GIÁO DỤC TRONG ÐẠO PHẬT
(Ý, Khẩu và Thân)
Ý giáo, nghĩa là tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa của từng pháp môn tu trong ba tạng Kinh, Luật, Luận gọi là nội điển và văn hóa phổ thông thế gian gọi là ngoại điển đối với chư Tăng, Ni và Phật tử tại gia, dù có giữ vai trò đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp hay chỉ chuyên tu tập trong am thiền, tịnh thất, tư gia Tất cả ai cũng phải dung thông lý Ðạo trong các Kinh, Luật, Luận và văn hóa thế gian, nói như Lục tổ Huệ Năng: “Thế gian pháp tức thịPhật pháp”.
Chính trong giaiđoạn học tập Phật pháp và văn hóa thế gian là thời kỳ tạo dựng sở học làm cơ bản cho việc tu tâm tích đức, đời gọi là tu thân tíchđức. Thật sự Ðạo hay Ðời đều tu tâm tích đức. Ðức ở trong tâm chứkhông phải ở thân. Ðức là nền tảng của ba bước giáo dục cho Tăng, Ni, Phật tử hậu lai trong lãnh vực Phật giáo, cho dân tộc hậu thếthuộc lãnh vực thế gian. Các hàng hậu lai Ðạo, Ðời đều được giáo dục bằng Ðức qua ngôn ngữ. Ðời gọi là lấy Ðức để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong Phật giáo dùng Ðức cho việc hoằng hóa độ sanh, giáo dục Tăng Ni sinh và Phật tử để kiến Ðạo, hành Ðạo và chứng thành Phật Ðạo.
Ðức của người thế gian là tâm hiền hòa, đôn hậu, bao dung, hoan hỷ, sẵn sàng tha thứ, không khó tính điều gì với mọi người, có tấm lòng cứu giúp kẻ khốn cùng, có tình thương yêu tất cả chúng sinh, v.v… gọi là Nhân đức, Thiênđức.
Ðức của các hạng người trong Ðạo Phật nói chung, có cả hai thế gian đức (Thiên và Nhân) và Phật pháp đức. Ðức thế gian như đã nói ở trên; đức Phật pháp là chân tâm, vô ngã, thanh tịnh, trong sáng, rỗng lặng… chính là năng lực giao cảm với chư Phật, Bồ Tát thường gọi là đạo giao cảm, conđường giải thoát sinh tử.
Ðức là ánh sáng của Ðạo. Ðức hiển lộ ra ngoài thân (tính tình), Ðạo ẩn tàng trong nội thức, nhưng năng động, hằng chuyển sinh vạn hữu (nhứt thiết duy tâm tạo)được Ðức chất chứa vạn hữu của Ðạo trong vai trò công dụng, lệthuộc và bảo vệ Ðạo. Cho nên tướng của Ðức được biểu thị cho Ðạo.
Ðức có trước, Ðạo có sau. Có Ðức rồi mới có Ðạo, thấy Ðạo. Hai thứ Ðức Ðạo ở đây đều là Chân, Thiện, Mỹ. Chứ không phải là ác đạo, bởi vì do Ðức. Ðức không bao giờ có trong ba đường ác. Ðức bị mất khi tâm con người bịmất trật tự tức là mất nhân đạo, thiên đạo, Phật đạo, thì nhấtđịnh bị thay vào đó ba ác đạo. Do vậy Ðức không có trong ác đạo, chỉcó ở nhân đạo, thiên đạo, Phật đạo gọi là Thiện đạo.
Trên thế gian này, mọi sự, mọi vật như mây bay, gió thoảng, nắng mưa, trăng sao, mặt trời, hư không, mặt đất, sỏi đá, nước chảy, cỏ cây, hoa nở, hoa tàn, sáng ra, chiều đến, súc vật, con người, vân vân… Tất cả hiện tượng hiện hữu trong trật tự. Cái trật tự lớn để sanh ra nhiều trật tự nhỏ,đó là con người. Con người sống có trật tự đúng theo pháp luật (Ðạoluật) từ trong nhà ra ngoài xã hội ở lãnh vực bản thân. Con người làm theo đúng trật tự thế gian ấy để được có đời sống an bình, hạnh phúc vật chất cho mình, cho tha nhân, chính là do tâm có đức. Tâm cóđức mới cảm nhận được mọi thứ trật tự đó. Từ đây cho ta thấy rõ trật tự là Ðạo. Ðạo trật tự ở đây là Thiên đạo, Nhân đạo, Phậtđạo. Tâm có trật tự của Nhân đạo, Thiên đạo (Nho, Lão), Phật đạo. Con người phải sống theo một trong ba cái trật tự ấy để có đời sống thiện đạo. Thiện đạo nhỏ là Ðạo Nho Lão mang tính của Thiên Nhân. Còn Thiện đạo lớn là Phật giáo mang tính Phật Ðạo, con đường vô sinh, vô tử.
