Monday, 16 January 2012

26. Viên giới
Nếu thiếu nghiêm giới điều phục hạnh
Ta không thể thành tựu cứu cánh,
Làm sao toại ước vọng tha nhân?
Nỗ lực vô giới, phi lý thuần!
Trước phải bỏ đam mê khoái lạc
Trói vào vòng luân sanh thật chặt.
Phải gìn giữ nguyện thọ giới trì -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ hai mươi sáu của Bồ tát chính là vun trồng giới hạnh mà không có ý cầu luân sanh. Không có giới hạnh, chúng ta không thể đạt đến mục tiêu cá nhân, thế nên việc cố đạt một điều gì cho người khác chỉ là trò cười. Mục tiêu của ta bao gồm hai điều: một là thành tựu cho cá nhân; hai là thành toàn cho tha lợi. Hầu đạt một trong hai, tất cả mọi tu tập của ta đều phải đặt trên giới đức thỏa đáng. Điều này đã được đức Phật thiết lập rõ ràng trong Biệt Giải Thoát Kinh (Pratimoksha Sutra), chỉ dạy, "Như một người không chân làm sao chạy, một người thiếu giới đức chánh đáng chẳng thể nào thoát khỏi luân sanh." Tất cả ngợi khen và lợi ích của giới luật được đức Phật dạy rõ vào chi tiết trong Biệt Giải Thoát Kinh. Chẳng hạn như, nếu chúng ta sống trong tu viện, cứ mỗi mười lăm hôm ta phải làm điều gọi là sám hối, và ta lắng nghe Biệt Giải Thoát Kinh.
Thế nào là giới đức? Định nghĩa thật sự của giới đức chính là mong cầu hoặc tự nguyện ngưng các ác hành. Giới đức được dùng như một bức tường ngăn chặn dòng nước cuốn của ác hành. Khi ta đạt đến hạnh giới đức, dòng nước của mọi ác hành tương lai sẽ bị ngăn chặn. Có các điều luật đặc biệt cho giới hạnh thuộc vào nguyện Biệt giải thoát (Pratimoksha) [cụ túc giới của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni], nguyện Bồ tát giới, nguyện Mật tông. Nhưng dù ta không phát nguyện nào như thế, vẫn cần phải tu tập giới đức tự nhiên bằng cách diệt trừ các sinh hoạt thiếu đạo đức [thập bất thiện].
27. Viên nhẫn
Bồ tát chú tâm hành công đức
Cầu tích lũy thật nhiều việc tốt,
Đối đãi kẻ phá hoại nhiễu nhương
Thử nguyện của họ, như mỏ vàng
Bởi lẽ đó, nên thôi oán ghét
Và hận sân cùng người tác ác;
Thiền định sâu về nhẫn kiên trì -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Vun trồng nhẫn nhục, thay vì sân hận, đối với những người hãm hại ta, là tu tập thứ hai mươi bảy của Bồ tát. Có nhiều câu chuyện về nhẫn nhục, nhưng ở đây, nhẫn được sánh với một kho tàng. Một người tìm thấy một kho tàng sẽ vô cùng vui sướng, vì sự giàu sang tức khắc. Khi người mong cầu sự phú túc của đức hạnh gặp kẻ nào làm hại mình, cũng giống như tìm thấy một kho tàng, vì nó tạo cơ hội tu tập nhẫn nhục. Nó trở thành một nguồn vui lớn lao cho người đó. Từ đó, ta có thể từ bỏ sân hận, và phát khởi nhẫn niệm đối với mọi chúng sanh. Theo Lam Rim Chenmo, đại Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói, bố thí như một bảo châu như ý thỏa đáp nguyện vọng của người khác, trong khi giới luật như nước mát giải nhiệt của tham dục. Bảo châu như ý là bố thí; lực hóa giải nhiệt tham dục là giới luật; và nghiêm sức tuyệt hảo chính là nhẫn nhục.
Nhẫn nhục là món trang nghiêm tuyệt hảo cho những người dũng mãnh. Ảnh hưởng của nhẫn nhục khởi đầu ngay từ trong nhà với người ta cùng chung sống. Nếu ta sống với thầy mình, nó khởi đi từ vị thầy. Tại nhà, nó bắt đầu ở con cái và vợ hoặc chồng, và rời nhà là sang đến láng giềng lân cận. Nếu ta hiểu được ảnh hưởng tàn phá của hận thù và sân giận, tất không gặp khó khăn khi thiền quán nhẫn nhục. Dĩ nhiên, ảnh hưởng lớn nhất của sân hận là nó dẫn ta vào cõi địa ngục. Lại nữa, tất cả đức hạnh ta đạt được mà chưa hồi hướng vào Giác ngộ đều bị hủy diệt bởi một khoảnh khắc sân hận. Đặc biệt, nếu sân hận hướng về một trong các thân bằng hoặc vị thầy của ta, hậu quả còn nặng nề hơn nữa. Nếu ta nổi giận cùng cha hoặc mẹ, hay cùng người bệnh hoạn trong tình trạng yếu đuối, hậu quả cũng khá nặng nề. Cường độ ảnh hưởng của sân hận tùy thuộc vào đối tượng. Nếu đối tượng của ta là nguồn thiện ý lớn đối với ta, thì sân giận đó trở nên tàn hoại. Đối với người bệnh, có thể họ không tử tế với ta, những vì người đó ở trong điều kiện yếu đuối, cho nên giận họ rất có hại. Dĩ nhiên, sự tan rã tình bạn thường do sân giận mà ra. Sân có thể là nguồn gốc của các chia rẽ giữa cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, hay bạn bè, bởi vì một khi lửa sân bốc cháy, ta rất khó làm dịu lại. Sân khởi đầu nhiều mâu thuẫn, và dần dà đưa đến bất hòa giữa người ta. Nếu thiền về các tác hại của sân, ta sẽ không gặp trở ngại khi trưởng dưỡng nhẫn.
Nhẫn không chỉ có nghĩa kham chịu sự khiêu khích mà không nổi giận. Nhẫn còn vượt xa hơn thế. Chẳng hạn như, nếu chúng ta vượt qua được sự khó nhọc vô bờ của tiến trình tu tập, kham chịu sự khó nhọc đó chính là một hình thức nhẫn. Khi các Bồ tát phải thực thi các hành vô cùng khó khăn, chư vị chấp nhận mọi khó nhọc với sự cao thượng và phấn chấn. Đó là một hình thức nhẫn. Mọi người chúng ta đều thấy khó chịu đựng các nặng nhọc trong tiến trình truyền thống hàng ngày. Lấy thí dụ, sau một ngày phải làm việc mệt nhọc, khi về đến nhà ta đã hết hơi sức, thế nên khi ngồi xuống tu tập, ta chỉ muốn làm cho nhanh và rút ngắn nó bất cứ khi nào có thể. Đó là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy ta thiếu sự kham nhẫn trước khó khăn.
Chúng ta có thể chịu đựng khó khăn đó bằng cách nói, "Cho dù điều gì xảy ra hoặc khó khăn cách mấy, tôi không thể phương hại việc tu tập. Tôi phải hành bằng trọn khả năng mình, làm trọn trách vụ cho tiến bộ cá nhân, cũng như trách vụ nhận lãnh vì tha nhân. Tôi không thể phương hại." Với thái độ đó, ta có thể đối đãi các giờ phút khó khăn trong từng ngày, và đặt việc tu tập Pháp của mình lên hàng tối thượng. Kết quả tích cực của sự kham nhẫn khó khăn rất lớn lao. Thế nên nó đáng giá mọi nỗ lực bảo trì kham nhẫn bất cứ lúc nào.
28. Viên cần
Nếu Bích chi Phật và Thanh văn
Muốn tu Niết bàn riêng cá nhân,
Nỗ lực khôn cùng hầu thành tựu
Dù bị thiêu vẫn không lìa đạo.
Thử xem bao năng lực phải dùng
Bởi những người tu độ tha nhân;
Giác ngộ cần thật nhiều tinh tấn -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Tu tập thứ hai mươi tám của Bồ tát là vun trồng sự tinh tấn chuyên cần cho lợi lạc mọi chúng sanh. Đoạn này nói, ngay cả chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Pratyekabuddhas) tu tập hầu đắc quả cho cá nhân, cũng phải hăng hái làm việc. Nếu tóc ta bốc lửa, ta phải hành động thật nhanh hầu dập tắt lửa. Tương tự, chư vị phải làm việc cùng tốc độ đó. Đương nhiên, nếu lửa cháy, ta không thể ngồi yên phút nào mà phải dập tắt ngay càng nhanh càng tốt. Như thế, nếu Thanh văn và Bích chi Phật, chỉ làm việc cho quả vị cá nhân, đã phải làm tận lực như thế bằng trọn cả tinh chuyên; chúng ta làm việc hầu đắc Đại Giác ngộ cho phúc lạc toàn chúng sanh, tất nhiên phải làm việc ít ra khó nhọc ngang bằng hoặc hơn nữa.
