13. Nhận ác nghiệp tha nhân
Mặc dù ta chẳng tội tình chi
Và không hại ai suốt trọn đời,
Nếu có kẻ dọa đoạt mạng sống
Chỉ bởi điên rồ tâm loạn động,
Dung thứ cầu người qua khổ tai,
Thoát khỏi đọa bất hạnh sau này.
Vô ngã nhận quả hành khốn khó -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn mười ba nói rằng, nhận chịu ác hành của kẻ khác hại ta là một trong các tu tập của Bồ tát. Chẳng hạn như, nếu có người nào buộc tội ta sai lầm và rồi đánh đập ta; cho dù ác nghiệp phải thuộc vào kẻ đó, nhưng ta nên khởi nguyện hoặc vọng mạnh mẽ chấp nhận lấy ác nghiệp này như của chính mình. Nhận lãnh ác nghiệp đó trên ta, qua sức mạnh của từ bi, là một trong các tu tập của Bồ tát. Điều này rất thẳng thắn và dễ hiểu. Lấy thí dụ, nếu ta bị người nào đó đánh gần chết, trong khi mình chẳng có sai lỗi chi, tất quả của người đó sẽ tàn khốc khi nghiệp đã chín tới. Hiểu điều đó, từ bi khởi dậy mạnh mẽ, và ta có thể chấp nhận ác hành đó như là thành phần ác nghiệp của chính mình. Khả năng làm được điều đó là một trong các hành của Bồ tát. Nếu có người giành giật lấy thức ăn của ta, kết quả là người đó sẽ bị đọa xuống địa ngục, ngạ quỷ, hoặc súc sanh. Hiểu được hậu quả nặng nề của hành vi đó, ta khởi đại từ bi và sẵn sàng nhận lãnh ác nghiệp đó về mình.
Nhận thấy nghiệp quả tích tụ cho người, và do đó cầu mong nó sẽ chín trên ta, là một trong các tu tập của Bồ tát. Nếu ta có một nơi cư ngụ rất an bình, có kẻ nào đó trục xuất ta ra khỏi một cách sai lầm, và chiếm cứ lấy, thì quả của hành đó có thể chín trong địa ngục nơi mà nghiệp quả tương đương với nhân duyên. Ngay dù ở trong cõi người, kẻ đó vẫn phải lãnh chịu khó khăn trong việc tìm nơi cư ngụ, lang thang không chỗ ở, sống không nhà suốt trọn đời.
Nhìn thấy nghiệp nặng có thể rơi trên người đó do bởi hành động chiếm cứ nhà đất của người khác, cầu mong nhận lấy ác nghiệp đó về phần mình, chính là một trong các tu tập của Bồ tát.
Ta đã có rất nhiều thí dụ về nghiệp, nhưng tôi sẽ đưa thêm một cái nữa. Nếu người nào nói dối ta, lừa đảo ta, và ngay cả phản bội ta, kết quả có thể, tệ hại nhất là chín ở địa ngục. Nhưng cho dù người đó tái sanh làm người, vì quả tương đương với hành, nên không ai coi trọng hoặc tin lời của họ. Hiểu hậu quả của hành động đó, với đại từ bi, nhận lấy ác nghiệp của hành trên chính mình, là một trong các tu tập của Bồ tát. Có rất nhiều khởi nguồn cho tu tập này, nhưng then chốt chính là Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) của Tịch Thiên (Shantideva), nói rằng, "Xin tất cả ác nghiệp của mọi người khác chín trên tôi, và xin tất cả hạnh phúc và công đức của tôi chín trên người khác."
Tu tập này bắt nguồn từ dòng trên của Bồ Đề Hành Kinh.
14. Ngợi khen thay phỉ báng
Nếu ai đồn xấu hoặc phỉ báng,
Về ta, lời ác khó chịu đựng,
Cả khi những điều bị rêu rao
Lắm người tưởng thật cứ tin theo;
Bởi ta vẫn mong kẻ bêu rếu
Vượt khó khăn và tâm thư thái,
Nên ngợi khen xử tốt với người -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập Bồ tát thứ mười bốn là đáp ứng lại lời phỉ báng bằng lời ngợi khen. Khi có người cố hại ta bằng cách mắng chửi hoặc nhục mạ, hãy hồi đáp lại bằng những lời ngợi khen hoặc tán dương các phẩm tánh của người đó, chính là một trong các tu tập của Bồ tát.
Ngay dù người đó nói các lời khó nghe chống báng ta, đủ lấp đầy một trăm triệu thế giới, vẫn phản ứng bằng một tâm đại từ bi, ca ngợi các đức tánh của họ, và nói những lời dễ nghe về họ. Có bốn tu tập giúp cho một người thành đức hạnh hoặc chân hành giả. Thứ nhất là ngay dù ta bị mắng chửi, cũng đừng mắng trả. Dĩ nhiên, hành động như thế chẳng phải dễ đến. Nó đòi hỏi một sự kiên trì tu tập. Một trong các lý do nó quả thật rất khó là vì chúng ta đã được huấn luyện cách đáp trả lại lời mắng chửi ngay từ lúc đầu đời, và mắng trả dễ dàng đến với ta hơn là cố gắng ý thức đừng làm như vậy.
Bản năng của ta, nếu bị người nào mắng, là trả lại một chữ gấp đôi mắng ngược lại người đó. Đó là thói quen từ huấn tập trước đó, nhưng ta có thể buông bỏ điều đó phía sau. Dĩ nhiên, chúng ta không thể có một huấn tập nói các điều dễ thương cho một người mắng chửi ta thường xuyên, vì thế nên khởi đầu tập luyện ngay từ bây giờ. Đừng dời lại vào ngày hôm sau, hoặc ngày tiếp theo sau nữa, hoặc năm tới. Hãy nói, ta hãy khởi đầu ngay từ bây giờ. Dĩ nhiên, không ai trong chúng ta đối diện một thứ khủng hoảng đại loại vào ngay lúc này, nhưng nếu một tai họa như thế xảy ra, thì thay vì chỉ lập lại tập quán cũ, hãy tự nhắc nhở đến điều đang được khuyến tấn nơi đây. Đó chính là một sự chọn lựa tốt.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không quen làm điều này, khi người nào mắng ta và ta khen trả họ ngay, thì người đó có thể xem như ta đang mắng trả gấp đôi, vì họ không quen nhận lấy thứ ngợi khen loại đó. Trong quá khứ, ta có thể không trả lời mắng của họ bằng lời nặng nề, nhưng lại có xu hướng ghìm giữ, chờ đúng lúc sẽ đáp lại xứng đáng. Thay vì vậy, từ giờ đây, cho dù ta không khen họ ngay tức thời, cũng nên chờ khi có tập họp bạn bè và thân hữu, để nói với họ rằng người đó thật là tuyệt, nhấn mạnh đến các đức tánh và ngợi khen chân thành.
Nếu ta nói lời như là khen tặng, mà cứ nhắc đến những hành động tiêu cực của người đó và tán dương chuyện đó, tất chẳng phải cách ngợi khen đề cập ở đây. Ta không nên khuyến khích bất cứ hành động xấu nào người đó từng làm. Chẳng hạn như, nếu người đó giết nhiều người trong chiến tranh, và ta khen ngợi là hành động dũng cảm, đó không phải điều hữu ích. Hoặc nếu ta khen người đó uống được nhiều bia, lời khen đó cũng chẳng bổ ích gì. Trong thực nghĩa, đó không phải là khen ngợi, mà là phỉ báng. Chúng ta cần nghĩ chín chắn về điều mình nói, và cố khả ái trong việc đó.
15. Xem kẻ thù như đạo sư
Nếu ngay giữa đám đông tụ lại
Có người cứ nhằm ta ngược đãi,
Lớn tiếng phơi bày các lỗi lầm,
Cười chê các nhược điểm vẫn còn.
Chớ nên giận hay cố chống đỡ,
Lặng nghe và ghi nhận lời họ,
Kính lễ người như một vị thầy -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Hầu có thể xem một người đang mắng chửi ta trước một đám đông tụ tập như một vị thầy tâm linh, chính là một trong các tu tập của Bồ tát. Thế nên, ở đây tôi có một câu chuyện. Có một lần, một vị đại lạt ma Ca Đương (Kadampa) đang thuyết pháp trước một đám đông thính chúng, trong đó có một phụ nữ chẳng ưa thích gì ông. Bà có một đứa con và bế đứa bé đó đi vào giữa hội chúng, đặt nó trên đùi vị lạt ma và nói, "Hãy nhận đứa bé này lại. Nó là con ông." Vị lạt ma đáp, "Cảm ơn rất nhiều," và ông nhận đứa bé. Quả thật, người tạo ra một cảnh huống rất bối rối được xem như một vị thầy, trong ý nghĩa người đó tạo cho ta một cơ hội thật tuyệt hầu triển khai lòng nhẫn nại. Nếu một người nào đó mắng ta thậm tệ trước đám đông, hét to cho mọi người nghe rằng ta là một kẻ tệ hại ra sao, và phổ biến một cuộc lăng mạ tệ hại nhất về ta, để đáp lại, ta cần cho thấy một sự nhẫn nhục mạnh mẽ, và nhìn người đó như một vị đạo sư chân thật. Đó là một thách đố lớn lao, nhưng là một trong các tu tập của Bồ tát.
Như đã được đề cập trước đây, có bốn phẩm hạnh của một chân hành giả. Cho dù có ai chỉ trích ta, ta không nên chỉ trích ngược.
Ngay dù có người cố ý bới tìm lỗi ta, ta không nên trả lại. Cho dù có người nổi giận với ta, ta không nên giận ngược lại. Ngay dù có người đánh đập ta, ta không nên đánh trả lại. Đó là bốn tu tập tạo cho một người thành một hành giả. Thông thường, chúng ta rất dễ tự xưng mình là hành giả Pháp, khi không có cảnh ngộ gì xảy ra, nhưng dưới hoàn cảnh khó khăn, ta có thể đánh mất cái nhìn ấy. Điều quan trọng là phải nhớ các trọng điểm ấy từng giây phút.
Nếu ta giữ các chỉ dẫn đó trong tâm và dùng chúng trong đời sống hàng ngày, ta sẽ có thể giữ tấm mộc che của nhẫn nhục và bao dung, bất cứ khi nào phải đối đãi với sự đả kích lăng nhục. Một lần nữa, đây là một trong các tu tập chủ yếu của Bồ tát.
16. Từ ái vô điều kiện
Nếu người ta thương và chăm lo
Như mẹ hiền cưng quý con thơ,
Đáp lòng tận tụy bằng oán ghét
Xử ta như kẻ thù sâu nhất,
Hãy xem việc đó bệnh nguy nan
Hành con mình và dấy động tâm,
Càng yêu quý hơn và tử tế -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Nếu có người nào ta chăm sóc và nuôi dưỡng như con ruột duy nhất của mình, lại đáp trả bằng cách xem ta như kẻ thù khủng khiếp, hãy tiếp tục chăm sóc người đó như bệnh nhân, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Giống như người mẹ cho thấy tình yêu và chăm sóc vượt bực, đặc biệt khi đứa con lâm bệnh, ta có thể vẫn trân quý người đó bằng tình thương luôn tăng trưởng. Trong Luyện Tâm Bát Đoạn, Geshe Langri Tangpa nói, "Nếu có người nào tôi từng giúp đỡ và chăm sóc, lại hãm hại ngược lại tôi bất ngờ; xin cho tôi có thể xem người đó là thầy tối thượng trong tâm mình."
Cùng nội dung đó, Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói, "Bất kỳ ai nói lời khó nghe cùng tôi, xin cho tôi được đối đãi họ với tình thương vượt bực, như tình mẹ đối với con thơ." Trong nhiều kinh văn khác, chữ nghĩa khác nhau hoặc cách kết cấu khác nhau, nhưng thật ra cũng chỉ đến cùng một điểm. Nếu chúng ta chăm sóc người nào đó suốt nhiều năm, và người đó phản bội ta, khiến ta vô cùng giận dữ. Chúng ta đặc biệt giận người có thái độ đó vì nghĩ rằng, "Tôi đã làm quá nhiều điều cho tên đó. Tôi là người đảm trách mọi thành công và hạnh phúc cũng như giàu sang hắn hiện có." Nghĩ đến các điều đó, sẽ khiến cho ta đặc biệt giận về điều mà người này đã làm.
Khi cơn giận dấy lên do kết quả của ý nghĩ đó, thay vì giận dữ, giờ đây ta phải có thể thế bằng tình thương và từ bi đặc biệt dành cho người đó. Ta phải học làm điều đó ngay từ bây giờ, bởi vì tất cả chúng ta, như các chúng sanh tầm thường, vốn rất dễ bị xúc phạm bởi loại cảnh ngộ đó. Chẳng hạn như, nếu ta đã từng giúp đỡ một người nào đó, và rồi yêu cầu ban cho một đặc ân nào đó như, "Có thể làm hộ tôi điều này điều đó hay không?" và người đó đáp, "Tôi bận lắm, tôi không thể làm ngày hôm nay," thế là ta nổi giận. Lý do của cơn giận là vì ta đã giúp người kia trước khi anh ta cần được giúp, giờ thì ta hy vọng được đáp trả. Khi không nhận được, tất cơn giận dấy lên. Lời khuyên là ta nên cố đảo ngược cơn giận bằng tình yêu dành cho người đó, như người mẹ quan tâm đến con duy nhất của bà. Khi bảo cho thấy sự thương yêu và tình mẫu ái dành cho người đó, không có nghĩa phải đi đến tận nơi và chăm sóc; đúng hơn, là thay đổi thái độ trong tâm ta, phát khởi từ bi thay vì sân hận.
17. Khiêm tốn nhận phê phán
Bạn ngang hàng hay kẻ kém thua
Về trí, tâm linh, hoặc sang giàu,
Mắng ta xem không ra gì hết
Do lòng ngã mạn và ghen ghét,
Xem họ như thầy dạy ta luôn
Khiêm tốn và trừ tánh kiêu căng,
Tôn trọng và đặt họ cao cả -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Nếu người nào ngược đãi hoặc nhục mạ ta, không nên để cho sự sỉ nhục hoặc bạc đãi nhận chịu khiến ta chán nản. Thay vì vậy, ta phải xây dựng hùng tâm, và chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Nếu người cố sỉ nhục ta lại là kẻ ở địa vị thấp kém hơn, ta không nên nản lòng, thay vì vậy hãy xem người đó như thầy mình. Đoạn này còn dạy, khi một người ngang hàng hoặc kém thua ta, qua sự kiêu mạn hoặc tự phụ, cố sỉ nhục hay lăng mạ ta, hãy chấp nhận người đó một cách tôn trọng như là nhận vị thầy tâm linh của mình, đó là một trong các tu tập của Bồ tát.
Đây là một trường hợp khó, vì ta nhận chịu nhục mạ từ là kẻ vốn thua kém mình, hoặc nếu là bạn ngang hàng, thì sự tự phụ của ta càng khiến lời chỉ trích khó chấp nhận hơn. Tuy nhiên, ta phải học cách luyện tâm hầu thực hành dễ dàng hơn. Ta gặp trường hợp này ở bất cứ nơi đâu. Đặc biệt là chỗ làm việc, nếu có người kém thua tài lại cố lạm dụng và hạ thấp ta, rất dễ khiến ta cảm thấy mất mặt. Dưới hoàn cảnh đó, ta dễ nổi giận hơn bình thường, vì khi đã thấy khả năng, học lực, hoặc tinh thần trách nhiệm của người đó kém xa mình, ta cảm thấy lời nhục mạ từ họ quả không thỏa đáng. Chẳng hạn như, nếu có người ngang ta về cấp bậc hoặc việc làm, cố gắng qua mặt ta hoặc ra vẻ làm chủ, điều đó khiến ta rất giận, vì người này không có thẩm quyền làm vậy. Ta đặc biệt giận nếu có người dưới ta lại thăng cấp hoặc kiếm tiền nhiều hơn.
Trong trường hợp đó, tâm ta bắt đầu đưa ra đủ thứ lý do không thích đáng, điều này sang điều khác, để giải thích tại sao ta nổi giận. Đó chính là lúc ta nên học không sân hận hoặc nổi giận đối với người đó. Đó chính là trọn cả một huấn tập.
Hơn nữa, ta phải ý thức người đó tử tế biết bao đối với mình. Bởi vì tất cả chúng ta đều cảm khởi Giác ngộ, và Giác ngộ không thể đạt nếu không có sự giúp đỡ của tha nhân, mà người đó trở nên một lực đặc biệt thuộc về Giác ngộ. Trong khuôn khổ cung ứng cho ta cơ hội đạt Giác ngộ, người này ngang cả đức Phật cũng như vị đạo sư của ta. Điểm này có thể không ý nghĩa lắm ngay lúc này, và ta còn nghĩ nó không thực tiễn lắm. Nhưng nếu ta nghĩ về nó, và thân quen cùng tư tưởng, dần dà ta sẽ thấy vài tiến triển, và thái độ ta trở nên tiến triển.
18. Nhận khổ tha nhân
Dù chỉ là người khốn khó thay
Luôn bị bạc đãi lắm đắng cay,
Nếu cứ bệnh hoạn dày vò mãi
Lại bị hại, đớn đau, ngăn ngại,
Hãy nhận đau khổ của tha nhân
Phải chịu đựng do lỗi đã làm,
Đừng mất dũng tâm khi nhận khổ -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn thứ mười tám nói, nếu chúng ta thường xuyên bị người khác mắng chửi hoặc sỉ nhục, đáp lại, ta phải chia trách nhiệm làm giảm sự đau khổ và ngăn chướng của họ, và giúp họ đạt Giác ngộ.
Đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Hai đoạn mười bảy và mười tám có vẻ tương tự, nhưng thật ra có một khác biệt khẳng định.
Đoạn mười bảy khuyến tấn ta xem người hạ thấp mình như thầy tâm linh; trong khi đoạn mười tám khuyên ta nhận nỗi khổ và ác nghiệp của họ trên bản thân.
Đoạn mười tám nói rằng ta phải giữ gìn dũng tâm tu tập thường xuyên pháp Nhận và Cho (Tong-Len) và không nản lòng cho dù gặp nghịch cảnh. Bồ tát trì hành Tong Len cho dù bị tấn công bằng chửi mắng, bị tinh linh ám ảnh, hoặc bị bệnh tinh thần, thể xác, hay sợ hãi, hoặc thiếu thốn các nhu cầu cần thiết - như thức ăn, áo quần, chỗ ở hay bạn bè. Thông thường, nếu không có thức ăn hay nước uống, thì đó là lúc ta đặt sang bên việc tu tập Pháp để tìm thức ăn. Lấy thí dụ, nếu bị nhức đầu hoặc đau bụng, tự động ta giảm bớt việc tu tập Pháp hoặc dời sang ngày khác. Các điều này xảy ra, nhưng đoạn này khuyến tấn ta nên đặt việc tu tập Pháp lên hàng đầu - cho dù phải trải qua thời gian hạnh phúc hoặc khốn khổ.
Có một thành ngữ Tây tạng soi tỏ điểm này, "Khi được ăn ngon và khí hậu tốt, ta trông giống như một du già hoàn hảo, nhưng khi nghịch cảnh rơi xuống, ta trở nên một kẻ tầm thường." Khi gặp vài khó khăn, ta không nên giảm bớt tánh cách du già, mà phải luôn là du già bất cứ trong cảnh ngộ nào. Cho dù chuyện xấu gì xảy ra, phải cố xem chúng như hữu ích cho tu tập Pháp. Dùng khó khăn làm thuận lợi, chúng sẽ trở nên phương tiện cho phép ta đạt cứu cánh, đó chính là Giác ngộ. Bởi lẽ đó, trong Luyện Tâm Thất Điểm của Geshe Chekawa, có một đoạn đặc biệt nói, "Chuyển nghịch cảnh vào đạo Giác ngộ." Cũng vậy, Ban Thiền Lạt ma (Panchen Lama) Chokyi Gyeltsen, trong quyển Lama Chopa, viết, "Dù thế giới và chúng sanh trong đó đầy ác quả, và đau khổ không mong muốn cứ trút xuống như mưa trên tôi, gây cảm hứng cho tôi nhìn chúng như các phương tiện làm cạn nguồn ác nghiệp, và nhận lấy các điều kiện khốn khổ đó như Đạo."
Ta gặp cảnh khó mỗi ngày, và nếu biết nghĩ như vậy quả là một niềm an ủi lớn. Nếu ta nhìn cảnh đau bệnh của mình, không nên khiến nó tệ hơn khi nghĩ rằng mình khổ. Khi nói đến hạnh phúc, có nghĩa là dùng cảnh bệnh và chuyển thành một thứ gì dẫn dắt đến Giác ngộ. Nếu ta đạt được thiện xảo làm điều đó, tất có lý do để an vui.
19. Tránh kiêu mạn
Được khen, nổi tiếng, ngưỡng mộ nhiều
Người kính trọng gặp luôn cúi đầu,
Dù có sản nghiệp thật vĩ đại
Ngang với kho tàng của Thần Tài,
Thế nhưng thấy rõ quả luân hồi,
Dù may mắn, chẳng phải tinh khôi,
Diệt mạn từ vinh hoa khởi dấy -
Chư Bồ tát trọn hành cách đấy.
Đoạn mười chín nói, nếu ta trở nên nổi danh và giàu có, điều đó không thể khiến ta thành kiêu mạn hoặc tự phụ. Một trong các tu tập của Bồ tát là không được kiêu mạn hoặc tự phụ trong các hoàn cảnh ấy. Một trong các nguy cơ khi trở nên danh tiếng là ta thường trở nên vô tình đối với chúng sanh. Khi thấy nhiều người hướng về mình, trở nên người ái mộ, thật khó giữ cái ngã khiêm tốn. Bởi lý do đó, ta phải cố điều phục tâm.
Khi trở nên nổi danh, đặc biệt khó đối đãi tôn kính lại những người ta xem thấp kém mình. Cũng thế, khi giàu có, ta trở nên kiêu căng. Ta có thể xu hướng xem thường người khác và mắng mỏ họ. Khi giàu có và nổi danh, cũng không cần buông bỏ. Thay vì vậy, nên học cách không bị ràng buộc hoặc chấp trước mạnh vào những lời ta nghe từ các người ái mộ. Hãy xem các lời đó như tiếng gió trong sa mạc, có thế chúng mới không ảnh hưởng ta. Thêm vào đó, nếu nhiều người bày tỏ sự kính trọng, ta hãy đáp trả lại, hầu giúp giảm bớt kiêu căng.
Ta có thể rất giàu sang, nhưng của cải cũng phù du như giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Cho dù tôi có sản nghiệp hôm nay, sao biết được vào ngày mai, ai sẽ là chủ nhân của chính sản nghiệp đó. Thật chẳng gì khẳng định. Lấy thí dụ, một người có một cái tủ bằng vàng và chìa khóa vàng. Tuy nhiên, chuyện gì đó xảy ra vào ban đêm, và sáng hôm sau, chìa khóa đó thuộc về người khác. Thí dụ này cho thấy, khi ta có tài sản, tốt nhất là đừng nên bám víu và ràng buộc vào tài sản đó, mà nên cho thấy tâm quảng đại đối với người thiếu kém. Tôi xin trích dẫn một câu của đệ Thất Đạt lai Lạt ma, Kelsang Gyatso, "Một bề ngoài đẹp đẽ, trẻ trung, và giàu sang là một vài nguồn chính của sự ngã mạn."
Đức Kelsang Gyatso, đệ Thất Đạt lai Lạt ma, viết Tán thán thỉnh Thánh Đức Quán Thế Âm (Praise to the Arya to request Avalokiteshvara) hầu kết tập tất cả chúng sanh trong vòng từ bi của ngài. Ngài viết tán tụng này hầu làm động tâm đức Quán Thế Âm. (Chữ Arya trong tựa đề chỉ đức Quán Thế Âm). Trong một đoạn có nói, những người ở trên cao, chẳng chóng thì chầy, sẽ trở nên người thấp nhất trong đám nô lệ bị chà đạp dưới chân. Những người ở địa vị cao, ở đây muốn chỉ các bà la môn (brahmin), hoặc những vị có tình trạng luân sanh cao nhất như vua chúa, sẽ dần dà rơi xuống chỗ thấp, và khi tái sanh chuyển hóa, họ sẽ trở thành nô lệ bị đàn áp bởi chủ nhân khác. Các điều này thật sự xảy ra, vì thế không lý do gì lại quá ràng buộc vào địa vị cao.
Vẻ bề ngoài đẹp đẽ trẻ trung - chỉ là giây phút và phai tàn dần như hoa mùa thu. Rất dễ hiểu. Các phẩm tánh đó nào khác gì hoa huệ chỉ nở đẹp mỗi một ngày rồi bắt đầu úa tàn vào ngày kế tiếp.
Nếu ta nghĩ về sự thật đó, ràng buộc hoặc kiêu mạn sẽ không khởi.
Chắc chắn là điều ta có trong thế gian này dần dà sẽ mất đi. Sản nghiệp ta có trong đời này giống như xâu chuỗi ta thuê mượn một thời hạn nào đó. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi phải hoàn trả. Nếu ta thuê vài món trang sức và trở nên ràng buộc vào chúng, đó là dấu hiệu của trí khôn kém cõi, đặc biệt nếu ta có thái độ xem chuỗi thuê kia như thuộc về mình. Cùng một cách, môi trường ta đang sống, núi non, rừng rậm, biển cả, nhà cửa, sản nghiệp - tất cả các thứ đó, ta nghĩ mình sở đắc chúng, nhưng trên thực nghĩa, ta có sở hữu chúng chăng? Không. Bởi vì chúng đều phải được hoàn trả lại sau một thời gian.
Đức Đạt lai Lạt ma nói về tuổi thọ, "Cuộc đời tôi giống như tia chớp; nó quả là tạm bợ phút giây." Thông điệp của ngài là, bởi vì cuộc đời quá ngắn, thật chẳng đáng chi nếu cứ cố trải qua bằng cách giữ gìn thân bằng và loại trừ cừu địch trong đời này. Nếu ta dùng khoảng đời ngắn ngủi cho mục đích đó, thì quả vô giá trị.
20. Diệt nội thù
Sân ẩn trong tâm bị lãng quên
Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,
Cố tiêu diệt họ, giết hàng vạn,
Vạn kẻ thù khác lại hành hạ.
Thấy rõ bạo hành chẳng giải trừ
Hãy dụng lực nhân ái khoan từ;
Nội hướng điều phục tâm động loạn -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Trong đoạn hai mươi, nói rằng việc đối kháng dòng tâm bệnh hoạn bằng trợ lực mạnh mẽ của từ ái và bi mẫn là một trong các tu tập của Bồ tát. Trận chiến ta phải tham dự diễn ra trong nội tâm. Lực lượng tham chiến và lực lượng ta cố chinh phục đều ẩn bên trong ta. Đoạn này nói nếu ta không thể chinh phục được kẻ thù thật sự ở bên trong, đó chính là sự thù hận, thì dù có thắng bao kẻ thù bên ngoài, lại sẽ có thêm nữa. Các lực lượng từ ái và bi mẫn mà ta nói đến ở đây không phải là điều gì có thể đạt được từ một người nào khác. Có các thứ phẩm tánh ta cần phải phát triển tự bên trong. Dùng lực từ bi tiêu diệt sân hận là một trong các tu tập của Bồ tát.
Trong Bồ Đề Hành Kinh, ngài Tịch Thiên (Shantideva nói rằng, nếu chúng ta có nhiều mẫu đất đầy gai nhọn, thật khó dùng da che phủ trọn mặt đất. Nhưng nếu ta có một đôi dép bền chắc dưới chân làm bằng thứ da của sự nhẫn nhục, thì bao gai góc cũng đều khuất phục. Xem như ta có nhiều kẻ ngoại thù. Phải mất một thời gian lâu dài mới có thể diệt trừ được họ, nếu phải đối diện mỗi lần từng người một. Tuy nhiên, nếu ta chinh phục hận thù bên trong, tức kẻ nội thù, thì tất cả kẻ ngoại thù đều tự động biến mất. Thí dụ về bàn chân và mảnh đất đầy gai rất hữu ích. Ngoài ra, tất cả các điều trong Bồ Đề Hành Kinh do Tịch Thiên viết từ kinh nghiệm bản thân của ngài. Vả chăng, đa phần các kinh văn của các đại trí giả Ấn độ, các đại học giả và du già Tây tạng, cho đến nay, đều viết từ các kinh nghiệm bản thân của chư vị.
Cùng trong nội dung này, đệ Nhất Đạt lai Lạt ma, Gendun Drub, viết một bài thơ nhan đề Đông Tuyết Sơn Hành. Gendun Drub là đệ tử trực tiếp và đồng thời của Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa). Thỉnh thoảng, ngài về thăm nơi cố quán Tsang.
Một hôm, khi đang ở Tsang, ngài đột nhiên cảm thấy rất nhớ vị lạt ma của mình, Tông Kha Ba. Thế nên, ngài đã làm bài thơ nói rằng, "Có một vầng mây trắng trên đỉnh núi dường như cố vươn lên trời. Nhìn vầng mây đó khiến tôi nhớ vị lạt ma từ ái của mình, và tôi trọn lòng tin nơi thiện tâm của ngài." Trong bài thơ đó, trong một dòng ngài nói dak, có nghĩa là kẻ thù, nang, có nghĩa bên trong, và duk, có nghĩa là sống. "Ảo cấu là kẻ thù ở bên trong ta, thế nên ta phải chinh phục chúng."
Mọi người ở đây, kể cả chính tôi, phải cố làm bằng trọn nỗ lực hầu khuất phục kẻ thù bên trong chúng ta. Nói cho đúng, tâm ảo cấu ta mang bên trong chính là kẻ thù thật sự. Để sáng tỏ hơn, tôi xin kể câu chuyện về một vị đại du già, ngài Milarepa. Có lần Milarepa thiền trong một hang núi bên trong rất tối tăm, trông như động ma. Ngài luôn lo sợ hôm nào đó có kẻ nào từ trong bóng tối xuất hiện và tấn công mình. Ngài rất lo sợ. "Có thứ gì đáng sợ sẽ xuất hiện từ chỗ đó và hại ta." Một hôm bỗng hiện ra một ông kẹ trông thật dễ sợ, khủng khiếp. Trước tiên, Milarepa kinh hoảng. Rồi nhận ra được sự khiếp đảm của mình, ngài ngưng lại và bắt đầu quán xét sự tiến triển của trường hợp này. Ngài nhận thức đó chính là sự thêu dệt của chính tinh thần mình, sản phẩm của tâm mình, đã hiện ra vào lúc ấy. Bởi lý do đó, ngài làm một bài thơ như sau, "Trừ phi tâm ta khởi dậy như kẻ thù, thì không có lý do gì để ông kẹ đó đến như kẻ thù." Sau khi ngài đọc bài thơ đó và ngồi thiền, ông kẹ biến mất.
21. Lìa buông lung căn trần
Buông thả các căn theo các trần
Và uống nước muối cũng như nhau.
Càng dùng nhiều vào cho thỏa thích,
Càng tăng tham muốn và khao khát.
Nên khi chớm bị cuốn hút vào
Bất cứ vật gì các căn ưa,
Cắt nhanh không chút chi do dự -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn thứ hai mươi mốt nói về việc loại trừ các vật vốn dĩ nguyên nhân trực tiếp của sự bám víu và ràng buộc, là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các ngoại hình đẹp đẽ của cõi dục giới (karmadhatu) cũng chỉ như nước muối. Các đối vật của ngũ căn - [ngũ trần] sắc, thanh, hương, vị, xúc - đều giống như nước muối ở biển. Càng uống nhiều nước biển, ta chỉ càng khát thêm. Thay vì giải khát, nó khiến tệ hại hơn. Tương tự, ta càng dung dưỡng các đối vật của ngũ căn, thì tham luyến và sân hận càng gia tăng. Không cách chi việc dễ dãi cùng các trần đó lại cho phép ta giảm thiểu sự tham luyến. Chẳng hạn, nếu ta yêu thích vẻ đẹp của một bông hoa, trước hết ta ngắm nhìn một đóa hoa, nhưng ngày kế tiếp, ta lại muốn một đóa hoa khác đẹp hơn nữa. Rồi ta lại ngắm nhìn, và cứ đi lòng vòng các tiệm hoa để tìm mua một bông hoa khác đẹp hơn. Hoặc, giả như ta là người yêu âm nhạc, ta cứ lắng nghe nhạc, và luôn luôn hy vọng được nghe một thứ âm nhạc hay hơn nữa. Lòng yêu nhạc đó khiến ta bỏ nhiều tiền mua dĩa hát và tham dự hòa tấu. Và không phải chỉ mất tiền bạc; thời giờ bỏ vào trong trình tự đó, với tất cả thời giờ phí phạm cho việc tham luyến âm thanh. Vài người cảm thấy họ phải mua dĩa nhạc, và khi họ cần dời nhà hoặc tái định cư, vấn đề lớn nhất của họ là làm sao mang theo hết các dĩa nhạc họ mua suốt nhiều năm trời.
Nếu ta say mê mùi hương, thì ta lại mất nhiều thời giờ, năng lực, cố đi tìm một mùi hương tuyệt hảo. Ta không bao giờ thỏa mãn mà cứ đi mua hết mùi nước hoa này sang mùi khác. Ta đi từ cửa tiệm này sang gian hàng nọ, bỏ nhiều thời gian, chỉ tìm một loại mùi hoàn hảo. Đó là kết quả của sự mê đắm mùi hương. Nếu ta lại say mê thực vị, thì cứ đi hết nhà hàng này sang quán ăn nọ, mà sự thèm muốn vẫn cứ tăng lên. Chẳng hạn như, đã được ăn một bữa thật ngon, ta chớ hề bảo, "Được rồi, ăn vậy là đủ." Không, ta phải ăn một thức ăn gì ngon hơn nữa. Đó là cách sự thèm muốn thực vị cứ gia tăng mãi. Không hề có chấm dứt. Dĩ nhiên, ta cần sử dụng sức mạnh của ngũ căn, nhưng ta phải dùng chúng một cách chừng mực. Ta cần có cảm giác thỏa đáng của ngũ căn, để không phải mất nhiều thì giờ hoặc năng lực tìm kiếm các đối vật. Bởi ta quả thật dễ vướng vào tham luyến, nên tác giả đã khuyến tấn ta buông bỏ sự mê đắm hoặc bám víu vào ngũ căn ngũ trần. Đó là một trong các tu tập của Bồ tát.
22. Phá niềm tin hữu cố nhiên
Vật trông như hiện hữu chân thật
Chỉ do tâm ảo cấu tạo tác;
Tâm của ta từ thuở uyên nguyên
Nào có tinh túy thật cố nhiên.
Thức giác Chân đế vượt suy niệm
Từ vật được biết với người biết,
Giải phá niềm tin cố nhiên hữu -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Có hai tướng của hiện tượng [cảnh]: do đối thể và do tâm nhận biết đối thể. Đoạn thứ hai mươi hai nói, nhận thức tướng đối thể hoặc chủ thể chẳng phải tự chúng hiện hữu, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Cho dù cảnh thị hiện ra sao đối với ta, đều phát nguồn từ tâm ta. Nhưng chính tự tâm, vốn là khởi nguồn, cũng thiếu chân hiện hữu ngay từ chân khởi thủy. Đoạn này theo nghĩa ngôn từ, đừng chấp vào cảnh do tâm nhận thức cảnh, nhưng không có nghĩa không nên hiểu biết chúng. Đây chỉ có nghĩa đừng nhận thức chúng như tự hiện hữu chân thật và độc lập.
Ánh sáng là bản chất của tâm ta. Bản chất của tâm vốn không bị nhiễm cấu bởi các niệm tưởng, và các cấu hoặc trần cũng chẳng phải bất phân cùng tâm ta. Dĩ nhiên, ánh sáng của tâm tạm thời bị ám chướng bởi cấu trần bên ngoài, những hôn ám đó không phải tự bên trong tâm. Đức Di Lặc (Maitreya) dạy trong Tối Thượng Mật Luận (Uttaratantra), "Bản tánh chân nguồn của tâm sáng tỏ và các cấu trần bám vào chỉ tạm bợ hoặc ngẫu nhiên."
Tất cả mọi cấu hoặc trược đều là tạm bợ hoặc ngẫu nhiên, và, do đó, không phải là thành phần của chính bản chất tâm. Do đó, chúng ta có thể giác ngộ. Một điển hình là chiếc áo khoác bám bụi. Dù chiếc áo bị dơ, nhưng bụi có thể tẩy sạch, bởi vì bụi đất chẳng phải bất phân cùng chiếc áo. Nếu cấu trược bất phân với tâm, thì không cơ may nào giác ngộ. Nếu ta chấp nhận niềm tin rằng cấu trược đã vào trong tâm và là một với tâm, tất nhiên khi ta tẩy cấu trược đi, cũng là mang theo cả tâm với nó. Nhưng không phải như thế.
23. Nhìn vật đẹp như ráng trời
Khi nào gặp một vật đẹp xinh,
Hoặc hấp dẫn vừa ý ưa nhìn,
Đừng bị lầm tưởng nó khác lạ
Hơn chi chiếc ráng trời mùa hạ:
Dù cả hai dường như đáng yêu,
Chẳng có thực chất sau mặt ngoài.
Tránh bị lôi cuốn bởi quyến dụ -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn hai mươi ba nói rằng, dù những vật hoặc người hấp dẫn xuất hiện trước ta, đừng tham luyến hoặc mê chấp vào đấy, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Nếu ta thật sự mang ý nghĩa đó trong tâm, thì dù ở trong một thành phố lớn như Los Angeles cũng chẳng gặp vấn đề gì. Thông thường ta có ý tưởng rằng, nếu sống ở thành phố lớn, ta dễ bị xúc chạm nhiều hơn bởi tham luyến, sân hận, và vô minh đầy dẫy. Nếu giữ ý niệm đó, tất ta đi sai đường, vì đang tin tưởng rằng mọi thứ đều từ bên ngoài đến, chứ không phải ở bên trong. Nhiều người trong chúng ta có ý niệm đó, nhưng không đúng chút nào. Nếu chúng ta không có hai yếu tố đó, tham luyến và mê chấp, thì dù ở thành phố lớn cũng chẳng gặp vấn đề gì.
Trong dòng đầu có nói, "Bất cứ khi nào tôi gặp một vật tuyệt đẹp hoặc hấp dẫn, xin cho tôi xem như là chiếc ráng trời mùa hạ trên đồng cỏ." Giống như ráng trời, vật có thể hiện ra thật xinh đẹp trong mắt ta. Sự kiện vật hiện ra thật đẹp đối với ta hầu như do nhận thức tinh thần giả tạo. Ta tin rằng phẩm tánh thu hút của vật là cố hữu trong chúng. Thật ra, không có hiện hữu độc lập của một phẩm tánh nào cách rời khỏi nhận thức của ta về nó. Người ta có thể lập luận rằng, đây không phải là một thí dụ hay, bởi vì ráng trời không thể sờ chạm được. Trong khi đó, các vật mà ta thấy thật hấp dẫn có thể nói chuyện, sờ chạm, và cảm giác được.
Sự tương đồng giữa hai thứ trên nằm trong cách chúng đều tùy thuộc vào một số nguyên nhân nào đó. Ráng trời có điều kiện là hai trạng thái đến cùng lúc, ánh sáng và hơi ẩm. Khi ánh sáng và hơi ẩm đồng lúc hiện ra trong không gian, thì ráng trời xuất hiện. Các vật hấp dẫn khác là kết quả của nhiều trạng thái và điều kiện đến với nhau, tạo nên vật hấp dẫn đó. Tuy nhiên, không hề có sự hấp dẫn cố nhiên hiện hữu độc lập nào cả. Lấy thí dụ về một chiếc xe. Không có chiếc xe đẹp nào hiện hữu độc lập khỏi các thành phần của nó hoặc sự nhận thức của ta về nó. Chiếc xe chỉ là sự kết tập của rất nhiều điều kiện đến cùng nhau, và ta gán đặt, đó là một chiếc xe đẹp.
24. Nhìn điều không muốn như huyễn
Bệnh khổ phải chịu trong đời ta
Giống cái chết con mình trong mơ;
Chấp như thật điều vốn huyễn giả
Làm phí sức thân tâm vô bổ.
Bởi lý đó, gặp việc khó ưa
Cảnh thường tạo ra lắm khổ sầu.
Tiếp cận như chỉ là mộng ảo -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn hai mươi bốn nói, khi ta đối diện cùng đau khổ hoặc vật không mong muốn, hãy nhận thức về chúng như huyễn ảo, đó là một trong các tu tập của Bồ tát. Tất cả các loại khổ ta kinh nghiệm chính là quả của nhận thức sai lầm, giống như giấc mộng. Khi ta mộng thấy mất một trong các anh chị em hoặc đứa con duy nhất của mình, quả thật đau đớn, nhưng đó chỉ là thị hiện sai lầm. Sự khổ, đau, và lo sợ ta kinh nghiệm trong giấc mơ là thật ngay dù khi sự việc đó không hề xảy ra. Đôi khi ta còn khóc và sáng hôm sau thấy gối ướt đẫm. Đôi lúc ta thấy một điều gì thật buồn cười trong chiêm bao, và cười lên, có khi làm người ở gần phải thức giấc.
Trong nội dung này, tôi xin trích dẫn Tịch Thiên (Shantideva) trong Bồ Đề Hành Kinh, nói rằng, "Tất cả thể hiện của đau khổ được kinh nghiệm bởi địa ngục chúng là quả của nhận thức sai lầm [tà kiến], nhưng do ảnh hưởng của nghiệp, nó trở nên thật đối với kẻ nào gặp phải." Do ác nghiệp, sự kiện kia trở nên thật đối với kẻ đó. Đấng tạo tác mặt sắt nóng bỏng của địa ngục [thiết vi địa ngục], có vẻ như trường tồn bao kỷ nguyên, thật ra chỉ là chính cái tâm tiêu cực [tà tâm] của ta.
Chư Phật giải thích các thể hiện đó đều chỉ là quả của tà tâm.
Trong trường hợp riêng, ta không thể nhìn ảo ảnh là ảo ảnh, mà nhận thấy nó hiện hữu chân thật. Do đó, vấn đề bắt đầu xuất hiện.
Đoạn này nói, "Từ đây trở đi, xin tôi có thể nhận biết sự thị hiện nhầm lẫn như chính nó." Lại nữa, trong Lama Chopa có nói, "Tất cả nội cảnh và ngoại cảnh, vốn như ảo huyễn, khác nào giấc mộng hoặc phản ánh của trăng trên mặt nước hồ trong trẻo.
Cho dù chúng hiện ra, khi nhìn ra được khía cạnh thiếu chân hữu của chúng, xin tôi có thể viên mãn thiền định về như huyễn."
25. Viên thí
Những bậc tận lực đến Viên Giác
Thí cả thân hướng vào mục đích;
Trước gương khôn sánh, nói làm chi
Đến thí phẩm tầm thường vật tài.
Chớ vọng cầu được đền lòng tốt
Không nghĩ cả đắc thêm công đức,
Dấn thân hành thí pháp quảng đại -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ hai mươi lăm nói về tu tập pháp thí [thí ba la mật] không cầu vọng đền đáp. Nếu những bậc hướng đến Giác ngộ thí đến chính thân mạng họ, thì ta còn đề cập chi đến các loại phẩm vật tầm thường cần tặng dữ. Phát tâm quảng đại thật sự nhằm trưởng dưỡng thí lực. Có bốn loại thí ta có thể tu tập: thứ nhất, tu thí tài vật [thí tài hoặc thí sắc]; thứ nhì, thí giáo pháp [thí pháp] - chia sẻ sự hiểu biết; thứ ba, thí từ bi [thí từ ái]; và thứ tư, thí quy y hoặc hộ trì [thí an hoặc thí vô úy].
Trong bốn loại, cao thượng nhất là thí Pháp. Chúng ta có thể không có thứ gì, kể cả một đồng xu, nhưng vẫn có thể tu tập bố thí chia sẻ Pháp cùng người khác. Khi nỗ lực thí Pháp, có thể ta cảm thấy, "Làm sao tôi lại có thể giảng Pháp được." Tôi không nghĩ đó là một ý niệm đúng. Chẳng hạn như, khi ta đọc tụng kinh, có thể tăng cường độ âm thanh để người lân cận được nghe, trong ý định đó là một hình thức Pháp thí, và với hy vọng sẽ mang lợi lạc đến cho họ. Đây cũng đã là một hình thức Pháp thí. Khi ta ở một mình trong công viên hay ngoài đường, và nhìn thấy thú vật hoặc chim chóc, cố niệm vài câu chú, danh hiệu của vị Thánh, hoặc hồng danh của đức Phật, trong hy vọng sẽ lợi lạc cho chúng. Đó cũng là một hình thức bố thí. Chẳng hạn như, ta đừng quên đàn kiến, và nghĩ là chúng ngoại lệ; không phải vậy. Ta có thể đến gần ổ kiến và tụng hồng danh đức Phật, để chúng được nghe. Ngay dù ta không có thần thông chuyển hóa hoặc lợi lạc trực tiếp cho đàn kiến, chắc chắn hồng danh chư Phật được tụng đọc cho chúng sẽ có vài ảnh hưởng.
Ta cũng có thể tu tập pháp thí bằng cách trao tài vật cho người khác. Nhưng nếu trao vật gì ta trộm cướp hoặc lừa đảo, đó chỉ là thí bất tịnh. Ta làm chủ thân thể mình, nhưng đối với tất cả các bà mẹ chúng sanh việc có thể trao tặng thân mình là điều khó khăn nhất. Chúng ta không có khả năng trao trực tiếp, tuy nhiên vẫn có thể tưởng tượng trao tặng thân mình cho người khác. Nếu nghĩ là người nào cần một thứ gì ta không có, ta có thể dùng tinh thần hình dung hoặc tưởng tượng trao tặng nó cho người đó.
Khi tu pháp môn thí, đừng nghĩ đến quả của nghiệp đó cho chính mình. Ta không nên nghĩ, "Tôi sẽ được gì khi tu tập thế này? Quả chín tuyệt vời nào sẽ dành cho tôi?" Ý tưởng như thế sẽ khiến hành động bố thí thành bất tịnh. Tuy nhiên, một điều ta không nên quên là phải hồi hướng công đức của mình: "Do công đức của tu tập bố thí này, xin cho tất cả chúng con Đại Giác ngộ." Kinh hồi hướng phải được tụng sau mỗi tu tập. Khi ta cảm hướng Đại Giác ngộ do bố thí, tức là nói đến quả đắc được, hoặc quả của thiện nghiệp. Tuy nhiên, Giác ngộ không phải là quả của nghiệp, mà đúng hơn là kết quả của tích lũy công đức. Lấy thí dụ, ngài Milarepa không sở hữu vật gì, thế nhưng ngài đã thực hiện vô số thí trong một ngày. Trong một bài thơ, ngài viết, "Tôi không có vật phẩm cúng dường nào dành cho chư đạo sư, nhưng xin báo đáp tâm từ bi của đạo sư bằng việc tu tập giáo pháp thật tinh chuyên." Một thứ cúng dường tốt nhất có thể hành chính là cúng dường việc tu tập của chúng ta. Đó là pháp thí cao thượng nhất.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).17/1/2012.
No comments:
Post a Comment