THIỀN LÂM BẢO HUẤN
Dịch giả : HT. Thích Thanh
Kiểm
---o0o---
QUYỂN THỨ NHẤT[1]
Sa
môn Tịnh Thiện đất Đông Ngô[2] trùng tập.
Sa
môn Thích Thanh Kiểm dịch và chú thích.
1.- Minh
Giáo Tung[3] Hoà Thượng nói: “Tôn
chẳng gì bằng đạo, đẹp không gì đẹp bằng đức. Người có đạo đức tuy là kẻ thất
phu[4] cũng không phải là
cùng, kẻ không có đạo đức, tuy là đấng vương giả cũng không là thông. Bá Di,
Thúc Tề[5] xưa kia là người chết
đói, đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều mừng. Trụ, Kiệt[6], U, Lệ[7] xưa kia là đấng nhân
chủ, đời nay, nếu người ta lấy đó để so sánh thì mọi người đều giận. Thế nên,
người học giả chỉ lo phần đạo đức của mình không trọn vẹn, chứ đừng lo thế vị
không đến với mình”.
Đàm Tân Tập.
2.- Ngài Minh Giáo nói:
“Cái học của Thánh Hiền, cố nhiên chẳng phải một ngày mà đủ, ngày chẳng đủ thì
kế đêm, rồi chứa góp hàng tháng hàng năm tự nhiên sẽ thành tựu. Nên nói: “Học để
tu tập, hỏi để biện minh”[8]. Câu nói này có nghĩa
là, nếu học mà không biện vấn thì không do đâu mà phát minh. Đời nay ít có những
người học thường nêu ra câu hỏi để vấn biện với người như vậy không biết đem cái
gì để giúp ích cho tính địa[9], trở thành cái lợi
ích đổi mới mỗi ngày vậy ư !”
3. - Ngài Minh Giáo nói: “Thái
Sử Công[11] đọc sách Mạnh Tử tới
chỗ Lương Huệ Vương hỏi thầy Mạnh Tử[12], đem gì để lợi cho
nước tôi, bất giác để sách xuống mà thở dài. Than ôi! Lợi là cái mầm mống của
loạn, nên Phu Tử[13] ngài ít nói đến lợi,
để đề phòng cái gốc. Vì gốc là mầm mống phát sinh. Người tôn quý kẻ bần tiện,
đối với cái tệ hiếu lợi thì đều giống nhau. Ôi! Người ở chỗ công, nếu lấy lợi
không công bằng, thời làm rối loạn pháp luật, kẻ ở chỗ riêng, nếu lấy lợi bằng
cách lừa bịp, thời làm rối loạn sự việc. Sự việc rối loạn thời nhân sự bất bình,
pháp luật rối loạn thời nhân dân chẳng phục. Gây ra mối hoạ xung đột rồi cùng
nhau đấu tranh, chẳng đoái hoài đến cảnh chết chóc cũng vì thế mà phát sinh. Đó
chẳng phải cũng vì lợi mà trở thành cái mầm mống rối loạn đấy vậy ư? Như các bậc
thánh hiền xưa kia thì lại cảnh giới, bỏ cái lợi để dối trá lẫn nhau, làm tổn
thương đến phong tục, bại hoại đến thanh giáo không có giới hạn, lại còn công
nhiên noi theo con đường tranh danh đoạt lợi để đi, mà muốn phong tục tốt trong
thiên hạ không phai không mờ há lại được vậy ư!”
Đàm Tân Tập.
4.- Ngài Minh Giáo nói:
“Phàm con người làm điều ác, có điều ác hữu hình, có điều ác vô hình. Phần ác vô
hình là việc hại người, phần ác hữu hình là việc giết người. Cái ác giết người
thì nhỏ, cái ác hại người thì lớn. Sở dĩ trong tiệc yến ẩm có chất độc của loài
chim Chậm[14], trong chỗ cười đùa
có ẩn chứa các loài giáo mác, trong nhà sâu kín có loài hổ báo, trong ngõ hẻm
bên có rợ Nhung, Địch[15]. Nếu tự mình không
phải là Thánh hiền, không tận diệt khi nó hãy chưa manh nha, không phòng ngừa
bằng lễ, pháp[16], thời cái hại đó
không thể lường được”.
Tây Hồ Quảng Ký.
5.- Ngài Minh Giáo nói:
“Đại Giác Liên Hoà Thượng[17] khi ở chùa Dục
Vương. Nhân có hai ông Tăng tranh cãi nhau về phần thí lợi[18] vị chủ sự[19] không hay quyết đoán
được. Đại Giác Hoà Thượng liền gọi đến mắng rằng: “Trước ông Bao Công làm tài
phán[20] ở đất khai phong, có
người dân tự đến trình bày: “Có người đem số bạc 100 lạng gởi tôi rồi mất, nay
tôi đem số bạc đó trả lại cho người con của ông ta, nhưng người đó không chịu
nhận, vậy mong ông cho gọi người đó về để trả lại hộ”. Ông rất kinh dị, liền cho
gọi người con đó nói rõ sự việc, nhưng người đó cố từ và nói: “Ngày còn sinh
thời, cha tôi không hề có bạc riêng để gởi người khác”. Hai người cố nhường nhau
mãi, ông bất đắc dĩ phải đem số bạc cúng vào chùa, làm việc phúc thiện để truy
tiến cho người mất”. Ta mục kích thấy việc đó. Kìa như, trong chốn trần lao[21], cũng còn hay khinh
tài trọng nghĩa như vậy, huống hồ các người là đệ tử Phật lại chẳng biết liêm sĩ
hay sao? Hoà Thượng liền y pháp của Tùng lâm đuổi hai vị Tăng ra khỏi
chùa”.
Tây Hồ Quảng Ký.
6.- Đại Giác Liên Hoà
Thượng, lần đầu tiên du hành đến Lư Sơn[22], Viên Thông Nột
Thiền Sư[23] thoạt thấy, liền đem
đại khí[24] để kỳ vọng ở người.
Hoặc có kẻ nói: “Ngài căn cứ vào đâu mà biết?”. Nột Thiền sư đáp : Người ấy
trung chính[25] không nghiêng ngả,
động tĩnh tôn nghiêm, lại thêm vào đó phần đạo học, làm việc thẳng thắn, nói ít
mà lý chu. Phàm con người có tư bẩm như thế, ít có ai mà chẳng thành đại
khí”.
Cửư Phong Tập.
7.- Năm đầu niên hiệu
Hoằng Hựu thời vua Nhân Tôn[26] vua phái khiển sứ
giả đem chiếu thư[27], triệu Viên Thông
Nột Thiền sư trụ trì Hiếu Từ đại già lam[28]. Nột Thiền sư cáo
tật không trở dậy, phái Đại Giác Hoà Thượng tiếp nhận chiếu biểu. Có người nói:
“Thánh Thiên Tử sùng chuộng đạo đức, ơn gội khắp suối rừng, ngài tại sao lại cố
từ?”. Nột Thiền Sư đáp: “Ta lạm nhập vào hàng Tăng, sự thấy nghe chưa thông
suốt, may mắn được an phận ở dưới rừng, ăn rau uống nước lã, tuy là việc Phật Tổ
cũng còn chỗ chẳng làm được, huống hồ làm việc khác vậy ư”. Tiên triết có nói:
“Dưới chỗ đại danh[29] khó thể ở lâu được”.
Ta từ thuở bình sinh, thực hành kế tri túc, tự mình không bận vào đường danh
lợi. Nếu đã chán trong nơi tâm thì ngày nào mà chả đủ. Nên Đông Pha[30] thường nói: “Biết an
thời vinh hiển, biết đủ thời giàu sang”. Vậy nên lánh được danh thì toàn tiết,
trước và sau toàn thiện, đó là những điểm sở đắc ở Viên Thông vậy.
Hành Thực.
8.- Viên Thông Nột Hoà
Thượng nói: “Tính mệnh của người khoèo[31] nhờ vào gậy, mất gậy
thì ngã. Tính mệnh của kẻ qua đò nương vào thuyền, mất thuyền thì đắm. Phàm
người ở chốn tùng lâm, tự mình không duy trì lấy đạo đức ở nội tâm, lại nương
cậy vào quyền thế ở bên ngoài, nhất đán cái thế đó mất đi, đều không thể tránh
khỏi cái hoạ khuynh đảo[32]”.
Lư Sơn Dã Lục.
9.- Viên Thông Nột Thiền
sư nói “Ngày xưa Bách Trượng Đại Trí[33] Thiền sư kiến lập
tùng lâm, đặt ra qui củ[34] muốn cứu vãn cái tệ
bất chánh đời Tượng, Quí[35]. Nào ngờ đâu, người
học ở đời Tượng Quí, lại trộm qui củ để phá hoại tùng lâm của Bách Trượng. Người
đời thượng cổ, tuy nằm hang ở lỗ, nhưng ai nấy đều tự đặt mình trong luật lệ.
Người đại trí trở về sau, tuy thênh thang trong nhà cao cửa rộng, nhưng ai nấy
đều tự bỏ mất mẫu mực. Cho nên nói: “An nguy ở đức vậy[36], hưng vong ở số vậy.
Nếu nương vào đức thì hà tất phải dựng ra tùng lâm, nếu bằng vào số thời cần gì
phải dùng đến qui củ”.
Dã Lục.
10.- Viên Thông Nột Thiền sư bảo
Đại Giác rằng: “Bậc thánh xưa kia trị tâm ở lúc chưa manh nha, ngừa tình ở lúc
chưa rối loạn. Vì lẽ dự bị thời không có lo sợ. Sở dĩ làm cửa ải, điểm mõ canh[37] để ngừa bạo khách[38] mà cần phải dự bị.
Vậy nên, việc gì có dự bị trước khi thực hiện thời dễ, cẩu thả thời khó. Hiền
triết thời xưa kia, vì chung thân lo lắng[39] nên không có cái
hoạn nạn bất ngờ. Chính trực là nghĩa ấy vậy.
Cửu Phong Tập.
11.- Đại Giác Liên Hoà
Thượng nói: “Ngọc chẳng giũa thời không thành đồ dùng, người chẳng học thời
không biết đạo lý. Nay sở dĩ biết được xưa[40], sau sở dĩ biết được
trước. Điều thiện thì đáng được bắt chước, điều ác thì lấy đó làm răn. Các bậc
tiền bối nối tiếp nhau lập thân dương danh ở đương thời, ít có ai chẳng nương
vào học vấn mà thành tựu”.
Cửu Phong Tập.
12.- Đại Giác Hoà Thượng nói:
“Cái lý của diệu đạo[41], Thánh nhân thường
ngụ ở Dịch[42]. Đời nhà Chu suy,
thời pháp của tiên vương hoại, lễ nghĩa mất. Sau đó những kỳ ngôn dị thuật đua
nhau xuất hiện mà phong tục loạn. Kịp đến lúc đạo của Thích Ca ta du nhập Trung
thổ[43], thuần đem Đệ Nhất
nghĩa đế[44] để dạy đời, trước
sau thuyết giáo, đều lấy từ bi để tiếp hoá quần sinh, đó cũng chỉ là tuỳ theo ở
thời thế vậy. Từ lúc có sinh dân trở lại, tính thuần phác chưa tan, thời cái
giáo của Tam Hoàng[45] giản dị mà tố phác,
đó là mùa Xuân vậy. Đến lúc tâm tình mỗi ngày một mỏng, cái giáo của Ngũ Đế[46] tường tận mà văn vẻ,
đó là mùa Hạ. Thời cùng thế khác nhau, tình cũng theo đó mà ngày một thay đổi,
nên cái giáo của Tam Vương[47] mật mà nghiêm, đó là
mùa Thu. Các bài Cáo, Thệ[48] của Thương, Chu xưa
kia, người học ở đời sau cũng còn chẳng hiểu, thế nhưng dân đương thời nghe theo
mà không trái. Nếu đem so sanh thời biết cái phong tục giữa xưa và nay như thế
nào rồi vậy! Cho đến đời nhà Tần nhà Hán, thời cái tệ đó thật quá sâu rộng, đến
nỗi người trong thiên hạ có chỗ chẳng còn muốn nghe. Bởi thế đức Phật Như Lai ta
suy xét sự kiện ấy mà dạy cho cái lý tính mệnh[49], đó là mùa Đông vậy.
Trời có bốn mùa tuần hoàn để sinh thành vạn vật. Thánh nhân đặt ra giáo lý, phù
trì lẫn cho nhau để hoá thành thiên hạ, cũng chỉ bởi thế thôi. Nhưng cái gì đã
đến chỗ cùng cực, thời không thể tránh khỏi được cái tệ thoái trào, cái tệ đó
chính là dấu vết vậy. Cho nên lại cần có những bậc Hiền Thánh xuất hiện ở đời để
cứu cái tệ đó. Từ nhà Tần nhà Hán trở lại, trải qua hàng ngàn năm, phong tục bời
bời ngày càng phai lạt. Giáo lý của Thánh nhân thì phân liệt rồi đua nhau thiết
lập, chê trách lẫn nhau, không thể nào trở lại được cái đạo lớn mênh mang, thực
đáng tiếc vậy”.
13.- Đại Giác Hoà Thượng
nói: “Ôi! Người làm chủ ở một phương muốn thực hành cái chỗ sở đắc để lợi người,
thời trước hết phải nên khắc kỷ[51], khoan dung với
người, để tâm đến hết thảy. Vậy sau coi vàng lụa như phân đất, thời được bốn
chúng[52] tôn sùng và qui
thuận”.
Tờ gởi Cửu Tiên Hủ Hoà
Thượng.
14.- Đại Giác nói: “Bậc tiền bối
có tư chất thông minh, không có cái lo sợ phần an nguy. Như hai sự việc của
Thông Thiền Sư chùa Thạch Môn[53], Thuấn Lão Phu chùa
Thê Hiền[54] cũng lấy đó làm răn
vậy. Vẫn biết định nghiệp[55] của kiếp người rất
khó mà biện minh, nhưng xét kỹ ở nguyên nhân thời sao lại không biết được cái
lỗi cẩu thả chẳng suy nghĩ đấy ư? Vậy nên có câu: “Cái họa hoạn nó ẩn náu ở chỗ
vi tế, rồi bộc phát ra từ cái chỗ bất cẩn của con người. Lấy đó mà suy xét thời
càng phải nên cẩn thận sợ hãi”.
Cửu Phong Tập.
15.- Vân Cư Thuấn Hoà
Thượng, tên chữ là Lão Phu, ngày còn trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn, vì có mối
tư oán với quan Quận Thú Hoè Đô, nên bị cưỡng bách phải hoàn tục, Ngài sau đó
tới kinh đô thăm Đại Giác Hoà Thượng, khi đến đất Sơn Dương[56], bị tuyết làm ngăn
trở, nên phải ở trọ một lữ quán[57]. Vào một buổi chiều,
có một người khách đem theo hai người hầu phá con đường tuyết mà tới, chợt thấy
Lão Phu như là người quen biết cũ. Rồi ông khách thay áo tới trước thi lễ. Lão
Phu liền hỏi nguyên do. Người khách đáp: “Tôi trước thường theo hầu thầy ở Đổng
Sơn, tên là Cán Bộc Tống Vinh ở Hán Dương vậy”. Người khách cùng với Lão Phu
cùng nhau kể chuyện cũ tới khuya. Sáng hôm sau người khách lại làm cơm thết đãi,
tặng Lão Phu năm lạng bạc, còn gọi một người hầu tới. Rồi người khách nói: “Đứa
trẻ này thường hay lui tới chốn kinh thành, biết tất cả những đoạn đường gian
nan nguy hiểm, nay cho đi đưa đường, xin thầy an tâm chớ có lo ngại”. Vì thế mà
Lão Phu tới được chốn kinh thành[58]. Xét như vậy, thì
cái ích lợi về chỗ quen biết xưa kia của hai người thật là thắm
thiết.
Cửu Phong Tập.
16.- Đại Giác nói: “Thuấn Lão
Phu tính thì giản dị và trung thực, không biết mọi việc quyền hành hoá thực[59]. Hằng ngày có định
khoá, từng không thay đổi thời khắc nào, tuy là những việc thắp đèn quét đất
cũng đều tự mình làm lấy. Ngài thường nói: “Cổ nhân có điều răn dạy: “Một ngày
chẳng làm thời một ngày chẳng ăn[60]”. Vậy ta là người
thế nào vậy?”. Ta tuy tuổi đã già, nhưng chí đó cần phải bền chắc. Hoặc có người
nói: “Tại sao không sai khiến người thân cận”. Lão Phu nói: “Bạt thiệp nóng
lạnh, đứng ngồi bất thường, nên chẳng muốn phiền nhọc họ”.
17.- Thuấn Lão Phu nói: “Truyền
trì đạo pháp, quý nhất ở chỗ chân thật với hết thảy. Phân biệt điều tà chính,
gạt bỏ mọi vọng tình, đó là cái thật trị tâm. Biết nhân quả rõ tội phúc, đó là
cái thật tháo lý[61]. Hoằng đạo đức, tiếp
thập phương lui tới, đó là cái thật của Trụ trì. Lượng tài năng, giao phó việc,
đó là cái thật dùng người. Xét ngôn và hành, quyết định nên hay không nên, đó là
cái thật cầu hiền. Nếu không giữ lòng thành thật, chỉ chuộng lừa dối hư danh,
đối với đạo lý thời chẳng có ích lợi gì. Vì thế nên, cái tháo lý của con người,
cần nhất ở chỗ thành thật. Nếu cứ giữ một mực như thế không biến đổi, thì dẫu
rằng việc di hiểm[62] đến đâu cũng có thể
nhất chí được”.
Hai việc trên ở Thản Nhiên Am
tập.
18.- Thuấn Lão Phu bảo
Viễn Lục Công[63] ở núi Phù Sơn: “Nếu
muốn nghiên cứu diệu đạo vô thượng, thì khi cùng cần phải bền[64], khi già cần phải
gắng, không nên noi theo thế tục, đua chen thanh lợi để bỏ mất đức lớn. Ôi! Ngọc
quý tiêu biểu ở chỗ nhuận khiết, nên dù màu son tía cũng chẳng hay phai được
chất. Tùng cội tiêu biểu ở chỗ tuế hàn[65], nên dù sương tuyết
cũng chẳng hay mất tiết tháo. Thế nên biết, tiết nghĩa là điều lớn trong thiên
hạ. Duy cái chỗ tiết tháo của ông đáng chuộng nên ông cần phải tự cường. Cổ nhân
nói: “Một cánh chim liệng vút trên cao thật chẳng dễ bì, làn gió mạnh xé tung
bầu trời thật không sánh kịp. Nên ta cần phải như thế vậy”.
Quảng Lục.
19.- Phù Sơn Viễn Hoà
Thượng nói: “Cổ nhân tìm thầy chọn bạn, sớm tối không dám lười biếng, đến những
việc như thổi cơm giã gạo cũng vẫn âm thầm chịu đựng, chưa từng tỏ vẻ e ngại vất
vả. Ta khi ở Diệp Huyện[66] đã từng trải những
công việc đó. Nhưng có một điều, nếu tâm mình đoái đến lợi hại, so sánh hơn
thua, thời y nhiên sa đọa vào lỗi lầm[67] không hợp với đạo
lý[68]. Vậy, nếu thân đã
bất chính thì sao hay học đạo được ư”.
Pháp Ngữ của Nhạc Thị Giả[69].
20.- Viễn Công nói: “Ôi!
Trong khoảng trời đất, thật có những vật sinh trưởng rất dễ dàng[70], nếu thời tiết cứ
một ngày ấm mà mười ngày rét, thời cũng không thể nào hay sinh được. Diệu đạo vô
thượng tỏ rõ ngay trong tâm trước mắt, vì thế nên không phải là điều khó thấy.
Chỉ cần nơi bền chắc của chí, chỗ tận lực của hành, thì ngay lúc đứng hay ngồi
cũng hay tới được. Giả hoặc, một ngày thì tin rồi mười ngày lại ngờ vực, sớm thì
siêng mà chiều lại chán nản, há phải chỉ những việc ngay trước mắt khó thấy, mà
ta sợ suốt đời còn trái với diệu đạo vậy”.
Thư gởi Vân Thủ
Tọa.
21.- Viễn Công nói: “Cái
yếu vụ của trụ trì trước hết phải xét phần thủ xả. Chỗ cùng cực của thủ xả[71] định ở bên trong
thời cái mầm mống an nguy định ở bên ngoài. An chẳng phải cái an ở một ngày,
nguy chẳng phải cái nguy ở một ngày, mà nó đều góp chứa dần dần, nên không thể
không xét nét cẩn thận. Nếu lấy đạo đức trụ trì thì tích phần đạo đức, lấy lễ
nghĩa trụ trì thì tích phần lễ nghĩa. Lấy bóc lột trụ trì thì tích phần oán hận.
Tích oán hận thời trong ngoài lìa tan, tích lễ nghĩa thời trong ngoài hoà vui,
tích đạo đức thời trong ngoài cảm phục. Vì thế, nên thấm nhuần đạo đức lễ nghĩa
thời trong ngoài vui vẻ, bóc lột oán hận cùng cực thời trong ngoài đau thương.
Ôi! Cái cảm của vui buồn, tất sẽ ứng với hoạ phúc vậy”.
22.- Viễn Công nói: “Trù trì có
ba điểm cần thiết là “Nhân”, “Minh” và “Dũng”[72]. Nhân nghĩa là thực
hành đạo đức, phát triển việc giáo hoá, an trên dưới, làm đẹp lòng người đi kẻ
lại. Minh là giữ lễ nghĩa, biết an nguy, xét hiền ngu, biện phải trái. Dũng
nghĩa là phải quả cảm với công việc, trừ kẻ gian, bỏ kẻ nịnh. Nhân mà không có
minh, như người có ruộng chẳng cày. Minh mà không có dũng, như có lúa non chẳng
làm cỏ. Dũng mà chẳng có nhân, cũng như chỉ biết cắt cỏ mà chẳng biết gieo hạt
giống. Ba điểm thiết yếu như trên mà đầy đủ, thời chốn Tùng lâm hưng thịnh,
thiếu một thời suy, thiếu hai thời nguy, thiếu tất cả thời cái đạo của trụ trì
tất hỏng vậy”.
Hai
việc trên là thư gởi cho Tịnh Nhân Trăn Hoà Thượng[73].
23.- Viễn Công nói:
“Người trí kẻ ngu, người hiền kẻ bất tiếu, cũng như nước với lửa không thể cùng
chung một đồ vật[74], như lạnh với nóng
không thể đến cùng một thời. Nếu chia chẻ cho rõ ràng, kẻ trí hiền sĩ thì thuần
ý đoan hậu[75], lấy đạo đức nhân
nghĩa làm mưu kế, phát ra một lời nói, hay làm một công việc, chỉ sợ chẳng hợp
với nhân tình, chẳng thông với lý của sự vật. Kẻ bất tiếu thì gian hiểm, dối
trá, nịnh bợ, cậy mình khoe hay, ham danh trục lợi, chẳng đoái tới hết thảy. Nếu
chốn Thiền lâm được người hiền thời lấy đạo đức làm bản vị tu hành, lấy cương
kỷ[76] làm mẫu mực, pháp
tịch cũng do đó mà thành. Nếu không may gặp kẻ bất tiếu, thì chỉ làm cho rối
quần, loạn chúng, gây cho trong ngoài không yên, dầu là đại trí lễ pháp, cũng
không thể đem ra thi thố được. Người trí kẻ ngu, người hiền kẻ bất tiếu, hơn kém
là như thế, nên cần phải lựa chọn cẩn thận”.
Thư gởi Huệ Lực Phương Hoà
Thượng[77].
24.- Viễn Công nói:
“Người trụ trì ở ngôi trên, phải nên khiêm cung[78] tiếp kẻ dưới. Người
chấp sự ở dưới cũng phải tận tình để phụng sự trên. Trên dưới đã hòa, thời cái
đạo của trụ trì thông vậy. Người ở địa vị trên mà kiêu cứ tự tôn, kẻ chấp sự ở
dưới lại lười biếng, khinh nhờn tự sơ, cái tình trên dưới chẳng ăn nhịp với nhau
thời cái đạo của trụ trì bế tắc. Cổ nhân trụ trì, khi nhàn hạ vô sự, thường cùng
với học đồ thung dung nghị luận, trong bất cứ một vấn đề gì. Bởi thế, một lời
nói bàn, hay nửa câu giáo hóa, đều được ghi chép vào truyện ký, để ngày nay lấy
đó mà cân nhắc, là bởi cớ gì? Một là muốn khiến tình trên dưới thông hiểu lẫn
nhau để đạo khỏi bị che lấp, hai là dự biết được tài năng tính nết của mỗi học
đồ nên hay không để thích hợp với chỗ tiến thoái của họ, được như thế thì trên
dưới tự nhiên hoà kính[79] gần xa đều qui phục.
Tùng lâm được hưng thịnh, cũng bởi lẽ đó vậy”.
Thư gởi cho Thanh Hoa Nghiêm[80].
25.- Viễn Công bảo Đạo
Ngô Chân[81] rằng: “Người học
chưa thấu được đạo, chỉ khoe khoang chỗ thấy nghe nông cạn, giong ruỗi chỗ hiểu
biết máy móc, đem đầu lưỡi để biện tranh thắng, cũng chẳng khác gì như nhà xí
lại sơn vẽ màu son[82], chỉ làm cho tăng
thêm mùi xú uế thôi vậy”.
Tây Hồ Ký Văn.
26.- Viễn Công bảo Diễn
Thủ Tọa[83] rằng: “Tâm là chủ
một thân, làm gốc cho muôn hạnh. Tâm chẳng diệu ngộ thời vọng tình tự sinh, vọng
tình đã sinh thời thấy lý không tỏ rõ, thấy lý chẳng tỏ rõ thì phải lầm lẫn rối
loạn. Sở dĩ muốn trị tâm cần phải mong cầu diệu ngộ. Ngộ thời thân hoà, khí
tĩnh, dung mạo đáng kính, sắc diện trang nghiêm, vọng tưởng tán loạn đều dong
làm chân tâm. Trị tâm như thế thời tâm tự linh diệu, sau đó mới đem ra chỉ đạo
cho kẻ mê lầm, thời ai lại chẳng theo chỗ giáo hoá”.
Phù Sơn Thực Lục.
27.– Ngũ Tổ Diễn Hoà
Thượng nói: “Thời nay chốn tùng lâm, những kẻ học đạo, thanh danh không được lẫy
lừng, nên không được chỗ tin cậy của mọi người. Vì lẽ phạm hạnh[84] không thanh bạch,
con người không xứng đáng. Ví hoặc chỉ muốn mong cầu lợi dưỡng cùng tiếng khen,
khoe khoang bề ngoài, liền bị người thức giả chê cười. Nên cái yếu diệu bị che
lấp, dù rằng có đạo đức như Phật Tổ, cũng bị người đời ngờ vực mà chẳng tin
theo. Lũ ngươi một ngày kia nếu có trụ trì[85] một tự viện nào, nên
phải lấy đó làm gương mà tự gắng tiến”.
Thư Phật Giám[86] trả lời Phật
Quả.
28.- Diễn Tổ nói: “Sư
ông[87] khi mới ở Dương Kỳ,
nhà gianh cũ nát chỉ đủ che mưa gió. Chợt một buổi chiều, tuyết rơi đầy đường,
ngủ nghỉ không yên chỗ. Có một nột tử thành kính phát nguyện tu bổ. Sư ông khước
từ và nói: “Đức Phật ta có dạy, đương lúc kiếp giảm này, ngàn cao hang sâu, biến
đổi bất thường, tự mình sao thoả mãn được chỗ xứng ý. Lũ ngươi, người xuất gia
học đạo, buông tay chân chưa ổn đã ngoài bốn năm mươi tuổi rồi, đâu lại có thì
giờ nhàn rỗi để sửa sang nhà cửa lộng lẫy vậy ư!”. Cuối cùng, Sư ông không ưng
thuận, ngày hôm sau thăng toà nói: “Dương Kỳ tạm trú nếp nhà xiêu, đầy giường
tuyết phủ tựa chân châu, co gối rụt đầu nằm nhớ nghĩ, dưới cây người trước ngủ
không lều”.
Quảng Lục.
29.- Diễn Tổ nói: “Người
nột tử[88] giữ tâm thành[89] phụng trì giới luật,
ngày đêm thường nhớ nghĩ, sớm tối thực hành theo. Thực hành không vượt nghĩ,
nghĩ không vượt thực hành. Có ở trước tất thành ở sau. Như người cày ruộng có bờ
thì lỗi đó ít vậy”.
30.- Diễn Tổ nói: “Tùng
lâm là nơi hun đúc Thánh Hiền, nơi dưỡng dục tài khí, nơi phát xuất sự giáo hoá.
Tuy là chỗ quần cư loại tụ, nhưng việc thống lĩnh để tề chỉnh thì đều có sư
thừa[90]. Đời nay các nơi
không tuân thủ pháp độ của Tiên thánh, phần nhiều thiên tình yêu ghét, lấy mình
làm cách vật[91], còn biết lấy gì để
kẻ nối nghiệp sau bắt chước”.
Hai việc trên ở Thản Nhiên
Tập.
31.- Diễn Tổ nói:
“Truyền đạo lợi sinh, cần ở chỗ lựa chọn được người, mà biết người lại là một
việc rất khó, đến ngay như bậc Thánh triết cũng còn lấy đó làm lo. Nghe lời nói
của người nhưng chưa bảo chứng được hành vi, tìm biết được hành vi lại sợ bỏ sót
mất tài năng của họ. Nếu trước đây không phải là người mà mình đã từng giao du,
tường tận được mọi nguồn, khám phá được chí hành của họ, hiểu rõ được khí năng
của họ, rồi sau cùng còn biết được cả chỗ giữ đạo cùng là chỗ ẩn tàng cái diệu
dụng của họ. Còn những kẻ chỉ mua danh trang sức hình thức bề ngoài, thì phần
nguỵ tạo đó vẫn không thể dung thứ được, dù là chỗ kín đáo đến đâu cũng thấy
được uyên nguyên. Ôi! Cái lý của xét rõ nghe tường, cố nhiên không phải công
việc của một sớm một chiều hay làm nổi. Sở dĩ, Nam Nhạc Nhượng[92] sau khi thấy Đại
Giám[93], còn đích thân chấp
tác thị giả mười lăm thu. Khi Mã Tổ[94] thấy Nam Nhạc
Nhượng, cũng còn theo hầu hơn mười năm. Thế nên biết, sự trao truyền thụ mệnh
của Tiên thánh, quả thật không vội vã thiển cận ở chỗ truyền tri. Cũng như một
chậu nước truyền qua một chậu nước[95], mới hay nối tiếp
được hồng qui[96]. Còn như việc đương
gia chủng thảo[97] lại cần phải suy
nghiệm cái lý xét kỹ nghe tường này, có đâu lại dung cho kẻ sảo ngôn lệnh sắc,
hẹp hòi phỉnh nịnh mà được sung tuyển vào chức đó vậy thay”.
Thư gởi Viên Ngộ[98].
32.- Diễn Tổ nói: “Việc
lớn của trụ trì cần ở “Huệ” và “Đức”, phải đầy đủ cả hai phương diện, không thể
bỏ thiếu một. Có ơn huệ mà không có đạo đức thời người chẳng kính, có đức mà
không có ơn thời người chẳng nhớ. Nếu biết làm ơn tất có sự mong nhớ, lại thêm
có đức để cùng giúp lẫn nhau, thời cái ơn đã toả ra, tất đủ để an trên dưới, dụ
dẫn bốn phương. Nếu thấy đức là đáng kính, lại thêm vào đó ơn để giúp lẫn nhau,
thời cái đức sẵn có đủ để nối dõi bậc tiên giác, chỉ đạo kẻ ngu mê. Cho nên
người khéo trụ trì phải nuôi đức để làm ơn huệ, tuyên ơn huệ để giữ đạo đức. Đức
mà hay nuôi thời chẳng khất, ơn mà hay làm thời có ân. Bởi thế, đức và ơn cùng
súc tích, ơn và đức cùng thực hành với nhau, như thế thời đức chẳng cần phải tu,
mà được sự kính mến ngang với Phật Tổ, ơn chẳng cần thực thi mà được nhớ như là
cha mẹ. Vậy nên, những kẻ có chí với đạo khắp chốn hồ hải[99], ai là chẳng qui tụ.
Người trụ trì truyền đạo đức, phục hưng giáo hoá, nếu chẳng rõ điều cốt yếu này,
thời không thể thi thố trọn vẹn được”.
Thư gởi Phật Nhãn[100].
33.- Diễn Tổ từ Hải Hội
dời về Đông Sơn, Thái Bình Phật Giám và Long Môn Phật Nhãn, hai ngài cùng đến
Đông Sơn yết kiến, Tổ cho tập hợp các vị chủ sự kỳ cựu, và chỉnh bị đầy đủ trà
nước cho cuộc dạ thoại. Tổ hỏi Phật Giám: “Ở Thư Châu được mùa không?”. Trả lời:
“Được mùa”. Tổ hỏi: “Ở Thái Bình được mùa không ?”. Thưa rằng: “Được mùa”. Tổ
hỏi: “Các trang trại cùng nhau thu lúa được nhiều ít ra sao?”. Phật Giám tính
toán suy nghĩ. Tổ nghiêm sắc mặt lớn tiếng nói: “Ông lạm dụng làm chủ một ngôi
chùa, thì công việc bất cứ là lớn hay nhỏ đều phải để tâm cho cùng hết. Sự kế
toán hàng năm trong chốn thường trụ là việc tối quan hệ đến đại chúng mà ông còn
chẳng biết, nữa là những việc nhỏ nhặt khác thì biết sao đặng. Người chấp sự
trong chốn sơn môn cần phải biết nhân biết quả, phải như việc Sư ông[101] giúp đỡ Từ Minh[102] Tổ Sư vậy. Ông sao
chẳng nghĩ đến của cải của thường trụ nặng như núi hay sao”. Tuy Diễn Tổ nói ra
chỉ là những cơ biện tầm thường nhưng ý nghĩa lại rất cao xa sắc bén mà Phật
Giám đã giữ lễ của người đệ tử, nên sự ứng đối khoan thai mới đưa đến như thế
vậy. Cổ nhân có nói: “Thầy nghiêm thì cái đạo của học vấn sau mới tôn”. Nên con
cháu môn đệ của Đông Sơn, xuất hiện nhiều người hiền đức siêu việt, thật là
nguồn đã xa mà dòng lại dài vậy”.
34.– Diễn Tổ[105] thấy một nột tử ai
là người có tiết nghĩa, có thể lập thân được, ở trong chốn trượng đường dù họ có
nghiêm nghị khuôn phép Tổ cũng không hề ban lời khen thưởng hay sắc mặt yêu
thương, mà Tổ chỉ xét đến những kẻ thiên tà xiểm nịnh những chỗ làm hèn mạt
không thể dạy bảo được của họ lại tặng lời trìu mến trọng hậu hơn. Người đời đều
không thể lường được việc này. Ôi! Đó chính là chỗ thủ xả của Tổ đã sẵn có đường
lối vậy.
Cảnh Long Học bạt pháp
ngữ.
35.- Diễn Tổ nói[106]: “Cổ nhân thích
nghe cái lỗi lầm của mình, mừng chỗ mình đã làm được điều thiện, thường bao dung
kẻ hãm hại mình, hậu đãi kẻ ẩn chứa điều ác với mình. Khiêm nhượng để chơi với
bạn, siêng năng để giúp đỡ chúng, chẳng lấy chỗ được mất mà sinh hài lòng, nên
ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả xưa và nay vậy”.
Thư đáp Linh Nguyên[107].
36.- Diễn Tổ bảo Phật
Giám rằng: “Cái yếu của trụ trì, phần cư xử đối với chúng quí ở chỗ đầy đặn, đối
với mình cần ở chỗ giản ước, các việc lặt vặt khác đều chớ nên quan tâm. Dùng
người cần phải cẩn thận nơi thành thật, lời nói cần phải lựa chọn thận trọng.
Lời nói thận trọng thời người chủ tự tôn, xét người thành thật thời tâm của mọi
người tự cảm. Tôn thời chẳng phải nghiêm nghị mà chúng phục, cảm thời chẳng cần
ra lệnh mà việc thành. Như thế thời tự nhiên kẻ hiền người ngu đều thông suốt
trong lòng, kẻ lớn người nhỏ đều phấn khởi hết sức. Còn như việc đem thế lực để
duy trì, lấy quát mắng để bức bách, làm cho họ phải tuân theo một cách bất đắc
dĩ, nếu đem ví với trên thì xa cách nhau gấp muôn lần vậy”.
Thư gởi cho
Phật Giám thấy ở Nhật lục của Thiềm Thị Giả.
37.- Diễn Tổ bảo Quách
Công Phụ[108] rằng: “Tính tình
của con người bất thường, biến đổi từng ngày. Phật pháp tự cổ lai, tuy có lúc
thịnh lúc suy, nhưng cái lý thịnh suy đó, cũng đều do sự giáo hoá gây nên. Xưa
kia Giang Tây[109] và Nam Nhạc[110], việc hoằng hoá của
các Tổ, thì đem thuần phong để quạt mát, đem thanh tịnh để tiết chế, đem đạo đức
để trang bị, đem lễ nghĩa để dạy bảo, khiến cho người học thu thập được phần lợi
ích ở chỗ thấy chỗ nghe, mà lấp được tà ác, tuyệt được thị dục, quên được lợi
dưỡng. Thế nên, hàng ngày họ gần điều hay xa điều lỗi, đạo được thành tựu, đức
được đầy đủ mà không tự biết. Con người đời nay không kịp người đời xưa thật quá
xa vậy. Nếu muốn tham cứu đạo mầu này, nên phải bền chí chớ thay đổi, lấy chỗ
liễu ngộ làm kỳ hạn, rồi sau những điều hoạ hoạn hay được mất mới đổ tại tạo
vật.[111] Nếu điều đó không
thể tránh khỏi thì cũng chẳng nên can dự vào phần lo lắng cho đạo chẳng thành mà
lại chẳng làm vậy ư? Hễ có một mảy may mối lo sợ manh nha nơi nội tâm, thời
chẳng những riêng đời này chẳng liễu ngộ, mà đến ngàn đời vạn kiếp sau cũng
không có cái thời cơ thành tựu được”.
Thản Nhiên Am Tập.
38.– Công Phụ từ Đương
Đồ[112] qua sông, tới thăm
Bạch Vân Đoan Hoà Thượng[113] ở Hải Hội. Bạch Vân
hỏi: “Trâu của ông đã thuần chưa ?”. Ông đáp: “Thuần rồi”. Bạch Vân liền quát
mắng, ông khoanh tay đứng. Bạch Vân nói: “Thuần rồi, thuần rồi! Việc này cũng
giống như Nam Tuyền[114] và Đại Qui[115] không khác”. Rồi
tặng bài kệ rằng: “Trâu lại trong núi, đủ nước đủ cỏ, trâu ra khỏi núi, húc đông
húc tây”. Lại nói: “Bậc thượng đại nhân[116] dạy ba trăm học
trò, khá biết lễ vậy”.
Hành Trạng.
39.- Bạch Vân bảo Công
Phụ rằng: Xưa kia Thuý Nham Chân[117] Điểm Hung, say đắm
mùi thiền quán, thích đem bàn bạc ngoài đầu lưỡi, chửi mắng mọi người ở các
phương, chưa cho người nào là vừa ý mình, mà Đại pháp thật ra chưa được tinh
tường, vào một ngày, Kim Loan thị giả[118] thấy vậy mỉm cười
và nói: “Sư huynh tham thiền tuy nhiều, mà chẳng liễu ngộ, đúng là si thiền
vậy”.
Bạch Vân Dạ Thoại.
40.- Bạch Vân nói: “Sự
thịnh suy của đạo đâu phải là lẽ thường, mà đều tại chỗ người hoằng đạo vậy. Nên
có câu: “Gìn giữ thời còn, buông bỏ thời mất”[119]. Nhưng không phải
đạo bỏ người, mà chỉ vì người bỏ đạo vậy. Người đời xưa ở nơi núi rừng, ẩn dật
chốn triều thị, chẳng màng chi danh lợi, chẳng hoặc bởi thanh sắc, tiếng trong
sạch mới hay chấn động một thời, cái đẹp mới lưu lại muôn thuở, lẽ đâu người xưa
làm được mà người đời nay lại không thể làm được như vậy ư! Đó chỉ là do chỗ
giáo hoá chưa chín mùi, chỗ làm đạo không hết sức vậy. Hoặc có kẻ bảo rằng:
“Người thời xưa thì thuần phác nên hay giáo hoá, còn người đời nay thì phù bạc
nên không thể dạy bảo”. Nói như thế chính là lời cổ hoặc quần chúng thật không
đủ tin cậy”.
Thư trả lời Công
Phụ .
41.- Bạch Vân bảo Vô Vi Tử[120] rằng: “Nếu nói mà
chẳng làm, thà rằng đừng nói, làm mà chẳng nói, thà rằng đừng làm. Phát ngôn
phải lo đến hậu quả của nó, làm việc phải xét ở chỗ che đậy của nó. Bởi thế, bậc
tiên triết cẩn thận ở lời nói, lựa chọn ở việc làm. Phát ngôn chẳng những để
hiển đạo lý, mà còn đem mở bảo cho người học chưa ngộ. Làm việc không phải chỉ
để hay riêng cho mình[121], mà còn đem dạy bảo
cho người học chưa thành đạt. Vậy nên phát ngôn có pháp tắc, lập hành có lễ
nghĩa, nên mỗi khi nói ra chẳng gặp vạ, mỗi khi làm việc chẳng bị nhục. Đã nói
ra thời là Kinh, làm việc thời là Pháp. Cho nên nói rằng: “Nói và làm là then
chốt của người quân tử, là gốc lớn của việc sửa mình”, động đến trời đất, cảm
đến quỉ thần, thật đáng kính vậy”.
Bạch Vân Quảng
Lục.
42.- Bạch Vân bảo Diễn
Tổ rằng: “Trí năng của bậc thiền, phần nhiều chỉ thấy những việc đã rồi, chẳng
hay thấy được việc chưa tới. Chỉ quán định tuệ[122] thì phòng ngừa ở
lúc trước của sự việc chưa tới, tác chỉ nhậm diệt[123] thì biết được sau
của sự việc đã rồi. Cho nên, chỗ dùng của tác chỉ nhậm diệt thời dễ thấy, chỗ
làm của chỉ quán định tụê thời khó biết. Duy cổ nhân có chí ở đạo, đoạn tuyệt
mối niệm khi chưa manh nha. Tuy có chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, cũng
đều là bàn về gốc ngọn vậy. Sở dĩ nói rằng: [124]“Nếu có một mảy may
nào nói tới gốc ngọn đều là tự dối mình, đó là chỗ thấy triệt để của cổ nhân
chẳng bao giờ tự dối mình vậy”.
Thực Lục .
43.- Bạch Vân nói: “Phần
nhiều thấy những nột tử chưa từng trải kịp đến cái kế xa và lớn ta sợ chốn tùng
lâm sẽ suy vi từ đây. Dương Kỳ tiên sư thường nói : “Trên dưới muốn lẫn tránh
cho an nhàn, đó là mối đại hoạn cho chốn thiền môn”. Ta trước kia ẩn náu ở thư
viện Qui Tông, duyệt xem kinh sử, chẳng những chỉ vài trăm lần qua mắt, mà xem
đến nỗi kinh sách đó cũ nát tới cùng cực. Nhưng mỗi khi mở quyển tất nhiên lại
cùng thu hoạch được nhiều ý mới lạ, như vậy thì sự học chẳng phụ người như thế
vậy”.
Bạch Vân Thực Lục.
44.- Bạch Vân lúc đầu ở
chùa Thừa Thiên thuộc Cửu Giang, sau dời về chùa Viên Thông, tuổi đời còn rất
nhỏ. Khi bấy giờ Hối Đường[125] ở Bảo Phong, bảo
Nguyệt Công Hối[126] rằng: “Tân Viên
Thông là người thấu triệt được kiến nguyên[127], thực chẳng hổ là
pháp tự của Dương Kỳ, chỉ tiếc là ra ứng cơ[128] quá sớm nên chẳng
phải là phúc của tùng lâm”. Công Hối, nhân hỏi về nguyên cớ. Hối Đường nói: “Cái
mỹ khí của công danh, tạo vật đều tiếc, chẳng để trọn vẹn cho con người, nếu
người cố tâm muốn có nó, thì trời tất nhiên sẽ cướp đi”. Cuối cùng Bạch Vân mất
ở chùa Hải Hội, thuộc Thư Châu vừa vặn năm mươi sáu tuổi. Người thức giả thường
bảo rằng: “Hối Đường chẳng những chỉ biết về thời cơ mà còn biết tới chỗ vi tế
nữa, quả thật là một triết nhân vậy”.
45.- Hối Đường Tâm Hoà
Thượng tham thiền với Nguyệt Công Hối ở Bảo Phong. Công Hối thông hiểu triệt để
tông chỉ Kinh Lăng Nghiêm một cách trác tuỵêt vô song. Hối Đường mỗi khi nghe
được một câu một chữ, như là người được viên ngọc báu[130] vui mừng khôn xiết.
Trong đám nột tử, có người bàn lén việc này, Hối Công nghe biết và nói: “Học chỗ
sở trường của người, sửa chỗ sở đoản của ta, ta có nề hà chi vậy”. Anh Thiệu
Võ[131] nói: “Sự học đạo
của Hối Đường sư huynh, đã được các nột tử chốn tùng lâm lấy làm tông chỉ, thế
mà còn lấy chỗ tôn đức tự thắng làm vui, lấy điều chưa thấy nghe làm xấu hổ,
khiến cho tùng lâm tự rộng mà lại hẹp ở con người, để có chỗ, làm khuôn phép[132], thì đâu phải là bổ
ích nhỏ vậy”.
Linh Nguyên Thập
Di.
46.- Hối Đường nói: “Cái
yếu của trụ trì là phải đặt kế hoạch xa và lớn, tỉnh lược những công việc gần và
nhỏ. Công việc gì chưa quyết đoán được, nên đem thỉnh vấn các bậc lão thành[133]. Nếu vẫn còn ngờ
vực, lại tới hỏi ở hàng thức giả. Ví hoặc cũng vẫn chưa hết chỗ quyết nghi, thì
cũng chẳng đến nỗi quá tệ vậy. Giả hoặc người chủ, thích buông theo tư tâm,
chuyên trách việc thủ xả theo ý muốn của mình, nhất đán gặp mưu kế của kẻ tiểu
nhân, tội đó sẽ qui về ai! Cho nên nói: “Mưu lược cần phải có sự tham gia của số
đông người, quyết đoán công việc, cần phải ở ý kiến của một người. Mưu lược cần
phải sự góp ý ở nhiều người, để xét rõ phần cùng cực của lợi hại, quyết đoán cần
phải ở chính mình, mới có thể định rõ điều phải trái trong chốn tùng
lâm”.
Thư gởi Thảo Đường[134].
47.- Hối Đường không
nhận lời mời phó hội của Qui Sơn. Trần Oánh Trung[135] ở Diên Bình, gởi
thư khuyên rằng: “Cổ nhân xưa kia, nếu mỗi khi ngôi trụ trì khuyết chức, thì
tuyển người hữu đức để bổ sung. Người nhậm chức vụ này, tất nhiên phải đem cái
đạo ấy để giác ngộ cho người ấy, tuyệt nhiên không vì thế lực thanh lợi làm biến
đổi. Người học ngày nay chưa thấu tỏ đại đạo, lại đua theo học dị học, trôi và
ngả danh tướng, liền bị dao động bởi thanh sắc, kẻ hiền người ngu lẫn lộn, không
phân biệt rõ ràng. Chính vì thế nên các bậc lão thành, khi động lòng trắc ẩn[136] thì cần phải lấy
đạo để tự nhậm, ngăn cản trăm con sông để xoay chuyển lại những ngọn cuồng ba
cũng không khó. Trái lại, nếu lui bước để tìm sự tĩnh mịch, chú trọng chốn an
nhàn, lấy việc hay riêng thân mình làm sở thích, thì quả thật chẳng phải nơi
tùng lâm kỳ vọng ở ngài vậy”.
Linh Nguyên Thập
Di.
48.- Một bữa Hối Đường
thấy Hoàng Long[137] có sắc mặt chẳng
vui, nhân thế mới hỏi duyên cớ. Hoàng Long nói: “Chưa tìm được người giám thu[138]. Hối Đường bèn tiến
cử Cảm Phó Tự[139]. Hoàng Long nói:
“Cảm còn thô bạo, sợ bị kẻ tiểu nhân mưu hại”. Hối Đường nói: “Hoá Thị Giả[140] là người liêm cẩn[141]”. Hoàng Long bảo:
“Hóa tuy liêm cẩn nhưng lại không bằng Tú Tạng Chủ[142], có lượng mà trung
thành”. Linh Nguyên[143] thường hỏi Hối
Đường rằng: “Hoàng Long dùng một người giám thu, tại sao lại lo lắng như thế”.
Hối Đường nói: “Có nước có nhà ai chẳng lấy việc đó làm gốc, chẳng những Hoàng
Long làm như thế, mà các bậc Tiên thánh cũng từng cảnh giới việc
này”.
Độn Am Bích Ký.
49.- Hối Đường bảo Chu
Cấp Sự[144] Thế Anh rằng: “Ta
khi mới nhập đạo, thường mắc cái tính tự thị.[145] Sau khi gặp Hoàng
Long Tiên sư, ta mới xét lại những sự việc thông dụng hàng ngày, thì mâu thuẫn
với đạo lý quá nhiều, liền tận lực làm việc trong ba năm, chẳng quản ngại khi
trời rét dữ hay nắng gắt, cũng vững chí không dời đổi, rồi sau mới được tới chỗ
sự lý viên dung, nên bây giờ tất cả những cử động như ho hắng hay chuyển động
tay chân cũng đều hợp với ý của Tổ Sư từ Tây Trúc lại[146]”.
Chương Giang Tập.
50.– Chu Thế Anh[147] hỏi Hối Đường rằng:
“Người quân tử chẳng may phạm điều lầm lỗi nhỏ, mà có người nghe biết hay thấy
thì họ đều chỉ trích không ngớt; kẻ tiểu nhân trọn ngày làm điều ác, mà chẳng hề
bị người chỉ trích, đó là cớ sao vậy?”. Hối Đường nói: “Đức của người quân tử ví
như ngọc tốt, nếu có vết ở bên trong tất phải hiện ở bên ngoài, nên người ta dễ
thấy và cho đó là điềm lạ, không thể không chỉ trích được, còn như kẻ tiểu nhân,
căn cứ vào chỗ làm hàng ngày của họ, thì có đầy rẫy điều tội lỗi, làm sao lại có
thể dùng lời mà diễn tả được nữa vậy”.
Chương Giang Tập.
51.- Hối Đường nói: [148]“Cái đạo của Thánh
nhân, cũng như trời đất nuôi muôn vật, nên đạo không chỗ nào là không đầy đủ.
Cái đạo của chúng nhân, ví như sông lớn sông nhỏ, sông Hoài sông Tế, như núi gò
suối hang, như côn trùng cây cỏ, đều chỉ hết cái lượng của chúng mà thôi. Chúng
đâu có biết, ngoài phạm vi của chúng ra, đạo vẫn bao trùm khắp nơi chốn vậy. Ôi!
Đạo há đâu lại có hai ngã vậy ư! Đó chỉ là do chỗ biết có nông sâu, nên mới
thành ra có lớn có nhỏ”.
Thư trả lời Trương Vô Tận[149].
52.- Hối Đường nói:[150] “Bỏ lâu không thể
thành công mau chóng, điều tệ tích chứa không thể trừ bỏ ngay, chơi bời thong
thả không thể mến tiếc lâu dài, tình người chẳng hay thoả đáng tốt đẹp, hoạ hoạn
không thể dễ dàng trôi qua. Ôi! Làm bậc thiện tri thức đạt được năm việc này,
thời có thể thiệp thế mà không buồn phiền vậy”.
Thư gởi Tường Hoà
Thượng.
53.- Hối Đường nói: “Bậc tiên sư
khi tiến lúc ngưng, đều trang nghiêm trịnh trọng, người đời thấy thế đều cung
kính sợ hãi. Kẻ nột tử, nhân khi có việc xin đi đâu, ngài phần nhiều quở trách
không ưng thuận. Nhưng khi nghe thấy xin phép về thăm hỏi cha mẹ già, thì khí
sắc vui vẻ của ngài hiện ngay nơi nét mặt, rất vui vẻ mà chấp thuận ngay. Ngài
yêu thương người hiếu kính đến như thế”.
Thư gởi Tạ Cảnh Ôn[151].
54.- Hối Đường nói:
“Hoàng Long tiên sư, xưa kia cùng với Vân Phong[152] Duyệt Hoà Thượng,
ngồi hạ ở Kinh Nam Phượng Lâm. Duyệt là người thích biện luận, có một ngày tạo
ra cảnh huyên náo với nột tử. Tiên sư vẫn lặng lẽ xem kinh, coi như mình không
hề nghe biết. Sau đó, Duyệt tới đầu án kinh của tiên sư, quắc mắt mà trách rằng:
“Ông ở chỗ này học tập cái độ lượng của bậc thiện tri thức vậy ư?”. Tiên sư cúi
đầu bái tạ, rồi lại xem kinh như cũ.
Linh Nguyên Thập
Di.
55.– Hoàng Long Nam[153] Hoà Thượng nói: “Ta
trước kia cùng Vân Duyệt vân du ở Hồ Nam, thấy kẻ nột tử mang lung[154] đi hành cước[155]. Duyệt kinh dị,
nhăn mặt chau mày mà mắng rằng: “Vật trong nơi khuê cáp[156] ở chính trong nhà
mình mà chẳng chịu bỏ đi, lại phiền luỵ đến phần gánh của người khác, thật quả
là quá mệt nhọc vậy”.
Lâm Gian Lục.
56.– Hoàng Long nói[157]: “Trụ trì cần ở chỗ
được lòng chúng. Được lòng chúng là ở chỗ thấy tình”. Đức Phật nói: “Tình người
làm ruộng phúc cho đời, đạo lý đều từ đó mà sinh ra”. Cho nên, sự bĩ thái của
thời, tổn ích của việc, tất nương vào tình người. Tình người có thông tắc, nên
bĩ thái phát sinh. Sự việc có hậu bạc, nên tổn ích phải đến. Duy Thánh nhân hay
suốt được cái tình của thiên hạ, nên những quẻ riêng biệt trong Kinh Dịch có
chia ra. Càn ở dưới Không ở trên thời nói rằng thái[158], Càn ở trên Khôn ở
dưới, thời nói rằng bỉ[159]. Theo Tượng truyện
của Dịch: Tổn ở trên ích ở dưới, thời nói rằng ích,[160] tổn ở dưới ích ở
trên, thời nói rằng tổn.[161] Ôi! Càn là trời,
Khôn là đất, trời ở dưới mà đất ở trên, thời ngôi vị đó trái ngược, mà lại bảo
đó là thái, là vì lẽ trên dưới giao hoà với nhau vậy. Chủ ở trên mà khách ở
dưới, thì nghĩa đó là thuận, mà trái lại bảo đó là bĩ, là vì lẽ trên dưới chẳng
giao hoà với nhau vậy. Bởi lẽ trời đất chẳng giao hoà với nhau, nên mọi vật
chẳng được sự nuôi nấng, lòng người chẳng giao cảm với nhau, nên muôn việc chẳng
hoà, cái nghĩa tổn ích cũng bởi thế mà ra. Ôi! Người ở địa vị trên, thời tự biết
mình phải tiết ước, mà phải rộng rãi với kẻ dưới, thì người dưới tất vui vẻ mà
cung phụng người trên, há chẳng bảo đó là ích vậy ư! Ở ngôi trên mà khinh miệt
kẻ dưới, lại tự mình phóng túng, thời người dưới tất oán mà trái lệnh trên, há
chẳng bảo đó là tổn vậy ư! Cho nên trên dưới giao hoà thời thái, chẳng giao hoà
thời bĩ. Tự tổn mình thì ích người, tự ích mình thì tổn người. Sự được hay mất
của tình người đâu có dễ dàng vậy. Tiên thánh thường ví[162] người là con
thuyền, tình là nước, nước hay chở được thuyền, nhưng nước cũng hay lật được
thuyền, thuận với nước thời thuyền nổi, trái với nước thời thuyền chìm. Vậy nên,
người trụ trì nếu được lòng người thời hưng thịnh, mất lòng người thời suy vi.
Được hoàn toàn thì hoàn toàn thịnh, mất hoàn toàn thì hoàn toàn suy. Thế nên,
cùng làm điều thiện thì phúc nhiều, cùng làm điều ác thời vạ lắm. Thiện ác cùng
một loại, luân chuyển như đầu mối chuỗi hạt châu. Thịnh suy theo pháp tắc tuần
hành tỏ rõ như xem mặt trời vậy. Đó là nguyên qui[163] cho đời này qua đời
khác phải noi theo”.
Thư gởi cho Hoàng Nghiệt Thắng[164].
57.– Hoàng Long bảo Kinh
Công[165] rằng: “Phàm để tâm
vào công việc chỗ mình làm, thường cần phải mở rộng con đường thẳng trước mắt,
khiến cho hết thảy mọi người đều đi được, đó mới là cách dụng tâm của đại nhân.
Bằng như người ta chẳng hay đi được, mà chính ngay cả tự mình cũng không có nơi
đặt chân vậy”.
Chương Gia Tập.
58.– Hoàng Long nói[166]: “Ôi! Người ta nói
năng lúc lặng thinh, khi cử động lúc an tĩnh, tự mình phải, trên chẳng dối trời,
ngoài không dối người, trong chẳng dối lòng, đó mới bảo là được vậy. Tuy nhiên,
cũng còn phải nên khuyên răn và thận trọng cả ở chỗ một mình hay nơi vắng kín,
quả thật không một mảy may dối trá, như thế mới bảo đó là được vậy”.
Thư đáp Kinh Công.
59.– Hoàng Long nói:
“Ôi! Cái chức của Trưởng lão[167] là cái khí cụ của
đạo đức, Bậc Tiên thánh kiến tạo tùng lâm, đặt ra kỷ cương, lập ra danh vị,
tuyển chọn người nột tử có đạo đức để gánh vác chức đó. Nên chức vụ của Trưởng
lão có trách nhiệm là phải thực hành phần đạo đức của mình, chẳng phải chỉ lạm
dụng cái tên đó vậy. Từ Minh tiên sư thường nói: “Cùng với người giữ gìn đạo tuy
cùng chết già trong nơi gò lạch, nhưng chẳng bằng người hành đạo lãnh chúng chốn
tùng lâm”. Há chẳng phải là người khéo giữ cái chức Trưởng lão, thời đạo đức của
Phật Tổ còn được tồn tại đó sao”.
Thư gởi Thuý Nham
Chân.
60.– Hoàng Long bảo ẩn
sĩ Phan Diên Chi[168] rằng: “Cái học của
Thánh hiền, không có thể thành tựu ngay được mà cần phải tích luỹ. Cái yếu của
tích luỹ, duy ở chỗ chuyên và cần, trừ khử lòng thị hiếu, thực hành không biết
mỏi, vậy sau mới mở mang rộng rãi ra, thì có thể hết được cái diệu trong thiên
hạ”.
Long Sơn Quảng
Lục.
61.– Phan Diên Chi[169] nghe biết Hoàng
Long là người đạo pháp nghiêm mật, nhân đến hỏi về yếu lĩnh đó. Hoàng Long nói:
“Cha nghiêm thời con kính. Qui huấn ở ngày nay là mô phạm cho ngày sau. Vi như
san đất, chỗ cao thì đào cho thấp, chỗ trũng thì lấp cho bằng. Kẻ kia muốn lên
núi cao ngàn nhận[170] ta cũng theo họ đi
cùng, khốn khổ đến cùng cực ở nơi vực thẳm[171], ta cùng đi tới với
họ. Khi tài đã cùng, vọng đã hết, thời kẻ kia tự nghỉ vậy”. Lại nói rằng: “Có
nuôi có dưỡng[172], nên vạn vật sở dĩ
sinh trưởng ở mùa Xuân mùa Hạ, có sương có tuyết, nên vạn vật thành thục ở mùa
Thu mùa Đông”. Ta muốn đừng nói có thể được vậy ư”.[173]
Lâm Gian Lục.
62.– Hoàng Long trong
trượng thất có ba lời then chốt gọi là “Tam quan ngữ”.[174] Kẻ nột tử ít người
khế hợp được cơ đó, hoặc có thù đối, chỉ nhắm mắt ngồi ngay, không quyết đoán
khả phủ được. Diên Chi luôn luôn nghiền ngẫm Quan ngữ đó, Hoàng Long nói: “Người
đã qua cửa ải rồi thì vung cánh tay mà đi, nếu còn theo người giữ cửa để hỏi khả
phủ[175], thì đó là người
chưa thấu được quan ngữ vậy”.
Lâm Gian Lục.
63.– Hoàng Long nói[176]: “Đạo như núi, càng
lên lạ càng cao, như đất, càng đi lại càng xa. Người học nông cạn chỉ hết cái
sức của họ mà ngưng vậy. Duy người có chí với đạo, mới hay cùng được chỗ cao xa
đó. Ngoài ra, thì ai sánh kịp được như thế vậy”.
Ký Văn.
64.– Hoàng Long nói[177]: “Trời đất, mặt
trời, mặt trăng ở thời xưa, cũng như trời đất, mặt trời, mặt trăng ở thời nay.
Tính tình vạn vật ở thời xưa, cũng như tính tình vạn vật ở thời nay. Trời đất,
mặt trời, mặt trăng thì cố định không đổi. Tình tình của muôn vật cũng cố định
không biến. Tại sao lại riêng có đạo biến đổi được vậy ư! Đáng buồn cho người
chưa đến được đạo, chỉ chán cũ vui mới, bỏ cái này lấy cái kia, cũng giống như
người đi về đất Việt,[178] chẳng đi về phía
Nam mà đi về phía Bắc, đó bảo là khác người vậy. Như thế, chỉ luống nhọc lòng
họ, khổ thân họ, chí của họ càng siêng, nhưng cái đạo đó lại càng xa
vậy”.
Độn Am Bích Ký.
65.– Hoàng Long bảo Anh
Thiệu Võ rằng: “Chí con người phải qui về một, phải giữ cho bền lâu chớ đổi dời,
thì một ngày kia tất biết được chỗ qui thú của diệu đạo. Giả hoặc kẻ đó tâm còn
đắm vào tốt xấu, tình còn buông vào tà vậy, thì dẫu có chí khí như cổ nhân, ta
sợ trọn đời cũng chẳng được thấy đạo vậy”.
Bích Ký.
66.- Bảo Phong Anh Hoà
Thượng nói: “Các bậc lão túc khắp nơi, có những niêm đề, công án[179] để phê phán về lời
nói của các bậc tiên giác, đó chẳng qua cũng như người bưng đất đắp núi Thái
Sơn, vúc nước tưới bể Đông Hải. Song các ngài há lại cậy vào đó để làm cao sâu
vậy ư! Căn cứ vào chí của mình thì đó là ích, nhưng lại chẳng tự biết, đó chẳng
phải là thoả đáng vậy”.
Quảng Lục.
67.– Anh Thiệu Võ thường
thấy người học buông lung, chẳng sợ nhân quả. Liền than thở hoài và nói: “Đời
người[180] như quán trọ, ở
thời tuỳ duyên, đi thời mất vậy, chỗ sở đắc của họ có được là bao. Lũ các ngươi
chẳng biết liêm sĩ, can phạm danh phận, nhơ nhuốc tôn giáo, đến nỗi như thế. Chỉ
người đại trượng phu, là ở chỗ khôi phục hoằng dương cái đạo của Phật Tổ dẫn dụ
kẻ hậu lai. Không nên chuyên chú vào lòng ham muốn riêng mình, không kiêng sợ
điều gì, gây cái vạ cho một đời, tạo cái ương cho muôn kiếp. Dù có phải chịu cái
khổ ở tam đồ[181] địa ngục cũng chưa
phải là khổ, mà hướng dưới tấm ca sa[182] mất mất thân người
mới thật là khổ vậy”.
Bích Ký.
68.– Anh Thiệu Võ[183] bảo Hối Đường rằng:
“Phàm gọi là thiện tri thức, giúp đỡ sự tuyên dương hoằng hoá của Phật Tổ, khiến
kẻ nột tử hồi tâm hướng đạo, thay đổi phong tục, cố nhiên không phải là người
thiển bạc mà họ có thể hay làm được. Tỷ khưu thời mạt pháp, phần nhiều chẳng tu
đạo đức, ít có tiết nghĩa, lại thường chen gót tới lui, van xin sự thương xót,
truy cầu thanh lợi trước cửa quyền thế. Nhất đán nghiệp đầy phúc hết, thời trời
người chán ghét, gây vết dơ cho chính tông, làm hệ luỵ cho thầy bạn, thật là
đáng buồn vậy”. Hối Đường gật đầu.
Linh Nguyên Thập
Di.
69.– Anh Thiệu Võ[184] bảo Phan Diên Chi
rằng: “Người học giả thời xưa chuyên sửa tâm (gốc), người học giả thời nay lại
sửa tích (ngọn). Song tâm với tích thì cách xa nhau một trời một vực
vậy”.
70.– Anh Thiệu Võ bảo
Chân Tịnh Văn[185] Hoà Thượng rằng:
“Vật gì lớn nhanh, tất phải gãy non, công nghiệp chóng thành, tất nhiên dễ hoại.
Chẳng suy tính cái kế lâu dài, chỉ gây dựng cái công nghiệp vội thành, đều chẳng
phải là chỗ nương vào kế xa và lớn. Ôi! Trời đất thì thiêng liêng rất mực, cũng
còn cứ năm năm lại có hai năm nhuận, thì cái công của trời đất mới thành, cái
hoá của trời đất mới đủ, huống chi chỗ nhiệm mầu của đại đạo, há lại vội vàng
hấp tấp, mà hay thành biện được vậy ư? Điều thiết yếu là chỗ góp công chứa đức.
Cho nên nói rằng: “Việc muốn tốc thành thời chẳng đạt, việc làm kỹ lưỡng thời
chẳng mất. Sự thành quả của vẻ đẹp là ở nhiều công phu, liến có cái mưu chung
thân”. Thánh nhân nói[186]: “Đem lòng tin để
giữ, gắng gỏi để làm, đem lòng trung thành để tới, thời việc tuy lớn nhưng tất
phải xong”.
Xưa Triết Thị Giả,[187] ngồi thiền thâu đêm
không ngủ. Thường lấy cây tròn làm gối, nếu hơi ngủ thời gối chuyển, rồi lại
thức dậy, ngồi nguyên như cũ, coi làm thường lệ. Hoặc có người bảo: “Đó là việc
dùng tâm thái quá”. Triết đáp: “Ta đối với trí tụê thì duyên phận vốn mong manh,
nếu chẳng khắc khổ gắng chí, sợ bị vọng tập lôi kéo. Huống hồ, đời là mộng huyễn
không thực, sao được coi đó làm kế lâu dài. Ta trước ở Tương Tây, mục đích thấy
người noi theo như thế, nên trong chốn tùng lâm, ai cũng phục cái danh đó, kính
cái đức đó mà đều khen”.
Linh Nguyên Thập
Di.
71.– Chân Tịnh Văn Hoà
Thượng[188] tham thiền ở Hoàng
Long đã lâu ngày, lúc đầu, đã nói: “Không xuất hiện trước quần chúng”. Nhưng sau
đó đã nhận lời mời của Đỗng Sơn. Trên đường đi qua Tây Sơn, có tới thăm Hương
Thành Thuận Hoà Thượng[189]. Thuận nói bỡn
rằng: “Gia Cát[190] xưa kia ẩn am
gianh, lời mời khẩn khoản xuất núi xanh, tùng hoa lại đượm màu xuân sắc, gốc ở
thâm nham vẫn nở cành”. Chân Tịnh bái tạ rồi lui.
Thuận Ngữ Lục.
72.– Chân Tịnh Cử Quảng
Đạo Giả[191] trụ trì chùa Ngũ
Phong. Dư luận cho rằng, Quảng là người vụng về, không có tài ứng thế. Kịp tới
lúc Quảng trụ trì, thì tính tiền để sửa mình, khoan hồng để xét chúng. Chưa bao
lâu mà hàng trăm việc đình trệ đều được tiến hành. Kẻ nột tử đi lại tấp nập, náo
nhiệt tuyên truyền. Chân Tịnh nghe biết thế và nói: “Người học sao lại khen chê
quá dễ dàng vậy”. Ta mỗi khi thấy chốn tùng lâm, có người bàn lén rằng: “Vị
Trưởng lão này thì hành đạo an chúng, vị Trưởng lão này chẳng lạm dụng của
thường trụ, cùng với chúng cùng chịu cam khổ”. Ôi! Xưng là bậc thiện tri thức,
làm chủ một ngôi chùa, hành đạo an chúng, chẳng lạm dụng của thường trụ cùng với
chúng cùng chịu cam khổ cố nhiên là việc phải làm, lại còn gì để phải nói hơn
nữa. Như kẻ sĩ đại phu làm quan, vì nước an dân, liền nói rằng: “Ta không nhận
của hối lộ, chẳng sách nhiễu dân”. Vậy việc không nhận hối lộ, không sách nhiễu
dân, đâu phải là ngoài phận sự vậy ư.
73.– Chân Tịnh ở chùa
Qui Tông. Hàng năm có các hoá chủ[193] lại dâng mục lục[194] những đồ vật cúng
dường, trong đó có vải lụa rất nhiều. Chân Tịnh thấy thế cau mày mà than rằng:
“Đây là tâm huyết của lòng tín, ta hổ thẹn không có đức, đem gì để đền bù xứng
đáng”.
Lý Thương Lão[195] Nhật Thiệp
Ký.
74.– Chân Tịnh nói: “Tỷ
khưu thời mạt pháp[196] ít người có tiết
nghĩa. Mỗi khi thấy họ bàn cao luận rộng và tự nói: “Người chẳng ai kịp mình”.
Tới khi chịu cái ơn của một bữa ăn, thời họ lại cho cái lúc trước kia khác,
nhưng sau lại phụ hoạ theo, trước thì khen đấy rồi sau lại chê đấy. Còn tìm được
người, phải thì nói phải, trái thì nói rằng trái, trung chính mà chẳng che đậy
quả thật hiếm vậy”.
Bích Ký.
75.– Chân Tịnh nói[197]: “Cái pháp của Tỷ
khưu, thụ dụng chẳng nên phong phú và mãn túc. Khi quá phong mãn tất nhiên phải
tràn đầy. Cái việc xứng ý chẳng nên đa mưu, nếu đa mưu thì việc hỏng trọn vẹn.
Cái gì có thành, tất nhiên có hoại. Ta thấy Hoàng Long tiên sư, ra ứng thế bốn
mươi năm, khi nói khi lặng, lúc động lúc tĩnh, chưa từng lấy sắc mặt, đem lễ
mạo, hoặc văn tài, để lao lung kẻ nột tử đương thời, mà chỉ đem chỗ thấy biết
xác đáng, noi theo chỗ thật, xét theo chỗ chân, để biết nguyên do uỷ khúc của
thành bại. Sự thận trọng của ngài như thế, thật là đạt được cái thể tài của cổ
nhân, mọi nơi ít có ai sánh bằng, nên ngày nay tới chúng, đều lấy đó làm pháp
tắc”.
Nhật Thiệp Ký.
75.– Chân Tịnh ở chùa
Bảo Ninh thuộc Kiến Khang. Có Thư Vương[198] cúng trai và thấn
vật như lụa là… Nhân hỏi Tăng thị giả: “Đây là vật gì?”. Thị Tăng nói: “Dùng để
may ca sa”. Chân Tịnh chỉ vào thấm áo Già Lê[199] mình đang mặc bằng
vải thô và nói: “Ta mặc áo tầm thường như thế này, mà cũng chẳng tránh được sự
phê phán của người đời, nữa là lại dùng tơ lụa vậy ư”. Ngài liền ra lệnh đưa cho
người coi kho đem bán lấy tiền cung chúng. Ngài chẳng chuộng về hình thức phục
sức là như thế vậy.
Nhật Thiệp Ký.
77.– Chân Tịnh Bảo Thư
Vương rằng:[200] “Chỗ dùng hàng ngày
là căn cứ ở sức làm việc, nếu một khi có điều gì trái thời phải ngăn đi bằng
được, không nên vì khó dễ mà thay đổi ý chí. Nếu đem việc khó ngày hôm nay mà
quay đầu đi chẳng đoái hoài đến, thời sao biết được cái khó ở ngày khác lại
chẳng khó hơn ở ngày hôm nay vậy ư”.
Nhật Thiệp Ký.
78.– Chân Tịnh, khi nghe
biết có một đạo sĩ nào ở một địa phương thiên hoá[201] thì ngài thương
tiếc đến rơi lệ. Lúc đó Trạm Đường làm thị giả, bèn hỏi: “Vạn vật sinh trong
khoảng trời đất, một khi hình chất đã thành, thì phải khô chết tàn lụi, tựa hồ
như không thể tránh khỏi được, vậy vì lẽ khổ đau gì mà tự ngài phải đau lòng đến
thế?”. Chân Tịnh nói: “Sự thưng thịnh của pháp môn, đều nhờ vào người có đức mà
hưng thịnh, nay thì đều mất vậy. Sự suy vi của tùng lâm, phải lấy đó làm chiêm
nghiệm”.
Nhật Thiệp Ký.
THIỀN LÂM BẢO
HUẤN
QUYỂN THỨ NHẤT
.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).THICH NU CHAN TANH.( TINH THAT KIM LIEN ).AUSTRALIA,SYDNEY.7/8/2012.
No comments:
Post a Comment