Con người sống không theo trật tự của Ðạo thiện, dĩ nhiên là ác Ðạo, không có trật tự. Cho nên Ðạo có cả hai Thiện đạo và Ác đạo. Là con người, phải chọn Ðạo nào để sống có trật tự. Dĩ nhiên là chọn Thiện đạo nhỏ hoặc lớn để có một đời sống thật an bình, hạnh phúc, không gây tác hại cho tha nhân, loài vật bị khổ đau ở bản thân, ưu phiền, oán hận ở tâm linh… Chọn Thiện đạo, con người phải có Ðức mới chọnđược. Không Ðức thì nhất định luôn bị ác đạo xâm nhập vào tâm, liền hiện ra ngôn ngữ và hành động ác.
Nguyên lý của Nhân đạo là Ðức. Ðức là nền tảng siêu lên các cõi cao. Do vậy con người phải có Ðức. Ðức càng cao, Thiện đạo càng lớn theo tỷ lệ thuận, gọi là Ðạo cao, Ðức trọng. Người thế gian, hay người trong Phật giáo (Tăng, Ni và Phật tử) ai có Ðức lớn được các giới xã hội kính trọng, còn ma quỷ thì sợ hãi, nên ngạn ngữ có câu “Ðức trọng quỷ thần kinh” hay câu “Người có Ðức mặc sức mà ăn”.
Ðức có thể được có sẵn trong tâm con người ít hay nhiều do quả báo nghiệp của kiếp trước, nói như Nguyễn Du “Thiện căn bởi tại lòng ta”. Do vậy kiếp này mau ngộ Ðạo thánh hiền (Khổng, Lão), Ðạo lý Phật giáo sau khi được tiếp nhận đạo lý Khổng, Lão, Phật từ ông bà, cha mẹ, sư trưởng nói lời giáo dục.
Hay Ðức chưa có,được có trong thời gian tu thân bằng đạo lý (Khổng, Lão) tại gia do ông bà, cha mẹ nói lời giáo dục, hoặc đọc sách thánh hiền. Ðó là hạng người thế gian. Còn các hàng Tăng sĩ, Phật tử được tu tâm bằng Phật pháp trong tu viện, trong chùa, do các danh Tăng chỉ giáo hay tựhọc hỏi, nghiên cứu qua sách báo, kinh điển Phật giáo mà được có Ðức.
Nhờ có Ðức, con người mới thấy được Ðạo Thiện, Ác. Thấy Ðạo Ác để tránh tội lỗi, các điều sai quấy ở lời nói và hành động. Thấy Thiện Ðạo để tiến tu lên conđường Chân, Thiện, Mỹ. Người thế gian, người trong Ðạo Phật không nghiên cứu học hỏi sách vở thánh hiền, kinh điển Phật giáo để tu tâm, tu thân, làm sao có Ðức! Phải có Ðức qua công phu học hỏi và tu tập đạo lý thánh hiền, Phật pháp để có Ðức. Ðức là sự nghiệp của trí tuệ, cây đèn sáng của tâm thức để thấy thiện, ác. Tránh ác, làm thiện để có được một đời sống trật tự (đời sống Thiện Ðạo), an bình, hạnh phúc thực tại và giải thoát sinh tử ở mai sau.
Vì thế con người phải tạo Ðức tức trí tuệ, sự hiểu biết để thấy Ðạo. Thấy dấu Ðạo Thiện, chưa phải là đạt Ðạo. Muốn đạt Thiên Ðạo, Nhân Ðạo, Phật Ðạo, cần phải tu thân, tu tâm để có Ðức mà tu theo dấu Ðạo Thiện đã thấy thì sẽ đạt Ðạo do Ðức trợ duyên nên chi người tu tập, thân tâm họ luôn được an lạc, thanh tịnh, thảnh thơi, trật tự và im lặng, không bị cảnh trần xen tạp vào tâm.
