Wednesday 21 August 2013

Giảng Luận.
 
LUẬN VĂN: Luận là nghị luận, căn cứ vào Lý để nghiên cứu, chứng minh làm sáng tỏ ra. Mục đích bài kệ luận là quán thế giới Cực Lạc, thấy Phật A Di Ðà, nguyện sanh về nước Cực Lạc ấy.
 
1.Giải Tổng Quát Các Môn
LUẬN VĂN: LÀM SAO QUÁN? LÀM SAO SANH TÍN TÂM? NẾU NGƯỜI THIỆN NAM THIỆN NỮ TU NGŨ NIỆM MÔN THÀNH TỰU CHẮC CHẮN ÐƯỢC SANH VỀ QUỐC ÐỘ AN-LẠC, THẤY ÐƯỢC PHẬT DI ÐÀ. NGŨ NIỆM MÔN LÀ GÌ? :
- LỄ BÁI MÔN,
- TÁN THÁN MÔN;
- TÁC NGUYỆN MÔN;
- QUÁN SÁT MÔN;
- HỒI HƯỚNG MÔN.
Ðoạn này kể chung năm môn. “Làm sao quán” tức là ba thứ quán sát trong Quán Sát Môn. Làm sao tin? Y theo quán sát công đức chơn thật cõi Tịnh Ðộ mà sanh lòng tin. Ngũ Niệm Môn là năm thứ hành môn để được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bình thường giảng niệm Phật lấy việc xưng danh hiệu Phật đó là một trong nhiều nghĩa của chữ “niệm”. Cần nên biết rằng đối với các tướng hảo công đức của chư Phật ghi nhớ được rõ ràng không mờ gọi chung đó là “niệm”. Không phải chỉ chuyên dùng miệng ngâm lên cho là niệm Phật.
 
LUẬN VĂN: LỄ BÁI THẾ NÀO? THÂN NGHIỆP LỄ BÁI A DI ÐÀ NHƯ LAI, CHÁNH BIẾN TRI VÌ QUYẾT Ý SANH VỀ NƯỚC KIA.
 
Từ đây về sau giải thích riêng năm môn. Lễ Bái Môn: Phật có mười thông hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri…Chữ Như Lai đã giải ở trước. Ứng Cúng: Vì Phật đoạn hết tất cả phiền não, viên mãn tất cả công đức, nên nhận cho người trời cúng dường. Chánh Biến Tri: phân biệt với phàm phu bất tri, ngoại đạo tà tri, nhị thừa thiên tri, chỉ có Phật là bậc Chánh Biến Tri. A Di Ðà Như Lai, A Di Ðà Ung Cúng, A Di Ðà Chánh Biến Tri đều chỉ Phật A Di Ðà. Lấy thân nghiệp lễ bái Phật A Di Ðà, thân này liền được vãng sanh về quốc độ Phật A Di Ðà.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ TÁN THÁN: CA NGỢI DANH HIỆU NHƯ LAI KIA, NHƯ TRÍ TƯỞNG QUANG MINH CỦA NHƯ LAI KIA, DANH NGHĨA NHƯ THẾ, MUỐN ÐÚNG NHƯ THẾ, TU HÀNH HỢP NHAU GỌI LÀ TÁN THÁN.
 
Môn thứ hai là tán thán, dùng ngữ nghiệp ca ngợi tán thán Phật A Di Ðà, tán thán ánh sáng vô lậu của Phật do trí tuệ vô lậu mà phát ra. Danh là cái hay nói (năng thuyên), nghĩa là cái bị nói (sở thuyên). Nói về danh hiệu của Như Lai là tiêu biểu tất cả công đức của Như Lai. Nói khen danh hiệu Như Lai là khen tất cả công đức tu hành chơn thật hợp nhau, không tu hành chơn thật thì không thể có công đức được. Nên nói: Ðúng như danh nghĩa kia, muốn được tu hành tương ưng, cần tán thán, chắc được vào chúng hội, thấy Phật nghe pháp.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ PHÁT NGUYỆN? TÂM THƯỜNG CÓ NGUYỆN MỘT LÒNG CHUYÊN NIỆM CHẮC CHẮN ÐƯỢC SANH VỀ THẾ GIỚI AN-LẠC. MUỐN ÐƯỢC NHƯ THÊ PHẢI TU HÀNH PHÁP CHỈ.
 
Môn thứ ba là Phát Nguyện. Phát là phát khởi quyết lòng muốn được vãng sanh. Hành giả tu Tịnh Ðộ đã phát nguyện vãng sanh ước muốn tha thiết nên trong tâm chỉ còn một niệm rốt ráo vãng sanh về nước An Lạc, không có niệm khác, cần tu pháp CHỈ làm cho tâm chuyên chú nhớ tưởng quốc độ An Lạc, không còn nổi trôi trong cảnh giới ngũ dục nữa.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN SÁT? DÙNG TRÍ TUỆ QUÁN SÁT, DÙNG CHÁNH NIỆM ÐỂ QUÁN SÁT Y CHÁNH KIA, MUỐN TU HÀNH ÐÚNG CẦN DÙNG PHÁP QUÁN, QUÁN Y VÀ CHÁNH BÁO KIA CÓ BA THỨ:
1) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA CÕI PHẬT KIA;
2) QUÁN SÁT CÔNG ÐÚC TRANG NGHIÊM CỦA PHẬT A DI ÐÀ;
3) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA CHƯ BỒ TÁT Ở CÕI KIA.
 
Quán Sát Môn: Muốn dùng trí huệ quán sát ba thứ công đức chơn thật, cần phải dùng pháp Quán, dùng Chỉ Quán quán sát được ba thứ công đức chơn thật, thì hành giả chắc được công đức chơn thật quyết định được vãng sanh.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ HỒI HƯỚNG? KHÔNG BỎ TẤT CẢ CHÚNG SANH KHỔ NÃO, TÂM THƯỜNG PHÁT NGUYỆN, HỒI HƯỚNG LÀ BƯỚC ÐẦU THÀNH TỰU TÂM ÐẠI BI.
 
Hồi Hướng Môn: Người tu Tịnh Ðộ biết rằng ta và chúng sanh đồng một thể không hai, nên không bỏ một khổ não nào của chúng sanh, mà dùng công đức niệm Phật đã tu, hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, cùng chúng sanh đồng sanh về Cực Lạc, thành tựu tâm từ bi rộng lớn.
 
2-Giải Riêng về Quán Sát
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA QUỐC ÐỘ ÐỨC PHẬT KIA? VÌ THÀNH TỰU NĂNG LỰC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NHƯ HẠT CHÂU MA NI NHƯ-Ý BỬU TÁNH KIA, CÓ THỂ SO SÁNH TƯƠNG ÐỐI NHƯ THẾ.
 
Trước kia đã chỉ chung năm phương pháp tu hành, đoạn này chỉ giải thích một món quán sát thôi. Ðoạn đầu đem thí dụ để nói rõ năng lực công đức cõi Phật không thể nghĩ bàn. Quán sát tự trang nghiêm của quốc độ Phật Vô Lượng Thọ, phần sau sẽ nói rõ có 17 thứ quán sát. Trước tiên nói tổng quát về tướng quán sát cõi Phật. Nói quán sát thành tựu quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Ðà cần phải quán cả kiến và văn các thứ công đức ấy thành tựu, phải lấy năng lực công đức không thể nghĩ bàn mà quán đó.
Quốc độ An Lạc của Phật A Di Ðà và thế giới này không đồng. Cõi này do cộng nghiệp của chúng sanh mà thành, cõi Phật A Di Ðà là do năng lực công đức bổn nguyện của Ngài tạo thành. Trong kinh Vô Lượng Thọ Phật nói về nhân địa của Pháp Tạng Tỳ Kheo đã từng phát 48 đại nguyện. Năng lực đại nguyện của Phật A Di Ðà đã làm thành cõi An Lạc, có thể làm cho người thấy nghe đều được vãng sanh, nên không thể đem thế giới quốc độ này để quán sát mà phải dùng năng lực không thể nghĩ bàn để quán sát.
Phàm việc gì có thể nghĩ bàn đều là do lời nói, tư tưởng lập ra, như nói về một việc gì, việc ấy có một phạm vi nhất định, giới hạn nhất định, cái đó là của người khác chứ không phải là chính mình, vật này không là vật kia. Phàm cái gì có ngôn ngữ tư tưởng là có tướng phân biệt, phải quấy, ta kia khác nhau. Nếu lìa ngôn ngữ tư tưởng thì không có tướng ta kia, phải quấy. Ðã không có tướng ta kia, phải quấy tức là việc không thể nghĩ bàn.
Không thể nghĩ bàn là tất cả pháp đều không được, nếu pháp không thể được, làm sao có thể nói được? Nhưng vì chúng sanh, không thể không mượn lời nói để chỉ rõ cái không thể nghĩ bàn của Tịnh Ðộ, làm cho chúng sanh tin muốn vãng sanh, nên phải lấy thí dụ phương tiện để chỉ bày đó. Ma Ni Như Ý bửu tánh là Như Ý Bảo Châu, bảo châu này là của đại bàng kim súy điểu. Hạt châu này là của các Long Vương giữ, là một vật quý không thể nghĩ bàn. Phàm người được hạt châu quý này, tất cả nhu cầu về thân như áo, cơm, chỗ ở đều có thể tùy ý từ nơi vật báu ấy mà có ra, nên nói rằng châu như ý. Báu vật này cao quý nhất, các châu báu khác không thể so sánh. Những món quý báu khác nó chỉ có giá trị trong phạm vi chính nó, như vàng chỉ quý hơn loài châu báu thuộc về vàng mà không thể so sánh với lưu ly hay các thứ báu khác. Bảo châu như ý không phải thế, chúng sanh ý muốn món báu nào thì món báu ấy hiện ra, không có phạm vi quyết định. So với các châu báu về vật chất thì Bảo Châu Như Ý là tánh chất không thể nghĩ bàn. So sánh với tánh công đức của quốc độ An-Lạc của Phật A Di Ðà không được chút phần tương tợ, tuyệt đối không có chút tương đồng. Tại vì sao? Vì Như Ý Bảo Châu có thể đầy đủ nhu cầu của thân, mà Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà không chỉ làm cho vô lượng chúng sanh, khi vãng sanh về cõi nước kia, sinh hoạt tự nhiên, muốn áo được áo, muốn ăn được ăn, mà còn làm cho chúng sanh thấy được đầy đủ đại nguyện Bồ Ðề, làm cho chúng sanh cứu cánh được thành Phật, nên gọi là chỉ tương tợ, tương đối mà thôi.
Phần này nói tổng quát về năng lực công đức quán sát không thể nghĩ bàn, trong 17 thứ quán sát sau cùng hàm chứa năng lực bất khả tư nghì này.
 
LUẬN VĂN: QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ CÓ 17 THỨ CẦN NÊN BIẾT: 1) THANH TỊNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 2) LƯỢNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 3) TÁNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 4) HÌNH TƯỚNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 5) CÁC THỨ VIỆC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 6) DIỆU SẮC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 7) XÚC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 8) TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 9) VŨ (MƯA) CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 10) QUANG MINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 11)THANH (TIẾNG) CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 12) CHỦ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 13) QUYẾN THUỘC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 14) THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 15) VÔ NẠN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 16) ÐẠI NGHĨA MÔN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 17) NHẤT THIẾT SỞ CẦU CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU.
1. THANH TỊNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "QUÁN TƯỞNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA ÐƯỜNG BA CÕI."
 
1) Quán tưởng thế giới kia là quán tưởng thế giới Cực Lạc của Ðức Phật A Di Ðà. “Ðường vào ba cõi”: Ðường phân biệt có hai thứ là hữu lậu và vô lậu. Ðường phiền não do phiền não làm thành, do chúng sanh tạo ra nghiệp và nghiệp ấy khi thành tựu rồi nó có khả năng mang theo tánh chất phiền não gọi là hữu lậu. Vì có phiền não hữu lậu nên trôi lăn trong sanh tử, bị trói buộc trong ba cõi gọi là “đường ba cõi”. Tướng công đức của thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà là do thiện căn thanh tịnh vô lậu xuất thế gian mà tạo thành, nên nói “vượt xa đường ba cõi”. Phật A Di Ðà đem công đức trang nghiêm Tịnh Ðộ Cực Lạc để thực hiện diệu pháp độ thoát chúng sanh, như thuyền lớn chở người. Diệu pháp đó là thuyền từ vớt người đưa khỏi bể sanh tử.
 
LUẬN VĂN: LƯỢNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CỨU CÁNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN KHÔNG NGẰN MÉ".
 
2) Thế giới Cực Lạc là bảo độ của Phật A Di Ðà mà bảo độ cũng là pháp tánh độ. Pháp tánh trùm khắp tất cả, lìa tất cả tướng không có hạn lượng, chẳng qua tùy theo công đức cao thấp của chúng sanh không đồng mà có tướng lớn nhỏ khác nhau đối với tâm chúng sanh mà hiển hiện. Thực ra Cực Lạc quốc độ tùy theo chúng sanh trong mười phương thế giới vãng sanh, nhưng vẫn không có ngằn mé, nên lượng của thế giới Cực Lạc là vô lượng, rộng lớn như hư không, không có ngằn mé, không đồng như nhân khẩu thêm bớt trong thế gian này, có bờ mé và có tướng trạng khốn khổ.
 
LUẬN VĂN: TÁNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÁNH ÐẠO VÀ TỪ BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT THẾ”.
 
3) Nói về tướng công đức thành tựu là nhằm vào thể tướng mà nói. Nói tánh công đức thành tựu: tánh tức là giới mà giới là chủng tử, chủng tử tức là nhơn tánh đó là cái nhơn trước tiên của quả tướng. Từ chỗ chánh đạo đại từ bi và thiện căn xuất thế làm nhơn đó là nhơn cứu cánh, vì Tứ Ðế và 37 phẩm trợ đạo đều là chánh đạo. Hiểu thể của chánh đạo tức là vào được chánh đạo. Chánh đạo xuất thế này là tướng cộng pháp của ba thừa. Tâm từ bi là pháp xuất thế Ðại Thừa bất cộng pháp. Dùng ba thừa cộng pháp, Ðại Thừa bất cộng pháp, thiện căn xuất thế làm chủng tử tánh của thế giới Cực Lạc. Ðây chỉ nhơn và quả của thế giới An-Lạc đều là công đức thanh tịnh vô lậu.
 
LUẬN VĂN: HÌNH TƯỚNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY KHẮP, NHƯ NHẬT NGUYỆT CÙNG SOI."
 
4) Sắc pháp có 2 thứ hiển sắc và hình sắc. Các thứ xanh vàng đỏ trắng là “hiển sắc”. Dài ngắn tròn vuông gọi là “hình sắc”. Trong đây nói hình tướng của ánh sáng là nói về chỗ trong chúng sanh, lầu gác, cây báu, tất cả đều có đủ ánh sáng thanh tịnh vô lậu như mặt trăng mặt trời chiếu vào gương sáng.
 
LUẬN VĂN: CHỦNG CHỦNG SỰ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÐỦ CÁC TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY ÐỦ DIỆU TRANG NGHIÊM."
 
5) Bình thường nói có tám trân bảy báu, nay nói trân bửu ở Tây phương Cực Lạc hoặc nghìn hoặc muôn không có số lượng, không thể kể hết nên gọi là “đầy đủ các thứ”. Cõi ấy vì có vô số tánh chất trân bửu, nó đầy đủ thanh tịnh trân diệu trang nghiêm.
 
LUẬN VĂN: DIỆU SẮC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT THẾ GIAN."
 
6) Công đức diệu sắc là chỉ về hiển sắc mà nói. Hiển sắc ở trước đã giảng rõ. Cái gì rất sáng thì gọi là vô cấu, nếu căn cứ về tánh công đức mà giảng thì cái gì không còn các cấu trược vô minh phiền não gọi là vô cấu. Vì khi ánh sáng vô cấu có khả năng mạnh mẽ thanh tịnh nên khi chiếu vào thế gian, nhiếp đủ hết tất cả chúng sanh.
 
LUẬN VĂN: XÚC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CỎ TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC, MỀM MẠI MỌC HAI BÊN, NGƯỜI CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA-THI-LÂN-ÐÀ".
 
7) Xúc là tiếp xúc, y phục các vật đều có thể tiếp xúc với thân thể. Trong đây tuy nói về cỏ, nhưng là thứ cỏ báu tánh công đức. Nó rất mềm mại làm cho người khi chạm nhầm sanh nhiều cảm xúc vui vẻ nhận chịu. Người ở cõi này khi gặp những điều vui liền nhận, từ cảnh vui ấy sanh lòng tham, tăng trưởng phiền não. Cõi Tịnh Ðộ Cực Lạc nếu có sự vui nhận, sự vui ấy làm cho chúng sanh dứt hết phiền não, công đức tăng trưởng. Ca-Thi-Lân-Ðà là loại cỏ rất nhỏ nhiệm ở xứ Ấn Ðộ, nếu va chạm vào cũng có thể cảm xúc êm ả, vui vẻ. Nhưng cỏ tánh công đức ở Tịnh Ðộ thù thắng và khác xa nên nói là bửu tánh công đức vượt xa hơn Ca-thi-lân-đà.
 
LUẬN VĂN: TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU, CÓ BA THỨ CẦN NÊN BIẾT. 1) NƯỚC; 2) ÐẤT; 3) HƯ KHÔNG.
TRANG NGHIÊM VỀ NƯỚC NHƯ KỆ NÓI: "HOA BÁU NGÀN MUÔN THỨ, ÐẦY DẪY Ở TRONG AO, GIÓ NHẸ THỔI CÁNH HOA, ÁNH SÁNG CHIẾU CHÓI LỌI.
TRANG NGHIÊM VỀ ÐẤT NHƯ KỆ NÓI: "CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI PHƯƠNG KHÔNG NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU VÂY GIÁP VÒNG".
TRANG NGHIÊM HƯ KHÔNG KỆ NÓI: "BÁU VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH LƯỚI PHỦ HƯ KHÔNG, CÁC THỨ VANG THÀNH TIẾNG, VANG RA TIẾNG PHÁP MẦU".
 
8) Ở đây nói ba thứ nước đất và hư không ở cõi Cực Lạc đều trang nghiêm, không cõi nào vượt qua, văn nghĩa rõ ràng không cần giảng rộng.
 
LUẬN VĂN: VŨ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG HƯƠNG XÔNG KHẮP".
 
9) Từ hư không rơi xuống lần lượt gọi là mưa. Trong hư không có các hoa, y, như thế là do năng lực công đức của cõi Cực Lạc mà thành tựu.
 
LUẬN VĂN: QUANG MINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ SĨ ÁM THẾ GIAN".
 
10) Trước nói công đức hình tướng diệu sắc, tuy giảng về ánh sáng nhưng cốt yếu chỉ về ánh sáng của sắc pháp. Trong đây nói ánh sáng trí huệ Phật không phải là ánh sáng của sắc pháp. Ánh sáng sắc pháp có thể trừ tối tăm của thế gian, nhưng không thể trừ được những si mê tối tăm trong lòng chúng hữu tình. Những si mê của chúng sanh chỉ có ánh sáng trí tuệ Phật mới có khả năng trừ diệt, vì thế, ánh sáng của trí tuệ mới là ánh sáng của chơn lý. Những điều si ám của bóng tối thế gian. Ở đời thường nói: "Mắt bị mù chứ Tâm không bị mù." Vì mắt mù chỉ thống khổ có một đời, để cho tâm mù tạo nghiệp trôi lăn trong sanh tử đau khổ vô cùng.
 
LUẬN VĂN: DIỆU THINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "TIẾNG PHẠM ÂM SÂU XA, MƯỜI PHƯƠNG NGHE LỜI MẦU."
 
11) Phạm là Phạm thiên âm, âm thinh của Phạm thiên rất vi diệu thanh tịnh. Ở cõi Cực Lạc tiếng Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Thinh Văn, cho đến tiếng gió mưa mỗi thứ đều là tiếng Phạm thiên thanh tịnh, sâu xa, vi diệu ở mười phương đều được nghe.
 
LUẬN VĂN: CHỦ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "PHẬT DI ÐÀ CHÁNH GIÁC, VUA PHÁP KHÉO TRỤ TRÌ".
 
12) Ðây nói rõ trong cõi Cực Lạc có chủ. Muốn nói một nước nào người ta chỉ cần nói nhơn dân và người lãnh đạo có quyền thống trị. Cõi Cực Lạc cũng thế không chỉ có các thứ trang nghiêm của quốc độ, mà còn có Phật A Di Ðà là chủ của cõi ấy. Chánh Giác có nghĩa là Phật, nói A Di Ðà chánh giác cũng như nói A Di Ðà Phật. Vua pháp cũng là một thứ hiệu của Phật, vì Phật ở trong tất cả pháp đều được tự tại nên gọi là vua của các pháp. Ngài là người trụ trì giỏi ở nước Cực Lạc.
 
LUẬN VĂN: QUYẾN THUỘC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH GIÁC BIẾN HÓA".
 
13) Người đời nói quyến thuộc đều chỉ gia tộc mà nói; quyến thuộc của Phật A Di Ðà là tất cả chúng sanh trong cõi Cực Lạc và chúng sanh trong tất cả mười phương. Cõi này có 4 loại: thai, trứng, thấp, hóa; nếu sanh về Cực Lạc đều là liên hoa hóa sanh, nên gọi các phàm phu, nhị thừa, Bồ Tát của thế giới Cực Lạc là “tịnh hoa chúng”. Các hoa chúng này do công đức của Phật A Di Ðà hóa sanh nên gọi là Hoa Chánh Giác Hóa Sanh. “Chánh giác hoa” còn thêm một ý nghĩa từ hoa thành quả như Thất Giác Chi gọi là thất giác hoa, do thất giác chi có thể thành chánh giác, như có hoa sen sẽ có quả thật.
 
LUẬN VĂN: THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM THIỀN CHÁNH ÐỊNH".
 
14) Chúng sanh ở cõi này lấy thực phẩm làm đồ ăn để nuôi mạng sống, chúng sanh ở cõi Cực Lạc lấy pháp vị và thiền định tam muội để nuôi dưỡng sinh mạng.
 
LUẬN VĂN: KHÔNG CÁC NẠN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "LÌA CÁC PHIỀN NÃO THÂN TÂM, NHẬN VUI LUÔN KHÔNG DỨT".
 
15) Thế giới Cực Lạc ăn mặc tự nhiên nên xa lìa thân phiền não, không có ái biệt ly các ưu sầu nên xa lìa tâm phiền não. Cõi này chịu khổ không dứt, cõi Cực Lạc nhận điều vui vô cùng.
 
LUẬN VĂN: HAI NGHĨA CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CÕI THIÊN CĂN ÐẠI THỪA, ÐỀU KHÔNG CÓ CHÊ BAI, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, GIỐNG NHỊ THỪA CHẲNG SANH".
QUẢ BÁO CÕI TỊNH ÐỘ, LÌA HAI THỨ BỊ CHÊ BAI NÊN CẦN BIẾT: 1) THỂ; 2) DANH THỂ CÓ BA THỨ LÀ HẠNG NHỊ THỪA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, CÕI CỰC LẠC KHÔNG CÓ BA LỖI NÀY. DANH CŨNG LÌA HẾT NHỮNG LỜI CHÊ BAI NÊN KHÔNG NGHE TÊN NHỊ THỪA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU. ÐÓ LÀ HIỂN THỂ BÌNH ÐẲNG MỘT TƯỚNG VẬY.
 
16) Văn nghĩa trong đây đã giải rõ ở trước, nhưng chúng ta cần chú ý đến 2 điểm:
a) Quả báo của cõi Tịnh Ðộ không có các tướng nhị thừa, người nữ, căn thiếu chứ không phải nói các bậc này không được gây nhơn Tịnh Ðộ. Như nàng Long Nữ ở hội Pháp Hoa biến thành thân nam tử làm Phật ở nước Vô Cấu, vì Phật có 32 tướng mà trượng phu tướng là một, vì thế Phật không thể có 31 tướng được.
b) Thân tướng cõi Cực Lạc đều bình đẳng, dù phàm phu sanh ở hạ phẩm hạ sanh, người đã sanh về Cực Lạc, thân tướng đều bình đẳng đồng với Ðại Thừa Bồ Tát thân tướng.
Hiện tại, những bức họa Tây phương Cực Lạc, ta thấy có các tướng nam, nữ, nhị thừa, già, trẻ, đó chỉ là đối chiếu với cõi này làm cho mọi người thấy cũng có tướng nam, nữ, già trẻ như cõi mình mà phát nguyện vãng sanh, đây cũng chỉ là phương tiện hoằng pháp, kỳ thực khi sanh về Tịnh Ðộ rồi là lìa hẳn ngã tướng hiện tại, tất cả đều được 32 tướng của Bồ Tát.
 
LUẬN VĂN: TẤT CẢ SỞ CẦU CÔNG ÐỨC ÐẦY ÐỦ THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, TẤT CẢ ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ".
 
17) Chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc, do năng lực đại nguyện của đức Phật A Di Ðà, vì thế, có ai muốn được vui, sẽ thành tựu đầy đủ. Không những chỉ muốn thành tựu những sinh hoạt đầy đủ, mà người muốn đầy đủ tứ hoằng thệ nguyện như: “Chúng sanh khốn cùng thệ nguyện độ, phiền não không hết thệ nguyện dứt, pháp môn không lường thệ nguyện học, Phật đạo cao tột thệ nguyện thành” đều có thể thành tựu viên mãn.
 
LUẬN VĂN: ÐÃ LƯỢC NÓI 17 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ LÀ CHỈ BÀY TỰ THÂN NHƯ LAI CÓ NĂNG LỰC ÐẠI CÔNG ÐỨC, LỢI ÍCH HỮU TÌNH THÀNH TỰU VÀ LỢI ÍCH CHO CÔNG ÐỨC NGƯỜI KHÁC CŨNG THÀNH TỰU. CÕI PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM, CẢNH GIỚI MẦU NHIỆM ÐỆ NHẤT NGHĨA ÐỂ, 16 CÂU VÀ THÊM 1 CÂU, NÓI THEO THỨ LỚP CẦN NÊN BIẾT.
 
Trên đây nói 17 thứ công đức chỉ là nói lược, nếu kể rõ không thể nào kể hết. Ở trước nói 17 thứ công đức là nhằm vào 2 điểm công đức tự lợi và lợi tha. Pháp môn Tịnh Ðộ có thể làm cho tất cả chúng sanh được sanh về nước cõi ấy, gặp Phật nghe pháp, chứng vị Bất Thối, chứng Vô Thượng Ðạo hoàn thành công đức lợi tha chơn chánh. Nên nói Như Lai thị hiện tự thân sức đại công đức lợi ích thành tựu, tha công đức lợi ích thành tựu. Thế giới Cực Lac là hóa độ của Phật A Di Ðà, nhưng hoá độ là báo độ, báo độ là pháp tánh độ, pháp tánh độ là chơn như Phật tánh, nhất chơn pháp giới. Ðó là tướng diệu cảnh giới của đệ nhất nghĩa đế. Nên gọi trang nghiêm cõi Phật Vô Lượng Thọ kia là cảnh giới của Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Ba thân Phật, hai báo Y và Chánh vốn không thể phân chia, ba thân vốn một thân, ba độ tức là một độ, mà người sau vọng chấp phân biệt cho đó là có hóa Phật, chứ không phải báo thân Phật, báo và hóa độ không phải là pháp tánh độ. Họ không biết rằng hóa Phật y theo pháp của báo Phật mà khởi, pháp của báo Phật sẽ vì hóa Phật làm chỗ y cứ. 16 câu và một câu ý nói thứ 16 thứ đầu là riêng rẽ, thứ chót là tổng hợp vậy
 
LUẬN VĂN: LÀM THẾ NÀO LÀ QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU? QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU CÓ 8 THỨ: 1) TÒA TRANG NGHIÊM; 2) THÂN TRANG NGHIÊM; 3) KHẨU TRANG NGHIÊM; 4) TÂM TRANG NGHIÊM; 5) CHÚNG TRANG NGHIÊM; 6) THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM; 7) CHỦ TRANG NGHIÊM; 8) CHẲNG DỐI LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM.
 
Trước đã quán cõi Phật, tuy cũng có quán Phật và Bồ Tát nhưng chỉ quán sát tướng chung. Ở đây, riêng quán tướng công đức Phật có 8 thứ như sau.
 
LUẬN VĂN: SAO GỌI LÀ TÒA TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "ÐẠI BẢO VƯƠNG VÔ LƯỢNG, ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU".
 
Trước quán quốc độ cũng có quán Phật, ở đây quán Phật cũng có quán quốc độ. Tòa Phật A Di Ðà vốn dùng thế giới An-Lạc làm tòa như Phật Lô Xá Na dùng thiên hoa đài làm tòa, Thiên Hoa Ðài làm tòa tức là ngàn thế giới làm tòa. Tòa của Phật A Di Ðà dùng vô lượng đại bửu hoa vương của vi diệu thanh tịnh liên hoa đài làm tòa. Ðại bảo vương là lấy hoa lớn nhất để làm tòa.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ THÂN TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, SẮC TƯỢNG HƠN QUẦN SANH".
 
Tán Phật kệ rằng: thân Phật A Di Ðà sắc vàng, tướng tốt ánh sáng không ai sánh, lông trắng năm non xây chất ngất, mắt xanh bốn bể rộng chơi vơi. Ðó là nói thân Phật trang nghiêm. Phật A Di Ðà ánh sáng rộng vô lượng. Trong kệ nói ánh sáng một tầm vì chúng sanh trong cõi này thấy Thích Ca Thế Tôn ánh sáng rộng một tầm, do đó quán ánh sáng Phật A Di Ðà cũng lấy một tầm làm tiêu chuẩn, nên nói ánh sáng tướng hảo của Phật A Di Ðà một tầm.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ MIỆNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "TIẾNG NHƯ LAI VI DIỆU, PHẠM ÂM NGHE MƯỜI PHƯƠNG".
 
Lời nói có ra là do môi, lưỡi, răng và hơi hòa hợp mà thành, không phải đơn độc có miệng mà có thể thành lời. Ở đây chỉ nói về cách phát âm để giảng. Vì lời nói trang nghiêm nên làm cho miệng trang nghiêm. Lời nói của Phật A Di Ðà phát ra vi diệu như tiếng nói của trời Phạm Thiên, có năng lực làm cho mười phương được nghe.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ TÂM TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "ÐỒNG ÐẤT NƯỚC GIÓ LỬA, HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN BIỆT, KHÔNG PHÂN BIỆT ÐƯỢC NGƯỜI, KHÔNG CÓ TÂM PHÂN BIỆT".
 
Phật Tâm là Tâm Ý của Phật. Các ý của Phật ở nơi ngũ đại: đất, nước, gió, lửa, không. Không có phân biệt: như đất đai không phân biệt người tốt xấu đi trên đất, đất vẫn không khởi phân biệt. Lửa không phân biệt; lửa có thể đốt tất cả vật, cỏ khô, cây chiên đàn khi đốt không có phân biệt; cho đến hư không dung nạp tất cả cũng không khởi phân biệt. Tâm ý của Phật lại cũng như thế. Do tâm Phật bình đẳng, khắp độ tất cả chúng sanh không phân biệt nghèo hèn sang, có căn lành hay không có căn lành, tất cả đều được vãng sanh về Tịnh Ðộ, tiến đến quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ CHÚNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "NGƯỜI TRỜI CHÚNG BẤT ÐỘNG, SANH BỂ TRÍ THANH TỊNH".
 
Bình thường giảng ba nghiệp, người có phúc nghiệp sanh về cõi trời, cõi người, người không có phúc nghiệp sanh về ba ác đạo, người có bất động nghiệp sanh về Sắc Cứu Cánh Thiên. Các chúng nhơn thiên ở cõi Cực Lạc, căn bản đều do sức công đức và biển trí tuệ của Phật A Di Ðà mà được vãng sanh, như các nhà từ thiện lo lập cô nhi viện, các cô nhi tự mình có thể vào, nhưng căn bản là do tấm lòng từ bi của các nhà từ thiện, trước đã thiết lập cô nhi viện rồi, những cô nhi mới có chỗ vào. Chúng sanh được vãng sanh lại cũng như thế, nếu không có sức trí tuệ bổn nguyện của Phật A Di Ðà thành lập Tây Phương Tịnh Ðộ, chúng sanh tuy muốn vãng sanh cũng không có chỗ đến.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "NHƯ VUA NÚI TU DI, THẮNG DIỆU CHẲNG AI HƠN".
 
Trong đây thượng thủ trang nghiêm là chỉ các bậc đại Bồ Tát Ðại Thừa Bất Thối Chuyển, công hạnh của các Ngài cao vọi như vua núi Tu Di không có núi nào cao hơn. Ðại Bồ Tát cũng thế, các Ngài là vua trong chúng không có ai hơn.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ CHỦ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG TRƯỢNG PHU TRỜI NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH CHIÊM NGƯỠNG".
 
Trước đây từ chủ chỉ chúng, từ chúng nêu lên thượng thủ. Ðây lại từ thượng thủ chỉ chủ tức là lấy chủ hiển bạn, lấy bạn hiển chủ, cùng nhau chỉ rõ nghĩa chủ và bạn. Vì thế nói người trời, chúng trượng phu, cung kính vây quanh chiêm ngưỡng chủ. Ðó là công đức của chủ cao vọi không nói ai cũng biết rõ.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO KHÔNG DỐI LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "QUÁN BỔN NGUYỆN LỰC PHẬT, AI CŨNG ÐỀU LỢI ÍCH, LÀM CHO MAU ÐẦY ÐỦ, CÔNG ÐỨC BIỂN BÁU LỚN" TỨC LÀ BỒ TÁT GẶP PHẬT A DI ÐÀ, TUY CHƯA CHỨNG THANH TỊNH TÂM, RỐT RÁO CŨNG ÐƯỢC PHÁP THÂN BÌNH ÐẲNG, CÙNG VỚI BỒ TÁT THANH TỊNH TÂM KHÔNG NHÁC, BỒ TÁT TỊNH TÂM CÙNG BỒ TÁT Ở TRÊN THƯỢNG ÐỊA, CỨU KÍNH ÐỒNG ÐƯỢC TỊCH DIỆT BÌNH ÐẲNG.
 
Trong cõi Cực Lạc do năng lực và bổn nguyện của Phật A Di Ðà, nên người vãng sanh đều có đủ năng lực của Ðại Thừa Bồ Tát bất thối chuyển và sau đó có thể thị hiện mười phương, phổ độ chúng sanh, coi việc độ sanh như nhiệm vụ chính phải gánh vác, như người Viện Trưởng cô nhi viện cần phải dạy cô nhi đủ đức dục, thể dục, trí dục, sau đó mới cho vào đời, phục vụ xã hội, không chỉ làm người dân lương thiện mà phải làm người có tài hữu dụng cho quốc gia. Phật A Di Ðà kiến lập Tịnh Ðộ lại cũng như thế. Phàm người sanh về nước Cực Lạc, tùy theo nhơn tu có cạn sâu, thành Phật có mau có chậm khác nhau, nhưng rốt ráo đều được thành Phật, vì cõi Cực Lạc có hoàn cảnh rất tốt, làm cho tâm Bồ Ðề chúng sanh mỗi ngày mỗi tăng, phiền não mỗi ngày mỗi ít, lại không thối thất, chắc chắn đến quả Phật, đây là lẽ thực chứ không phải nói suông.
Tịnh tâm Bồ Tát có chỗ giảng là từ Bát Ðịa trở lên, thông thường giảng Tịnh Tâm Bồ Tát là chỉ Sơ Ðịa Bồ Tát, vì Bồ Tát Sơ Ðịa có trí huệ vô lậu tương ưng. Phàm phu, nhị thừa chưa chứng được tịnh tâm vì chưa chứng được Sơ Ðịa. Tuy không phải là Sơ Ðịa Bồ Tát nhưng họ có thể là Ðăng Ðịa Bồ Tát, tương lai chắc chắn đồng chứng được pháp thân bình đẳng không khác. Tuy là Bồ Tát Sơ Ðịa song có thể cùng Thượng Ðịa Bồ Tát đồng chứng được tịch diệt bình đẳng. Tịch diệt tướng là thật tướng của các pháp, là pháp tánh thanh tịnh bình đẳng chỉ có Phật với Phật mới được rốt ráo. Có người cho rằng người niệm Phật sanh về Tịnh Ðộ liền được thành Phật. Cần nên biết rằng: sanh về Cực Lạc thế giới chưa chứng ngay quả Phật hoặc đại Bồ Tát mà phải có thời gian tu tập. Có hạng phàm phu, nhị thừa chưa chứng tịnh tâm, cũng có người đã chứng tịnh tâm của Sơ Ðịa Bồ Tát, nhưng tất cả đều chắc được lợi ích không thối chuyển đến khi thành Phật.
Lược nói 8 câu chỉ bày 8 công đức là chỉ bày công đức trang nghiêm tự lợi và lợi tha của Như Lai theo thứ lớp thành tựu nên biết.
 
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC THÀNH TỰU? QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC THÀNH TỰU LÀ QUÁN BỒ TÁT KIA CÓ BỐN THỨ CÔNG ÐỨC TU HÀNH CHÍNH ÐƯỢC THÀNH TỰU CẦN NÊN BIẾT.
 
Trước đã quán cõi Phật và công đức Phật, lại nói làm thế nào mà quán công đức của Bồ Tát ở thế giới kia là tổng quát quán bốn thứ chánh tu của Bồ Tát mà thành tựu. Phật là quả, Bồ Tát là nhơn, Bồ Tát ở trong nhơn tu hai lối là tự lợi và lợi tha. Vì Bồ Tát có bốn thứ Chánh Tu nên khác với ngoại đạo là tà tu.
 
LUẬN VĂN: BỐN MÓN CHÍNH TU LÀ GÌ? 1) Ở TRONG MỘT CÕI PHẬT THÂN CHẲNG LAY ÐỘNG MÀ CÓ CÁC THỨ THÂN VÀ HÓA THÂN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG, ÐÚNG PHÁP TU HÀNH THƯỜNG LÀM CÁC PHÁP SỰ NHƯ KỆ NÓI: "NƯỚC AN LẠC THANH TỊNH, THƯỜNG CHUYỂN XE VÔ CẤU, ẢNH HÓA PHẬT BỒ TÁT, TRỤ TRÌ NHƯ TU DI, MỞ ÐƯỜNG CHO CHÚNG SANH, NHƯ HOA SEN TỪ BÙN NHƠ".
 
Bồ Tát trong nước Cực Lạc có thể thành tựu ở trong một cõi Phật, thân không qua lại làm ứng hóa khắp mười phương, có công đức thù thắng phổ độ khắp chúng sanh. Bồ Tát nếu lìa thế giới này qua các thế giới mười phương kia để ứng hóa thì không thù thắng, nếu ở thế giới này mà không ứng hóa trong thế giới Cực Lạc, có thể không rời Cực Lạc mà ứng hóa mười phương phổ độ chúng sanh đó là điều thù thắng. Như người thật tu hành thường làm các Phật sự là như Phật Bồ Tát làm các công đức thành tựu, thường qua lại trong mười phương, lấy việc giáo hóa chúng sanh làm sự nghiệp, Bồ Tát thường chuyển bánh xe pháp làm chúng sanh lìa tất cả phiền não cấu, tuy có hiện Phật thân, hiện Bồ Tát thân an trụ chẳng động. Nên kệ nói: "Thường chuyển xe vô cấu, ảnh hóa Phật, Bồ Tát, trụ trì như Tu Di, mở đường cho chúng sanh, như hoa sen ở trong bùn không có ánh sáng tới, hoa sen không thể nở. Chúng sanh cũng thế, tuy có chủng tử lành, nhưng không có Bồ Tát ứng hóa để độ cũng không thành tựu."HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.22/8/2013.THICH NU CHAN TANH.GIAC TAM.

No comments:

Post a Comment