như thế. Trong khi chưa đầy đủ sự nguyện cầu thì lại vào Niết-bàn. Hơn nữa, họ cũng không ra ngoài mùi hương công đức về giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của Phật. Đồng thời, họ cũng không thể đoạn trừ được phiền não và tập khí.
- Nầy Thiên tử ! Ví như y Ca-thi, nếu dùng hương thiên bảo trầm thủy để xông ướp thì mùi hương thanh tịnh và tốt đẹp mãi; trải qua trăm ngàn năm, trời người vẫn còn kính trọng.
- Nầy Thiên tử ! Cũng thế, Bồ-tát trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp thường xuyên tu hành Thánh đế, ở khoảng giữa không vào Niết-bàn. Vì muốn đầy đủ bổn nguyện, đồng thời vượt ra ngoài mùi hương về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến của Phật. Và cũng có thể đoạn trừ được kiết sử và tập khí. Và đồng thời cũng làm cho Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà v.v… đều kính trọng.
Lược giảng:
Trên tinh thần tích cực tu tập Thánh đế của Bồ-tát, ngài Văn Thù Sư Lợi giải thích tiếp, chi tiết, cụ thể hơn như Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Sanh tử vô lượng, khổ não vô biên, Bồ-tát thường nguyện phát Đại thừa tâm, nguyện thay thế khổ cho chúng sanh, thọ vô lượng khổ, khiến cho chúng sanh đạt được sự an vui cứu cánh”.
Với tâm nguyện như thế, phát tâm Bồ-đề như thế, thì Bồ-tát phải đầy đủ các phương tiện tu tập như bốn pháp Nhiếp hóa: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, và sáu pháp Ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Cũng như phát khởi tâm từ bi, hình thành hai pháp quán: Chúng sanh duyên từ, Pháp giới duyên từ. Lấy sự đau khổ của chúng sanh làm duyên để phát tâm từ bi, lấy sự bình đẳng của Pháp giới tánh làm thể mà phát tâm từ bi cứu độ chúng sanh một cách bình đẳng.
Nhứt là trên cơ sở tu tập về Ngũ phần Pháp thân, Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến, làm thông đạt, tương ưng tự tánh, chớ không hình thành trên cơ sở tự tướng. Như Cổ đức nói:
“ Năm phần hương tỏa khắp mười phương.
Kết lại thành mây nguyện cúng dường.
Pháp thân thanh tịnh mười phương Phật.
Mỗi niệm tương ưng lý Chơn thường”.
Nói khác đi, như Kinh Pháp Bảo Đàn xác định:
“Tự tâm thanh tịnh là Giới.
Tự tâm không loạn là Định.
Tự tâm chiếu soi muôn pháp là Tuệ.
Tự tâm không phiền não là Giải thoát.
Tự tâm không còn chấp thủ là Giải thoát tri kiến”.
Với sự thành tựu vô lượng công đức, vô lượng phương tiện như thế, nên Bồ-tát: nương thuyền Pháp thân vào trong sanh tử, cứu vớt chúng saunh, đưa họ đến bờ giải thoát (bờ Niết-bàn – Kinh Bát Đát Nhân Giác). Và Bồ-tát Văn Thù đã tóm tắt lại qua những ví dụ cụ thể như: Tu hành có bạn bè, không thối lui, quyết chí đến nơi, đến chốn (Bảo sở), quả vị Phật, lâu dài như mùi thơm thấm vào y… không trụ chấp các pháp phương tiện, để đạt cứu cánh viên mãn, làm cho chư thiên, loài người, các chúng sanh khác hoan hỷ cung kính, đảnh lễ cúng dường.
Chánh văn:
Bấy giờ, Thiên tử Tịch Điều Phục Âm lại hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: Về chúng Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ của Đức Bảo Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri làm gì mà thích ở đấy?
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Nầy Thiên tử ! Ở thế giới ấy, hàng Thanh văn không trụ nơi lòng tin, cũng không dạy người khác tin; không hộ trì pháp giới, không phải là bậc bát nhơn (bát nhẫn); vượt khỏi bát tà, không phải Tu-đà-hoàn vượt khỏi ác đạo, không phải Tư-đà-hàm, vãng lai giáo hóa chúng sanh; không phải A-na-hàm, vì tất cả pháp không đến không đi, cũng không phải A-la-hán thọ sự cúng dường của tất cả ba ngàn thế giới. Và cũng không phải Thanh văn có thể giữ gìn tất cả pháp Phật nói. Hơn nữa, không đoạn dục nhưng không bị dục làm nóng bức. Không đoạn sân, nhưng không bị sân làm nóng bức. Đối với tất cả pháp rời những sự ám chướng. Không đoạn phiền não nhưng siêng năng thực hành tinh tấn và đoạn trừ tất cả phiền não chúng sanh, vĩnh viễn không còn tái sanh.
Đồng thời không còn tất cả sự thọ sanh, nhưng tùy tâm tự tại thọ sanh nơi nào muốn sanh. Hơn nữa, không có tướng chúng sanh muốn sanh. Mặt khác, không có tướng ngã nhơn và chúng sanh, nhưng mà giáo hóa chúng sanh không giả không chơn. Tất cả chúng sanh thanh tịnh phước điền. Không nghĩ không, nhưng tu chánh niệm; không sanh không diệt nhưng tu Chánh đạo. Xa lìa thân tâm nhưng phát sinh Thần túc thông. Biết tất cả căn cơ chúng sanh đến nơi bờ giải thoát, nhưng mà tu hành các căn. Đánh đổ tất cả mà tu thập lực. Biết khắp tất cả nhưng tu giác quán. Được vô vi không chứng đạo. Đến thực tế (chơn như) nhưng không trụ ở thiền định. Đến nơi pháp giới nhưng mà trụ ở huệ. Hết những thứ vô minh mà sanh sự sáng suốt. Không có hai thứ nhưng chứng giải thoát.
Hơn nữa, với nhục nhãn, nhưng thấy tất cả chúng sanh, tất cả cõi Phật và tất cả chư Phật. Với Thiên nhãn thấy hết thảy chúng sanh chết ở đây sanh ở cõi khác. Với Huệ nhãn thấy hết sự sống chết của chúng sanh không có đến không có đi. Với Pháp nhãn thấy hết tất cả pháp bình đẳng. Với Phật nhãn thấy rõ hết tất cả cảnh giới Phật. Với Thiên nhĩ nghe hết tất cả pháp Phật và có thể thọ trì. Nhứt tâm có thể biết tất cả chúng sanh có bao nhiêu tâm hành. Với Túc mạng trí biết hết tất cả kiếp quá khứ. Với trăm ngàn ức thần thông có thể vượt qua vô lượng cõi Phật. Phiền não đều hết nhưng không chứng giải thoát. Tuy có thể thấy nhưng không phải là chắc chắn. Tuy có nói năng nhưng không có văn tự. Tuy có nhớ nghĩ nhưng tâm không động.
Mặt khác, hình dung rất đẹp, các tướng trang nghiêm, công đức anh lạc uy đức khó bằng, tiếng tăm cao xa, và tịnh giới làm hương xoa, pháp thế gian không nhiễm, phi phiền não cũng không nhiễm, không có lời nói thô ác, dùng thần thông dạo chơi, nghe nhiều, học rộng, càng tăng trưởng, biện tài vang dội khéo biết biến hóa, diệt trừ tối tăm, sáng chói chiếu chói, nói pháp không ngại tổng trì tất cả, thường được chư Phật nhớ nghĩ và giữ gìn.
Hơn nữa, về niệm của Thanh văn thì thường xuyên chuyên niệm. Còn về đạo của Bồ-tát niệm thời như biển cả, định thì như núi Tu-di, nhẫn thời như đại địa, còn mạnh mẽ hàng ma, thì cũng như Đế Thích. Không si mê, khinh an, tịch tịnh như Phạm thiên. Không thể sánh bằng như hư không vào khắp tất cả mọi nơi.
Nầy Thiên tử ! Ở cõi Phật Bảo Tướng, hạng Thanh văn như thế, có bao nhiêu công đức thì hơn hẳn cõi Ta-bà này.
Khi nói pháp này xong, trong pháp hội lúc đó có 500 Tỳ-kheo, 500 Tỳ-kheo-ni, 500 Ưu-bà-tắc, 500 Ưu-bà-di và 5000 vị Thiên tử, có khuynh hướng về trí Thanh văn, và nói như sau: Thưa Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn làm chúng Thanh văn ở cõi Bửu Chủ của Đức Bảo Tướng Như Lai.
Lúc đó, ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Không phải tâm Thanh văn, mà có thể sanh về thế giới Bửu Chủ được. Do đó, các ông phải phát nguyện tâm Bồ-đề mới có thể sanh về thế giới ấy được. Hơn nữa, những người sanh về thế giới ấy, đều là người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, những vị trên đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và Đức Như Lai thọ ký cho họ sẽ sanh về thế giới trên.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi Thiên tử về các vị Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ tu tập như thế nào? Đó là, các hàng Thanh văn ở đây chính là các vị Hồi tâm đại A-la-hán (Xem như Bồ-tát Thắng Giải Hạnh), do đó, sự tu tập của các Ngài mang tính tích cực, vô tướng, an lạc, giải thoát. Nói như thế có nghĩa là không làm gì cả, nhưng là làm tất cả, thành tựu tất cả. Thành tựu tất cả nhưng không thành tựu gì hết, đó mới chính là Chơn thật thành tựu. Như Kinh Bát Nhã nói: Tôn giả giảng Kinh Bát Nhã quá hay. Tôn giả Tu Bồ-đề nói: Ta đâu có giảng Kinh Bát Nhã. Thiên Đế nói: Ngài không giảng Kinh Bát Nhã, thì tôi không nghe Kinh Bát Nhã. Tôn giả kết luận: Như vậy mới thật nói, thật nghe Kinh Bát Nhã. Cùng ý nghĩa, Hương Hải đại sư nói:
“ Trời Nam trước án ngồi chiễm chệ,
Suốt ngày tâm chẳng nghĩ việc gì.
Nào có phải giữ lòng cho tĩnh,
Chi bằng chẳng nghĩ việc chi đâu!”
Lược giảng:
Tóm lại, công hạnh của Thanh văn tu tập như là Bồ-tát tu tập, như Kinh văn đã giảng rõ. Điều căn bản là Bồ-tát Văn Thù kết luận: Công đức của Thanh văn ở thế giới Bửu Chủ, thì hơn hẳn hàng Thanh văn ở thế giới Ta-bà, đó là điều đáng suy nghĩ.
Khi nghe Bồ-tát Văn Thù trình bày công đức tu tập của hàng Thanh văn, Đại chúng thành tựu kết quả vô cùng lớn lao, và đồng phát nguyện sanh về thế giới Bửu Chủ. Bồ-tát nhấn mạnh: Muốn sanh về thế giới Bửu Chủ phải phát tâm mong cầu quả vị Vô thượng Bồ-đề, là thành tựu Phật quả. Chớ không phải tâm niệm đơn thuần, bình thường mà sanh về thế giới ấy được. Và điều đặc biệt là những chúng sanh phát nguyện xong, được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ sanh về thế giới Bửu Chủ để tu hành theo hạnh Thanh văn Đại thừa, như Bồ-tát Văn Thù đã trình bày.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi về Tỳ-ni của Bồ-tát và Thanh văn.
Khi ấy, Tịch Điều Phục Âm hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi như sau: “Thế nào gọi là Bồ-tát Tỳ-ni? Và thế nào là Thanh văn Tỳ-ni?”
Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp:
1. Sợ Tam giới là Tỳ-ni của Thanh văn, còn thọ vô lượng sanh tử, muốn giáo hóa tất cả chúng sanh, đồng sanh trong cõi Ta-bà, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
2. Khinh chê công đức trang nghiêm là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, chính mình tập hợp công đức trang nghiêm, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
3. Tự đoạn tất cả phiền não và kiết sử cho chính mình, là Tỳ-ni của Thanh văn. Còn muốn đoạn tất cả phiền não của tất cả chúng sanh, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
4. Không nhớ nghĩ đến việc làm thành thục chúng sanh, là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, luôn luôn nhớ nghĩ đến việc thành thục của tất cả chúng sanh và tất cả Phật pháp, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
5. Không được tất cả chư thiên biết, là Tỳ-ni của Thanh văn. Còn tất cả chư thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới đều biết, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
6. Xả bỏ tất cả loài ma là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, tất cả loài ma trong ba ngàn thế giới đều khóc gào, tất cả chúng ma đều sanh lòng oán ghét, và đồng thời đều muốn sanh lòng đánh đổ, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
7. Chỉ riêng một mình chiếu soi, là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, muốn chiếu sáng khắp thế gian và thành tựu tất cả pháp, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
8. Tự quán tâm mình, là Tỳ-ni của Thanh văn. Còn quán tất cả pháp là Tỳ-ni của Bồ-tát.
9. Tuần tự Tỳ-ni là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, một niệm đều biết là Tỳ-ni của Bồ-tát.
10. Đoạn chủng tánh Tam Bảo là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, duy trì dòng giống Tam Bảo, là Tỳ-ni của Bồ-tát.
11. Như bình sành đã bể không thể tu bổ lại được là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, như đồ bằng vàng, thời bể có thể đúc lại được là Tỳ-ni của Bồ-tát.
12. Không phương tiện là Tỳ-ni của Thanh văn. Còn thành tựu phương tiện là Tỳ-ni của Bồ-tát.
13. Không có thập lực, bốn pháp không sợ sệt là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, thành tựu thập lực, bốn pháp không sợ sệt là Tỳ-ni của Bồ-tát.
14. Như cây trái ít nước là Tỳ-ni của Thanh văn. Còn như vườn rừng, nhà gác, pháp nhạc đáng ưa thích là Tỳ-ni của Bồ-tát.
15. Không có sáu pháp Ba-la-mật và bốn Nhiếp pháp là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, có đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật và bốn Nhiếp pháp là Tỳ-ni của Bồ-tát.
16. Không đoạn tất cả tập khí là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, diệt trừ tất cả tập khí là Tỳ-ni của Bồ-tát.
17. Nầy Thiên tử ! Có hạn lượng để thu nhiếp, có ít pháp công đức, có ít giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, là Tỳ-ni của Thanh văn. Trái lại, không có hạn lượng để thu nhiếp, có vô lượng công đức, vô lượng giới định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến là Tỳ-ni của Bồ-tát.
Lược giảng:
Bồ-tát Văn Thù trả lời câu hỏi của Thiên tử về ý nghĩa và sự khác nhau giữa Tỳ-ni Thanh văn và Tỳ-ni Bồ-tát. Bồ-tát Văn Thù trả lời, gồm có 17 loại Tỳ-ni Bồ-tát và Thanh văn, nghĩa là 24 loại như sau: Chỉ đề cập giải thích loại Tỳ-ni Bồ-tát là hiểu ngược lại ý nghĩa Tỳ-ni Thanh văn.
1. Tỳ-ni Bồ-tát là luôn luôn cứu độ chúng sanh, vì Tâm từ bi. Nếu không có Tâm từ bi cứu độ chúng sanh thì không phải là Bồ-tát. Vì Bồ-tát là Giác hữu tình, là chúng sanh có sự giác ngộ, hai là Hữu tình giác, là làm cho chúng sanh giác ngộ, thành tựu tự giác, giác tha, đưa đến giác hạnh viên mãn, là Phật.
2. Bồ-tát Tỳ-ni là luôn luôn dùng công đức để trang nghiêm Pháp thân, trang nghiêm Phật quả trên Pháp thân. Công đức là Từ bi hỷ xả, bố thí, Bát- nhã v.v…
3. Bồ-tát luôn luôn tâm niệm tự đoạn trừ phiền não, kiết sử chính mình và cho chúng sanh cùng hết phiền não giải thoát như mình.
4. Bồ-tát luôn luôn muốn làm cho chúng sanh thành thục như mình. Như Kinh Pháp Hoa nói: “Ta muốn cho chúng sanh đồng chứng Trí huệ Phật, cũng như Ta không khác”.
5. Bồ-tát Tỳ-ni là làm cho tất cả trời người đều biết. Có nghĩa, mỗi cất bước, động chân, khởi niệm đều chấn động đại thiên thế giới.
6. Bồ-tát xem các loài ma là bậu bạn. Vì ma cũng là chúng sanh cần được hóa độ, và thành tựu, bình đẳng như nhau. Như Kinh Duy Ma Cật nói: Bồ-tát xem Ma vương là bậu bạn, sống chung, cặp kè nhau, cùng vui chơi không có phân biệt, sai khác. (Luận Bảo Vương Tam Muội)
7. Bồ-tát dùng trí tuệ chiếu soi khắp thế gian như ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu khắp mười phương thế giới. Như Trần Thái Tông Thiền sư nói: “Ngàn sông ngàn nước ngàn trăng hiện. Muôn dặm không mây muôn dặm trời”.
8. Bồ-tát quán chiếu các pháp: Pháp thế gian, pháp xuất thế gian, nhân quả Thánh phàm v.v… để thấy rõ là không. Như Kinh Bát Nhã nói: Tất cả pháp hữu vi giả có, như bọt bèo, ánh nắng, như điện chớp, sương mai, như mộng, như huyễn v.v... Kinh Kim Cang nói:
“ Hãy xem các pháp ở đời.
Dường như huyễn mộng có rồi hườn không.
Cũng như bọt nước trên sông.
Như lằn điện chớp, nắng hồng, sương mai”.
9. Trong một niệm là đầy đủ các loại Giới, Tỳ-ni. Vì bản thể thanh tịnh của giới không rời Tâm niệm, tự tánh thanh tịnh.
10. Bồ-tát luôn luôn phát huy tự tánh sáng suốt, tự tánh thường trú, tự tánh thanh tịnh, chính là lý tánh Tam Bảo, cho nên chứng thành Phật quả, nói pháp, cứu độ chúng xuất gia, nên ngôi Tam Bảo luôn luôn hiện hữu, còn mãi không bao giờ gián đoạn. Như Hòa thượng Trường Đình nói: “Ta có nhà Tam Bảo. Trong vốn không sắc tướng. Ngời ngời tự tại chẳng làm chi. Phơi phới rồi thì sẽ thấy kỹ”.
11. Tánh Bồ-tát là Tánh giới, kiên cố bất hoại. Như Kinh Phạm Võng gọi là: Kim Cang Quang Minh bảo giới, thuộc về Tâm giới (Kim Cang là Pháp thân đức Quang Minh là Bát-nhã đức – Bảo giải thoát đức của Pháp thân).
12. Bồ-tát đầy đủ tất cả phương tiện để tu hành trì giới, và thành tựu giới pháp, giới tướng, giới hạnh, giới quả. Tu tập quyền trí, phương tiện trí, lúc nào trì thì trì, khi nào khai thì khai…
13. Bồ-tát thành tựu bốn pháp không sợ sệt là: Nhứt thiết lậu tận, chứng đạo và giải thoát. Mười trí lực của Phật: Xứ phi xứ trí lực, Tri tam thế nghiệp báo trí lực, Tri chủng giải thoát tam muội trí lực, Tri chư căn thắng liệt trí lực, Tri chủng chủng dục trí lực, Tri nhứt thiết sở đạo trí lực, Tri túc mạng trí lực, Thiên nhãn vô ngại trí lực, Vĩnh đoạn tạp nhiễm lậu trí lực.Cam lồ thủy, là Bảo tạng, đầy đủ sự mong cầu cho chúng sanh.
15. Bồ-tát đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát-nhã; và bốn pháp Nhiếp hóa chúng sanh: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.
16. Bồ-tát đoạn tất cả chủng tử, tập khí để thanh tịnh, thành tựu Phật quả.
17. Bồ-tát đầy đủ Ngũ phần Tự tánh Pháp thân: Giới Pháp thân, Định Pháp thân, Huệ Pháp thân, Giải thoát Pháp thân, Giải thoát tri kiến Pháp thân. Theo Kinh Hoa Nghiêm là Tự tánh Pháp thân, Công đức Pháp thân, Biên hóa Pháp thân, Hư không Pháp thân, Pháp giới Pháp thân (Thật tướng Pháp thân).
Chánh văn:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán ngài Văn Thù Sư Lợi: Hay hay, hay thay!
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông nói về Tỳ-ni của Bồ-tát rất hay. Nầy Văn Thù Sư Lợi, hãy nghe Ta nói về ý nghĩa đầy đủ mà ông đã trình bày.
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ví như có hai người, một người chỉ khen ngợi biển cả, còn một người chỉ khen ngợi dấu chân trâu.
- Văn Thù Sư Lợi! Ý ông nghĩ sao, giữa hai người này, mà người khen ngợi dấu chân trâu có bao nhiêu công đức?
-  Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Biển cả thì vô lượng, còn dấu chân trâu thời rất nhỏ, làm sao đáng khen được”.
- Đức Phật dạy: “Đúng vậy. Phải biết Tỳ-ni của Thanh văn cũng như dấu chân trâu, và ít công đức, đồng thời không đáng khen ngợi. Và Thanh văn thừa cũng như thế”.
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ý ông nghĩ sao, người khen ngợi công đức của biển cả như vậy có nên không?
-  Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Biển cả thì công đức vô lượng, nên đáng khen ngợi vô lượng (biển cả này có vô lượng công đức và vô lượng sự khen ngợi)”.
- Đức Phật dạy: “Phải biết Tỳ-ni của Bồ-tát cũng lại như thế. Ví như biển cả có vô lượng công đức, vô lượng sự khen ngợi, thì phải biết Đại thừa cũng như vậy”.
Khi nói pháp này xong, 12 ngàn vị Thiên tử phát tâm Vô thượng Chánh giác và nói như sau: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con sẽ tu học về Tỳ-ni của Bồ-tát như trên, để điều phục vô lượng tất cả chúng sanh”.
Lược giảng:
Cuối cùng là lời tán thán của Thiên tử về pháp Tỳ-ni mà Bồ-tát Văn Thù vừa trình bày. Văn Thù xác định sự khen ngợi của chư Thiên là bình thường, không có gì đặc biệt, sâu sắc. Chỉ có người trí mới biết cách tán thán, là luôn luôn tán thán pháp Đại thừa, pháp Tỳ-ni của Bồ-tát, vì nó là chánh nhân, chánh quả để thành Phật qua các ví dụ cụ thể và xác thực, siêu việt. Như Cổ đức nói:
“ Thanh tịnh dường như ngọc lưu ly.
Dứt trừ sạch nghiệp trong ba kỳ.
Thân tâm thanh tịnh trời xuân sắc.
Phước huệ trang nghiêm chứng vô vi”.

Chánh văn:
Khi ấy, Tịch Điều Phục Âm hỏi Văn Thù Sư Lợi như sau: “Nay Ngài tu học Tỳ-ni gì? Thanh văn, Duyên giác hay là Tỳ-ni của Bồ-tát?”
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử ! Ý ông nghĩ sao, biển cả có bao giờ không nhận các dòng nước không?”
- Thiên tử đáp: “Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, biển cả không bao giờ không nhận các dòng nước”.
- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Nầy Thiên tử ! Cũng thế, Tỳ-ni của Bồ-tát ví như biển cả có bao nhiêu Tỳ-ni đều nạp thọ hết. Nghĩa là, Tỳ-ni của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và tất cả Tỳ-ni khác”.
- Thiên tử hỏi: “Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, như trên nói Tỳ-ni, vậy Tỳ-ni nghĩa là gì?”.
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử ! Tỳ-ni là điều phục phiền não, và biết phiền não, nên gọi là Tỳ-ni”.
- Thiên tử hỏi: “Nầy Văn Thù Sư Lợi: Thế nào tu điều phục phiền não và biết phiền não?”.
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Hoặc tự vọng tưởng, hoặc tha vọng tưởng, và tự tha vọng tưởng, không nhớ nghĩ chơn chánh. Và kỳ thực thì tự vọng tưởng, tha vọng tưởng điên đảo không thật. Nhưng phải biết kiến chấp ràng buộc thời vô minh làm đầu. Do đó, mới phát sinh phiền não. Trái lại, nếu không tự vọng tưởng, không tha vọng tưởng, và không tự tha vọng tưởng, chuyên tâm nhớ nghĩ chơn chánh, không tự tha vọng tưởng, đoạn trừ điên đảo và không trụ vào những kiến chấp, loại bỏ vô minh, không hành động theo ba nghiệp (thân, khẩu, ý), thời phiền não không khởi, thì đó chính là rốt ráo Tỳ-ni”.
Lược giảng:
Sau khi Bồ-tát Văn Thù trình bày về hai loại Tỳ-ni của Bồ-tát và Thanh văn, thì Thiên tử hỏi Bồ-tát ba câu: Thứ nhứt, Bồ-tát Văn Thù tu học theo Tỳ-ni nào? Bồ-tát hay Thanh văn, dĩ nhiên Bồ-tát phải trả lời là tu theo Tỳ-ni Bồ-tát. Tại sao? Vì Bồ-tát Tỳ-ni như biển cả, có thể tiếp thu và bao nhiếp tất cả. Có nghĩa là, Tỳ-ni Bồ-tát bao nhiếp Tỳ-ni Thanh văn. Nói cách khác, giới Bồ-tát bao hàm các loại giới khác, như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa, Sa-di, Sa-di-ni, giới Ưu-bà-tắc v.v… Về mặt quả đức, là chánh nhân thành tựu Phật quả. Còn giới Thanh văn chỉ đưa đến quả vị A-la-hán, hình thành Tam Bảo xuất thế, Thanh văn Tam Bảo. Trái lại, giới Bồ-tát sẽ đưa đến Phật quả, hình thành Tam Bảo mà Phật, Pháp, Tăng không thể rời nhau, cùng một thể bình đẳng, vô thượng tuyệt đối. Như Kinh Phạm Võng nói:
“ Giới sáng như vầng nhật nguyệt.
Như chuổi báu ngọc châu.
Chúng Bồ-tát nhiều như số bụi.
Tất cả đều do giới Bồ-tát mà thành Phật”.

Câu thứ hai, Tỳ-ni là gì? Bồ-tát Văn Thù trả lời, Tỳ-ni là điều phục phiền não và biết phiền não. Điều phục phiền não chủ yếu là ba nghiệp thân, miệng, ý, điều luyện cho thuần thục theo tịnh nghiệp, Chánh pháp, cũng có nghĩa là thanh tịnh, xa lìa bảy chi tội thân, miệng và ba tội của ý tham, sân, si, thành tựu mười nghiệp lành. Cũng là chánh nhân hướng đến Bồ-đề Vô thượng, là thành Phật.
Nói khác đi, do Tỳ-ni mà chế ngự vọng tưởng, điên đảo, phân biệt chấp ngã, chấp pháp, chính là phiền não, vô minh là căn bản. Như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Đối với tất cả cảnh, không sanh tâm phân biệt, thì phiền não không sanh, là biết vọng không theo, nên tạm được vắng lặng, an lạc, giải thoát, Niết-bàn”, đấy cũng chính là nghĩa cứu cánh của Tỳ-ni, của nghĩa điều phục.
Chánh văn:
Nầy Thiên tử ! Còn dùng Thánh trí mà biết phiền não là hư ngụy, xảo trá, không thật có, không chủ tể, không thật ngã, không liên hệ (không ràng buộc), không điểm đến, không điểm xuất phát (đi), không phương hướng, không phải không phương hướng, không phải trong, không phải ngoài, không phải trung gian có thể được, không tích tụ, không hình sắc, như thế nào thì gọi là biết phiền não.
- Nầy Thiên tử ! Như người biết rắn độc, thì có thể trị được rắn độc ngay. Như vậy, nếu biết được loại giống của kiết sử, thời có thể trừ được phiền não ngay.
- Thiên tử hỏi: Thế nào gọi là giống của phiền não?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: Vọng tưởng là dòng giống của phiền não. Do đó, nếu không vọng tưởng thì phiền não không sanh. Và nếu như phiền não không sanh thì không có phiền não, nếu không có phiền não thì không có nhà cửa, nếu không có nhà cửa thời không bị cháy, và cũng không có chỗ ở. Và nếu cũng không có chỗ ở, thì gọi là rốt ráo Tỳ-ni. Và chính đó cũng là biết dòng giống của phiền não.
Lược giảng:
Còn khi đề cập đến biết phiền não, thì Bồ-tát Văn Thù sử dụng tứ Thánh trí để biết. Tại sao? Vì Thánh trí đã vượt qua sự chi phối của phiền não vô minh, tương ưng đại huệ, chiếu rõ vạn pháp đều là không, không tất cả tướng đối đãi, phân biệt, thành tựu Nhứt thiết trí, là trí biết tất cả các pháp là không. Phiền não cũng như rắn độc, biết là rắn độc thì dễ diệt trừ. Nhưng dòng giống của phiền não là vô minh, là vọng tưởng, do đó diệt trừ vọng tưởng, vô minh, thì phiền não không còn chỗ y cứ. Do đó, cũng không có đối tượng để diệt trừ, vì các pháp là không. Nên Pháp Dung Đại sư nói: “Đoạn trừ phiền não càng thêm bịnh, xu hướng Chơn như chính là tà. Sanh tử Niết-bàn cũng như hoa đốm trong hư không. Khi sanh tử, Niết-bàn đã huyễn hóa, thì nhân của chúng là phiền não vô minh, vọng tưởng cũng huyễn hóa không thật, cũng như giấc mộng, trong chiêm bao là không thật, giả có”.
Chánh văn:
Thiên tử hỏi: Nầy ngài Văn Thù Sư Lợi, như vậy, thì điều phục phiền não là thật hay không thật?.
- Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: “Nầy Thiên tử ! Như người nằm chiêm bao, bị rắn độc cắn, bị đau nhức, nên uống thuốc để trừ độc, và khi nọc độc rắn hết, thì sự đau nhức cũng hết”.
- Nầy Thiên tử ! Ý ông nghĩ sao, như người chiêm bao bị rắn độc cắn là thật hay không thật?
- Thiên tử đáp: Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi, đó là không thật, vì không có thật, nên phải trừ độc gì?
- Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: Rắn độc không thật, công năng trừ độc cũng không thật, phải nên biết như vậy. Và Tỳ-ni của Thánh nhân cũng nên biết như thế.
Nầy Thiên tử ! Như trên ông nói: Thế nào là điều phục phiền não là thật hay không thật? Nầy Thiên
tử ! Hoặc ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não. Và nếu ngã không thật thì phiền não cũng không thật; và nếu trong ấy, ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não. Và nếu ngã không thật thì phiền não cũng không thật; Và nếu trong ngã ấy, ngã, vô ngã, phiền não, không phiền não, đều không thể có được, như vậy thì nên điều phục cái gì? Tại sao? Nầy Thiên tử ! Tất cả pháp đều là vắng lặng, vì không có sở hữu. Tất cả pháp đều là vắng lặng, vì không có sở hữu. Tất cả pháp đều là vô tận, vì vô sanh. Tất cả pháp không diệt, vì không có chắc thật. Tất cả pháp không tạo tác, vì không có tác giả. Tất cả pháp không tạo tác, vì không có thật ngã. Tất cả pháp vô ngã, vì không có chủ tể. Tất cả pháp là vô chủ, vì như hư không. Tất cả pháp không đến, vì không có thể tánh. Tất cả pháp không đi, vì không có biên giới. Tất cả pháp không trụ, vì không chỗ trụ. Tất cả pháp không trụ, vì không sanh diệt. Tất cả pháp là vô vi, vì vô lậu.
Nầy Thiên tử ! Tất cả pháp là không ban cho, vì rốt ráo điều phục.
Lược giảng:
Trả lời câu hỏi thứ ba là điều phục phiền não là thật hay không thật. Dĩ nhiên, như trên đã đề cập, điều phục phiền não là giả không thật, vì các pháp là huyễn hóa, như cảnh hiện trong giấc chiêm bao.
Tóm lại, như Pháp Dung Đại sư nói:
“ Sáng suốt, vắng lặng khắp hà sa.
Phàm Thánh cùng chung ở một nhà.
Một niệm không sanh toàn thể hiện.
Sáu căn vừa động bị che mờ.
Đoạn trừ phiền não càng thêm bịnh.
Xu hướng Chơn như chính là tà.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.26/5/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.

No comments:

Post a Comment