LỤC TỔ HUỆ NĂNG LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
.
Trước khi đi đến những dữ kiện, tài liệu lịch sử để chứng minh Huệ Năng là
người Việt Nam, tôi xin cụ thể gợi lại đây cho ta thấy “bản lai diện mục” của
ngài Huệ Năng qua cái nhìn của tôi từ những dữ kiện rõ ràng có thể thấy được,
dưới một luồng ánh sáng khác chiếu rọi trên con đường cô độc của một đạo sĩ Việt
Nam cách đây trên 13 thế kỷ.
Điều sai lầm lớn nhất là mỗi khi ta nhắc đến ngài Huệ Năng thì lập tức chúng
ta hình dung rằng ngài có hình dáng một cụ Hòa thượng già nua, mường tượng như
những hình ảnh ta nhìn thấy trong sách vở Tàu; tất cả những hình ảnh của ngài và
ngay cả hình ảnh chụp nhục thân của ngài đều là những hình ảnh do những đời sau
nguỵ tạo.
Chúng ta cần phải thành kính thờ lạy tất cả những hình ảnh về ngài do những
thế hệ đã qua để lại, vì tất cả những di ảnh ấy đều là những biểu tượng cần
thiết hữu hình về ngài; chúng ta phải cần có những biểu tượng hữu hình để thờ
lạy, vì cơ cấu tâm thức của chúng ta cần phải nương tựa thành kính vào một hình
tượng cụ thể để mới có khả năng vượt qua hình tượng, chứ không thì dễ rơi vào
chủ nghĩa hư vô. Nhu yếu vô hình và siêu hình của tâm hồn phải cần nương tựa vào
một hình tượng nhất định để rồi siêu hóa và chuyển hóa tất cả những hình tượng.
Chính ngay đương thời với ngài Huệ Năng, theo truyền thuyết, có đệ tử tạc tượng
ngài, nhưng chính ngài Huệ Năng ngó tượng và mỉm cười: “Ngươi chỉ có tài nặn
hình mà chẳng hiểu được tánh Phật”. Dù đây chỉ là đoạn văn do người sau thêm vào
Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn kinh, nhưng vẫn nói lên được cụ thể cái tinh thần vô
tướng của nguyên ngữ khí của Huệ Năng. (Bản Tông Bảo có điều vô lý là ghi rằng
Phương Biên, người tạc tượng, đã gặp Bồ Đề Đạt Ma, đến trước Huệ Năng năm đời
Tổ).
Chúng ta thường hình dung nét mặt của ngài Huệ Năng là nét mặt hiền hậu của
một cụ già, nhưng chúng ta đã quên rằng Huệ Năng đã từng rất trẻ, và chính tuổi
trẻ của Huệ Năng quyết định hết tất cả sự nghiệp tâm linh vĩ đại của Huệ Năng,
vì tất cả những bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn kinh đều giống nhau ở chỗ nói lên
tuổi trẻ của Huệ Năng, khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.
Ba điều cần nhấn mạnh về tuổi trẻ của ngài Huệ Năng:
- Thứ nhất: Huệ Năng đã đắc đạo vừa lúc mới nghe người lạ tụng kinh Kim Cang
trước khi ngài đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn;
- Thứ hai: Huệ Năng là một thanh niên đầy tự tin, hãnh diện về sự chứng ngộ
tâm linh của mình và không hề có một mặc cảm tự ti nào cả khi mới vừa gặp Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn. Theo tiêu chuẩn lễ nghi, lễ phép ở tông môn thì cách đối đáp của Huệ
Năng (vừa mới gặp Ngũ Tổ lần đầu tiên) quả thực là rất “vô lễ”.Ngay ở Việt Nam
ngày nay, cũng không thấy một thanh niên trẻ măng mới đến chùa xin đi tu mà dám
cả gan đối đáp như vậy với một vị Hòa thượng nổi tiếng (như Hoằng Nhẫn), huống
chi đây là một thanh niên ngoại quốc ở vùng nhược tiểu “man rợ” mà dám đối đáp
với Đại lão Hòa thượng đại cường quốc thống trị Trung Hoa thịnh Đường như vậy;
Hoằng Nhẫn giả vờ hỏi một câu chê trách về nguồn gốc Việt Nam của Huệ Năng thì
Huệ Năng trả đũa ngay lập tức như một kẻ đã chứng ngộ rồi mới dám khẳng định
rằng: “Con người tuy có Tàu có Việt, tuy thân mọi rợ này không giống với thân
Hòa thượng, nhưng Phật tánh trong Hòa thượng và trong tôi chẳng có gì là sai
biệt”. (Chúng ta phải hiểu chữ “Bắc” trong kinh có nghĩa là “Trung Quốc” và
“Nam” có nghĩa là Việt Nam; ngày xưa người Trung Hoa coi nước Việt Nam là thuộc
địa miền Nam của họ);- Thứ ba: Huệ Năng không được Hoằng Nhẫn dạy đạo gì cả và
chỉ ở chùa với Ngũ Tổ có tám tháng mà thôi, và được Ngũ Tổ trao truyền y pháp và
ngôi Lục Tổ, lúc Huệ Năng mới có được khoảng 22 tuổi và chỉ non khoảng 23 tuổi.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chỉ giữ vai trò danh dự là ấn chứng cho Huệ Năng, vì thế Ngũ
Tổ mới lén lút kêu gọi Huệ Năng đêm khuya vào gặp riêng Ngũ Tổ để ngài trao y
pháp và giảng cho một thời kinh Kim Cang gọi là lấy lệ thôi, rồi sau đó Ngũ Tổ
âm thầm lén lút đưa tiễn Huệ Năng đến trạm Cửu Giang, và đuổi khéo Huệ Năng trở
về rừng rú Việt Nam, không dám giữ lại đất Trung Hoa, vì Ngũ Tổ đã làm một việc
can đảm phi thường nhất đáng ngại: trao ngôi vị lớn nhất của Thiền tông (lúc đó
chưa có tên là “Thiền tông” mà chỉ có tên là Đông Sơn pháp môn) cho một thanh
niên “mọi rợ” mới chưa đầy 23 tuổi.
Có một điều không nên quên đó là lần đầu tiên và có thể là lần cuối cùng độc
nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa mà ngôi vị Tổ sư của một tông pháp lớn
nhất của Phật giáo lại được trao truyền cho một người ngoại quốc còn rất trẻ
tuổi và chưa thọ giới xuất gia gì cả (Huệ Năng chỉ làm lễ thế phát xuất gia theo
điệu hình thức lúc gần 40 tuổi, vì “phương tiện thiện xảo”, vì từ bi để hoằng
pháp và gìn giữ ý nghĩa siêu việt của chữ “Tăng” trong Tam bảo (Phật, Pháp,
Tăng), nhưng chi tiết này cũng do những bản đời sau của Pháp Bảo Đàn kinh thêm
vào để cho “cụ túc” hình tướng cần thiết hóa độ).
Chúng ta phải tán thán công đức siêu phàm của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở đây: Hòa
thượng đã nhìn nhận ra tất cả vĩ đại phi thường của một anh con nít, chưa đầy 23
tuổi, lại thuộc giống người “mọi rợ”, chưa xuất gia; và Hòa thượng khéo léo kín
đáo trao truyền tất cả trách nhiệm tâm linh nặng nề nhất của đạo pháp, khéo léo
khuyên Huệ Năng lui trở về Việt Nam và trốn tránh ở Việt Nam, chứ đừng ra mắt
xuất hiện ở đất Trung Hoa nữa; Huệ Năng đã nghe lời dạy của Ngũ Tổ và đã mất
dạng ở đất Trung Hoa trong vòng mười sáu năm; ngài trở về ẩn náu ở vùng rừng núi
Việt Nam và đến mười sáu năm sau mới xuất hiện giữa vùng biên cương hai nước để
thuyết pháp.
Từ ba điều cần nhấn mạnh trên, bây giờ chúng ta thử hình dung người thanh
niên Huệ Năng. Chúng ta thử hình dung cách đây trên 13 thế kỷ, lúc đó tại vùng
miền Bắc nước Việt Nam, quanh quẩn đâu đó thuộc vùng thượng du Bắc Việt, có một
đứa con nít Việt Nam ra đời khoảng năm 638, tại vùng đất gọi là Lĩnh Nam, tức là
Việt Nam, lúc đó nước Việt Nam đã mất chủ quyền độc lập, gọi là thời Bắc thuộc
lần thứ ba, vào thời nhà Đường (cuộc Bắc thuộc dã man này kéo dài từ năm 603 cho
đến năm 939).Tất cả những gì huy hoàng nhất của Việt Nam trong giai đoạn ấy đều
bị Trung Hoa đồng hóa sát nhập vào sở hữu của họ).
Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây: Phật giáo Việt Nam lúc ấy rất huy hoàng và có
nhiều vị sư Việt Nam đã được triệu thỉnh về triều đình Trung Hoa để dạy đạo Phật
cho vua quan học; đó là chưa nói đến Trung tâm Phật giáo Đại thừa có từ trước
đời Đường ít nhất ba, bốn thế kỷ là nước Vu Điền (Khotan) ở Trung Á đã sản xuất
bao nhiêu đạo sĩ truyền giáo Đại thừa cho Trung Hoa, hầu hết tất cả những vị này
đã mang kinh điển Phật giáo đến Trung Hoa từ thế kỷ thứ hai và mấy thế kỷ sau;
hầu hết tất cả những vị truyền giáo vùng Trung Á này đều đi bằng đường biển đến
Trung Hoa và bắt buộc phải ghé Việt Nam trước khi đổ bộ sang Trung Hoa (ngay cả
Bồ Đề Đạt Ma, người vùng Trung Á, chứ không phải Ấn Độ, vì không có sách Phật
giáo Ấn Độ nào nói đến Bồ Đề Đạt Ma cả, ngay cả tài liệu Tây Tạng về Phật giáo
Ấn Độ cũng không có nói đến Bồ Đề Đạt Ma), ngay đến Bồ Đề Đạt Ma, người vùng
Trung Á, cũng phải đi đường biển và mất hết ba năm trời mới đến Trung Hoa, như
thế trong thời gian ba năm đó, Bồ Đề Đạt Ma cũng phải lưu lại Việt Nam trước khi
sang Trung Hoa.
Việt Nam đã từng chịu ảnh hưởng mạnh về hình thức Phật giáo Trung Hoa, nhưng
ngược lại Việt Nam đã ảnh hưởng lại Trung Hoa rất mãnh liệt mà ít ai thấy được,
và trường hợp Huệ Năng là một thí dụ điển hình. Phật giáo Việt Nam đã ảnh hưởng
mãnh liệt đến Phật giáo nước ngoài, như một trường hợp điển hình khác ít ai
biết: năm 735, Thiền sư Việt Nam tên là Phật Triệt đã đến Nhật Bản và dạy chữ
Phạn cho những Tăng sĩ Nhật Bản, và đồng thời Tổ sư trao truyền nhạc Phật giáo
cho nền vũ nhạc triều đình Nhật Bản mà ngày nay người Nhật rất hãnh diện đã giữ
lại nền vũ nhạc tuyệt vời ấy và coi như “một trong những kỳ quan của thế giới”
và chính người Nhật cũng công nhận rằng đó là nền vũ nhạc mà chính một người
Việt Nam đã trao truyền cho họ vào thế kỷ thứ VIII đang khi đó ở Việt Nam chúng
ta đã quên mất hết tất cả những gì gọi là tinh túy của dân tộc (*). Đây là một
trường hợp đáng lưu ý cho những người quan tâm đến quốc học mà tôi sẽ đề cập
trong dịp khác.
Bây giờ xin đóng dấu ngoặc lại và trở về ngài Huệ Năng.Chúng ta thử tưởng
tượng hình dung một đứa con nít Việt Nam khi sinh ra đời thì nước Việt Nam đã
trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Chúng ta chỉ biết đứa con nít ấy tên là
Năng (chữ “Huệ” có thể do Ngũ Tổ đặt thêm cho Năng). Không ai biết rõ tung tích
của đứa bé ấy, chỉ biết rõ rằng đứa bé ấy là người đất Lĩnh Nam (tức là Việt
Nam). Ngay đến tên tuổi cha mẹ của Huệ Năng trong bản Đôn Hoàng và những bản sau
của Pháp Bảo Đàn kinh đều do những thế hệ sau thêm vào (bản Đôn Hoàng Pháp Bảo
Đàn kinh xuất hiện sau năm viên tịch của Huệ Năng ít nhất trên một thế kỷ sau).
Khi đứa trẻ ấy lớn lên khoảng ngoài hai mươi tuổi, ở vùng gần biên giới Trung
Hoa, nghèo khổ, phải đi bán củi nuôi sống, người nhỏ bé, ốm yếu, gầy đét, nhưng
thông minh siêu phàm xuất chúng; tình cờ chỉ nghe một người tụng kinh Kim Cang
mà giác ngộ; Huệ Năng biết nói tiếng Tàu, nhưng nói đại khái thôi và không rành
lắm: dữ kiện lịch sử đã chứng minh rằng Huệ Năng nói không rành tiếng Tàu (đã
được những hậu bản kinh Pháp Bảo Đàn ghi chép) dù Huệ năng có nói tiếng Tàu theo
giọng Quảng Đông đi nữa thì không có lý do gì mà Huệ Năng phải cần tự biện hộ
(ngài đối đáp với Hoằng Nhẫn) lúc Ngũ Tổ đưa ngài đến trạm Cửu Giang để trở về
Việt Nam, nhất là trong một lúc nghiêm trọng như sắp vĩnh biệt Ngũ Tổ.
Chẳng hạn đọc lại bản Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn kinh:”Lúc vào canh ba, Huệ
Năng lãnh được y bát rồi thì mới hỏi: “Năng này gốc gác là người Việt Nam, vốn
chẳng biết đường đi vùng núi này, làm thế nào mà ra vàm sông?”. Ngũ Tổ đáp, con
chẳng cần đi, tự ta sẽ đưa con đi. Tổ đưa Huệ Năng thẳng tới trạm Cửu Giang. Rồi
Tổ bảo Huệ Năng lên thuyền, ngài cầm mái chèo lấy, nhưng Huệ Năng nói: “Xin Hòa
thượng ngồi và hãy để đệ tử chèo lấy mới phải”. Tổ nói: “Đáng lẽ ta độ cho
người”. Huệ Năng trả lời: “Khi mê thì thầy độ cho, ngộ rồi thì mình độ lấy mình.
Chữ “độ” tuy có một mà chỗ dùng chẳng giống nhau. Huệ Năng này sinh ở chốn biên
thùy xa xôi, thành ra tiếng nói không được đúng. Nhờ thầy truyền pháp rồi và nay
đã đắc ngộ rồi thì chỉ tự mình mà độ lấy mình thôi”.
Chúng ta thấy gì trong lời ghi chép trên? Hiển nhiên chữ Hán “độ” có nghĩa là
“đưa” mà cũng có nghĩa là “cứu độ”. Khi Huệ Năng trả lời: “Lúc mê thì Tổ sư độ,
ngộ rồi thì tự độ lấy mình. Huệ Năng này sanh tại xứ dã man và giọng nói không
đúng, nhờ Tổ sư truyền pháp, nay đã được tỏ sáng thì chỉ nên mình tự độ lấy
mình”.
Đoạn này mới nghe qua tưởng dễ hiểu. Nếu chúng ta biết nhìn thấy qua bên
trong sự việc thì chúng ta sẽ thấy được mật ý của đoạn văn. Đây không phải lúc
mà Huệ Năng có thể “chơi chữ” với Tổ sư, vì đây là giây phút vô cùng nghiêm
trọng và ngôn ngữ ở đây là ngôn ngữ bí mật giữa hai thiền sư; ngôn ngữ bí mật
nằm giữa hai biên giới, biên giới Sống và Chết: một Tổ sư rút lui về sự Chết và
một Tổ sư khác mới khai sinh. Huệ Năng đã hiểu mật ý của Ngũ Tổ và muốn nói với
Ngũ Tổ rằng: “Thầy muốn đưa con về Việt Nam là để cứu thoát con để khỏi bị lâm
nạn ở đất Tàu, vì con nói tiếng Tàu không rành, là người mọi rợ, lại lên ngôi vị
Tổ sư, nhưng thầy đưa con đi đây có nghĩa rằng thầy muốn cứu thoát con, dù con
nói không rành tiếng Tàu, nhưng con cũng hiểu ý của thầy khi thầy muốn “đưa” con
đi và đồng thời muốn “cứu thoát” con (“độ”), con đã hiểu ý thầy rồi thì con phải
tự cứu thoát lấy mình và trở về Việt Nam”.
Tất cả mật ý trên chỉ muốn nói lên
điều duy nhất: Huệ Năng hiểu lý do tại sao Ngũ Tổ đưa trả Huệ Năng về Việt Nam,
vì rất nguy hiểm cho tính mệnh của một người thanh niên trẻ tuổi, người “man rợ
dã man” mà được trao truyền ngôi vị Tổ sư thống lãnh tất cả Đông Sơn pháp môn,
trường phái nổi tiếng nhất của Trung Hoa hồi đó.Chỉ có thể hiểu như vậy mới
không thấy cái “lố bịch” của Huệ Năng khi tỏ vẻ “khôn vặt” chơi chữ với chữ “độ”
trong một giây phút linh thiêng nhất, lúc giã biệt thầy.
Sau đó, chàng thanh niên Huệ Năng phải mai danh ẩn tích ở rừng núi Việt Nam
trong khoảng mười sáu năm trời, rồi mới dám xuất đầu lộ diện thuyết pháp ở vùng
biên giới Trung – Việt.Ngài Huệ Năng thuyết pháp trên ba mươi mấy năm trời chung
quanh vùng Quảng Đông và vùng biên giới Trung – Việt, và cả nước Trung Hoa lúc
ấy không ai biết đến tên tuổi ngài cả, lúc ấy Thần Tú được trọng đãi ở triều
đình Trung Hoa và được chính thức coi như Lục Tổ của Đông Sơn pháp môn (lúc đó
chưa có phân biệt “Bắc Tú, Nam Năng” như ta thấy trong bản Đôn Hoàng và những
hậu bản Pháp Bảo Đàn kinh).
Danh tiếng, uy thế của Thần Tú và đệ tử Phổ Tịch
lẫy lừng vang dội và được vua Trung Hoa coi như Quốc sư, đang khi ấy ngài Huệ
Năng chỉ là một ông đạo sĩ “man rợ” tối tăm ở biên cương, chỉ có được một số môn
đệ người Trung Hoa trung thành sùng bái, trong số đó có một người tên là Thần
Hội; chính Thần Hội sau này đã khôi phục lại ngôi vị Tổ sư thứ sáu cho Huệ Năng
và rao truyền đạo lý Đốn ngộ Bát nhã của Huệ Năng và đẩy lùi tất cả những trường
phái Thiền tông khác đi vào bóng tối của lịch sử. Tất cả tư tưởng đạo lý của
Thần Hội đều được rút ra trực tiếp từ Huệ Năng.
Vai trò quyết định của Thần Hội đối với lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung
Hoa và Nhật Bản chỉ mới được Hồ Thích khám phá ra từ những tài liệu đào ra được
ở động Đôn Hoàng, lưu giữ ở Thư viện Quốc gia Paris. Tác phẩm của Thiền sư Thần
Hội đã thất lạc từ lâu ở Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ nhờ Hồ Thích khám phá ra ở
thư loại Pelliot tại Paris mà lịch sử Phật giáo Thiền tông Trung Hoa đã được
viết lại hết, chẳng những tài liệu của Hồ Thích thôi mà còn bao nhiêu tài liệu
khác từ Đôn Hoàng đã giúpc ho các học giả Nhật và phương Tây thấy rằng sự thực
lịch sử về sự thành hình của Thiền tông không giống như những tài liệu lịch sử
Phật giáo Trung Hoa như chúng ta từng quen biết từ lâu.
Những gì chúng ta biết được về những Tổ sư Trung Hoa từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến
Huệ Năng đều do những truyền thuyết nguỵ tạo ở những thế hệ sau. Tất cả những sử
gia Trung Hoa và ngoại quốc muốn viết gì về Huệ Năng đều lấy tài liệu chứng minh
từ bộ Toàn Đường văn (Đài Bắc, 1961, 20 cuốn), nhưng theo giáo sư Yampolsky thì
bộ “Bộ sách Toàn Đường văn” được biên soạn vào năm 1814 và sử dụng tạp nhạp tất
cả những tài liệu một cách bừa bãi, và nhiều tài liệu đã được viết ra sau này và
rất gần đây, thành ra không thể tin vào giá trị của những tài liệu ấy”
(Yampolsky, op. cit., trang 31).
Sau khi khảo xét rất kỹ lương tất cả tài liệu liên quan đến Huệ Năng trong bộ
Toàn Đường văn, Yampolsky phải đi đến kết luận rằng tất cả đều là ngụy tạo (op.
cit., trang 59). Sau khi đã duyệt qua hàng ngàn tài liệu Trung Hoa và Nhật Bản,
cùng những tài liệu khai quật ở Đôn Hoàng, Yampolsky đi đến kết luận rằng:
“Chúng ta không có được những dữ kiện nào về Huệ Năng cả… (For Hui-Neng we have
no facts…” op. cit., trang 60). “Chúng ta chỉ có thể kết luận rằng thực ra gần
như không có gì để chúng ta có thể nói thực sự về Huệ Năng” (“We may only
conclude that there is infacts, almost nothing that we can really say about
him”, op. cit., trang 69).
Theo Yampolsky, chúng ta chỉ biết chắc có một điều là có một người tên là Huệ
Năng, một thiền sư có đôi chút tiếng tăm đương thời và sống đâu đó ở vùng miền
Nam Trung Hoa”. Theo Yampolsky, chỉ có hai tài liệu đáng tin cậy: thứ nhất là
Lăng Già sư tử ký (khai quật ở Đôn Hoàng), và tài liệu này chỉ nhắc đến tên Huệ
Năng như là một trong mười học trò của Hoằng Nhẫn, chỉ thế thôi và không có ghi
chép sự kiện gì khác; tài liệu thứ hai là bia ký của thi hào Vương Duy vào
khoảng năm 740. Còn tất cả những tài liệu khác đều do những thời đại sau ngụy
tạo.
Trong bia ký của thi hào Vương Duy mà Yampolsky đã trích dịch ở trang 66-67
(op. cit.), chúng ta chỉ thấy Vương Duy ghi rằng: “Nơi quê quán của Thiền sư Huệ
Năng không ai biết. Thiền sư sinh sống ở một thôn làng mọi rợ. Khi trẻ, học đạo
với Hoằng Nhẫn, thiên tài của ngài được Ngũ Tổ ghi nhận và được trao truyền y
pháp; Ngũ Tổ bảo ngài phải lìa bỏ (tức là lìa bỏ đất Trung Hoa), và trong mười
sáu năm, ngài sống ẩn trốn với phường buôn bán dân ngu khu đen (tức là phường
dân ngu khu đen ở Việt Nam).
Từ hai dữ kiện lịch sử trên và dựa theo tất cả những bản khác nhau của Pháp
Bảo Đàn kinh, và loại bỏ tất cả những gì có tính cách thần thoại hay truyền
thuyết (và ngay cả bản Đôn Hoàng Pháp Bảo Đàn kinh chỉ được chép vào năm
830-860, gọi là do Pháp Hải ghi lại, chưa hẳn là nguyên bản của Pháp Bảo Đàn
kinh mà những học giả Nhật cho rằng đã có một nguyên bản khác đã được viết vào
khoảng năm 713-714 sau khi Huệ Năng viên tịch, bản này đã mất và chưa tìm lại
được); dựa vào tất cả những dữ kiện kiểm chứng được, chúng ta chỉ có thể có
những kết luận sau đây:- Huệ Năng là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam;- Lĩnh Nam
là đất Việt Nam (ngày xưa Lưỡng Quảng: Quảng Đông và Quảng Tây cũng thuộc Việt
Nam).
Ngay đến Yampolsky cũng đã chú thích rất rõ: “Lĩnh Nam là những vùng ở Quảng
Đông, Quảng Tây, và miền “Bắc Đông Dương Việt Nam” (“Ling-nan indicates the
areas of Kwangtung, Kwangsi, and Northern Indochina”, op. cit., trang 126). Còn
địa danhh “Nam Hải” ghi trong tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh thì theo
Yampolsky đó là Phiên Ngung, tức là thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày xưa (xin đọc
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, trang 37: “Triệu Đà đánh được An Dương vương,
sát nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập thành một nước gọi là Nam Việt, tự
xưng làm vua, tức là Vũ vương, đóng đô ở Phiên Ngung”).
Ngoài ra, còn một điểm đáng lưu ý mà Yampolsky đã nêu ra: Bài thuyết pháp
quan trọng nhất của Huệ Năng là ở chùa Đại Phạm, nhưng theo Yampolsky thì, không
ai có thể truy tìm cho ra chùa Đại Phạm ở đâu, chỉ biết chùa ấy còn có tên là
chùa Báo Ân. Ngôi chùa quan trọng nhất, nơi xảy ra bài thuyết pháp quan trọng
nhất của Huệ Năng và là nội dung quan trọng nhất của tất cả các bản Pháp Bảo Đàn
kinh mà không có học giả nào truy ra được địa điểm đích xác, đang khi đó, một sự
kiện lạ lùng, là chúng ta đã thấy cái tên chùa Báo Ân rất nhiều lần trong quyển
Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, cuốn 1, trang 342 và 344; và điều lạ
lùng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: trong Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi có
hai tên khuyết lục vào thế hệ thứ năm và thế hệ thứ sáu, vào thế kỷ thứ VII và
thế kỷ thứ VIII, đồng thời với Huệ Năng và Thần Hội (mà Thần Hội ở chùa Hà
Trạch, Hà Trạch nào, phải chăng là Hà Trạch ở Lạc Dương hay Hà Trạch ở Việt
Nam?), vì trong Lĩnh Nam chích quái có ghi rằng: “Thiền sư Không Lộ kết làm đạo
hữu với Giác Hải, lần đến chùa Hà Trạch nương thân…” (trang 90). Và riêng về tài
liệu Phật giáo Việt Nam có một nghi vấn mà chưa ai trả lời được và còn ghi lại
trong Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (trang 224 và 98): có hai hệ
phái Đại Điên và Bát Nhã không được chép vào lịch sử những thế hệ truyền thừa.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng Huệ Năng và Thần Hội thuộc vào hệ phái Bát Nhã và
chống lại hệ phái Lăng Già của Thần Tú và Phổ Tịch.
Có một điều đáng nói hơn nữa, đang khi Huệ Năng đương thời không được người
Trung Hoa biết đến, và mãi sau đến sự xuất hiện hoằng pháp của Thần Hội (sau khi
Huệ Năng đã chết lâu rồi) thì ảnh hưởng của Huệ Năng lớn mạnh như vũ bão quét
sạch tất cả tông phái khác ở đất Trung Hoa, đang khi ấy nước Trung Hoa không có
một tổ đình nào mang tên là Lục Tổ thì trái lại tại Việt Nam đã có một tổ đình
rất lâu đời, mang tên là Tổ đình Lục Tổ (xin đọc Nguyễn Lang, trang 218, trang
98, trang 101).
Như trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì Tổ đình Lục Tổ đã có tới trên 400
năm, tính kể từ cuối thế kỷ thứ XII, tức là Tổ đình Huệ Năng đã có từ thế kỷ thứ
VIII, thời đại của Huệ Năng (Huệ Năng viên tịch vào thập niên đầu thế kỷ VIII,
tức khoảng năm 713) (Nguyễn Lang, op. cit., trang 101). Thiền sư Thần Hội, đệ tử
của Huệ Năng chỉ xuất hiện ở những kinh đô Trung Hoa để vũ bão quét sạch tất cả
những tông phái Thiền của Phổ Tịch (đệ tử Thần Tú) và lấy lại ngôi vị Lục Tổ cho
Huệ Năng, bắt đầu từ năm 732, và Thần Hội đã chiến thắng vẻ vang rực rỡ và mất
đi vào năm 758 hay 760, thì đang lúc đó ở Việt Nam đã có một tổ đình mang tên là
Lục Tổ. Còn một điều nữa là quyển Nam Tông tự pháp đồ (ghi lại lịch sử truyền
thừa của Phật giáo Việt Nam) đã bị mất, và chính mấy chữ “Nam Tông” đáng cho
chúng ta lưu ý, vì mấy chữ ấy chỉ xuất hiện với sự xuất hiện của Thần Hội vào
khoảng từ năm 732 trở đi.
Còn một điểm lịch sử vô cùng quan trọng đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Thiền sư
Việt Nam La Quý An quyên góp tài sản và đúc một tượng Lục Tổ bằng vàng, chôn ở
gần tam quan để khỏi bị trộm cắp, dặn rằng khi nào có bậc minh vương ra đời để
giúp dân cứu nước thì đào lên”. Đây có ngụ ý chính trị gì đối với dân tộc Việt
Nam lúc ấy, và nhất là một điểm khác sau đây: “Ngày Lý Công Uẩn được suy tôn
hoàng đế trong cung thì Thiền sư Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ (đọc Nguyễn Lang,
op. cit., trang 243-24). Nơi đây chứa đựng những bí mật nào về lịch sử của dân
tộc mà chúng ta không còn để ý tới? Nhất là phải cần nhớ rằng Huệ Năng là đại
diện cho ý thức độc lập của Việt Nam chống lại Trung Hoa, chẳng những về phương
diện đạo lý mà còn đại diện ý thức độc lập tự chủ chính trị của chính trị Việt
Nam đối với Trung Hoa; chúng ta phải cần nhớ lại rằng Thần Hội đã bị triều đình
Trung Hoa bắt giam và lưu đày vì bị kết án là “muốn âm mưu chính trị có hại cho
chính quyền Trung Quốc”. (cf. Yampolsky, op. cit., trang 36). Và chính Thần Hội
đã tạo ra vai trò Bồ Đề Đạt Ma (truyền thừa y bát của Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ
Năng) và cũng chính Thần Hội lật đổ vai trò tối ư quan trọng của Thần Tú và Phổ
Tịch (đệ tử Thần Tú) lúc bấy giờ và giành lại ngôi vị Lục Tổ cho Huệ Năng và đưa
Thiền Việt Nam của Huệ Năng thống trị cả Phật giáo Trung Hoa.
Đây không phải chỉ là sự chiến thắng về mặt ý thức đạo lý Việt Nam mà cũng là
sự chiến thắng của tư tưởng Bát nhã đối với tư tưởng Lăng già (của phái Lăng Già
tông, tức là tất cả trường phái Thiền Trung Quốc đương thời mà đại diện là Pháp
Như, Thần Tú và Phổ Tịch).
Tất cả bản kinh khác nhau của Pháp Bảo đàn kinh đều xác nhận hai điều quan
trọng:
- Thứ nhất: Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;
- Thứ hai: Huệ Năng sinh trưởng tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung quanh vùng
Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc lãnh thổ Việt Nam thời đó).Và điều quan trọng
là tất cả các bản khác nhau của Pháp Bảo Đàn kinh đều còn giữ lại ít nhất hai
lần, nếu không muốn nói là năm sáu lần những câu đại loại sau đây để chứng tỏ
Huệ Năng không phải là người Hán tộc mà là người Việt Nam:- Hoằng Nhẫn mắng Huệ
Năng: “Mi là dân Lĩnh Nam, vốn là đồ mọi rợ, làm thế nào thành Phật được?” (phân
đoạn 3, bản Đôn Hoàng).- “Thực không ai ngờ nơi đất Lĩnh Nam lại được phúc có
Phật sinh ra nơi ấy” (phân đoạn 37, bản Đôn Hoàng).
Mấy chữ “đồ mọi rợ” ở đây là dịch mấy chữ chửi thề ở đời đường “các lão” mà
Yampolsky đã chú thích như sau: “Ko-lao” (các lão) là một tiếng mắng chửi, có
nghĩa là dân dã man, gần như súc vật ở phương Nam nước Trung Hoa (tức là Việt
Nam)” (op. cit., trang 127).Chỉ nội mấy chữ “các lão” trên cũng đủ để chứng minh
Huệ Năng không phải người Trung Hoa mà là người Lĩnh Nam. Và riêng mấy chữ “Lĩnh
Nam”, chúng tôi xin trở lại Lĩnh Nam chích quái: theo giáo sư Lê Hữu Mục, dịch
giả Lĩnh Nam chích quái thì “Lĩnh Nam chích quái còn mang nhiều giá trị lịch sử,
lịch sử vẻ vang của tổ tiên trong công cuộc xây dựng đất nước” (trang 28). Từ
đó, chúng ta có thể kết luận rằng: Nếu nói Lĩnh Nam là của Trung Hoa thì chúng
ta phải bôi hết Lĩnh Nam chích quái và phải bôi hết “lịch sử vẻ vang của tổ tiên
trong công cuộc xây dựng đất nước” (Lê Hữu Mục). Nếu có người Việt Nam nào lên
tiếng nói rằng Huệ Năng người đất Lĩnh Nam là người Trung Hoa, thì tôi phải kết
luận rằng “người Việt Nam” ấy cho tới thế kỷ thứ XX vẫn chấp nhận “sự Bắc thuộc
lần thứ ba” của Trung Hoa, vì lúc đó vào thời Huệ Năng, chúng ta bị coi như lệ
thuộc Trung Hoa. Mặt khác, nếu có người Trung Hoa nào muốn chứng minh Huệ Năng
là người Trung Hoa thì phải bôi mấy chữ “các lão” và “Lĩnh Nam” trong tất cả
những bản Pháp Bảo Đàn kinh được chép ra liên tiếp trong mười ba thế kỷ.
Giữa những khó khăn lớn lao đang xảy đến cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại
quê hương, giữa những ngày khó khăn trong thời gian phải đối diện và hóa giải
những thử thách gay gắt dành cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ mà tôi
là đại diện lãnh đạo, mỗi khuya tôi đã thức dậy tụng kinh Lăng Nghiêm, sau đó,
tôi đã kiên nhẫn âm thầm yên lặng trong ba tháng An cư kiết hạ ngồi dịch lại
tiếng nói của ngài Huệ Năng, trả lại tiếng nói của ngài về đúng tiếng mẹ đẻ của
ngài: tiếng Việt Nam, để cho tất cả chúng ta, những người Phật tử Việt Nam ở hải
ngoại, trong tình cảnh sống tha phương trên đất khách, được nghe lại tiếng nói
của hồn Dân tộc và Đạo pháp, tiếng nói của một thiên tài vĩ đại nhất Việt Nam và
một trong những thiên tài tâm linh lớn nhất của nhân loại. Dù bất cứ chúng ta
lưu lạc ở phương trời nào, mỗi khi chúng ta không quên được tiếng nói của quê
hương, tiếng nói suối nguồn trong khiết của đạo lý, thì “chính thân thể mình là
quê hương” như ngài Huệ Năng đã nói, và dù có ai đã đem vô minh đen tối đến cho
quê hương và đạo pháp, nhưng chơn lý vẫn luôn luôn chiến thắng như ngài Huệ Năng
đã nhắn lại với chúng ta: “Cũng như một ngọn đèn có thể trừ được một ngàn năm
bóng tối thì một ánh sáng của trí tuệ cũng có thể diệt được một vạn năm ngu si
đen tối”.LosAngeles,ngày1tháng9năm1985.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.18/4/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.
No comments:
Post a Comment