LỜI NÓI ĐẦU
Tại núi Linh Thứu (gần thành Vương Xá), trước khi khởi sự chuyến du hành bố giáo
lần cuối cùng hướng về phương Bắc (rừng Câu-thi-na – nơi sẽ nhập Niết-bàn), đức
Thế Tôn có dạy chư tăng về Bảy Phép
Bất Thối, và Ngài kết luận: “Này
các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn
thực hành được bảy điều ấy, gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng
thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái.” Sau đó, tại rừng Đại Lâm (gần thành Tì-xá-li), Ngài lại dạy: “Các vị khất sĩ! Những gì
mà Như Lai đã thực chứng và đã truyền lại
cho quí vị, quí vị hãy thận trọng và khéo léo mà học hỏi, giữ gìn, tu tập, chứng
nghiệm, và truyền đạt lại cho những thế hệ tương lai. Nếp sống phạm hạnh
cần được nối tiếp vì an lạc và hạnh phúc
của mọi người và mọi loài.” Rồi tại rừng Câu-thi-na, trong những phút cuối cùng của cuộc đời
hóa đạo, Ngài cũng còn ân cần nhắc nhở cho vị đệ tử cuối cùng là Tu-bạt-đà-la:
“Subhadda!
Ở đâu, trong đoàn thể nào mà có sự thực
hành Bát Chánh Đạo là ở đó có người đạt
đạo.”
Qua các lời dạy trên, chúng ta thấy rõ đức
Thế Tôn đã rất quan tâm đến sự tu học, thực chứng, và thực hành giáo pháp. Chánh
pháp phải được tu tập, thực chứng, thể hiện, và truyền đạt thì mới trường cửu ở
thế gian. Pháp bảo không phải là những bộ Đại Tạng nằm im lìm trong các tủ kinh
sách, mà chính là “nếp sống như pháp” nơi các đoàn thể tu học và nơi mỗi cá nhân
của tăng đoàn và Phật tử. Bởi vậy, sự học hỏi, thực hành và truyền bá Phật pháp
là việc vô cùng quan trọng của người tu học.
Chúng ta thường nghe nói, giáo pháp của
Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất cứ người có căn cơ, trình độ cao thấp
ra sao cũng đều có pháp môn thích hợp để tu học. Lời nói ấy chỉ có nghĩa, giáo
pháp của Phật luôn luôn là phương tiện hướng dẫn người tu học đạt đến thành quả
cuối cùng là giác ngộ và giải thoát; chúng ta đừng hiểu lầm mà cho rằng, giáo
pháp của Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn sai khác nhau, tách biệt nhau, độc
lập với nhau. Sự thật thì Phật pháp là giáo pháp viên dung, bất cứ một pháp môn
nào cũng hàm chứa trong nó những pháp môn khác; một pháp môn có mặt trong tất cả
pháp môn, tất cả pháp môn có mặt trong một pháp môn. Vì vậy, khi “chọn lựa” một
pháp môn để tu học thì không có nghĩa là chúng ta chỉ ôm giữ, miệt mài, “chết
sống” với pháp môn đó thôi; mà chúng ta phải thấy rằng, trong lúc thực hành một
pháp môn thì đồng thời chúng ta cũng đang thực hành nhiều pháp môn liên hệ khác.
Bởi thế mà trong biển Phật pháp, có những pháp môn được gọi là “PHÁP SỐ”, tức là tập hợp một số lượng
pháp môn chi tiết có tính chất liên hệ mật thiết với nhau để làm thành một pháp
môn tổng quát hơn, mục đích là giúp cho sự tu tập được nhất quán, toàn vẹn. Ví
dụ: Hành động đầu tiên để trở thành một Phật tử là chúng ta phải phát nguyện quay về và nương tựa (qui y). Khi phát
nguyện như vậy, chúng ta không thể nói: “Tôi chỉ qui y Phật và Pháp mà thôi, chứ
không muốn qui y Tăng!”; mà phải nói: “Tôi phát nguyện qui y Tam Bảo.” Đã phát
nguyện quay về nương tựa thì phải quay về nương tựa với đầy đủ Ba Ngôi Báu, tại
vì theo đạo lí viên dung, trong Phật đã bao gồm có Pháp và Tăng, trong Pháp đã
hàm chứa Phật và Tăng, và trong Tăng cũng đã hiện hữu Phật và Pháp; không thể
nào có Phật nếu không có Pháp và Tăng, cũng như không thể nào có Phật và Pháp
nếu không có Tăng... Như vậy, Ba Ngôi Báu
(Tam Bảo) là một pháp
số.
Các pháp môn có tên bắt đầu bằng các con số
như một (1), hai (2), ba (3), mười
(10), v.v... đều gọi là pháp số
(cũng gọi là “danh số”). Trong ba
tạng kinh điển, những pháp số như vậy
rất nhiều. Các pháp số chúng tôi
trình bày trong sách này là các pháp môn có tính cách căn bản, không những chúng
xuất hiện bàng bạc trong cùng khắp kinh luận mà còn là những pháp môn nền tảng cho công phu
tu tập, là những viên gạch rắn chắc cho con đường an lạc và giải thoát.
Cho nên, chúng tôi sẽ trình bày các pháp số đó trong ý hướng tu học mà không
phải là một “từ điển” về pháp số. Với những pháp số này, trong ý hướng tu học,
chúng ta có thể khảo cứu, học hỏi, thực hành và trao đổi; lấy ánh sáng của pháp
môn soi rọi cho đời sống hằng ngày, rồi lại đem những kinh nghiệm của cuộc sống
phản chiếu làm cho pháp môn càng thêm sáng tỏ. Đó cũng là cách thực hành lời dạy
bảo ân cần của đức Thế Tôn trước khi Ngài nhập
Niết-bàn.
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp
ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc
cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là
không thể nào tránh khỏi được.
Thành phố Edmonton, Gia-nã-đại,đầu Hạ năm Ất-Hợi, PL. 2539 (1995)Hạnh Cơ
SỐ 1
MỘT
A-TĂNG-KÌ (nhất
a-tăng-kì)
Theo toán số Ấn Độ xưa, “a-tăng-kì” có nghĩa là vô lượng số, là con số vô cùng lớn, không thể nào tính đếm
được. Nếu cho nó có một con số, thì con số đó là: 1
a-tăng-kì = 1.000 vạn vạn vạn vạn
vạn vạn vạn vạn triệu (mà “1
triệu” ở đây bằng 1.000.000.000.000).
MỘT CHỮ KHÔNG NÓI (nhất tự bất thuyết)
Câu trên có ý nói, đạo lí mà chư Phật tự chứng, không thể dùng ngôn ngữ
văn tự để diễn đạt, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ trọn vẹn, triệt để. Cũng
giống như dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, ngón tay ấy chẳng phải là mặt trăng;
tất cả ngôn ngữ văn tự cũng không sánh được với nội dung chứng ngộ của chư Phật.
Đó là lí do mà Thiền tông chủ trương “không lập văn tự” (bất lập văn tự).
MỘT CON ĐƯỜNG - MỘT CỖ XE (nhất thừa - Phật thừa - nhất Phật
thừa)
“Con đường” (hay “cỗ xe”) là chỉ cho
giáo pháp (vì giáo pháp có năng lực đưa con người từ cõi vô minh đến nơi giác
ngộ, cho nên lấy hình ảnh chiếc xe
hay con đường làm ví dụ); “một” là chỉ có một chứ không có hai, ba, bốn,
v.v... – tức là duy nhất. Vậy, “một cỗ
xe” là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn của chư
Phật.
Kinh Pháp hoa (phẩm “Phương tiện”) nói: “Chư Phật chỉ dùng một con
đường (nhất thừa) để hóa độ chúng sinh, chứ
không có con đường (thừa) nào khác,
dù là hai hay ba...”; hoặc: “Thật ra chỉ có một con đường duy nhất
(nhất Phật thừa), nhưng chư Phật tùy căn cơ mà dùng phương tiện, dạy có ba
con đường (tam
thừa).”
Các kinh luận thường dùng thuật ngữ này –
nhất thừa – để chỉ cho giáo pháp đại
thừa. (Xin xem thêm các mục “Hai Con
Đường” và “Ba Con Đường” ở sau.)
MỘT
DO-TUẦN (nhất
Do-tuần)
“Do-tuần” là tiếng dịch âm từ Phạn ngữ “yojana”, dịch ý là hạn lượng, hòa hợp,
một lộ trình; là đơn vị đo chiều dài lộ trình của người Ấn Độ. Lại nữa, do từ
ngữ căn “yuj”, chữ yojana (Do-tuần) cũng có nghĩa là “mang
ách”, tức chỉ cho chiều dài của đoạn đường mà con bò mang cái ách đi trong một
ngày. Sách Đại Đường Tây Vực kí (do
Phật quang đại từ điển trích dẫn) thì
nói rằng, “Do-tuần” là chỉ cho lộ
trình một ngày hành quân của vua chúa. Về cách tính toán, có nhiều thuyết không
giống nhau, theo đó, một Do-tuần có thể là 12 dặm, 16
dặm, 17 dặm, 30 dặm, 32 dặm, 42 dặm, 46 dặm; hoặc 7.3 km, 8.5 km, 14.6 km, 17 km, 19.5 km, 22.8 km, v.v...; nhưng con số thường
dùng là: một Do-tuần = 13.5 km.
MỘT ĐẠI KIẾP (nhất đại
kiếp)
Một đại kiếp là một thời kì của thế giới từ khi bắt đầu hình thành đến lúc hoại
diệt, gồm bốn giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Không, tổng cộng là 80 trung kiếp.
(Xin xem mục “Một Trung Kiếp” ở
sau.)
MỘT ĐẠI SỰ NHÂN DUYÊN (nhất đại
sự nhân duyên)
Chữ “đại” ở đây chỉ cho thật tướng của vũ
trụ nhân sinh; chữ “sự” chỉ
cho công cuộc giáo hóa độ sinh của đức
Phật; chúng sinh vốn có thật tướng đó mới có cơ cảm với đức Phật, gọi là “nhân”; đức Phật đã chứng nhập cái thật
tướng đó cho nên có thể ứng theo cơ cảm của chúng sinh mà cứu độ, gọi là “duyên”. Chư Phật xuất hiện ở thế gian
chỉ có một mục đích là chỉ bày cái
thật tướng mà chúng sinh vốn có, và giáo
hóa cho chúng sinh cũng chứng
đắc cái thật tướng đó như đức Phật (kinh Pháp hoa gọi là “ngộ nhập Phật tri
kiến”). Bởi vậy kinh nói: “Như Lai chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất
MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT (nhất sinh bổ
xứ)
Từ “nhất sinh bổ xứ” được dịch từ tiếng
Phạn “eka-jāti-pratibaddha”, nguyên có nghĩa là kiếp luân hồi cuối cùng, tức là hết đời
này rồi, đời sau nhất định sẽ thành Phật tại thế gian. Trong ý nghĩa đó, từ này
được dùng để chỉ cho bậc Đẳng giác Bồ-tát, là địa vị cao nhất của hàng Bồ-tát.
Trong kinh điển có nói, đức Bồ-tát Di-lặc là vị “Bồ-tát nhất sinh bổ xứ”, hiện
cư trú tại cõi trời Đâu-suất, đến lúc thọ mạng ở đó hết, Ngài sẽ hạ sinh ở nhân
gian, và thành Phật để kế tục đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
MỘT HẠT BỤI NHỎ (nhất vi
trần)
Kinh luận thường dùng từ “một hạt bụi nhỏ” (nhất vi trần), hoặc nói ngắn ngọn là
“một hạt bụi” (nhất trần), để chỉ cho đơn vị vật chất
nhỏ nhất.
MỘT LÀ TẤT CẢ, TẤT CẢ LÀ MỘT (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức
nhất)
Có thể nói, đây là mệnh đề tóm tắt toàn bộ
yếu nghĩa kinh Hoa
nghiêm. Yếu nghĩa ấy nói về sự tương quan tương duyên chằng chịt của tất
cả mọi sự vật trong vũ trụ: Sự vật này
tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có mặt trong tất
cả mọi sự vật, tất cả
mọi sự vật có mặt trong một sự
vật; một sự vật tức là tất cả các sự vật, tất cả các sự vật tức là một
sự vật.
Nguyên lí duyên khởi cho ta thấy rằng, một sự vật
không thể tự nó có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp
lại cấu thành. Một cuốn sách chẳng hạn, không phải tự nó hiện ra, nhưng đã do
tất cả những cái “không phải là sách” (như giấy, mực, máy in, nhân công, những
vật liệu làm ra giấy, làm ra mực, làm ra máy in, rồi những thứ đã nuôi sống thợ
làm giấy, thợ làm mực,
thợ in v.v..., nhiều lắm, cùng khắp vũ trụ,
không kể hết được!) hợp lại làm thành. Bởi vậy, giữa cuốn sách và chiếc máy in
không có gì ngăn cách; trong cuốn sách có mặt tất cả các thứ giấy, mực, máy in
v.v..., và đồng thời cuốn sách cũng có mặt trong tất cả các thứ kia. Hành giả
khi đã đạt được cái thấy này thì tâm ý tức
khắc được giải thoát khỏi những
ràng buộc, những hạn chế của ngã chấp và pháp chấp, chấm dứt khổ
đau.
Kinh Hoa nghiêm (phẩm “Công đức của người mới
phát tâm Bồ-đề”) nói: “Cái thấy của vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề rộng lớn thật không
có giới hạn: không có gì khác nhau giữa thế giới thô lậu và thế giới vi diệu, vì
thô lậu tức là vi diệu; không có gì khác nhau giữa thế giới nhỏ và thế giới lớn,
vì nhỏ tức là lớn; không có gì khác nhau giữa một thế giới và vô lượng thế giới,
vì một tức là vô lượng; không có gì khác nhau giữa thế giới dơ và thế giới sạch,
vì dơ tức là sạch; một thế giới nằm trong vô lượng thế giới, vô lượng thế giới
nằm trong một thế giới; ...”
MỘT LÒNG (nhất tâm)
Chuyên chú vào một đối tượng, không khởi vọng niệm, gọi là “một lòng” (nhất tâm). Do đó, chuyên tâm nghĩ nhớ
đến Phật, gọi là “một lòng chuyên niệm”
(nhất tâm chuyên niệm). Tông
Tịnh độ đặc biệt chú trọng việc chấp trì danh hiệu của đức Phật A-di-đà, và theo
Kinh A-di-đà, người nào chuyên tâm
trì niệm danh hiệu “A-di-đà Phật” cho
đến chỗ “một lòng không tán loạn” (nhất tâm bất loạn) thì liền được vãng
sinh về thế giới Cực lạc. Để hiểu cho tỏ tường, đầy đủ từ “một lòng” này, kinh Vô lượng thọ nói: “Nhất tâm bao gồm đầy đủ cả ba tâm, là tâm
chí thành, tâm tin sâu và tâm phát nguyện hồi hướng vãng sinh về nước Cực lạc.”
(Xin xem mục “Một Lòng Không Tán
Loạn” ở sau.)
MỘT LÒNG KHÔNG TÁN LOẠN (nhất tâm
bất loạn)
Đây là trạng thái tâm lí khi tâm chuyên chú
vào một đối tượng, không dao động, không tán loạn. Từ này được đặc biệt dùng
trong pháp môn tu Tịnh độ. Khi hành giả đem lòng tin sâu sắc, chí thành trì niệm
danh hiệu A-di-đà Phật, khiến cho tâm
không bị tán loạn; lúc đó ngã thể riêng biệt không còn nữa, mà đã hòa hợp làm
một với câu danh hiệu Phật, gọi là “nhất tâm bất loạn”.
(Xin xem mục “một lòng” ở
trên.)
MỘT
NA-DO-THA (nhất
na-do-tha)
Trong kinh điển Phật giáo thường dùng
chữ “na-do-tha” làm đơn vị số lượng.
Thông thường, một na-do-tha là 1.000 ức.
Nếu tính theo số nhỏ thì 1 ức là 100.000;
nếu tính theo số lớn thì 1 ức là 100.000.000. Vậy, 1.000 ức = 100.000.000, hoặc 100.000.000.000.
Có nhiều thuyết nói khác nhau về con số này, không có một con số chính xác thống
nhất, cho nên, theo ý kinh, thường chỉ nên hiểu “một na-do-tha” nghĩa là rất
nhiều mà thôi.
MỘT NIỆM (nhất
niệm)
Từ “một niệm” được dùng để chỉ cho đơn
vị thời gian rất ngắn. Kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã nói: 90
sát-na là một niệm, trong một sát-na có 900 lần sinh diệt. “Một niệm” cũng có nghĩa là cái khoảng
thời gian khởi lên một ý niệm.
MỘT NIỆM BA NGÀN (nhất niệm tam
thiên)
Trong Phật học, thuật ngữ “một niệm” (nhất niệm) thường được dùng để chỉ một
ý tưởng, một sát-na, một khoảnh khắc, tức là cái khoảng thời gian ngắn
nhất. “Ba ngàn” ở đây tức là ba ngàn thế
giới.
“Một niệm ba ngàn” – nếu nói cho đầy đủ là
“trong một niệm có đủ cả ba ngàn thế giới” – là một mệnh đề khai triển từ mệnh
đề “Một là tất cả, tất cả là một” ở trên. Đó là một trong những điểm đặc sắc của giáo lí tông Thiên thai (Trung Hoa). Vị
tổ của tông này, đại sư Trí Giả (tức Trí Khải), trong bộ luận Ma-ha chỉ quán, đã chia ra có 10 loại thế giới trong vũ
trụ:
1. Địa ngục: thế giới của đau khổ vô
cùng.
2. Ngạ quỉ: thế giới của đói khát và bẩn
thỉu cùng cực.
3. Súc sinh: thế giới của loài vật, của ngu si tăm tối.
4. A-tu-la: thế giới của hận thù, cuồng
bạo, chém giết.
5. Người: thế giới của loài người, hạnh
phúc và đau khổ đều có mặt.
6. Trời: thế giới của an vui, phước đức
cao hơn loài người.
7. Thanh văn: thế giới giải thoát
do kết quả của công phu tu học theo đức
Phật mà được giác ngộ.
8. Duyên giác: thế giới giải thoát
do kết quả của công phu tự mình quán chiếu thực tại mà được giác
ngộ, đó là một đức Phật nhưng không giảng dạy cho kẻ
khác.
9. Bồ-tát: thế giới của những vị luôn luôn
đem tình thương yêu, trí hiểu biết, lòng cởi mở và chí dũng mãnh để phục vụ và
giúp ích cho mọi loài, và tinh tiến tu tập mãi cho đến ngày thành Phật.
Nói cách khác, đó là những vị Phật tương
lai.
10. Phật: thế giới của các bậc giác ngộ và
giải thoát hoàn toàn.
Giáo lí tông Thiên thai nói rằng, mười
thế giới ấy tương dung tương nhiếp
lẫn nhau, mỗi thế giới đều mang trong nó cả
9 thế giới kia. Trong thế giới Người chẳng hạn, cũng có sự hiện hữu của các thế
giới Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sinh, A-tu-la, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát
và Phật. Như vậy, trong vũ trụ không phải chỉ có 10 thế giới riêng lẻ, biệt lập
nhau, mà có đến (10 x 10) 100 thế
giới tương quan tương duyên với nhau. Sự hiện hữu của một thế giới bao
hàm sự hiện hữu của cả một trăm thế
giới.
Lại nữa, tất cả 100 thế giới
này đều có cùng chung 10 tính chất. Đó là 10 điều kiện tồn tại của các
thế giới mà giáo lí tông Thiên thai gọi là 10 “như”(1), gồm có: 1) tướng (hình
dáng bên ngoài); 2) tánh (cá tính bên trong); 3) thể (yếu tố hình thành); 4) lực (năng lực nội tại); 5) tác (tác dụng do năng lực mà
có); 6) nhân (nguyên nhân để đưa đến kết quả);
7) duyên (điều kiện giúp cho nhân
kết thành quả); 8) quả (kết quả có từ nguyên nhân); 9) báo (quả báo nối tiếp do nhân, duyên và
quả ở trên đem lại); 10) bổn mạt cứu cánh (từ điều kiện 1 cho đến điều kiện 9,
hoàn toàn đều là “như” – tức là tất cả đều là không, vì
chính không là bản thể của vạn hữu). Mỗi thế giới đều có 10 “như”; vậy 100 thế
giới có (100 x 10) 1.000 “như” – cũng tức là 1.000 thế giới tương quan tương duyên với
nhau.
Lại nữa, ở mỗi thế giới ấy đều có đầy đủ 3
hiện tượng của thế gian là quốc độ,
chúng sinh và ngũ ấm. Vậy, trong vũ trụ
không những chỉ có 10, 100, hay 1.000 thế giới, mà có đến (1.000 x 3) 3.000 thế giới tương quan tương duyên với
nhau.
Cả 3.000 thế giới ấy không ra ngoài
một niệm, cho nên gọi là “một niệm ba ngàn”; cũng như kinh Hoa nghiêm
nói, một niệm không những bao quát cả quá
khứ, hiện tại, vị lai, mà còn bao gồm cả không gian và vật thể. Hay nói cách
khác, bất cứ một niệm nào của tâm cũng bao hàm cả vũ trụ vạn
hữu.
(1)
Chữ “như” có nghĩa là thể tính bình
đẳng, không phân biệt, không có hai, là thật tướng
của vạn pháp. Kinh Pháp hoa nói:
“Những gì Phật đã thành tựu đều là pháp tối thượng, hiếm có, khó hiểu. Chỉ có
chư Phật mới thấu suốt được thật tướng của tất cả các pháp, tức là tất cả các
pháp đều có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, nhân như vậy, lực như vậy,
tác như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, bổn mạt cứu cánh như
vậy.”
MỘT NIỆM KHÔNG SINH (nhất niệm bất
sinh)
Đó là cảnh giới hoàn toàn không có một ý
niệm gì phát khởi, là cảnh giới vượt khỏi mọi khái niệm, tức cảnh
giới Phật.
MỘT PHÁP GIỚI (nhất pháp
giới)
Một pháp giới (nhất pháp giới) là chỉ cho lí thể chân như chỉ có một, không có hai, tuyệt đối bình
đẳng. Tông Thiên thai gọi đó là “thật
tướng các pháp”, và tông Hoa nghiêm thì gọi là “pháp giới nhất chân”. Chữ “giới” ở đây có nghĩa là chỗ y cứ, chỉ
cho chân như. Pháp y cứ nơi chân như mà sinh khởi, cho
nên gọi là “pháp giới”. Pháp đó tuyệt đối bình
đẳng, chân thật, chỉ có một, không hai, cho nên gọi là “một
pháp giới” (nhất pháp giới).
MỘT PHÁP TRUNG ĐẠO (nhất pháp
trung đạo)
Chữ “pháp” ở đây là chỉ cho
sự tồn tại, là vạn sự vạn vật. Chữ “trung
đạo” ở đây có nghĩa là không phải có cũng không phải không,
tức vượt trên ý niệm có không. “Một pháp
trung đạo” tức là luận về diệu lí trung đạo (không phải có cũng không phải
không) trên ngay một pháp, do tông Pháp tướng khởi xướng. Tông này cho tánh
biến kế sở chấp là vọng tình, cho nên nói là “không”; và cho tánh y tha khởi cùng
tánh viên thành thật(1) là giả có và thật có, cho nên nói là có (hữu). Ngay trong một pháp đã có
đầy đủ 3 tánh đó, bởi vậy, một pháp vừa là không phải có, vừa là không phải
không; đó tức là nghĩa lí trung đạo.
Bất cứ một sắc, một thanh, một hương v.v... nào cũng nằm trong nghĩa lí đó, cho
nên gọi là “một pháp trung
đạo”.
(1)
Về 3 tánh biến kế sở chấp, y tha khởi và viên thành thật, của vạn pháp, xin xem
mục “Ba Tự Tánh” ở sau.
MỘT PHẨM (nhất
phẩm)
Một phẩm tức là một chương kinh văn. “Phẩm” là một thuật ngữ Phật học, dùng
để phân chia thiên, chương trong kinh điển. Chữ “phẩm” cũng có nghĩa là một bậc, địa vị,
như nói “9 phẩm hoa sen” chẳng hạn.
MỘT SÁT-NA (nhất
sát-na)
Một sát-na là một khoảng thời gian rất
ngắn, tương đương với ngày nay là
1/6.480.000 của 24 giờ, hay 1/75 sao.
MỘT TÂM BA PHÉP QUÁN (nhất tâm
tam quán)
Đây cũng là một yếu nghĩa của
giáo lí tông Thiên thai. Đại sư Trí Giả đã
phối hợp giáo lí “ba phép
quán” (tam quán) trong kinh Anh lạc
với tư tưởng “không có ngăn cách giữa không và có”
(không hữu vô ngại) của Bồ-tát Long Thọ mà lập nên giáo nghĩa “một tâm ba phép quán”, là một trong những giáo lí nền tảng của tông Thiên thai. Ba
phép quán là:
1. Không: quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà có, cho
nên chúng không có bản chất chân thật, tất cả đều là
không.
2. Giả: quán niệm rằng tất cả mọi sự vật đều biến đổi luôn luôn (vô
thường), không có tính đồng nhất; tuy chúng có hiện hữu, nhưng sự hiện hữu của
chúng chỉ là giả tạm, không có gì tồn tại vĩnh
viễn.
3. Trung
đạo: quán niệm rằng tất cả mọi hiện tượng vừa là không mà cũng vừa
là giả, đồng thời, không phải là không mà cũng không phải là
giả.
Ba phép quán này, nếu quán niệm một cách có
thứ tự – trước hết là quán niệm về không, thứ đến là về giả, sau cùng là về
trung – thì gọi là "thứ
đệ tam quán”; nhưng đó không phải là chủ trương của tông Thiên thai. Đại
sư Trí Giả của tông Thiên thai đã phát triển ba phép quán trên đây đến chỗ viên
dung, không ngăn cách, không thứ tự trước sau, vượt tất cả khái niệm: trong một
phép quán gồm đủ cả ba phép quán, cho nên gọi là “nhất tâm tam quán” – hay cũng gọi là “viên
dung tam quán”, “bất thứ đệ tam quán”, “bất khả tư nghị tam
quán”.
Ba phép quán trên đây là ba chân lí của
tông Thiên thai: chân lí của Không, chân lí của Giả, và chân lí của Trung đạo.
Ba chân lí này không cách biệt nhau mà dung nhiếp nhau, ba trong một, một trong
ba. Mỗi một trong ba đều có giá trị toàn diện. Vậy, “một tâm ba phép quán” là
phép quán niệm như sau:
- Khi quán niệm về không, một cái đã là
không thì tất cả cũng đều là không; cả giả và trung cũng đều không (nhất không
nhất thiết không).
- Khi quán niệm về giả, một cái đã là giả
thì tất cả cũng đều là giả; cả không và trung cũng đều giả (nhất giả nhất thiết
giả).
- Khi quán niệm về trung, một cái đã là
trung thì tất cả cũng đều là trung; cả không và giả cũng đều trung (nhất trung nhất thiết
trung).
Cũng cần nói thêm, “trung” không có nghĩa là ở giữa
hai, mà là ở trên, vượt cả hai; cũng có thể nói nó là cả hai. “Trung” chính là
thực tướng, gồm có không tướng và giả tướng. Cả ba chân lí: không, giả và trung luôn luôn hợp nhất,
dung hòa và bao hàm lẫn nhau.
MỘT THẾ GIỚI (nhất thế
giới)
Chữ “thế” nghĩa là trôi chảy, ở đây là chỉ
cho thời gian. Chữ “giới” nghĩa là khu vực, phạm vi, ở đây
là chỉ cho không gian. Từ “thế giới” nguyên được dùng để chỉ cho
nơi cư trú của chúng sinh, là cái thế giới hữu vi trong ba cõi; nhưng trong kinh
điển đại thừa cũng dùng từ này để chỉ cho thế giới vô vi, tuyệt đối ngoài ba
cõi, như Kinh Hoa nghiêm có nói tới
“thế giới Liên hoa tạng”, kinh A-di-đà có nói tới “thế giới Cực lạc” v.v..., đều là cảnh
giới chân thường của chư Phật. Ở đây chỉ xin nói về “thế
giới hữu vi” mà thôi.
Người Ấn Độ thời cổ đại đã y cứ vào thuyết
“núi Tu-di” mà thành lập vũ trụ luận,
tức là lấy núi Tu-di làm trung tâm, bao quanh có 9 núi, 8 biển, 4 châu thiên hạ,
mặt trời và mặt trăng, hợp lại làm thành một đơn vị, gọi là “một
thế giới”. Hợp 1.000 thế giới làm thành “một tiểu thiên thế giới”. Hợp 1.000
tiểu thiên thế giới làm thành “một trung
thiên thế giới”. Hợp 1.000 trung thiên thế giới làm thành “một đại thiên thế giới”. Vậy, một đại
thiên thế giới gồm có (1.000 x 1.000 x 1.000 =) 1.000.000.000 thế giới; và trong
vũ trụ gồm có vô số cái “một đại thiên thế giới” như thế.
MỘT TIỂU KIẾP (nhất tiểu
kiếp)
Một tiểu kiếp là chỉ cho một đơn vị thời gian. Theo luận Đại Tì-bà-sa, khi mạng sống của con
người ở mức 10 tuổi, kể từ đó, mỗi 100 năm tăng lên 1 tuổi, tăng cho tới 84.000
tuổi là mức cùng cực; lại bắt đầu từ đó, mỗi 100 năm giảm xuống 1 tuổi, giảm cho
tới 10 tuổi là mức cùng cực. Cứ một lần tăng và một lần giảm của tuổi thọ con
người như thế, cộng lại được 16.800.000
năm, đó là thời gian của một tiểu kiếp.
MỘT TRẦN KHÔNG NHIỄM (nhất trần
bất nhiễm)
Chữ “trần” ở đây cũng được
gọi là “cảnh”, chỉ cho đối
tượng của căn (giác quan). Sáu căn (lục căn: nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý) có đối
tượng là sáu trần (lục trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp)(1). Thông thường người phàm phu, hễ căn tiếp xúc với trần (mắt thấy sắc
chẳng hạn) thì sinh niệm tham ái, bám víu, mà gây nên nhiều hành động xấu ác,
Phật giáo gọi đó là “bị cấu nhiễm” (nhiễm). Nếu người có căn trí, biết tu
tập, thì mắt thấy sắc mà tâm không sinh niệm tham ái, không bám víu, cho nên
không gây tội lỗi, Phật giáo nói, người này tuy căn vẫn tiếp xúc với trần mà tâm
thức vẫn thanh tịnh, không bị cấu
nhiễm (bất nhiễm). Đó là ý nghĩa
của câu nói “một trần không nhiễm” (nhất trần bất
nhiễm).
MỘT
TRUNG KIẾP (nhất trung
kiếp)
Cứ 20 tiểu kiếp thì gọi là một trung kiếp. (Xin xem mục “Một Tiểu Kiếp” ở trên.)
HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.TINH THAT KIM LIEN.( AUSTRALIA,SYDNEY ).12/8/2012.
No comments:
Post a Comment