Ðức mà không có Thiện Ðạo theo sau, đó là Ðức giả, nên chi người đời thường nói “đạo đức giả” là như vậy. Bởi vì hễ có Ðức thật là có Thiện Ðạo thật. Không Ðức thì không có Thiện Ðạo (thử vô cố bỉ vô), nếu không nói là thiếu văn hóa và giáo dục đời hay đạo.
Nói khác hơn, người đời nếu chưa có thiện căn, nhờ học hỏi văn chương chữ nghĩa, văn hóa dân tộc và đạo lý thánh hiền (Khổng, Lão) mới được có Ðức thấp hay cao (trí thức hiểu biết ít hay nhiều). Từ Ðức mới ngộ được đạo lý thánh hiền mà xử thế với nhau có đạo nghĩa từ trong giađình ra ngoài xã hội, gọi là ăn ở cho phải đạo làm người.
Những hành giả trong Phật giáo nhờ học và tu tập Phật pháp mà được có Ðức (trí tuệ). Có trí tuệ mới tỏ ngộ được lý lẽ của Ðạo. Lý lẽ của Ðạo làm sáng tỏÐức như lửa làm sáng tỏ tim đèn. Nếu không có lý, Ðức không được minh. Không có lý ở đây là không cần mẫn tìm tòi học hỏi lý ởtrong đạo, làm sao đức được sáng! Ðức thế gian hay Ðức đạo Phật, Ðức nào cũng phải được kiến tạo bởi tu tập học hỏi. Ðúng như Khổng Tử đã nói: “Ta không phải là người sinh ra đã có trí tuệ (Ðức), nhưng nhờ chuộng cổ, cần mẫn học tập mà hiểu được đạo (đạo thánh hiền.”
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi còn là Thái Tử, ngài vốn có cái đại Ðức trong lòng. Ðức ấy là thiện căn lớn, cho nên ngài đã khởi tâm đại bi thương chúng sinh, mong muốn đi tìm phương pháp cứu chúng sinh được thoát 4 cảnh khổ sanh, già, bịnh, chết, sau khi ra dạo chơi ngoài 4 cửa thành. Ðến khi xuất gia tu hành dưới cội cây Bồ Ðề, Ðức vốn vĩ đại ấy càng lúc càng vươn lên tối cao, tỏa ra ánh sáng lớn khắp 10 phương chư Phật và chúng sinh trong ba cõi, mà cái tim của đại đăng ấy, sở trụ của nó ở tâm thức ngài, do đó ngài đã đạt được tam minh thiên nhãn, túc mạng minh và lậu tận minh. Liền sau đó ngàiđạt Ðạo giác ngộ hoàn toàn (đại giác).
Qua cái Ðức và Ðạo của Ðức Phật, cho ta thấy Ðức và Ðạo là hai điều kiện, hai phương tiệnắt phải có đối với các hành giả trong Ðạo Phật ở hai lãnh vực thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sinh trong việc phá trừ cho hết vô minh vi tế trụ địa ở nội thức để không còn bị biến dịch sinh tử nữa mà vào Niết Bàn vô dư và lãnh vực niệm Phật vãng sanh cực lạc, hay là muốn rong chơi trong sinh tử trên vận hành thuyết pháp độ sanh…Tất cả đều phải tạo Ðức và Ðạo (nhân bản và Phật giáo). Không có Ðức và Ðạo thì không được tất cả. Có Ðức có Ðạo thì được tất cả.
Ðức chính là tâm từ bi, Ðạo là tâm có trí tuệ Phật, cho nên người có Ðức và Ðạo Phật giáo, tâm tánh thật hiền lành đôn hậu, ưa tha thứ bao dung độ lượng, tất cả do Ðức và Ðạo tương duyên nhau mà có. Nói rõ hơn trí tuệPhật sanh ra từ bi Phật. Từ bi Phật sinh ra trí tuệ Phật. Hai đức tính tương quan nhau tạo nên sự hiểu biết và lòng thương rộng lớn đối với chúng sinh một cách bình đẳng.
Bình đẳng chính là Trung đạo, con đường của hòa bình, an vui, đoàn kết, lợi lạc giải thoát, không có đường ác của độc tài, độc diễn, không có tranh cãi, hận thù nhau trong bất cứ môi trường nào (đạo, đời). Ðó là chủ trương của Ðạo Phật. Ðức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni khi sống trong cõi ta bà trong vô lượng kiếp đã thực hành cái tâm bình đẳng ấy nên ngài đã thành Phật ngay từ dạo đó (Kinh Pháp Hoa – phẩm Như Lai Thọ Lượng).
Vì thế người Phật tử tại gia không thể không tu cái hạnh bình đẳng ấy. Nhất hạng là chư vị có chức vụ lãnh đạo tập thể hội Phật giáo là những người cầm càng hướng dẫn mọi người thiết lập trật tự để có Tịnh Ðộ tại chốn thiền môn, lại càng tu hạnh bình đẳng nhiều hơn mọi người: Ðược nhưvậy là do tâm có Ðức và Ðạo, tức là có từ bi bao la và sự hiểu biết rộng lớn nhân bản và Phật giáo. Bằng không sẽ gây ra nhiều hiện tượng mất trật tự hỗn loạn muôn đời.
Sở trụ của Ðức và Ðạo nhân bản và Phật giáo là ở trong tâm ý con người, nên thường gọi là Ý Giáo. Ý giáo nghĩa là tự mình giáo dục lấy mình do tâm ý thông đạt Phật pháp và đạo lý thánh hiền, do vậy ý giáo tức là Ðức và Ðạo (nhân bản – Phật đạo) là gốc rễ đưa hành giả đến mục tiêu thấy Ðạo, hành Ðạo và đạt Ðạo. Ðiều này đích thực cho ta thấy trong quá khứ xa xưa qua các triều đại và hôm nay trên quê hương nước Việt có nhiều vị đạo sư cũng như Phật tử tại gia đã và đang kiến Ðạo, hành Ðạo vàđạt Ðạo giác ngộ bằng Ðức và Ðạo Phật giáo, trong đó có các vịVạn Hạnh Thiền sư, Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, tổ Liễu Quán, Nguyên Thiều, v.v… Ngày nay có các vị Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, vân vân…, đúng như lời đạo sư Tuệ Sỹ nói “Tôi là con mọt sách”. Vì thế nên chi quý ngài đang có một tình thương lớn đối với dân tộc và Ðạo pháp trên cơ sở xây dựng nền văn hóa lớn do cóđược Ðức và Ðạo nhân bản và Phật giáo.
2. KHẨU GIÁO
Khẩu giáo là ngôn ngữ giáo dục trực tiếp. Dù cho lời nói giáo huấn, huấn luyện, dạy dỗ, diễn thuyết, giảng dạy. Tất cả đều ở nghĩa giáo dục. Nhưông bà nói lời chỉ giáo với cha mẹ. Cha mẹ nói lời dạy bảo con cái. Thầy cô ở trường giảng dạy giáo khoa cho học sinh. Các khoa học kỹ thuật gia diễn nói bài vở, công thức cho các sinh viên. Sư trưởng nói lời giáo huấn cho các sư đệ. Bổn sư nói lời giáo huấn cho cácđệ tử. Các giáo thọ giảng dạy kinh luật cho các Tăng, Ni sinh. ChưTăng thuyết pháp cho Phật tử… đều thuộc về lãnh vực giáo dục.
Ngôn ngữ giáo dục khác với ngôn ngữ sân si, tranh cãi, giận hờn, phân bua thua thiệt, v.v…Ngôn ngữ giáo dục có âm Ðức, tức là có âm điệu từ tốn, mạch lạc, dịu dàng, hiền hòa, nhẹ nhàng, êm ái, không đanh thép, chát chúa, chậm rãi như rót dầu qua lỗ đồng tiền… được hiển lộ ra tháiđộ nghiêm trang, đứng đắn, nhưng tình người qua nụ cười kín môi vàđôi mắt hiền từ. Ðôi mắt được biểu thị cho tâm hồn. Tâm hồn của những người trong Phật giáo và ngoài đời làm công tác giáo dục đều có cùng một tâm niệm thiết tha mong muốn các đối tượng nghe phải tiếp nhận lý nghĩa Ðạo trong chủ đề mình đang nói, đang giảng, đang trao truyền, giáo huấn, chỉ giáo, khuyến cáo, vân vân… Tất cả đều là Ðạo, có lý nghĩa riêng của nó, gọi chung là đạo lý có lợi ích cho con người về mặt vật chất và tinh thần.
Mặt vật chất là thi đỗcó bằng cấp kỷ sư, bác sĩ, v.v… là những giai cấp nhiều tiền, do thông đạt lý nghĩa trong bài học văn chương, thi phú, toán học, vật lý, khoa học… là những cái Ðạo sinh sản ra vật chất. Người giảng nói lý của các Ðạo ấy, là những thầy, cô giáo ở trường học.
Về mặt tinh thần, là tâm hồn luôn ở ngôi vị Chân, Thiện, Mỹ trong kiếp này và siêu lên các cõi Phật, cõi Trời ở kiếp sau do thông đạt lý và hành lý ở các Ðạo Nhân, Thiên, Phật Ðạo từ lời khẩu giáo của cha mẹ, sư trưởng, giáo thọ, thiện hữu tri thức, v.v… Ðó là phần việc ở người được giáo dục.
Phần việc của người nói lời giáo dục bằng miệng là khẩu giáo. Thật sự miệng lưỡi nói ra lời, chỉ là công cụ của cái Ðức và Ðạo bên trong tâm ý, tức là tâm ý chỉ đạo cho miệng nói. Mặc dù lời nói lý đạo ở miệng lưỡi, nhưng tâm ý không có Ðức và Ðạo, thì lấy gì để nói. Cho nên ý giáo dẫn đầu chỉ đạo cho khẩu giáo. Khẩu giáo là điều kiện tiên quyếtắt phải có đối với xã hội con người nói chung để thăng tiến lên có một đời sống trật tự thịnh vượng trong an bình. Nói riêng trong Ðạo Phật đối với hành giả tu tập để được có tâm tỉnh thức giác ngộ, mà khẩu giáo là phương tiện hữu hiệu nhất. Dù cho kinh Phật, sách vở thánh hiền có chứa đựng nhiều đạo lý đến đâu mà không có người thông đạt đạo lý nói ra lý Ðạo, lý Ðức, thì hành giả tu tập, kẻ hậu lai ở đời, lấy gì để hiểu đạo mà tu niệm, lấy gì để an dân, trị quốc!
Miệng nói lời giáo dục cho tất cả mọi người của các bậc trưởng thượng thế gian (ông bà, cha mẹ, giáo sư, cán bộ văn hóa) và các bậc giáo thọ, pháp sư, sưtrưởng trong Ðạo Phật đều cùng giống nhau về phần Ðức và Ðạo thếgian (nhân bản). Bởi vì các bậc giáo thọ, giáo sư (Tăng sĩ và Cư sĩ),pháp sư, sư trưởng trong Phật giáo vốn đã là người thế gian có qua trường đời học hành văn chương, thi phú dân tộc, đạt được văn bằng văn hóa quốc gia.
Nhưng khi đã trở thành giáo sư, giáo thọ, pháp sư, sư trưởng (Tăng, Ni) trong Phật giáo, các bậc ấy được có thêm cái Ðức, cái Ðạo của Ðạo Phật. Do vậy sưtrưởng nói lời chỉ giáo cho các môn đệ trong tông phái, bổn sư giáo huấn cho đệ tử, giáo thọ, giáo sư (Tăng và Cư sĩ) giảng dạy Phật pháp cho các Tăng, Ni sinh, pháp sư thuyết kinh cho Phật tử, nam nữbạn đạo pháp đàm cho nhau. Tất cả đều lấy cái Ðức của Phật giáo (ý giáo) làm đầu cho nền tảng khẩu giáo để khiến cho cái tình cảm nhân bản, tình đạo trong sáng của người nghe bừng dậy mà thấy được dấu Ðạo trong lời khẩu giáo của người nói do Ðức là ánh sáng của Ðạo. Sau đó người nghe khởi tâm y giáo phụng hành.
Tuy nhiên, người trong Phật giáo làm công tác giáo dục bằng khẩu giáo, cũng có lúc sử dụng Ðức và Ðạo của thế gian vào khẩu giáo bài pháp đang nói, như lời thơ của các thi sĩ, ca dao, tục ngữ, vài tư tưởng văn hóa dân tộc có liên quan đến bài pháp đang nói để làm cho cái lý Ðạo ở bài phápđược vững mạnh, sáng tỏ thêm. Ðó là phương tiện dĩ Ðức, dĩ văn thếgian và Phật giáo để tải Ðạo Phật giáo vào lòng người đang nghe. (Ðức và Ðạo thế gian và Ðạo Phật đã được nói ở phần ý giáo). Nhờ đó người nghe (cử tọa) có sở tri chướng đến đâu do có sở học cao của thế gian, cũng phải quay về Ðạo Phật vì đã cảm nhận được cái lý Ðạo, đức tính từ bi, hiền hòa, đôn hậu của người đang nói (khẩu giáo) bài pháp.
Vì thế khẩu giáo trong Ðạo Phật đồng loạt cùng lúc được xây dựng trên hai Ðức từ bi, trí tuệ Bát Nhã ba la mật (trí tuệ Phật). Hai Ðức ấy được luôn hằng chuyển trên dòng tâm hướng về tiêu điểm “Duy tuệ thịnghiệp” Ðạo giác ngộ giải thoát sinh tử cho mình, cho mọi người các cấp một cách bình đẳng, không bị lệ thuộc bất cứ cái lực nào của ngoại nhân, nếu không nói là chỉ có một tấm lòng tha thiết mong sao cho tất cả mọi người đang có mặt tại lớp học, đạo tràng, ai cũngđược thấy rõ lý Ðạo của bài pháp mà tu tập để được giác ngộ giải thoát. Tâm niệm của người giáo thọ, pháp sư, giáo sư nói pháp, diễn giảng giáo khoa Phật học, có tấm lòng thiết tha mong muốn cho tất cảmọi người đang nghe lời khẩu giáo của mình, ai cũng phải tỏ ngộ lý Ðạo như vậy, được gọi là thuyết tâm. Mặc dù miệng nói ra lời pháp, nhưng ý giáo bên trong là chủ lực chỉ đạo cho miệng nói. Bởi vì, như đã nói ý giáo là cái Ðức, trong nó được chứa đựng lụcđộ ba la mật, là 6 phép qua bờ giác ngộ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ Phật) bởi cái tâm người nói lúc nào cũng vượt thoát mọi ý niệm về ngã, tức là vô ngã.
Do vì cái lực của ý giáo chỉ đạo cho khẩu giáo nói năng như chánh pháp và thân giáo là im lặng như chánh pháp.
3. THÂN GIÁO
Thân giáo, nghĩa là giáo dục con người bằng thân tướng, tức là không nói hay chưa nói, mà các đối tượng sống chung, làm việc cùng cơ sở hay mới vừa gặp đã sanh tâm tôn kính lễ bái, chào hỏi một cách trịnh trọng, vâng lời, kính nễ và cả sợ nữa.
Thân tướng như thế nào mà những người cấp dưới hay mới gặp lần đầu mà đã sanh lòng tôn kính? Thân tướng ấy không phải là tấm thân cao ráo, xinh đẹp, các cănđầy đủ. Mà là bản thân nhỏ, thấp hay cao ráo được có trạng tháiđứng đắn, trang nghiêm, chững chạc, thật lòng, cho nên lời nói rađiều gì đều chắc nịch như đinh đóng cột, hứa điều gì với ai luôn nhớvà thi hành, khi nhìn ai là nhìn thẳng vào mặt một cách chánh trực, khi đi là đi từng bước chững chạc, khi đứng là đứng ngay người, ngồi là ngồi đúng cách, nằm là nằm tế nhị và kín đáo, ăn thật chậm rãi, ít nói, thường im lặng hơn là nói, khi nói là nói điều lợi ích cho người.
Tất cả những đạo hạnh nói trên được có nơi con người, là do từ ý giáo tạo nên, nói nhưngạn ngữ Việt Nam có câu “Có văn có chất mới thật con người”.
Những người được những đạo hạnh ở bản thânđó là ai? Chính là ông bà, cha mẹ, anh chị, chú, bác, cô, dì, cậu, mợ trong quyến thuộc, các giáo thọ, sư trưởng, bổn sư, giáo sư, các thầy, cô giáo, cấp chỉ huy, lãnh đạo tổ chức, ai được có Ðức (ý giáo) thế gian và Ðạo pháp trong lòng, là người ấy có Ðạo hạnh ở bản thân một cách thường hằng suốt cả cuộc đời, gương mẫu cho các cấp dưới noi theo mà sửa mình, tu thân, tu tâm tích Ðức qua thân giáo của các bậc trưởng thượng của mình, rồi mình sẽ là bậc trưởng thượng cho các thế hệ hậu lai.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.12/5/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment