Tuesday, 3 January 2012

TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT





Kỳ Thứ 4



CHƯƠNG III

Về Quyển
CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA và TUYỆT ĐỐI LUẬN CỦA THIỀN SƯ NGUYỆT KHÊ

Mở đầu, ta thấy Thiền Sư Nguyệt Khê định nghĩa về Thiền cũng như giải thích nguồn gốc Thiền đã có từ trước Đức Thích Ca, do một người tên là Phất Đang La sáng lập.
Sau khi phân tích về sự khác nhau của các môn Thiền, Ngài cho rằng “Bất Lập Văn Tự Thiền” là của Tối Thượng Thừa, gọi là “Giáo Ngoại Biệt truyền” do Đức Thích Ca đích thân truyền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma mang vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập văn tự lý luận nên gọi là Thiền Tông, khác hẳn với các phái Thiền kia.
Tuy nhiên, có một nghi vấn lớn mà những người Tu Thiền từ thời đó đến nay, do nghe quá nhiều lời ca tụng về Pháp Môn Tu Thiền nên mải ngưỡng mộ mà không thắc mắc: Nếu từ Tổ đầu tiên là Ma Ha Ca Diếp đã có “Đốn Ngộ”, thì tại sao mãi cho đến khi Thiền được truyền sang Trung Quốc - chính xác là từ các Đệ Tử nhiều đời sau của Lục Tổ - mới nảy sinh ra pháp môn Thiền Tông? Chẳng lẽ bao nhiêu đời Tổ, kể cả Đức Thích Ca cũng không thấy được giá trị siêu việt của môn Thiền, phải đợi đến du nhập vào Trung Hoa thì người Trung Hoa mới khám phá ra? Đọc lịch sử phát triển Đạo Phật, ta thấy từ thời Tổ Đạt Ma, kể cả Lục Tổ Huệ Năng, không có Tổ nào dạy riêng môn Tu Thiền, mà Thiền lúc nào cũng phải đi kèm với 5 Độ còn lại cho đủ Lục Độ. Qua đó, ta thấy phải chăng việc cố ý mượn sự tích Đức Thích Ca đưa cành Sen lên trước chúng, Ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười rồi được truyền Y Bát, gọi đó là “Đốn Ngộ” rồi gán ghép, cho đó là tông chỉ của Thiền Tông, hẳn không ngoài dụng ý tự đề cao pháp môn, trong khi sự thật là nụ cười của Ngài Ca Diếp và lối hướng dẫn của Thiền Tông chẳng liên quan gì đến nhau.
Thật vậy, Ngài Ma Ha Ca Diếp phải đâu mới gặp Phật vài tháng, hay hôm trước hôm sau mà nhìn thấy cành hoa và mỉm cười mà được trao Y Bát? Cái cười đó nói lên sự hiểu biết, thâm nhập Phật Pháp của cả một quá trình theo hầu Đức Thích Ca từ khi Ngài mới bắt đầu ra giảng đạo, đến lúc gần nhập diệt thì mới được giao Y Bát, để thống lãnh đồ chúng và người sau muốn nương Giáo Pháp của Phật, thì nhận ra người kế thừa để theo đó mà tu học, vì thuở đó người giảng đạo cũng đã tràn lan. Trong khi đó, người đến tham vấn Thiền chẳng hiểu gì về Thiền, nhưng chưa kịp hỏi gì thì đã bị đánh, bị hét, vậy thì “Đốn Ngộ” ở chỗ nào? Đâu thấy kể lại có ai bị đập mà lập tức “Ngộ”? Vị Thầy có nói câu nào? có giải thích thế nào là Ngộ cho Thiền sinh đâu? Như vậy họ hiểu gì rồi thời gian sau đó bỗng “hoát nhiên đại ngộ”? Cái Ngộ đó có giống như của Đạo Phật hay không? Vì Thiền Tông chỉ được phát triển sau khi Lục Tổ tịch diệt hàng 100 năm. Lúc đó Y Bát đã mất dấu từ lâu, thì liệu Chánh Pháp có bị “tam sao thất bổn”? Vì có văn tự, Y Bát đâu để nối truyền hầu kiểm chứng?
Theo Thiền Sư Nguyệt Khê,có thể căn cứ vào Pháp Thiền để phân biệt cao thấp. Ngài cho rằng “Tiểu Thừa dứt Lục Căn, phá Ngã Chấp, lọt vào Pháp Chấp. Trung Thừa phá Pháp Chấp lọt vào Không Chấp, Đại Bồ Tát phá Không Chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng. Phương pháp của Thiền Tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập gọi là “Đốn Ngộ Thành Phật” (tr. 17).
Điều này Ngài đã diễn giải không đúng vì các điểm sau đây:
1/- Kinh viết: Nghĩa của Bồ Tát là Bồ Đề Tát Đỏa tức là nói về vị “đã giác ngộ còn giác ngộ cho chúng sanh”. Do vậy, Công việc của Bồ tát là “Độ Sinh”, như lời nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Ngày nào còn một chúng sinh chưa được độ, con thề chưa ngồi vào ngôi Vô Thượng Chánh Giác”. Qua đó, ta có thể hiểu: Bồ Tát thành Phật là nhờ “Độ Sinh”, không phải do “Trừ KHÔNG CHẤP”. Chính Hàng Thinh Văn bị Phật quở trách là vì CHẤP KHÔNG. Người chấp Không thì “trên không thấy có Phật, dưới không thấy có Chúng Sinh. Thinh Văn sau khi chuyển qua thành Bồ Tát thì con phải thấy Chúng Sinh rồi làm công việc “Độ Sinh”, đâu phải chỉ cần phá Không Chấp là “trực tiếp chứng nhập” và “đạt cảnh giới tuyệt đối của thật tướng” như Ngài luận!
2/- Trong Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, Tổ Đạt Ma dạy:
Phàm vào đạo có nhiều đường, nhưng nói cho cùng thì không ngoài hai đường này: Một là LÝ NHẬP. Hai là HẠNH NHẬP.
“LÝ NHẬP là mượn “giáo” để ngộ vào “Tông”
Tức là cái LÝ rất cần. Người tu phải nắm vững Nghĩa, Lý trước khi bắt tay vào hành trì. Lý là bản phát thảo về những gì cần hiểu, cần hành, sau khi đã gạn lọc những cái sai. Hành là áp dụng cái Lý vào cuộc sống. Trong Kinh Phật có chê trách hàng THINH VĂN tức là những người tu mà mới NGHE là đã theo đó mà làm, chẳng cần phân biệt đó là phương tiện hay sự thật. Trong Kinh, Phật nhiều lần ca ngợi Phương. Vì thế, trong TỨ Y, Ngài đã phải dặn dò: “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”. nhắc chúng ta Y THEO NGHĨA LÝ MÀ LÀM, đừng y theo CHỮ. THIỀN TÔNG lại bảo chẳng nhờ kinh nghiệm lý luận thì các Ngài chưa kịp phân biệt thì đã biết đâu là đúng hay sai đã vội dùng phương pháp trực tiếp chứng nhập”? Nghe nói Phương Pháp trực tiếp chứng nhập ai mà chẳng thích, vì cuộc sống qua mau, biết được phương pháp nào đã đúng lại ngắn, gọn để thực hành theo thì còn gì bằng! Tiếc thay, phương tiện đó lại chỉ là “ngón tay”, là “phất tử” đưa lên đưa xuống!
3/- Cái KHÔNG là nói về Quả vị cuối cùng của A LA HÁN, là thuộc về quả vị của Thinh Văn, không phải là của Bồ tát.
4/- Trong các giai đoạn tu hành thì Ngộ là giai đoạn thứ 3 (Khai, Thị, Ngộ, Nhập). Sau khi Ngộ còn phải Nhập thì mới gọi là Thành Phật. Ngộ mới chỉ là Cái Thấy, cái Biết. Sau cái Thấy, Biết là cái thực hành để thực sống với cái Thấy, cái Biết đó mới gọi là Nhập. Ta có thể dùng một thí dụ nôm na là: Ngộ như là người đang khát biết rằng mình cần phải uống nước, và Nhập nói về tình trạng đã hết khát. Hai từ không thể chỉ là một. Do đó, “Đốn Ngộ” không thể “Thành Phật” được.
Người được họ tôn xưng là Tổ Sư Thiền Tông thì dạy như thế, nhưng Thiền Sư Nguyệt Khê lại cho là Thiền Tông “chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến, chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập”. Họ từ đâu xuất hiện để khẳng định như thế? Nếu vẫn nhận Tổ Đạt Ma là Tổ Sư thì chẳng phải là họ tự phế bỏ lời dạy của Tổ hay sao?
Nơi trang 19, Ngài cho rằng “Phật Thích Ca Mâu Ni phát minh được Thiền Bát Nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh, triệt để chứng ngộ vào Vô Dư Niết Bàn, nên gọi là Kiến Tánh Thành Phật”. Phật Thích Ca đặt tên pháp Thiền này gọi là Pháp Bản Trụ, chẳng do tạo tác mà có, và phủ nhận chẳng do tự mình phát minh”.
Ngài cho rằng “Pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa có loài người Phật Tánh đã sẵn sàng và Pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến chỗ chơn như rốt ráo, vô lượng Chư Phật – sau đời Phật Thích Ca cũng sẽ nương theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có pháp nào khác, nên đường lối dù sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phái quanh quẩn trong ngã rẻ mà quên việc trở về nhà” . Trong khi đó, một đoạn của BÁT NHÃ TÂM KINH - được gọi là cốt tủy của giáo pháp Phật – viết: Tam Thế chư Phật Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”, tức là Ba đời chư Phật (Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai) đều nương Trí Bát Nhã mà đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, đâu có chữ nào nói nhờ nương pháp Thiền? Đã đành thiếu Thiền Định thì không thể có Trí Huệ, nhưng Thiền Định chỉ là phương tiện để sinh Trí Huệ. Trí Huệ cũng mới chỉ là ngọn đuốc soi đường để hành giả tiếp tục hành trì trên con đường tu tập, đâu thể đốt giai đoạn, chỉ cần Thiền Định là có thể Thành Phật ngay? Kinh dạy con đường tu hành, thành Phật là: “Muôn người đi mà ít người đến được”, do thiếu kiên nhẫn, vì việc tu hành đòi hỏi phải lâu ngày cần khổ. Nếu Thiền Tông có thể bằng phương tiện trực tiếp chứng nhập gọi là “Đốn Ngộ Thành Phật”, và nếu phương pháp này hữu hiệu, thì chỉ riêng Ngài Nguyệt Khê, theo tài liệu ghi lại là thì số người theo học với Ngài có hơn 500.000 người, hẳn nay ta đã phải có 500.000 vị Phật? Nếu không phải như thế thì liệu những gì chư Thiền Sư khẳng định được bao nhiêu phần trăm đúng với thực tế?
Riêng về THIỀN ĐỊNH,Kinh Viên Giác giải thích rõ ràng như sau:
THIỀN ĐỊNH là “CHỈ”, “QUÁN
Và CHỈ, QUÁN SONG TU”
Phải Quán cái gì? Quán như thế nào? Trước đó phải làm gì? thì ta thấy Kinh VIÊN GIÁC chỉ rõ:
I.- QUÁN THÂN NÀY NHƯ HUYỂN
II.- QUÁN TÂM NHƯ HUYỂN
PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT. Giải Thoát khỏi Phiền Não, Sinh Tử đã, đang và tiếp tục hoành hành trên THÂN, TÂM con người. Trên con đường tu tập thì phải nhờ vào phương tiện THIỀN ĐỊNH để tập trung cả Thân và Tâm mà tư duy, tìm cho ra cách thức để tháo gỡ những vướng mắc làm cho phải Phiền Não. Người tu phải Giới Hạnh đầy đủ, từ lúc bắt đầu ý thức cuộc đời là KHỔ cho tới lúc nương pháp môn của Đạo đều có trình tự. Chính Thiền Sư Nguyệt Khê, nơi trang 25 đã viết “Trước khi Tổ Đạt Ma đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều thuộc Trung, tiểu, Nhị Thừa. Kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi ly, học giả ít được chứng ngộ. Khi Tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn Tâm Địa của Như Lai, pháp ấy giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương yếu của giáo môn, chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh, thành Phật”.
Rõ ràng, Ngài viết rằng Tổ Đạt Ma đã: “Truyền pháp môn Tâm Địa của Như Lai. Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh, Thành Phật”. Đó chẳng phải là Đốn giáo hay sao? Như vậy, Ngài nghĩ sao khi Thiền Tông tự xưng Tổ Đạt Ma là Sơ Tổ của mình lại không “truyền Pháp Môn Tâm Địa của Như Lai. Chỉ thẳng Tâm người, Thấy tánh Thành Phật “ giống như vậy, mà chỉ cho quán Công Án? Công Án này có thể là câu: “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật”, “chữ Vô”. Đâu có công Án nào chỉ cái Tâm, cái Tánh? Hoặc như Ngài Nguyệt Khê hướng dẫn, là “phá hầm sâu vô minh” một cách chung chung. Ngài nói là ở trên tầng trời thứ 28. Làm sao đi đến đó? Phá cách nào? Chẳng lẽ chỉ cần nghe người khác nói là “hầm sâu Vô Minh”, rồi tập trung nhìn vào nó - mà Ngài cũng đâu có nói nó ở đâu để nhìn cho đúng hướng? Chẳng lẽ nhìn đâu cũng gặp nó? Và chỉ cần nhìn, là tự nó sụp đổ tan tành, rồi chỉ cần “ồ” lên một tiếng là Thành Phật?! Cả 33 vị Tổ, ta có thấy vị nào Ồ lên đâu?!
Từ xưa đến nay, người tu Phật, kể cả Thiền Tông, đều Muốn tìm cái TÁNH. Nhưng nhiều người đã chê Kinh, không đọc, nên không biết Tánh là gì? Ở đâu? Muốn tìm nó phải làm gì? Vì thế nên có kẻ kêu Ngồi Thiền, người bảo Tham Công Án. Nhưng nếu ta có đọc Kinh thì sẽ thấy thì vị trí của PHẬT TÁNH đã được Lục Tổ chỉ rất rõ: “Chúng ngươi hãy chú tâm mà nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu biết Cái Tâm Chúng Sanh tức là Thấy đặng Phật tánh. Bằng chẳng biết Cái tâm Chúng Sanh thì muôn kiếp tìm Phật khó đặng. Nay ta dạy các ngươi phải biết Chúng Sanh ở Tâm mình thì thấy Phật Tánh ở Tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết Cái Tâm Chúng Sanh”. Như thế thì đủ hiểu: Các Thiền Sư có ai nói về Cái Tâm đâu mà đòi dạy người khác Thấy Phật Tánh, hoặc “thẳng đến quả Phật”?
Các Thiền Sư chưa hề giải thích: Thế nào là Phật? Phải làm thế nào để Thành Phật? Trong khi Kinh Lăng Nghiêm dạy rất rõ ràng: “Các ông tu đạo Bồ Đề nếu không xét rõ gốc rễ của Phiền Não thì đối với căn trần và cái Tâm hư vọng này không thể biết được cái “điên đảo” ở chỗ nào. Cái chỗ ở còn không biết, thì làm sao hàng phục được giặc phiền não để chứng Quả Phật”. Quả Phật, như lời Kinh dạy, muốn đạt đến “phải hàng phục được giặc phiền não”. Thiền Sư Nguyệt Khê chẳng nói gì tới phiền não, mà cho là: chỉ cần tập trung nhìn Vô Minh là sẽ Thấy Tánh. Như vậy phải chăng là Vọng ngôn?
Nơi trang 26 Thiền Sư Nguyệt Khê viết: “Thiền Tông khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu còn tu thì chẳng phải triệt ngộ”
Việc “Ngộ Đạo” chỉ có nghĩa là hành giả thấy được con đường, tức là thấy những việc cần hiểu, cần hành để đi đến Giải Thoát, rổi sau đó phải đi (Hành) cho đến khi đạt được tình trạng Giải Thoát, vì mục đích của Đạo Phật là Giải Thoát. Nếu chỉ thấy mà không Làm (Hành) thì làm sao đến nơi? Chính vì vậy mà cần có giai đoạn gọi là TU TẬP để chuyển từ CÁI THẤY, CÁI CHỨNG sang CÁI NHẬP. Vì thế, Thiền Tông phủ nhận tu tập thì rõ ràng họ đã tưởng tượng sự chứng đắc, Thành Phật. Bởi vì từ chúng sinh Mê lầm, muốn phá mê cho nó phải nhờ TRÍ HUỆ. Nhưng muốn cho nó trở lại tình trạng thanh tịnh buổi đầu thì sau đó phải bằng hành động cụ thể. Phải đâu vừa thấy mặt mình bị dính dơ, không cần rửa mà nó tự sạch? Điều đó đối với thế gian không hợp lý mà cũng hoàn toàn khác với Đạo Phật chân chính.
Đạo Phật luôn đề cập đến từ TU TÂM tức là SỬA cái TÂM, bởi theo Đạo Phật, Thánh, Phàm, Mê, Ngộ… đều ở đó. Tu Phật là CHUYỂN CÁI TÂM từ tình trạng MÊ LẦM trở thành HẾT MÊ hay là GIÁC NGỘ. Như thế, người muốn tu theo Đạo Phật bắt buộc phải biết Cái TÂM MÊ đó là mê cái gì? Mê như thế nào? Ngộ là Ngộ làm sao? Làm gì để chuyển Mê thành NGỘ? Phải đâu chẳng cần hiểu gì về MÊ, NGỘ, PHÀM, THÁNH... mà có thể “thẳng chứng quả Phật”. Nếu thế, Đức Thích Ca còn đặt ra Lục Độ, Vạn Hạnh, Bát Chánh Đạo, Giới, Định, Huệ để làm gì? Chẳng lẽ người khai đạo lại không sáng suốt bằng những Thiền Sư đời cháu chắt cách xa Ngài hơn ngàn năm?
Nói về gia phong Tông Chỉ của các pháp THIỀN ta thấy Thiền Sư Nguyệt Khê viết:
- Dùng “Gậy”, bắt đầu từ Lục Tổ đánh Thần Hội.
- “Hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bách Trượng.
- Mã Tổ dựng phất trần, quăng phất trần
- Bí Ma giơ chỉa
- Hòa Sơn đánh trống
- Thạch Củng giương cung
- Tuyết Phong đá cầu
- La Hán vẽ chữ
- Đại Tùy hầm khoai
- Đức Sơn vào cửa liền đập
- Lâm Tế vào cửa liền hét “Là cái gì”?
- Bá Trượng “Chớ vọng tưởng”
- Vô Nghiệp, Triệu Châu: uống trà
- Vân Môn: Ăn bánh
So với chính Kinh ta thấy những cách hướng dẫn này chẳng hề liên quan gì đến Đạo Phật. Nhưng Thiền Sư Nguyệt Khê lại so sánh những lối tiếp cơ như thế là tương ưng với “Nụ cười” của Ngài Ca Diếp thì quả là hết sức gượng ép. Ngài Ca Diếp nở nụ cười, vì hiểu được ý nghĩa của Cành Hoa Sen mà Phật muốn nói với đại chúng: Loài Hoa Sen, sống trong bùn mà vẫn nở hoa thanh khiết. Giống như Người tu Phật, nhờ vào công năng tu tập theo Đạo mà sống giữa phiền não không bị phiền não làm ô nhiễm”.Chẳng phải là Quả Vị, chẳng phải Tây Phương, Đông Phương với vàng bạc, trân châu, mã não… là phương tiện mà Phật đặt ra để dẫn đắt chúng sinh buổi đầu. Thì Nụ Cười đó là “Đốn Giáo” chỗ nào? Còn các Thiền Sư: đánh, hét, quăng phất tử, đá cầu, giuơng cung... nói lên được điều gì cho những người chưa biết gì về đường tu đến tham vấn? Nụ Cười và những lối hướng dẫn đó liên quan gì đến nhau, mà gán ghép, cho là “giáo ngoại biệt truyền”, “Đốn Giáo” như nhau?
Trong CHƯƠNG HAI, Thiền Sư Nguyệt Khê nói về YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
Thiền Sư Nguyệt Khê không cực đoan như Thiền Sư Suzuki là bài bác văn tự. Ngài chép lại lời Phật dạy trong Kinh Lăng Già: “Dù ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp, thì giáo pháp sẽ bị hoại. Nếu giáo pháp hoại thì chẳng còn Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, vậy ai thuyết cho ai? Đại Huệ! Đại Bồ Tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của chúng sanh mà thuyết pháp khiến lìa Tâm (Thức thứ Tám), Ý (Thức thứ Bảy), và Ý THỨC (Thức thứ Sáu), vì TÂM, Ý, Ý THỨC chẳng thể đạt đến chỗ tự giác Thánh Trí vậy”.(tr. 56)
Ngài cũng trích lời Tổ Sư Đình Uyển: “Chư Tổ truyền Pháp, ban sơ tu hành gồm tam tạng giáo thừa, sau Tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm Ấn, phá chấp giáo để hiển Tông, gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự. Nhưng đối với sự chẳng lập văn tự người hiểu lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng, tĩnh tọa làm Thiền, ấy thật là con dê câm của Thiền Môn. Vả lại, muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự chẳng lập thôi? Họ chẳng biết đạo tức là phải thông, sao lại cố chấp một gốc!”(tr. 62)
Trích lời Tổ là như vậy, nhưng đến phần Luận của Ngài ta lại thấy: “Tam tạng, 12 Bộ Kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ định: Giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại cho chúng sanh. Nếu giả lập mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định cho nên Phật Pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ khuyết điểm.
“Phật từng thuyết “Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã” rồi ngay đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền” Phật từng thuyết “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” rồi cũng ngay đó phủ định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết pháp như thế mới chẳng bị kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả. Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết những kinh điển, những pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi! Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích gì thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư? Nên người vấn nạn Phật muốn báng Phật cũng như dùng nắm tay đánh hư không như ngước mặt phun nước miếng lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho Mình cũng chẳng được. Được hiểu như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền!”
Lý luận hoàn toàn sai. Không phải là Phật nói rằng có quả vị, có chứng đắc rồi bảo là không có chứng đắc. Nói rồi phủ định tất cả. Nhưng bởi vì người đời vẫn quen ôm giữ. Ở thế gian thì tham luyến tiền bạc, danh vọng, của cải. Khi vào tu hành thì tham công đức nhiều ít, Quả vị thấp, cao. Chính vì vậy, Phật dạy tu hành là phải tìm công đức Vô Vi. Công đức này do Xả Chấp mà được. Do vậy nên phải tu, phải hành, phải chứng đắc, rồi mới “Đắc cái Vô Sở Đắc”. Bởi nếu còn có chứng đắc, chứng tỏ là CÒN CÁI NGÃ, mà tu hành theo Đạo Phật phải chứng cái VÔ NGÃ.
Rốt ráo của đường tu là đắc “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Người đắc được quả vị này “Do vì không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, mà tu tất cả pháp lành liền đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác(Kinh Viên Giác). Phải đâu Phật nói rồi phủ định, hay chẳng cần tu tập gì cả như Ngài Nguyệt Khê luận? Hơn nữa, Đạo Phật có Niết Bàn, Phật Quốc, sao lại cho rằng chẳng có gì cả? Nếu tu hành gian khổ để rồi đến nơi chẳng có gì cả thì tu làm gì?
Có lẽ Thiền Sư Nguyệt Khê chưa từng đọc Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA để thấy 3 Lần trong Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG,Phật bảo các Bồ Tát và đại chúng: Thiện Nam Tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Lẽ nào những lời nói chắc thật như thế lại nói xong rồi phải phủ định vì sợ bị vấn nạn? Nếu đã sợ bị vấn nạn thì trước lúc Nhập Niết Bàn Phật đã không kêu đệ tử thông báo để ai còn thắc mắc về Phật Pháp thì Ngài sẽ giảng giải nốt cho! Lý lẽ của Đạo Phật đã được gọi là Chân Lý mà nói xong rồi phải phủ định sao? Đâu có trang nào, kinh nào nói như thế. Có lẽ Ngài đã hiểu lầm câu nói của Đức Thích Ca: “Suốt 49 năm đó ta có nói gì đâu”!Chẳng phải là Đức Thích Ca chối bỏ những gì đã thuyết, vì 12 Bộ Kinh vẫn còn lưu lại cho đến thời này người tu Phật mới có để tham khảo, học hỏi, có bị hủy bỏ bao giờ đâu mà Ngài cho là chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích gì? Cái “TA KHÔNG CÓ NÓI”, là ý Phật muốn nói về cái nói nhằm đề cao cái TA CHỨNG ĐẮC của những người tu hành về sau. Bởi đa phần người tu đến một giai đoạn nào đó thì thấy Mình Chứng Đắc, Mình làm pháp Sư. Mình giảng pháp cho mọi người, đâm ra kiêu mạn. Về phần Đức Thích ca, Ngài chỉ truyền lại một phương pháp để mọi người cùng thực hành, không phải để người sau hiểu lầm rồi tôn thờ Ngài như một vị thần linh theo như những phương tiện Ngài dùng trong khi thuyết giảng. Đạo Phật cũng đâu có sợ bị vấn nạn? Trong chính Kinh, kinh nào cũng có phần các Bồ tát hay đại chúng hỏi Phật. Chúng ta mới vào đạo, không biết gì để thắc mắc, nhưng nhờ vào những câu hỏi, trả lời đó mà cũng được sáng tỏ thêm.
Hầu hết người đến tham vấn Ngài Nguyệt Khê, đều hỏi về dụng công khi tham thiền, mục đích người hỏi là làm sao để kiến Tánh, không ai hỏi về con đường tu Phật. Tất cả những câu trả lời của Ngài Nguyệt Khê luôn là “chẳng nên dứt niệm, nên khởi một niệm hướng vào nguồn gốc chẳng sanh chẳng diệt, ngay đó nhìn thẳng, tới lúc hầm sâu vô minh phá tan liền thấy Phật Tánh”. Với những người hỏi pháp, Ngài đều chỉ dạy độc nhất câu đó. Câu này là lập lại lời nguyên văn của Thiết Nham Hòa Thượng khi Ngài đến hỏi pháp (tr. 153)!
Về cách thức tu hành, ta thấy Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Cách tu hành cũng như lóng nước. Nước đục để yên tịnh trong một cái bình, để cho lâu thì những bụi cát từ từ chìm lặng, mà nước trong hiện ra; hễ càng yên tịnh thì nước càng trong. Đây là dụ cho giai đoạn thứ nhất, mới hàng phục được phiền não khách trần. Đến chừng lọc bỏ cặn đục chỉ còn toàn là nước trong là dụ cho giai đoạn thứ hai, đoạn trừ căn bản vô minh. Tức là trước hết phải hàng phục Phiền Não, sau đó là trừ Căn Bản Vô Minh.
Muốn trừ Căn Bản Vô Minh thì cũng phải biết nó là gì? Ở đâu? Trừ bằng cách nào? Muốn Tu Phật thì ít ra cũng phải hiểu Phật là gì? Phải làm gì để Thành Phật. Tu như thế nào? Tu ở đâu? Đâu phải làm gì cũng là Tu? Các Thiền Sư dường như chẳng hiểu gì về con đường Tu Phật. Chưa hề nói đến Phiền Não. Không nói gì đến “Điều Phục”. Không biết đến cái TÂM. Cũng chẳng nói đến Giới, Hạnh, cứ: hét, ném tích trượng, giơ chỉa, đánh trống, đập, ăn bánh, uống trà... cuối cùng sẽ dắt người tu học về đâu? Những lối hướng dẫn đó hoàn toàn không phải là của Đạo Phật chính thống, mà là sản phẩm được cải biên bởi những người đề xướng ra THIỀN TÔNG thời đó, không có chút gì khế hợp với Kinh điển vẫn đang lưu hành của Đạo Phật. Đọc Ngài Suzuki, Taisen kể cả Ngài Nguyệt Khê, ta thấy lối hướng dẫn Thiền giống như nhau. Cũng mơ mơ, hồ hồ, dựa vào lời Phật trong Kinh, nhưng đều giải thích theo cách khác, tưởng đó là cao hơn, đốn hơn, quả vị cao hơn… nhưng tiếc là không ai có thể nương theo đó mà tu tâp thành công.
Ngài Nguyệt Khê đã tịch năm 1965. Nhục thân còn để lại, được sơn son, thếp vàng, thờ ở Diện Di Đà trong Chùa Vạn Phật, được những người ngưỡng mộ so sánh với Lục Tỗ Huệ Năng, vì họ so ra trong các Tổ từ xưa đến nay chỉ có Lục Tổ để lại nhục thân, sau này là Ngài. Họ cũng không biết rằng ở Việt Nam ta tại Chủa Đậu còn có hai Thiền Sư cũng để lại nhục thân. Đó là Thiền Sư Vũ Khắc Minh và Vũ khắc Trường. Dù vậy, theo tôi, việc để lại nhục thân không quan trọng cho bằng để lại con đường cho người sau có thể theo đó mà tu hành thành công. Lục Tổ Huệ Năng vừa để lại nhục thân, vừa để lại Quyển Pháp Bảo Đàn Kinh được những người tu Phật xem có giá trị như Chính Kinh. Qua đó có những nét chính mà người tu Phật có thể theo đó mà học, mà hành, không bị lạc vào tà ma, ngoại đạo. Ngài Nguyệt Khê có viết sách để lại, trong đó tôi đọc được quyển CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA, và ĐẠI THỪA TUYỆT ĐỐI LUẬN, nhưng theo nhận xét của tôi thì không có chút giá trị nào đối với con đường tu hành so với những Chính Kinh của Đạo Phật được.
Ngài cho rằng: “Trên hết của 28 tầng trời tức là cảnh giới của vô thỉ vô minh. (37) và một số người tu hành sau khi đạt đến cảnh giới này thì phần nhiều buông bỏ, quay lại, hoặc dậm chân tại chỗ, không bước tới, lấy cớ là không thể tư duy được nữa... Duy chỉ có Đức Thích Ca, sau khi đạt đến cảnh giới đó thì biết vẫn còn chưa đạt đến chỗ tột cùng rốt ráo, bèn chứng nhập ngay cảnh giới tuyệt đối của chân như, vượt ra ngoài Ba Cõi và 28 tầng trời cho nên gọi là “Niết Bàn” cũng gọi là “Thành Phật”.
Nghĩa của Niết Bàn là “Ra Khỏi rừng Mê”. Rừng Mê này cũng ở trong cái Tâm Mê của mỗi người. Đâu có phải ở cảnh nọ cảnh kia ngoài không gian, khỏi tầng trời thứ 28 như Ngài tưởng rồi diễn giải làm cho người đọc thêm điên đảo?!
Muốn trừ VÔ MINH thì Kinh dạy phải dùng TRÍ HUỆ để chiếu phá. Nội hai từ “chiếu phá”, ta thấy đó là nói về sự soi sáng để làm tan bóng tối Vô Minh. Ngài Nguyệt Khê lại bảo là “Một mai tìm đến được thì lập tức lôi ra mà đập” (tr.102 Đại Thừa Tuyệt Đối Luận).
Vô Minh là từ mà Phật nói về cái Mê muội, đâu phải là một cục gì đó có tướng để có thể “lôi ra mà đập”? Và không hiểu Ngài dùng cái gì để đập? Rồi Ngài vượt lên 28 tầng trời, Ba Cõi bằng cách nào? Trong khi Tổ Đạt Ma cũng đã giải thích là Ba Cõi, hay Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chính là Ba Món Tham, Sân và Si trong Tâm của mỗi chúng ta!
Hầu hết các Thiền Sư ít nhiều gì cũng đòi thay đổi những nguyên tắc tu hành của Đạo Phật. Thiền Sư Suzuki thì đòi “tước bỏ” Kinh đi. Thiền Sư Nguyệt Khê thì cho là: “Nay con người chui đầu vào kinh điển sách vỡ, ôm chấp văn nghĩa thì điều tai hại chẳng phải là nông cạn ư? (Vì thế) chuyện không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo mới được kiến lập vậy. Nếu có thể mượn văn tự và ngữ ngôn tương đối để chỉ thị, chứng nhập vào cảnh giới tuyệt đối của chân như thì văn tự của kinh điển chỉ là mớ bá láp mà thôi”! (tr. 52-53) Ngài ca tụng những người coi thường Kinh điển: “Cho nên một số Tổ Sư của Thiền Tông đối với người học vấn uyên bác của thế tục cố nhiên không xem trọng, ngay cả 3 tạng và 12 Bộ Kinh điển cũng chẳng xem trọng, thậm chí ngay cả tư tưởng và văn tự mà các ngài xem qua cũng không có giá trị gì cả”(tr.248). Trong khi Phật dạy: “LY KINH NHẤT TỰ ĐỒNG MA THUYẾT”!
GIới của Đạo Phật quan trọng đến nỗi Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân viết: “Vì thử một trăm hay một ngàn vị A La hán được vào Niết bàn, thì từ vị A La hán đầu tiên cho đến vị A La Hán cuối cùng đều do công đức trì Giới mà được thành tựu đạo quả”, thì Ngài Nguyệt Khê đòi sửa đổi: “Giới luật của Phật Giáo cho đến hiện tại vẫn là quy củ xưa của mấy ngàn năm trước phần nhiều đều biến thành bối văn, hoặc không có cách nào tuân thủ theo. Cho nên chúng ta chủ trương cần phải sửa đổi thêm hoặc bổ sung, đem những cái vụn vặt phiền phức biến thành đơn giản, vòng vo thối nát biền thành kiện toàn, sau đó uy lực của giới luật bị mất mới có thể về nguồn, chỗ tôn nghiêm của Tăng già mất mát mới có thể cứu vãn được khiến cho ma quỷ thấy mà xa lánh rút lui, người lành thấy mà khởi lên lòng kính trọng, đây là điều kiện chủ yếu để phục hưng Phật Giáo”! (tr.319)
Đạo Phật sở dĩ tồn tại hàng bao nhiêu ngàn năm cũng nhờ GIỚI LUẬT. Người tu Phật được kính trọng cũng bởi có GIỚI, vì không SÁT, ĐẠO, DÂM, VỌNG NGỰ, và TỬU. Thế mà Ngài Nguyệt Khê cho đó là “không thể nào tuân theo”. Nếu làm theo Ngài, chẳng lẽ phật Giáo được phục hưng, mọi người nhìn thấy mà “Khởi lên lòng kính trọng” đối với những người phá giới, tự do Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ, Tửu? Như thế so với Đạo Phật chân chính là TU TÂM tức là SỬA CÁI TÂM MÊ LẦM bằng GIỚI, HẠNH, để thanh lọc cả THÂN, TÂM, thì Thiền Sư Nguyệt Khê khuyến khích người tu bỏ GIỚI để về đâu?
PHẬT là từ để nói về tình trạng thanh tịnh, giải thoát ở trong TÂM. Tổ Đạt ma dạy: “Phật ở trong Tâm như trầm hương ở trong cây. Phiền não hết thì Phật theo tâm ra. Vỏ mục hết thì hương theo cây ra. Mới biết ngoài cây không có hương, ngoài Tâm không có Phật. Nếu ngoài cây có hương, ấy tức là hương của cây khác. Nếu ngoài Tâm có Phật, ấy tức là Phật ngoài của ai khác”. Vì vậy cho nên mới nói “TỨC TÂM TỨC PHẬT”. Các Thiền Sư chẳng hề dạy tìm Tâm, mà còn dám cho là “thẳng đến quả Phật” thì quả là Đại Vọng Ngữ !
Tôi tin rằng dù người tu học chưa một lần mở Chính Kinh để đối chiếu. Nhưng một điều chắc chắn là con người ngày càng tiến bộ, không dễ tin vào những điều không thể áp dụng vào thực tế. Bởi nếu thực hành theo Đạo Phật chân chính thì kết quả là Thoát Khổ hiện tiền. Còn những người Tham, Quán Công Án thì kết quả về đâu không biết, nhưng Nhân Thừa thì chắc chắn cũng không xong, vì tu học xong, quả vị chẳng thấy, chỉ thấy cái Ngã càng lớn, dám đánh Thầy, mắng Tổ, chửi Phật! Thân, Khẩu, Ý, Ba Nghiệp không thanh tịnh mà thành Phật được thì quả là Phật đó chẳng giống ai! Không giống hình ảnh Phật trong Kinh, cũng không giống một người phàm phu mà giữ đúng Nhân thừa vậy.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).4/1/2012.OM MANI PADME HUM.( 3 TIMES ). 


... CÒN TIẾP...

No comments:

Post a Comment