Thế nào là tinh tấn? Tinh tấn là sự hứng thú sáng suốt khi làm điều gì đức hạnh. Tại Mỹ, người ta hay dùng từ "năng lực" (energy). Nhưng, tôi nghĩ tinh tấn và năng lực có hơi khác nhau. Theo cách tôi hiểu, "năng lực" gần giống như sự can đảm. Thế nên, chúng ta có thể can đảm trong cả việc tốt lẫn việc xấu.
Chúng ta có thể làm việc thật lao nhọc cho một thứ gì tiêu cực, ngay cả làm đổ mồ hôi, nhưng mồ hôi đó không phải là kết quả của sự tinh tấn. Ngay dù phải lau mồ hôi trên trán, mồ hôi đó không do tinh tấn. Định nghĩa theo tự vựng của tinh tấn là sự hăng say thực thi các hành đức hạnh. Điều này quan trọng đối với tất cả chúng ta, vì ta cần sự thành tựu khởi phát từ tinh tấn.
Nguyệt Xứng (Chandrakirti), trong quyển Trung Đạo Hành (Madhyamakavatara), bảo rằng tất cả kiến thức đều theo sau tinh tấn. Tinh tấn dẫn đến kiến thức. Cũng thế, Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) viết trong Lam Rim Chenmo, nếu ta khoác y giáp tinh tấn, tất kiến thức sẽ gia tăng trong ta như trăng tròn dần. Đó là lý do chư vị đã khuyến tấn chúng ta phải luôn giữ sự hứng khởi tuôn tràn như dòng nước chảy. Nó không thể rời rạc hoặc gián đoạn, hứng thú vài ba hôm rồi lại buông thả. Thay vì vậy, chúng ta cần thật tinh chuyên, gìn giữ sự liên tục tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm khác. Rất quan trọng chúng ta cần phải gia trì năng lực trong tu tập hàng ngày, và làm việc hàng ngày với lòng hăng hái, không cần ai nhắc nhở, mà làm cho chính bản thân mình.
29. Viên định
Siêu kiến hội nhập vào tinh túy,
Hiển bày cách thật vật hiện hữu,
Chỉ khởi ngoài cảm xúc nhiễu phiền
Với tâm thanh tịnh làm chân nền.
Vượt khỏi tứ vô sắc giới định
Phải tu đắc nhất tâm bất loạn
Và nhập vào đại định viên toàn -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn hai mươi chín nói thiền về định (samadhi) [tam muội da] vượt khỏi bốn cảnh trời vô sắc giới, là một trong các tu tập của Bồ tát. Định hoặc chỉ (shamatha) là tâm tịch tĩnh trụ vào một cứ điểm hay một đối tượng [nhất tâm bất loạn]. Tâm phối hợp được an định và thẩm kiến (vippasyana) [minh sát kiến, minh sát tuệ] có thể điều phục mọi ảo cấu. Bởi các lẽ đó, thiền chánh định, hoặc nhất trụ định, vượt tứ vô sắc giới thiên, là một trong các tu tập của Bồ tát.
Đa phần thời gian thiền trưởng dưỡng tam muội mang đến quả là tái sanh trong cõi vô sắc giới. Nếu nỗ lực phát triển an định là nhằm đạt đến một trong các hiện hữu vô sắc, thì quả không hữu ích mấy cho chúng ta. Ta phải đạt đến tịch tĩnh cho một thứ gì vượt trên mục tiêu đó. Ở một trong các kinh, đức Phật nói chư Bồ tát không có vọng cầu sanh vào cõi vô sắc, vì chúng sanh trong cõi đó không thể nhìn thấy nhau; thế nên đó chẳng phải chỗ thích hợp cho tu tập Pháp. Bởi lẽ đó, cõi vô sắc là một trong tám nơi thiếu tự do mà chúng ta không muốn sanh vào. Họ cũng thuộc vào cùng loại các vị thần trường thọ không có cơ hội tu tập Pháp.
Thế nào là tịch tĩnh hoặc an định (shamatha)? Tịch tĩnh là tâm an trụ bất loạn vào đối tượng nhất điểm. Đây là một khí cụ tất cả chúng ta đều phải sở đắc. Muốn nhận được khí cụ đó, ta cần thiền về sự phát triển của nó. Với trợ lực của an định, phối hợp cùng thẩm kiến, ta có thể đạt mục tiêu. Ta cần thẩm kiến để có thể quán phân. Như thế, thẩm kiến (hoặc tuệ kiến không tánh) [không kiến tuệ, không kiến] giống như một vũ khí sắc bén, và an định giống như một người mạnh mẽ với đôi vai rắn chắc. Nếu ta dùng thẩm kiến với trợ lực của an định, tất có thể cắt đứt hữu hiệu tận gốc rễ của tất cả ảo cấu, vốn là cội nguồn của tất cả phiền não.
Hiện có rất nhiều người ưa thích thiền an định [chỉ], nhưng nếu chỉ hành có mỗi thứ đó mà thiếu thiền minh sát tuệ [quán], tất thiền an định có khi trở thành một trong các phương tiện dẫn dắt ta lang thang trong vòng luân sanh. Với thẩm kiến, ta không chỉ nói đến một thứ gì ngăn chặn các ảo cấu thô thiển, mà là một thẩm kiến vi tế có khả năng cắt đứt tận gốc rễ của ngã chấp. Tự nó, an định không cung ứng cho ta bất kỳ phương tiện nào nhằm giải thoát khỏi luân sanh. An định, chẳng phải duy nhất trong Phật giáo, mà có thể tìm trong nhiều truyền thống khác nữa. Chẳng hạn như, có nhiều người Ấn giáo có thể đắc an định bằng thiền về các tầng giới của tam muội. Với tâm tịch tĩnh, họ có thể sanh vào cõi sắc giới hoặc vô sắc giới. Với trợ lực của an định, người ta có thể tạm loại trừ các ảo cấu thô của cõi dục giới và ngay cả của cõi sắc giới, nhờ đó tái sanh vào cõi vô sắc giới. Với an định, người ta có thể tiến lên tận đỉnh cao của luân sanh, cao nhất trong bốn cõi vô sắc giới. Bởi vì họ tạm vượt thắng mọi ảo cấu thô của cõi sắc giới và dục giới, họ cảm thấy như đã đạt được một tự do thường xuyên tránh khỏi các ảo cấu, và không còn điều gì tồn lưu để tịch diệt. Họ cảm thấy như mình đã đắc giải thoát.
Nhưng một lần nữa, nghiệp trụ trong cõi đó sẽ dần dà kiệt cạn. Một khi đã cạn, người ta nhìn thấy chốn kế tiếp sắp phải tái sanh vào, đó lại là nơi họ đã từng khởi hành. Sự thất vọng lớn lao đó khiến người ta mất niềm tin nơi Pháp hoặc Giáo, bởi vì họ đã từng ngỡ rằng mình đắc tự do trọn mãn. Khi nhận ra mình vẫn chưa được tự do, họ khởi một cái nhìn tà vạy hoặc thô ác [tà kiến hoặc ác kiến] đối với Pháp. Điều này khiến họ lại sa đọa lần nữa vào cõi dưới thấp kém.
Lạt ma Tông Kha Ba (Tsong Khapa) nói rằng, tịch tĩnh, hoặc định, giống như một vị vua hoàn toàn thống trị tâm. Khi tâm được đặt vào một loại đối tượng nào với thứ định đó, nó sẽ trụ bất động giống như núi Tu Di (Meru) khổng lồ. Định đó, nếu hướng về bất cứ điểm đức hạnh nào, sẽ hội nhập theo mà không bị phân tán. Bởi đức tánh của định, cả thân và tâm đặt vào một trạng thái khai triển cực độ, hội nhập đại an lạc tinh thần. Nếu thật nghiêm túc trong thiền an định, ta có thể đắc trong vòng sáu tháng. Tuy nhiên có nhiều trường hợp những người thử trong ba tháng - hoặc ba năm, năm năm, hay sáu năm - mà không đạt gì cả.
Có người cho biết đang thiền an định; và khi được hỏi thiền đã bao lâu, họ đáp khoảng sáu năm, nhưng vẫn chưa điều phục được tâm mình. Thật ra, tôi nghĩ trong các trường hợp đó, không phải do lỗi của pháp thiền an định, mà chính là tiếp cận cá nhân của hành giả có sai lầm.
30. Viên tuệ
Viên bố thí, nhẫn nhục, trì giới,
Thiền định cùng tinh tấn chưa đủ;
Nếu thiếu Viên Tuệ, năm thứ trên
Không thể đưa vào Phật quả viên.
Với pháp bồ đề tâm trưởng dưỡng
Trí tuệ thấy tác nhân, hành động,
Và đối thể thảy chẳng thật hữu -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn ba mươi nói, không có bát nhã (prajna), hoặc trí tuệ [tuệ bát nhã], ta không thể đắc Đại Giác ngộ, cho dù đã hoàn mãn trọn năm thứ ba la mật (paramitas) kể trên. Nhưng tuệ không thể tự nó làm việc. Nó phải đi cùng với phương pháp, đó là bồ đề tâm và từ bi. Ba vòng đó là đối thể thọ hành, tác nhân, và hành động. Hiểu biết cả ba thứ đó đều thiếu chân hiện hữu, chính là trí tuệ. Phối hợp trí tuệ cùng phương pháp là một trong các tu tập của Bồ tát.
Chẳng hạn, nếu lấy thí dụ của thiền định (samadhi), thiền giả chính là tác nhân, định là đối thể, và thiền về định chính là hành động. Tâm thức giác được sự thiếu vắng chân hữu của cả ba thứ trên chính là tâm tuệ. Tuệ ở đây là sự thức giác về đối thể.Trong Tạng ngữ gọi là so sor, có nghĩa một cách cá biệt, và tok pa, có nghĩa hiểu biết; thế nên tuệ chính là sự hiểu biết về đối thể một cách cá biệt. Trong Bồ Đề Hành Kinh (Bodhicharyatavara) nói rằng, năm loại viên hoặc ba la mật đầu là phương pháp giúp ta đi đến loại thứ sáu, trí tuệ. Tất cả năm ba la mật trên đều được đức Phật dạy nhằm hiểu được tuệ, ba la mật thứ sáu. Điều đó có thể tìm thấy trong chương chín của Bồ Đề Hành Kinh của Tịch Thiên (Shantideva).
Chúng ta cần nỗ lực hàng ngày hầu tìm hiểu về ba la mật thứ sáu, tuệ ba la mật, hoặc viên tuệ. Hãy hết sức tinh tấn hầu tiếp cận sự hiểu biết đó. Tôi nghĩ tầm quan trọng của tuệ chính bởi nó là khí cụ hay vũ khí thật sự giúp phá tan ngã chấp. Đặc biệt, hầu vượt qua bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh, trí tuệ phải được trợ lực của phương pháp, tức là năm ba la mật trên.
Chẳng hạn như, chư Thanh văn (Shravakas) và Bích chi Phật (Prateykabuddhas) có tuệ kiến không, nhưng bởi vì thiếu phương pháp, các vị không có phương tiện nhờ đó có thể chống đối hữu hiệu bóng tối ngăn che tri kiến trực tiếp về hiện cảnh.
31. Đoạn lỗi
Không nỗ lực phân tích rõ ràng
Ảo cấu vương và lầm lẫn mang,
Cho dù bên ngoài tu tập Pháp,
Vẫn cứ hành nhiều việc vô Pháp.
Bởi lẽ đó, nên cố xét qua
Lầm và ảo, lỗi của chúng ta,
Rồi sau đó diệt chúng trọn cả -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Tu tập thứ ba mươi mốt của Bồ tát là quán xét và truy cứu lỗi lầm của ta trong đời sống hàng ngày, và loại trừ chúng. Nếu ta không truy cứu hoặc quán xét lầm và lỗi của mình, có thể ta đang làm các hành vô Pháp thay vì là Pháp. Bởi lẽ đó, trong đời sống hàng ngày, ta cần quán xét lỗi lầm của chính mình, không chỉ quán xét, mà bất cứ khi nào nhìn thấy chúng, phải ngăn chặn ngay và cố gắng loại trừ chúng. Cố gắng loại trừ các lỗi chính là một trong các tu tập của Bồ tát.
Tôi đã nhiều lần nhắc đến sự quán xét sinh hoạt thân khẩu ý của chúng ta, và bất cứ khi nào nhận ra điều gì sai trái, nên học cách buông bỏ. Tôi cũng nhiều lần luận về việc đó. Một phương pháp là phối kiểm hành động của ta bốn lần trong một ngày. Vào khoảng giữa trưa, ta nên xét lại các việc đã làm vào buổi sáng và kiểm điểm, "Tôi có làm điều gì sai hoặc điều gì tốt chăng?" Nếu làm điều gì tốt hoặc đức hạnh, ta có thể tự khuyến tấn mình làm thêm nữa, nhưng nếu làm điều gì sai trái ta nên hối tiếc, và phải tẩy trừ nó. Khi rời sở làm, ta có thể ngồi trên xe trước khi lái về nhà, và kiểm điểm lần nữa việc đã làm từ sau giờ ăn trưa cho đến khi tan sở. Nên lập một danh sách về những gì đã làm, và nếu làm điều gì đúng, thì có thể vui hưởng nó; nếu làm điều gì sai, nên sám hối việc đã làm. Rồi, trước khi vào giường ngủ, ta nên tái xét lại các hành động, và nhìn xem mình là đã làm việc gì trong ngày hôm đó.
32. Không nêu lỗi người
Khi nói chuyện người, ảo cấu lực
Khiến ta trụ trong lỗi kẻ khác,
Nếu chính Bồ tát bị bẻ bôi
Tất danh phẩm ta bị hư hao.
Nên chừa lỗi nói xấu người khác
Đã vào Đại thừa đạo giải thoát.
Chỉ nên đề cập lỗi của ta -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ ba mươi hai nói rằng, người đã nhập đạo Đại thừa không nên nêu lỗi lầm của người khác, đặc biệt nếu người đó là một vị Bồ tát. Nếu có người nào làm điều gì sai và phạm lỗi, và người đó chọn sự che dấu, đó là việc của họ. Không phải trách nhiệm của ta phải công bố lỗi lầm của họ.
Mặt khác, nếu ta làm điều gì sai, cần phải tuyên xưng điều sai quấy đó, thú nhận, và thanh tẩy. Việc ta có nói lỗi của người khác ra chẳng thành vấn đề. Lại nữa, nếu nêu lỗi của một người vốn dĩ là một vị Bồ tát, chỉ do ảo cấu của ta, đó lại là một tổn hại cho chính ta.
Ngay dù cho người đó chẳng phải là Bồ tát, chẳng hạn như một bạn đồng nghiệp với ta, lại chẳng có lý do gì nêu lỗi của người đó một cách không cần thiết. Cũng thế, nếu ta thấy lỗi của cha mẹ hoặc anh em, nên bỏ qua đi và đừng nêu ra; làm vậy khôn ngoan hơn. Nếu có một lý do tốt cần phải nói ra lỗi của họ, thì phải làm vậy, đặc biệt khi ta phải làm nhân chứng trước tòa. Khi biết người đó đã phạm tội, ta phải đứng ra và nói thật. Tuy nhiên, nếu sự thành thật của ta lại làm hại tánh mạng của người khác, nên tránh đi là hơn. Điều này rất quan trọng.
33. Cắt ái nhiễm quyến thuộc
Tranh cãi người nhà hoặc bạn bè,
Hầu được nể trọng hay vật gì,
Khiến ta không thể lắng nghe Pháp,
Giảm sút thiền định hoặc tu tập.
Nguy cơ thường trụ trong nhà thân,
Cũng như gia đình hay bạn quen,
Buông bỏ ràng buộc vào quyến thuộc -
Chư Bồ tát trọn hành chẳng khác.
Đoạn này nói, cắt đứt ái nhiễm cùng khung cảnh nhà cha mẹ hoặc nhà người bảo trợ là một trong các tu tập của Bồ tát. Tại sao ta cần cắt ái nhiễm cùng nhà ta hoặc nhà thí chủ? Nếu cứ ràng buộc vào họ, tất tranh cãi sẽ thường khởi dậy về những phục vụ hoặc tặng phẩm mong được, và tranh chấp này sẽ làm tổn hại việc tu học và thiền định. Nếu ta cứ ở mãi nơi nhà của thân hữu hoặc bảo trợ, điều xảy ra là mỗi khi có tranh chấp, ta cố can thiệp, và làm như thế ta bắt đầu quan tâm đến việc của họ. Việc của ta thật sự chỉ là học hỏi và tu tập Pháp.
Tôi từng chứng kiến việc này nhiều lần trong đời. Tôi có vài thí chủ, nhưng mỗi khi thăm viếng họ, tôi chỉ chú tâm quán tưởng và đọc tụng kinh. Tôi không bao giờ can thiệp vào việc của họ. Đôi khi tôi có sự thúc giục muốn lưu ý đến việc của họ, nhưng thí chủ của tôi là một người rất tuyệt không muốn để tôi hòa lẫn cùng họ. Ông luôn muốn để tôi yên trong điện thờ. Lý do là, nếu có việc gì xen lấn vào việc tu học, quán chiếu, và thiền định của ta - mục tiêu chủ yếu của ta - chắc chắn việc can dự đó chẳng có giá trị chi cả. Bởi lý do đó, ta nên buông bỏ ràng buộc vào nhà người bảo trợ, hoặc nhà bạn nam hay nữ, và không có một luyến ái nào. Đúng ra, ta nên xem các ngôi nhà đó như nhà khách trọ. Đó là điều khôn ngoan. Chẳng hạn như, nếu ta thuê một phòng trong khách sạn, sẽ không bao giờ phải can thiệp vào việc quản trị hoặc thương vụ của khách sạn đó. Tương tự, ta nên có một thái độ như thế bất cứ khi nào ta viếng thăm thí chủ hoặc thân hữu. Đó chính là cách tốt nhất.
34. Không trả thô ác ngữ
Thô ác ngữ thốt ra khi giận
Khiến người đau và tâm động loạn;
Và ta, gắng theo Bồ tát hành
Nhận ra tu tập giảm rõ rành.
Thấy lỗi khởi từ lời thô nặng,
Người nghe quả khó ưa kỳ chướng,
Hãy bỏ lối ngược đãi cùng người -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ ba mươi bốn của Bồ tát là không đáp trả thô ác ngữ ta nhận từ người khác. Thô ác ngữ thường rất khó nghe - bất kể ai nói ra. Đó chính là lý do ta chẳng hề muốn nói thô ác ngữ cùng bất cứ ai. Lời thô nặng sẽ làm động loạn tâm người khác. Nếu tâm họ bị động loạn, tất sẽ hư hao đến tu tập Bồ tát của chính ta.
Một trong các tu tập của Bồ tát là không bao giờ nói lời thô ác đối với tâm người khác. Bất cứ lời nào thật sự động loạn tâm một người khác, tạo sân hận hay phiền não trong tâm họ hoặc làm tăng thêm nỗi đau khổ của họ, là lời ta phải tránh trong ngôn ngữ hàng ngày. Thế nên, ta phải cố gắng thật ý thức đừng bao giờ đáp trả lời thô nặng, cho dù là nói với ai, chẳng kể người đó là cao cả, ngang bằng, hoặc khiêm hạ. Không bao giờ dùng thô ác ngữ với bất cứ ai phải là một nỗ lực thường xuyên của chúng ta.
35. Trừ tập quán xấu
Loại hành xấu chóng thành tập quán
Một khi quen cùng hạ tầng tâm;
Nỗ lực tinh chuyên rất cần đến
Tạo đối lực chống các trược nhiễm.
Võ trang bằng tỉnh thức, hồi niệm
Tấn công ngay trược nhiễm như tham;
Trừ cái chướng ngăn ngại tiến bộ -
Chư Bồ tát trọn hành cách đó.
Đoạn thứ ba mươi lăm nói, khi nào ta nhận thấy sự mống khởi của luyến ái và ảo cấu, phải diệt trừ ngay. Ta cần kiểm chế chúng ngay giai đoạn đầu tiên, vì nếu tiếp nhận ảo cấu và cho phép chúng trụ của mình một thời gian, tất ta sẽ tập một thói quen tăng trưởng dần. Nếu ta không điều phục ảo cấu, nó sẽ tạo thành cứng rắn rất khó kháng cự. Ta cần dùng sự tỉnh thức và tinh tường để quán sát thật gần bất cứ ảo cấu này vừa khởi. Đôi khi ta cố ý làm điều gì sai, nhưng lại có lời bào chữa như, "Tôi biết nó sai nhưng tôi muốn có kinh nghiệm." Nếu ta đón nhận loại tâm này, thì nó trụ càng lâu, càng phát triển ngoài sự điều phục. Chẳng hạn như, nếu người khác nói, "Tôi biết bạn không uống rượu hay hút thuốc, tại sao không thử xem, chỉ một lần thôi." Ta có thể đáp, "Không, cám ơn, cũng chẳng ích lợi gì." Như ta biết, nếu có một trận chiến, ngăn chặn được kẻ xâm lấn ngay biên giới tất hữu hiệu hơn, bằng không, chúng sẽ xâm nhập vào và đô hộ toàn bờ cõi. Khi đó đánh đuổi chúng sẽ khó khăn hơn nhiều. Điều tốt nhất là ngăn cản chúng ngay ngoài biên cương.
36. Tỉnh thức luôn
Nói tóm, điều gì ta hành xử
Trong duyên hay cảnh nào gặp gỡ
Đều phải bằng lực tỉnh giác luôn
Hiểu trọn vẹn trạng thái của tâm.
Phải có tỉnh thức và hồi niệm,
Giúp tập trung, sẵn sàng phục vụ,
Ta hành cho phúc lạc chúng sanh -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Đoạn thứ ba mươi sáu nói, bảo trì sự tỉnh giác trong nỗ lực hàng ngày hầu lợi tha là một trong các tu tập của Bồ tát. Sự an sinh của tha nhân rất quan trọng, và để giúp ích hữu hiệu, ta cần thức giác và tinh tường. Trong mỗi hành của thân, khẩu, và ý, hãy quán xét thận trọng với tâm tỉnh giác, và đừng bao giờ để cho bất cứ thứ nào trong cả ba bị vướng vào ác trược.
37. Hồi hướng trọn công đức
Mọi công đức tích từ nỗ lực
Đưa vào tu tập đạo thiện đức
Ta hành hầu giải thoát khổ đau
Của vô lượng bà mẹ nhiều đời,
Trọn hồi hướng cho họ thành Phật,
Với tuệ kiến, tha ngã không thật
Lẫn công đức, thảy chẳng phải chân -
Chư Bồ tát trọn hành cách này.
Tu tập thứ ba mươi bảy của Bồ tát là hồi hướng trọn công đức đã tạo thành vào Đại Giác ngộ cho lợi ích của vô lượng chúng sanh. Câu này nói rằng, tất cả công đức ta tích lũy, qua sự tinh chuyên, sẽ thanh tẩy ảo cấu và phiền não của vô lượng chúng sanh. Trí tuệ này giải thoát vô chấp vào chân hữu. Với trí tuệ giải thoát vô chấp chân hữu của ba đối thể đó, và việc hồi hướng công đức cho Đại Giác ngộ, là một trong các tu tập của Bồ tát.
KẾT LUẬN
Trên đây là ba mươi bảy tu tập chủ yếu của Bồ tát, được Bồ tát Togmey Zangpo viết dưới hình thức rất cô đọng. Đây là các tu tập trực tiếp của chư Bồ tát, nhưng gián tiếp có ý nghĩa đối với bất cứ ai có hạt giống Đại thừa bên trong và quyết định trở thành hành giả Đại thừa. Ngay dù một vài trong số các tu tập trên có thể không mạnh mẽ như ta mong muốn, hoặc không hữu hiệu như đối với chư Bồ tát, chúng ta vẫn có thể thử đến gần điều gì mà một vị Bồ tát phải hành.
Tác giả xác nhận ngài viết điều này theo đúng các kinh văn được giảng dạy trong cả Kinh thừa [Hiển giáo] lẫn Mật thừa [Mật giáo], theo thánh ngôn của các vị đại sư. Ngài trình bày ba mươi bảy thi đoạn trên, trong mục đích giúp đỡ cho những ai có cảm hướng muốn trở thành Bồ tát. Tác giả viết, "Do bởi năng lực kém cõi và kiến thức hạn hẹp của tôi, nên tôi không có văn tài thơ phú khiến học giả hài lòng; nhưng nhờ theo sát kinh điển và tu tập của chư Thánh sư quá khứ, và do phần tinh hoa nhất của hiểu biết cá nhân, điều tôi soạn thảo nơi đây chính thật là tu tập của chư Bồ tát không chút sai lầm. Tuy nhiên, các cảnh giới của chư Bồ tát bất khả thẩm định và vô lượng vô biên, đối với một người như tôi với tri thức hữu hạn thật khó dò lường, thế nên nếu tôi có đưa vào những gì có vẻ sai lầm, mâu thuẫn diễn đạt, hoặc các khiếm khuyết bất ngờ khác, xin thành thật cáo lỗi. Tôi xin chư học giả khoan hòa dung thứ."
Đó là một cách làm giảm bớt lòng kiêu mạn và tự phụ của chính mình.
HỒI HƯỚNG CỦA TÁC GIẢ
Tiếp theo là hồi hướng công đức của tác giả đã thu hoạch được nhờ soạn kinh văn này. "Do bởi đức hạnh đạt được nhờ soạn thảo bản văn này, cầu xin mọi chúng sanh được phú túc với cả bồ đề tâm tương đối lẫn tối hậu, và không còn tồn lưu giữa vòng luân sanh, hoặc giữa sự thỏa mãn của niết bàn cá nhân, và nguyện cho tất cả được thành tựu như đức Quán Thế Âm."
Kinh văn được đúc kết như thế.
GHI CHÚ CUỐI
Rất quan trọng đối với chúng ta là phải Hồi Hướng Công Đức vào cuối các thời thiền hoặc sau bất cứ sinh hoạt Pháp nào. Do bởi đức hạnh hoặc công đức thọ nhận khi thực thi bất cứ Pháp hành nào, cầu xin Thánh đức Đạt Lai Lạt Ma, và tất cả chư Thánh Đức Đại Sư đã bảo trì và thăng hoa pháp giảng trường thọ thật dài lâu. Cầu xin Pháp vô biên của đức Phật được mãi mãi trường tồn cho phúc lợi trọn chúng sanh. Cầu xin trọn Tăng già đoàn hiện hữu trên thế giới trụ trong thanh tịnh hạnh, thoát khỏi mọi tranh chấp hoặc ly gián, và thành tựu trong tu tập cùng thiền định. Cầu xin mọi quốc gia trên thế giới thoát tai ương bệnh tật, đói khổ, chiến tranh và tranh chấp. Cầu xin nền hòa bình ưu thắng và trường tồn vĩnh cửu trên quả đất. Cầu xin mọi chúng sanh giải thoát khỏi ràng buộc khổ luân sanh và đạt an bình, hạnh phúc trường cửu, và Đại Giác ngộ.
Trích: CHÌA KHÓA ĐẠI GIÁC NGỘ
Nguyên tác: KEYS TO GREAT ENLIGHTENMENT
của GESHE TSULTIM GYELTSEN.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).17/1/2012.

No comments:

Post a Comment