Friday 30 May 2014

ĐƯỜNG VÀO PHẬT HỌC .

     Chữ Phật do tiếng Phạn (Sanskrit) của Ấn Độ là Bouddha  “Phật Đà”. Người Trung Quốc dịch nghỉa là Giác Giả (người đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn).  Do đó, chữ Phật là một danh từ chung để chỉ những bậc tu hành đã giác ngộ (Giác ngộ có ba bậc: Tự giác, Giác tha, và Giác hạnh viên mãn).phat hoc 3 ĐƯỜNG  VÀO  PHẬT  HỌC
     Dựa vào kho tàng kinh điển phật học, được gọi là tam tạng (Kinh, Luật, và Luận), các học giả Đông Tây nhận định rằng: Giáo lý của Phật Thích Ca không chỉ là một tôn giáo, tín ngưỡng, mà còn là môn triết học hàm súc vấn đề thực nghiệm về nhân sinh và vũ trụ.
     Trong thực tế, triết học Phật giáo nhằm để cải thiện con người. Cho nên, cả hai lý thuyết và thực hành về Phật giáo phải được đi đôi trong cuốc sống hiện hữu của con người. Nguyên lý Phật giáo là một phương tiện giúp con người tiến lên con đường giải thoát, bằng cách diệt khổ, diệt dục, để có một nhân tâm thanh tịnh hoàn toàn, trong tinh thần “Chuyển Mê Khải Ngộ” như Đức Phất đã dạy: “Muốn tránh đau khổ trong cuộc đời, người ta phải diệt dục”. Dục có nghĩa là thèm khác, ham muốn, đam mê. Dục chính là cái nhân của sự đau khổ.
     Về phương diện truyền bá, nhờ vào tinh thần linh động và khai phóng của bất định pháp, Phật học dễ dàng thích nghi với mọi căn cơ, trình độ trí thức, trong quảng đại quần chúng.  Ở điểm này, Phật học giống như hạt kim cương, lóng lánh, phản ảnh muôn màu, xanh đỏ, tím vàng, . . ., qua nhiều góc cạnh khác nhau. 
     Theo Ngài Long Thọ Bồ Tát (Nagarijuna) có nói:  “Trong Phật giáo, có hai chơn lý: -Chơn lý Thực Nghiệm (Tục Đế) là giáo lý để áp dụng cho hạng người trí tuệ thấp kém. –Chơn lý thứ hai là Siêu Đẳng Tuyệt Đối (Chơn Đế) để áp dụng cho hạng người thượng căn trí thức. Những ai nghiên cứu Phật giáo mà không phân biệt được hai chơn lý này, tức là không thể thấu triệt chu đáo triết lý huyền diệu của Đức Phật”.
     Để tránh sai đường lạc lối trên bước khởi đầu tiến vào thiền môn phật học, chúng tôi xin trình bày những yếu tố căn bản trong năm (5) tiết mục như sau: 1-Lược Sử Phật Tổ Thích Ca.  2-Ngũ Thời Thuyết Pháp Của Phật. 3-Tứ Kỳ Đại Hội Kết Tập Phật Học.  4-Các Danh Từ Nam Tông và Bắc Tông, Tiểu Thừa và Đại Thừa.   5-Những Điểm Tương Đồng và Dị Biệt giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa:
1-Lược Sử Phật Tổ Thích Ca:
      Vào khoảng thế kỷ thứ sáu (6th) trước Tây Lịch, dân chúng Ấn Độ sống trong cảnh xã hội đầy bất công, với nhiều giai cấp khác biệt, tựu trung gồm có bốn (4) giai cấp chính yếu sau đây:
     1.1-Giai Cấp Bà La Môn/Brahman: Các giáo sĩ Bà La Môn/Brahman
có quyền ưu tiên, và được tôn kính nhất trong quần chúng.
     1.2-Giai Cấp Sát Đế Ly/Kastrya:  Các vị vua chúa, và giới quí tộc nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.
     1.3-Giai Cấp Phệ Xá/Vaisya:  Những điền chủ, và thương gia có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế và nông nghiệp trong nước.
     1.4-Giai Cấp Thủ Đà La/Sudra:  Là hạng người hạ lưu, nô lệ, suốt đời làm nô lệ cho ba giai cấp trên.
     Ngoài bốn giai cấp nêu trên, còn có hạng người hạ tiện nhất được gọi là Paris, họ bị xem như giống mọi rợ, đời sống rất cơ cực, tối tăm, ngoài lề xã hội loài người.
     Trong một xã hội Ấn Độ bất công như thế, Đức Phật Thích Ca ra đời vào ngày rằm (15th) tháng tư Âm lịch, năm 624 trước Tây lịch, tại vườn hoa Lâm Tì Ni / Lumbini, xứ Ca Tỳ La Vệ / Kapilavastu, phía Bắc Ấn Độ. Đức Phật tên thật là Tất Đạt Đa / Siddhartha, họ Cù Đàm / Gautama. Cha là Tịnh Phạn Vương / Suddhodana, vua của xứ Ca Tỳ La Vệ / Kapilavastu, vị trí nằm ở phía Nam sông Hằng Hà / Gange, và dưới chân dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (bây giờ là nước Nepal). Mẹ là Hoàng Hậu Maya Sakya, con gái vua A Nậu Thích Ca / Anu Sakya, xứ Câu Ly / Koly.
     Thuở thiếu thời, Thái Tử Tất Đạt Da / Siddhartha  có tư chất thông minh, tài giỏi, tính tình trầm lặng, thích sống nội tâm, thường chọn nơi thanh vắng.
     Năm mười sáu (16) tuổi, Thái Tử kết hôn với nàng Yasadhara, vợ chồng sống rất hạnh phúc, trong cung điện cực kỳ sang trọng.  Đến năm mười chin (19) tuổi, vợ nhà hạ sinh đứa con trai duy nhất La Hầu La / Rahula.  Sau đó, vì nhận thấy xã hội đầy bất công, nhân sinh thống khổ, thế sự vô thường, nên Thái Tử cương quyết bỏ nhà ra đi cầu đạo, tu hành, tìm đường giải thoát cho mình và cho người.
     Sau sáu (6) năm lang thang tu khổ hạnh, cầu đạo với các thầy thuộc giáo phái truyền thống Ấn Độ, tại thung lũng sông Hằng Hà / Gange, cũng như trong các núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn, vì nhận thấy không có kết quả, ngài rời bỏ việc tu khổ hạnh, rồi bồi dưỡng thân thể được khỏe mạnh.  Sau đó, ngài đi qua núi Koda, tự tìm chân lý.  Với ý chí cương quyết, ngài ngồi tham thiền nhập định, dưới gốc cây Bồ Đề và thề rằng: “Nếu ta không thành đạo, dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”.
     Sau bốn mươi chin (49) ngày thiền định, ngài đại ngộ, thấu hiểu chân tướng về nhân sinh, vũ trụ và đắc đạo Bồ Đề, lúc bấy giờ ngài mới ba mươi (30) tuổi.
     Sau khi đắc đạo, lần đầu tiên, tại thành Cấp Cô Độc Viện (gần thành Benares ngày nay), ngài hóa độ cho năm (5) vị đồng tu khổ hạnh (nhóm Kiều Trần Như), họ là những bạn cũ đồng hành trên đường tìm đạo.
     Trong  suốt  bốn mươi chin (49) năm truyền đạo, Đức Phật chu du khắp nước Ấn Độ để thuyết giảng đạo pháp diệt khổ, giải thoát, cứu độ chúng sinh, trong mọi tầng lớp dân chúng, không phân biệt giai cấp xã hội sang hèn, nam nữ, già trẻ, . . .
     Đến năm tám mươi (80) tuổi, Phật nhập diệt (qua đời) vào chốn niết bàn, tại thành Câu Thị Na / Kusinara, trong cánh rừng Song Thọ / TaLa, nhằm ngày rằm (15th) tháng hai (2) Âm lịch, năm 544 trước Tây lịch.  Trong cuộc đời của Phật, chúng ta nhận thấy Phật là bậc Đại Hùng, Đại Lực, và Đại Bi :
     -Đại Hùng : Trong việc Phật quyết rời bỏ ngôi vị cao sang, quyền quí, giàu có tột bực, để đi tìm con đường giải thoát.
     -Đại Lực : Trong việc Phật không nương tựa vào một thế lực hay chân sư nào để cầu đạo, mà chỉ tự lực tìm ra chân lý giải thoát.
     -Đại Bi : Trong suốt cuộc đời, Phật chỉ lo truyền pháp để cầu giải thoát đau khổ cho toàn thể nhân loại, đến hơi thở cuối cùng của ngài.
 
2-Ngũ Thời Thuyết Pháp Của Phật :
      Trong suốt bốn mươi chin (49) năm truyền pháp, tùy theo trình độ căn cơ và phương tiện của mọi người, Đức Phật thuyết giảng để hóa độ chúng sinh. Về sau, các đệ tử của Phật sắp xếp lại những lời giảng, bài thuyết pháp của ngài thành những kinh pháp, và chia ra làm năm (5) thời kỳ như sau: -Thời Kinh Hoa Nghiêm, -Thời Kinh A Hàm, -Thời Kinh Phương Đẳng,
-Thời Kinh Bát Nhã, và -Thời Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn:
     2.1-Thời Kinh Hoa Nghiêm:  Sau khi thành đạo, Đức Phật còn ngồi lại dưới gốc cây Bồ Đề thêm hai mươi mốt (21) ngày.  Trong một tinh thần rất sảng khoái, cao hứng, Ngài giảng thuyết về chân lý cao thâm huyền diệu, vào bậc Đẳng Giác và Diệu Giác.  Chỉ có các bậc thiên thần nghe được, còn người bình thường không sao hiểu nổi. Những lời thuyết giảng này, về sau được các đệ tử chép lại thành kinh Hoa Nghiêm.
     2.2-Thời Kinh A Hàm:  Vào kỳ thứ hai này, Ngài giảng pháp về kinh A Hàm, trong mười hai (12) năm. Bắt đầu tại rừng Lộc Uyển (nước Bà La Nai), để thích hợp với bình dân đại chúng, Đức Phật áp dụng những lời giảng dễ hiểu, bình dân, gồm có nhiều thí dụ cụ thể.  Phật pháp gồm nhiều giáo điều luân lý, không dùng đến những luận thuyết cao sâu.  Mục đích giúp cho hàng Tiểu Thừa dễ đạt phần tự tu, tự độ.
     2.3-Thời Kinh Phương Đẳng:  Giáo lý của Phật bắt đầu phổ thông trong dân gian.  Trong tám (8) năm với những lời giảng pháp của kinh Phương Đẳng, bao gồm những giáo điều luân lý, có kèm lẫn với những luận thuyết chứng minh.  Mục đích của Phật nhằm khuyến khích hàng tự giác tiêu cực của Tiểu Thừa  (A La Hán) tiến lên hàng Giác Tha, tích cực bao la của Đại Thừa, để phổ độ chúng sinh bốn phương.
     2.4-Thời Kinh Bát Nhã:  Tiếp theo trong hai mươi hai (22) năm là thời kỳ tranh biện, ngày càng gay go, với các nhóm triết học, giáo phái truyền thống Ấn Độ.  Phật phải giảng cho các đệ tử trí thức siêu đẳng về những nguyên lý cao sâu của vũ trụ, thật tướng và vô tướng của vạn vật, với kinh Bát Nhã.
     2.5-Thời Pháp Hoa và Niết Bàn:  Trong tám (8) năm sau cùng, nhiệm vụ thuyết pháp độ sinh của Phật đã viên mãn.  Phật pháp đến lúc trưởng thành.  Phật nhận thấy căn cơ chúng sinh đã thuần thục, để gánh vác Đại Thừa chánh pháp. Cho nên, Ngài mang Bồ Tát Thừa ra giảng cho hàng đệ tử cao nhất với bộ kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn. Đây là tinh hoa của Phật giáo.
     Tóm lại, lúc đầu tiên thời Hoa Nghiêm, Phật giảng thuyết về chân lý diệu giác mầu nhiệm.  Tiếp theo, thời A Hàm, Phật áp dụng lối giảng dễ hiểu về giáo điều luân lý, và thuyết về vũ trụ, vạn tượng là “Có”  (Hữu Luận).  Đến thời Phương Đẳng, Phật thuyết giảng về những luận thuyết chứng minh, khi “Có” khi “Không” (vừa Hữu Luận và Không Luận).  Mãi đến thời Bát Nhã, Phật giảng những nguyên lý cao siêu về vũ trụ, vạn vật.  Phật dạy rằng “Vạn Cảnh Giai Không”  tức là “Không Luận”.  Sau cùng, vào thời Pháp Hoa và Niết Bàn, Phật mang Bồ Tát Thừa ra dạy rằng:  Vạn Tượng  “Chẳng Có” mà cũng “Chẳng Không”,  vẫn “Có” mà vẫn  “Không”,  nghĩa là thuyết Trung Đạo.
 
3-Tứ Kỳ Đại Hội Kết Tập Phật Học:   Kho tàng kinh điển giáo lý Phật học gồm trong tam tạng là Kinh, Luật và Luận:
     -KINH là những lời nói giảng thuyết của Đức Phật Tổ Thích Ca lúc còn tại thế, dùng để khuyến dạy chúng sinh.
     -LUẬT   là những khuôn phép, điều lệ, giới hạn, do Phật Tổ chế đặt ra để áp dụng cho các đệ tử, trong lúc tu hành, trau dồi thân tâm thanh tịnh, và tránh dữ làm lành.
     -LUẬN   là những sách do các đệ tử của Phật biên soạn để giảng giải rõ ràng các nghĩa lý ẩn tàng trong Kinh và Luật.
 
     3.1-Đại Hội Kết Tập Kỳ Thứ 1:   Bốn tháng sau khi Phật nhập diệt Niết Bàn, Khoảng năm trăm (500) đại đệ tử của Phật  đã nhóm họp tại thành Vương Xá / Rajagrika,  liên tiếp trong bảy (7) tháng, dưới sự lãnh đạo của Ngài Ma-Ha-Ca-Diếp / Mahakasyapa, để tụng học ôn lại những kinh luật của Phật.  Ngài A-Nan được đại hội cử ra để đọc tụng lại những lời dạy của Phật (Kinh).  Ngài Ưu-Ba-Ly / Upali được cử để đọc ôn lại các điều lệ giới luật của Phật (Luật).
 
     3.2-Đại Hội Kết Tập Kỳ Thứ 2:   Khoảng một trăm (100) năm sau khi Phật nhập diệt NIết Bàn, vì có sự bất đồng ý kiến về các điều luật, nên các đệ tử của Phật triệu tập đại hội, được chia ra hai nhóm hợp riêng tại hai thành Vaisaly và Vajji:HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ),GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.31/5/2014.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment