Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế, đều là những kỷ cương yếu lĩnh về cách trụ trì, hoằng đạo của các bậc Thạc đức danh Tăng.
Xuất bản năm 1996
THIỀN LÂM BẢO HUẤN
---o0o---
QUYỂN THỨ HAI
Sa Môn Tịnh Thiện đất Đông Ngô trùng tập.
Sa Môn Thích Thanh Kiểm dịch và chú thích.
79.- Trạm Đường Chuẩn Hoà Thượng, lúc đầu tham thiền ở Chân Tịnh, thường thắp đèn trong trướng đọc kinh sách. Chân Tịnh liền mắng rằng: “Điểm chính của người học là ở chỗ trị tâm. Nếu học dẫu nhiều mà tâm chẳng sửa trị, thì ví có học nhiều cũng chẳng có ích gì. Hơn nữa, lại còn có rất nhiều các môn học khác của hàng trăm nhà khác nhau, nhiều như núi cao như bể sâu. Vậy ông dù có học hết được tất cả, nhưng đó chỉ là sự việc bỏ gốc theo ngọn, đem cái hèn dùng vào chỗ quí, sợ nó ngăn ngại mất đạo nghiệp. Vậy nên phải chấm dứt mọi duyên, để cầu diệu ngộ. Nếu ở một ngày khác ông xem các môn học ấy, thì dễ dàng cũng như người chỉ việc đẩy chốt cửa mà vào, chẳng gặp chi khó khăn vậy”. Trạm Đường tức thời dẹp bỏ chỗ mình đang tập, rồi chuyên tu thiền quán. Ở một ngày, ông nghe thấy kẻ nột tử đọc biểu,[1] xuất sư của Gia Cát Lượng Khổng Minh, bừng vậy khai ngộ, gỡ hết được mọi chỗ ngưng trệ, có biện tài vô ngại, trong hàng lưu bối ít ai hay vượt được ông.80.- Trạm Đường nói: “Người có đạo đức thì vui với chúng, người không có đạo đức thì vui ở mình. Cái vui cùng với chúng thời lâu dài, cái vui ở riêng mình, thời dễ mất. Ngày nay, người xưng là trụ trì, phần nhiều lấy sự ưa ghét để xét chúng, nên chúng nhân đều uất ức. Tìm cái ưa đó để biết chỗ ghét, tìm cái ghét để biết chỗ ưa đó thì ít vậy”. Cho nên nói: “Cùng chúng cùng dự phần lo hay vui, cùng dự phần ưa hay ghét là nghĩa vậy. Đã có nghĩa thời thiên hạ ai mà chẳng phục”.
98.– Linh Nguyên nghe biết Giác Phạm[32] phải giam ngoài lĩnh hải, bèn than rằng: “Lan trồng giữa đường, tất nhiên không thể xanh tốt thường xuyên được. Quế sinh trong hang núi âm u, chỉ quanh năm là tễ thuốc kinh niên. Xưa nay những người có tài năng trí tuệ, họ phải táng thân mệnh nhiều, chỉ vì sự phỉ báng gièm pha của người đời mà mắc họa. Tìm những người cố công cùng với đời chìm nổi, mà hay bảo toàn được thân mạng cũng rất ít. Cho nên, Thánh nhân[33] nói: “Người thông minh sáng suốt ở đương thời, lại hay gần kề với cái chết, là vì họ thích nghị luận về người. Người biện bác cao rộng, mà hay nguy đến thân, là vì họ hay bởi cái xấu của người”. Giác Phạm[34] chính cũng ở trường hợp đó vậy”.
101.– Linh Nguyên nói: “Người khéo trụ trì, lấy tâm chúng nhân làm tâm, chưa từng theo ý riêng tâm mình. Lấy tai mắt chúng nhân làm tai mắt, chưa từng ỷ vào tai mắt của riêng mình. Như thế liền hay thông được cái chí của nhân, hết được cái tình của chúng nhân. Ôi! Khi dùng cái tâm của chúng nhân làm tâm, thời sự yêu ghét của ta là yêu ghét của chúng nhân, nên chỗ yêu không lỗi, chỗ ghét chẳng lầm. Sao lại ỷ lại dùng chỗ tâm phúc riêng của mình mà cam chịu điều xiểm nịnh đó vậy thay. Khi đã dùng tai mắt của chúng nhân làm tai mắt, thời cái thông minh của chúng nhân, đều là cái thông minh của ta, nên soi sáng được khắp nơi, nghe suốt được mọi chốn. Sao lại dùng chỗ ỷ thác vào tai mắt riêng của mình, mà phải mắc vào chỗ che lấp đó vậy thay. Ôi! Việc bày rãi nơi tâm phúc, nhờ cậy nơi tai mắt, duy có kẻ hiền đạt, mới chuyên tìm cái lỗi của mình, cùng với chúng cùng một ý muốn không thiên tư, nên tâm chúng nhân ai mà chẳng qui thuận. Sở dĩ đạo đức nhân nghĩa được lưu bố gần xa, là phải làm như thế vậy. Cái lý của kẻ ngu người bất tiếu, thì chuyên tìm cái lỗi của người, cùng trái với ý muốn của chúng, đắm chìm vào chỗ thiên tư, nên tâm chúng nhân ai mà chẳng xa lánh. Sở dĩ tiếng xấu hạnh hiểm độc nó truyền bá sâu rộng, mà đưa đến như thế vậy. Thế nên biết, người trụ trì cùng chung với ý muốn của chúng, thì bảo đó là người hiền triết. Cùng trái với ý muốn của chúng, thì bảo đó là hạng thấp hèn. Đại để cái ý bày rãi tâm phúc, nương cậy vào tai mắt có khác nhau, mà thiện ác thành bại cũng phản nhau như thế. Đó chính là cái tâm tìm lỗi có khác nhau, cái đạo dùng người chẳng cùng nhau mà thôi vậy”.[42]
102.– Linh Nguyên nói[43]: “Gần đây, người nhậm chức Trưởng lão, đắm vào hai thứ duyên, nên phần nhiều kiến thức trí tuệ chẳng minh, bị hai thứ gió[44] nói lôi cuốn làm mất pháp thể. Một là ứng với nghịch duyên nên đụng chạm nhiều với suy phong[45]. Hai là ứng với thuận duyên nên đụng chạm nhiều với lợi phong[46]. Một khi đã bị hai thứ gió đó làm lay động thì sự mừng giận giao nhau ở tâm, sắc uất hận hiện trên nơi mặt, nên đến nỗi pháp môn bị chuốc nhục, kẻ hiền đạt bị chê hiềm. Duy người trí giả mới hay chuyển nó làm cái phương tiện nhiếp hoá, để dạy cái đẹp cái tốt cho kẻ hậu lai. Như Lang Gia Hoà Thượng[47] đi Tô Châu thăm Phạm Hy Văn,[48] nhân thế nhận được của tín thí cúng dường hơn ngàn quan tiền, ngài liền bí mật khiến người đi tính Tăng số ở các chùa trong thành, rồi đều chia tiền đều tới các vị Tăng ở các chùa đó. Cũng ngày hôm ấy, ngài cho đặt tiệc chay cúng dường chúng Tăng và đàn việt, và cũng chính là ngày để từ giã Phạm Công, nhưng rồi ngay vào lúc tảng sáng ngày đó thì ngày đã đáp thuyền đi sớm, mãi tới lúc trời sáng, mọi người mới biết ngài đã đi, có người chạy theo ngài đến mãi Thường Châu mới được gặp, được ngài thuyết pháp cho nghe mới chịu quay về. Chỉ đơn cử một việc làm của một bậc Trưởng lão như thế, mà khiến tất cả kẻ đạo người tục ở khắp Cô Tô đều khởi lòng tin tưởng, tăng tiến mầm đạo. Đó chính là nghĩa phương tiện chuyển nhiếp hoá. Ôi! Đem việc này mà so sánh với những người chỉ lạm dụng vào ngôi vị, đắm chìm vào lợi dưỡng, để mưu đồ cho riêng thân mình, thì thật xa cách nhau như trời vực vậy”..
103.– Văn Chính Công bảo Lang Gia rằng: “Năm ngoái đến đây, ta muốn có được người ở trong chốn thiền lâm. Để cùng người đó có thểt cùng nói chuyện. Ta từng hỏi một viên quan lại: “Có các vị Tăng tốt trong các sơn môn không ?”. Viên quan lại nói: “Có hai vị Tăng là Hy và Mậu ở chùa Bắc Tự và Thuỵ Quang[50] được gọi là tốt vậy”. Ta lại hỏi: “Ngoài ra, còn trong các tôn Thiền và Luật khác lại không có ai nữa vậy ư ?”. Quan lại thưa: “Nhà Nho thì tôn về sĩ hạnh, hàng Tăng thì bàn về đức nghiệp. Như hai vị Tăng Hy và Mậu đã từng ba mươi năm trời chân không bước ra khỏi cổng chỉ mặc áo vải thô sơ, không màng chi đến thanh danh lợi dưỡng. Nên người từng chuộng cái tiết tháo đó mà kính trọng như bậc thầy. Nếu như đăng toà thuyết pháp, đại Phật tuyên giáo hoá, thì cơ biện tự tại còn như gọi là bậc thiện tri thức, thì chẳng phải kẻ hèn ngu dại này hay hiểu được”. Tới một ngày nhàn hạ, ta đã tới thăm hai bậc thượng nhân Hy và Mậu, được coi cái hạnh thanh bạch của các ngài, nhất nhất đúng với lời viên quan đã nói. Ta bất giác và nhớ lại, đất Tô Tú[51] cũ này, được mệnh danh là nơi có phong tục tốt đẹp, nay xem quan lại già nua này mà còn hay phân biệt được chỗ ưu liệt giữa quân tử và tiểu nhân, nữa là người thức giả vậy ư ? Lang Gia nói : “Nếu như chỗ viên quan lại nói, thì thật là lời bàn cao quí, xin ghi lại đây để bảo cho những người chưa được nghe biết”.
106.– Linh Nguyên nói:[54] “Sư huynh chùa Đông Sơn, có thiên tư đặc biệt khi nói lúc lặng thinh đều giữ trung độ. Tuy chỉ nói những câu chuyện tầm thường, nhưng có lý do rất xác đáng. Người các nơi muốn bắt chước sư huynh, nhưng nếu chẳng dối trá thời vụng về, trọn chẳng hay kịp được. Tìm ngay cả trong những con người xưa cũng không thể có được. Tuy vậy, nhưng sư huynh vẫn khiêm nhượng, để dạy đời rất tha thiết, chẳng khác gì như đói được ăn, khát được uống. Và thường nói: “Ta không có các ông Pháp Ninh[55] và Khắc Cần thì thật là kẻ tội nhân trong pháp môn vậy”.
107.- Đạo học và hạnh nghĩa của Linh Nguyên thì thuần thành hậu đức,[56] có phong độ của Cổ nhân, trọng nơi yên tĩnh và ít nói, rất được kẻ sĩ phu đại tôn kính. Ngài thường nói: “Chỗ khinh hốt (không lưu tâm) của mọi người là ở chỗ cẩn thận của Thánh nhân, huống chi người làm chủ một tùng lâm thay Phật tuyên hoá, nếu chẳng phải là bậc hành giải tương ưng, đâu hay lại làm được như vậy ư! Điều cốt yếu là phải tự kiểm trách từng giờ từng phút, chớ để cho thanh danh lợi dưỡng nó manh nha nơi tâm. Hoặc giả Pháp lệnh có chỗ chưa được người tin, kẻ nột tử có chỗ chưa qui phục, thì phải thoái lui để tư duy và tu đức, chờ đợi ở ngày mai. Ta chưa từng thấy người giữ mình chính đính mà chốn tùng lâm lại chẳng thịnh trị. Chính chỗ bảo rằng, xem cái hình dáng của người có đức, mà có thể khiến tiêu tan được cái ý nghĩa của người, thật là nghĩa đó vậy”.
.
108.– Linh Nguyên bảo Viên Ngộ rằng[57]: “Kẻ nột tử tuy có cái tư chất thấy đạo, nếu họ chẳng súc tích nuôi dưỡng, một khi đem ra dùng, tất nhiên không thể tránh khỏi nhiều thô bạo, như vậy chẳng những vô bổ cho giáo môn, mà còn chuốc lấy hoạ nhục nữa”.109.– Viên Ngộ Thiền Sư nói: “Người học đạo cần giữ lòng tin, gây niềm tin ở chỗ thành. Giữ lòng thành ở trong, vậy sau mới khiến chúng không nghi hoặc. Giữ lòng tin ở mình, mới có thể dạy người không dối trá. Duy tin cùng với thành hai bên hỗ trợ cho nhau, mới đưa đến chỗ không lỗi lầm. Thế nên biết, nếu thành mà bất nhất thời tâm chẳng hay giữ, tín mà bất nhất thời nói chẳng hay làm. Cổ nhân nói: “[58]Áo mặc cơm ăn còn thể bỏ đi được, nhưng thành và tín không thể để cho mất”. Duy bậc thiện tri thức đáng đem thành tín để dạy người. Vả lại, tâm đã chẳng có thành thật, việc đã chẳng giữ lòng tin, thì sao gọi được là bậc thiện tri thức vậy ư! Kinh Dịch nói: “Duy cái chí thành của thiên hạ mới hay hết được cái tính đó[59], hay hết được cái tính đó, mới hay hết được cái tính của con người”. Nếu tự mình đã chẳng hay hết ở mình, mà muốn mong hết ở người, thời chúng tất khinh nhờn mà chẳng theo. Tự mình đã chẳng thành thật ở trước, mà nói rằng thành thật ở sau, chúng tất ngờ mà chẳng tin. Chính là nghĩa, cạo tóc nên cạo sát da, cắt móng nên cắt sát thịt. Bởi thế nếu thành chẳng chí thiết thời vật chẳng cảm, tổn chẳng đến thời ích chẳng tới. Đúng là “thành” và “tín” không thể giây phút cách xa mình thật rõ ràng vậy”.
.
110.– Viên Ngộ nói: “Con người ai không có lỗi, lỗi mà biết hối cải, thời tất cả chẳng gì lớn hơn vậy. Từ thượng cổ đều nhận biết cải quá là người hiền, chẳng lấy việc không có lỗi làm người tốt. Cho nên, việc làm của con người có quá nhiều sự sai lầm. Bậc thượng trí kẻ hạ ngu, đều không thể tránh khỏi điều đó được. Duy có người trí hay đổi lỗi để sửa lại nết hay, còn kẻ ngu phần nhiều lại trang sức để che đậy lỗi lầm. Đổi lỗi để sửa lại nết hay thời đức đó ngày một mới, nên gọi là quân tử. Trang sức để che đậy chỗ sai lầm, thời ác đó ngày càng đầy, nên bảo đó là tiểu nhân. Bởi thế, thấy việc nghĩa mà lại dời bỏ, đó là cái nạn thường tình, thấy điều thiện vui theo, là chỗ chuộng của người hiền đức. Vậy mong ông[61] hãy cùng quên đi ở ngoài lời nói là hơn vậy”.[62]112.– Viên Ngộ bảo Long Tạng Chủ[63] rằng: “Người muốn sửa trị tùng lâm mà chẳng lo việc được tình người, thì chốn tùng lâm không thể sửa trị được. Muốn được tình người mà chẳng lo việc tiếp dẫn kẻ dưới, thời tình người không thể thu được. Chuyên cần tiếp kẻ dưới mà chẳng biện biệt được người hiền kẻ bất tiếu, thời kẻ dưới không thể tiếp được. Lo việc biện biệt người hiền kẻ bất tiếu, nếu lại ghét kẻ hay nói lỗi, ưa kẻ thuận theo mình, thời không thể phân biệt được người hiền kẻ bất tiếu. Duy kẻ sĩ hiển đạt thì chẳng ghét kẻ hay nói lỗi, chẳng ưa kẻ thường thuận mình, mà chỉ lấy cái đạo lý để nói theo, nên không những thu được tình người mà chốn tùng lâm cũng sửa trị vậy”.
115.– Viên Ngộ bảo Diệu Hỷ rằng[67]: “Đại phàm lúc động hay tĩnh đều phải giữ gìn trước sau. Vì thế nếu làm được điều tốt tất nhiên việc tốt sẽ thành tựu, điều tốt đã có ở trước tất nhiên phải có ở sau, giữ gìn sau cũng như trước thời sự việc không thất bại. Người xưa nói: “Tiếc vậy thay! Áo chưa thành mà lại chuyển làm xiêm, đường trường 100 dặm mới đi được 90 dặm đã ngừng”. Đó đều là câu than tiếc cho những sự việc chỉ có ở trước mà không có ở sau. Cho nên nói rằng: “Đều có ở trước mà ít có ở sau”. Xưa kia Hối Đường lão thúc nói: “Hoàng Nghiệt Thắng Hoà Thượng,[68] cũng là một nột tử kỳ tài, nhưng lại bị sai lầm ở lúc tuổi già. Như vậy nếu chỉ xem người ở phần trước sao được bảo đó là người hiền”
116.– Viên Ngộ Thiền Sư bảo Phật Giám rằng: “Sư ông chùa Bạch Vân, mỗi khi hành động cất nhắc một việc gì, cũng đều khảo xét những hành động của cổ nhân xưa. Sư ông thường nói: “Sự việc mà chẳng khảo xét của tiền nhân thì bảo đó là chẳng đúng phép”. Ta chỉ vì ghi nhiều được lời nói việc làm của cổ nhân mà đạt thành được chí khí. Nhưng, ta không phải là đặc biệt hiếu cổ, mà chỉ vì người đời nay chẳng đủ pháp qui để ta bắt chước. Tiên sư thường nói: “Sư ông vì chấp cổ nên chẳng biết thay đổi theo thời”. Sư ông nói: “Thay đổi thói cũ, biến đổi đạo thường, chính là mối đại hoạ của người đời nay”. Đó là điều mà ta trọn chẳng làm vậy”.
119.- Phật Giám bảo Bính Thủ Toạ rằng: “Phàm gọi là Trưởng lão, phải nên đừng ham thích bất cứ một vật gì. Nếu một khi đã ham thích một vật gì thời bị giặc ngoại vật nó làm trở ngại. Ham thị dục thời tâm tham ái sinh. Ham lợi dưỡng thời niệm bôn tẩu cạnh tranh dấy. Ham thuận theo thời kẻ tiểu nhân a dua họp. Ham thắng phụ thời núi nhân ngã cao. Ham vơ vét của dân thời tiếng ta oán phát khởi. Tóm lại mà xét cho cùng đều không ngoài ở một cái tâm. Tâm chẳng sanh thời muôn pháp tự nhiên hết. Chỗ sở đắc thường ngày đừng nên vượt qua điều răn dạy này. Ông phải gắng sức làm khuôn phép chánh đáng cho kẻ hậu học”.
122.- Phật Giám nói: “Tiên sư nói: “Sư ông chùa Bạch Vân, thường ngày tâm hồn rất phóng khoáng thông suốt, không có sự ngăn cách trong ngoài. Thấy việc nghĩa có thể làm được thời hăng hái rấn thân trước. Hay dẫn dắt những người hiền đức tài năng, không ưa thích kẻ phụ hoạ tạm bợ kết giao cẩu thả. Duy một chiếc chõng nhỏ ngồi tiêu diêu tự tại trọn ngày. Thường bảo Ngưng Thị Giả[77] rằng: “Giữ đạo an phận nghèo là bổn phận của kể nột tử. Nếu con người vì lẽ cùng, đạt, được, mất mà bỏ mất chỗ giữ đạo thời chưa có thể nói được đạo vậy”.
124.- Phật Giám bảo Long Nhã Tài[80] Hoà Thượng rằng: “Muốn thay đổi cái tệ của tiền nhân, không thể bỏ ngay một lúc được. Nên phải nương vào từng việc nào đó mà thay đổi, để kẻ tiểu nhân chẳng ngờ vực, thời mọi người không oán hận. Ta thường nói: “Người trụ trì có ba bí quyết: 1- Thấy rõ sự việc. 2- Hay thực hành theo. 3- Quả cảm quyết đoán. Ba điều này mà để thiếu một, thời thấy sự việc không được rõ ràng, lại bị kẻ tiểu nhân khinh nhờn, tất ngôi trụ trì sẽ không được chỉnh đốn vậy”.
125.- Phật Giám nói: “Phàm làm chủ một ngôi chùa, quí ở chỗ noi chí tiết tháo, làm hạnh thanh tịnh. Giữ lòng tin lớn để tiếp đãi bốn phương nột tử. Nếu có một mảy may ý nghĩ hẹp hòi lệch lạc tự dối mình mà không chịu bỏ, tuy có đạo đức như cổ nhân, thời người học cũng ngờ mà chẳng tin vậy”.
134.– Cao Am nói[92]: “Đạo đức nhân nghĩa không phải để dành riêng cho cổ nhân, mà người đời nay cũng vẫn có phần. Nhưng vì trí thức của họ chẳng sáng tỏ, học vấn của họ chẳng sâu rộng, căn khí không thanh tịnh, chí khí lại hẹp kém, thực hành thì bất lực, lại bị thanh sắc nó di chuyển, nên họ chẳng tự giác được đó vậy. Bởi lẽ, nếu họ chỉ nương vào vọng tưởng tình niệm, tích tụ ngày một đặc dày, nay đem trừ khử ngay một lúc tất không phải dễ. Vì thế nên họ chẳng tới được cái địa vị của cổ nhân”.
137.– Cao Am khi ở chùa Vân Cư, thường thấy các nột tử trong chốn Thiền thất, có người chẳng hợp với cơ[101] của họ, liền nắm tay áo, nghiêm sắc mặt mắng rằng: “Cha mẹ nuôi dưỡng thân các người, thầy bạn gây thành chí các người. Các người không phải lo lắng về bức bách của đói rét, không phải gánh vác về công việc lao khổ của chinh chiến phu phen. Ở nơi đây, nếu chẳng bền chí xác thực tinh tiến để thành biện đạo nghiệp, thời ngày kia còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ thầy bạn vậy ư”. Kẻ nột tử nghe lời nói đó, có người bất giác rơi lệ mãi không thôi. Hiệu lệnh của người thật nghiêm chỉnh như thế
138.– Cao Am ở chùa Vân Cư, mỗi khi nghe thấy kẻ nột tử có bệnh, di chuyển tới nhà Diên Thọ[103], ngài thân tới hỏi han an ủi, coi như chính mình. Ngài thường sớm tối trông nom săn sóc, dĩ chí tự tay sắc thuốc nấu cơm, nếu chẳng nếm trước thời không cho người bệnh ăn. Hoặc gặp khí trời hơi rét, thời vỗ vào lưng họ mà nói: “Áo mặc chẳng đơn chiếc vậy ư ?”. Hoặc gặp thời tiết nóng bức, thì quan sát sắc mặt họ và nói: “Có nóng nực quá chăng ?”. Bất hạnh mà không thể cứu sống được thời chẳng hỏi bệnh nhân có của riêng hay không, hết thảy chỉ dùng của thường trụ để lo tống táng. Vị Tri sự nếu hoặc có lời ta thán, thì Cao Am quở mắng và nói: “Xưa kia Bách Trượng vì những người bệnh già mà lập ra thường trụ, còn người sẽ không bệnh không chết hay sao”. Thức giả khắp bốn phương cho Cao Am là người cao quí. Kịp tới lúc lui gót chùa Vân Cư về chùa Thiên Thai, nột tử cùng theo ngài có tất cả năm mươi người. Hoặc giả có người không thể đi theo ngài được, đều phải rơi lệ từ biệt. Đó chính là do cái đức của con người mà cảm phục được lòng người như vậy.
142.– Cao Am nói:[113] “Tiên Sư thường nói: “Đi hành cước khi bước ra khỏi cửa, đến những các tự viện nhỏ, phần nhiều gặp những việc không như ý. Nhân khi nghĩ đến việc Pháp Nhãn[114] tham thiền ở Địa Tạng, Minh Giáo[115] yết kiến, Thần Đỉnh liền chẳng thấy vướng bận phiền não nữa vậy”.
144.– Cao Am ở chùa Vân Cư, thấy nột tử có kẻ nào hay soi bói cái lỗi xấu bí ẩn của người, ngài liền thung dung bảo họ rằng: “Sự việc chẳng nên như thế. Người trong chốn thiền lâm, phải lấy tu đạo làm việc cấp bách, lấy hoà hoãn làm đích sửa mình. Đâu lại buông lung ở lòng yêu ghét, để phá hoại chỗ tiến thoái của người”. Ngài dạy cặn kẻ như thế đó. Cao Am lúc đầu không vâng mệnh trụ trì chùa Vân Cư. Phật Nhãn có gửi thư khuyên rằng: “Chùa Vân Cư là danh lam bậc nhất ở Giang Tả[117], nơi có thể an chúng hành đạo vậy ngài không nên khiêm nhượng mà cố từ”. Cao Am nói: “ Từ khi có tùng lâm trở lại đây, người học đạo bị cái danh mục ấy, nó làm bại hoại mất tiết nghĩa của con người không phải là ít”. Phật Giám nghe thấy thế liền nói: “Chỗ đi và chỗ tới của Cao Am, người nột tử ít ai sánh kịp”.
145.– Văn khuyên nhủ an ủi các lão bệnh Tăng của Cao Am có chép: “Bần đạo thường xem Tạng giáo, xét kỹ ý Phật, không cho phép các Tỷ khưu ngồi hưởng thụ những món ăn mà họ không dự phần công lao, để họ sinh tâm lười biếng, dấy kiến nhân ngã. Nên cứ mỗi buổi sáng, Phật và các đệ tử mang bát đi khất thực, chẳng lựa chọn nhà sang hèn, không phân biệt kẻ cao thấp, để khiến cho mọi người đều được phúc bằng đẳng như nhau. Mãi về sau này mới có cái tên gọi là thường trụ là cốt vì các lão bệnh Tỷ khưu không thể đi khất thực được mới lập ra, thật sự không phải là những người trẻ khoẻ được dự phần ăn dùng trong đó. Kể từ khi đức Phật diệt độ trở về sau, trong thời chính pháp các Tỷ khưu vẫn còn theo lề lối khất thực như trước, nhưng từ thời Tượng quí trở lại đây, khắp chốn tùng lâm tại Trung Quốc, tuy chưa bỏ hẳn hạnh khất thực, nhưng chỉ suy cử những người có đầy đủ tài đức ra thực hiện việc đó. Về sau, những lợi dưỡng đã xin được, lại tích góp lại làm của chiêu đề[118] để cung dưỡng đại chúng, rồi dần dần bỏ mất cái quy luật khất thực hằng ngày. Nay nghe thấy một số ít các chùa, người trụ trì lại chẳng biết đến nhân quả, chẳng cung dưỡng lão Tăng, trái ngược với ý Phật, thương tổn đến pháp môn. Nếu chẳng trụ ở tự viện thì các lão Tăng sẽ an trụ ở đâu? Sao họ không nghĩ lại, của cải của thường trụ vốn dĩ vì ai mà đặt ra. Nên phải xét, dùng tâm như thế nào để hợp với tâm Phật, làm hạnh như thế nào để hợp với hạnh Phật. Xưa kia, ngày đức Phật còn tại thế, hoặc có ngày ngài không tới dự thỉnh trai ở nhà đàn việt, giam mình nơi tịnh xá, thì đi khắp các Tăng phòng, thăm hỏi người bệnh già, nhất nhất đều an ủi, nhất nhất đều chu biện, lại còn khuyên bảo các Tỷ khưu nên cung kính lẫn nhau, tuỳ thuận những phương tiện, để gạt bỏ mọi hiềm thù sân hận. Đó là cái khuôn phép mẫu mực của đấng Điều Ngự Sư[119] thống lý tất cả đại chúng vậy. Người thời nay, lại phóng túng tiêu dùng của thường trụ, tư cấp cho miệng lưỡi xác thân, giao kết với kẻ quyền quí, làm cách tuyệt người già và người bệnh. Thậm chí lại còn lấy của cải của Tăng chúng giấu làm của riêng mình. Tâm Phật và hạnh Phật không còn được lấy một vậy. Thật thương thay! Bi đát thay! Cổ đức nói: “Lão Tăng là tiêu bảng của sơn môn”. Chốn Thiền môn đời nay, trong số Tăng sĩ hàng một trăm người, không có lấy một người là bậc lão thành. Già mà không được thu nạp, càng thấy rõ ràng sống lâu là vô bổ, chi bằng chết non còn hơn. Vậy tôi mong các Tăng sĩ trong chốn tùng lâm đương thời, hãy tuân theo lời Phật, nối dõi ngôi Tổ, nuôi dưỡng an ủi người già người bệnh, tuỳ theo tài vật của thường trụ có hay không mà cung cấp cho thích nghi, đừng để cho kẻ ngu muội chuyên quyền làm tiêu diệt qui củ giáo pháp, mà vời lấy cái quả báo chết non ở đời sau. Rất tha thiết mong các hàng Tăng sĩ nhận xét thêm cho kỹ”.
146.– Giác Phạm Hoà Thượng đề vào cổng chùa Linh Nguyên rằng: “Linh Nguyên lúc đầu không nguyện ra đời hoằng đạo, chí nguyện đó vững chắc như bờ đê kiên cố. Trương Vô Tận[120] lúc ấy phụng sứ mạng đang làm quan đất Giang Tây thường thường đến chùa mời ngài ra ứng thế, nhưng ngài không ưng thuận. Thời gian sau tự nhiên ngài thay đổi ý kiến và nói: “Chốn Thiền lâm suy vi, người hoằng pháp tuy nhiều, nhưng phần nhiều lại mượn cớ trốn tránh trách nhiệm để hưởng an nhàn, nếu ta không gấp ra tay chống đỡ, thì nó sẽ đổ nát chỉ trong gang tấc vậy”. Bởi thế nên ngài mới khai pháp ở chùa Thái Bình đất Hoài Thượng. Khi bấy giờ ta (Giác Phạm) Đông du tới cửa chùa đó, thấy chốn tùng lâm đã được chấn chỉnh, tông phong cũng được hưng thịnh, mà ngờ rằng như thời hưng thịnh của Bách Trượng vẫn còn không suy giảm. Sau đó mười lăm năm ta lại thấy tấm bảng đó trong nơi trượng thất của Phùng Nguyên, đọc xong rồi bỏ, bỗng nhiên ta sửng sốt như thấy vẻ đạo cốt của Linh Nguyên vậy. Hơn thế nữa, Sơn Cốc còn đem bảng này viết bằng lối chữ vuông thật lớn, trong đó có thêm lời kích lệ rằng: “Than ôi! Nếu khiến những người trong thiên hạ làm hạnh pháp thí, mà đều tuân theo lời của Linh Nguyên để trụ trì, thời lo gì Tổ đạo chẳng hưng thịnh vậy thay!”. Truyện có chép: “Người hay hoằng truyền đạo, không phải đạo hay hoằng truyền người”. Linh Nguyên đã ứng dụng được điều này”..
147.– Trong Biện Ninh thiên của Qui Vân Bản Hoà Thượng chép:[121] “Bản triều có Phú Trịnh Công Bật[122] hỏi đạo ở Đầu Tử Ngung[123] Thiền Sư, viết thư đi lại bằng những bài kệ tụng, gồm mười bốn trang giấy, được khắc vào bia đá ở hai bên tả hữư hành lang chùa Hông Phúc thuộc Thai Châu, để được thấy rõ ràng chỗ trang nghiêm rực rỡ về chủ pháp của tiền bối, và nhận thấy sự tin đạo sâu xa của hàng vương công quí nhân. Trịnh Quốc Công là một trọng thần của xả tắc tới lúc tuổi già còn biết xu hướng tìm đạo như thế, thì Ngung Thiền Sư phải có tư tưởng đặc sắc hơn người. Quốc Công tự bảo rằng chính ông đã được chỗ dạy bảo cảnh sách của Ngung Thiền Sư mà phát sinh liễu ngộ. Trong đám sĩ phu thâm tín Phật đạo, hay quên cả tuổi tác thế vị. phát khởi tâm tinh tiến mạnh mẽ, chỉ mong đạt tới chỗ chứng ngộ triệt để rồi sau mới thôi. Như Dương Đại Niên[124] Thị Lang, Lý Hoà Văn[125] Đô Uý được gặp Quảng Tuệ Liễn[126], Thạch Môn Thông và Từ Minh chư đại lão. Những các cơ duyên như kích dương thù xướng[127] còn thấy chép nhan nhản trong các Thiền thư. Như Dương Vô Vi thì tham thiền nơi Bạch Vân Đoan. Trương Vô Tận nơi ngài Đâu Xuất Duyệt[128]đều từ chỗ gõ cửa đánh xênh[129] mà đưa tới phần chứng ngộ triệt để được gốc nguồn. Chẳng phải chỉ những như thế mà thôi. Thời cận đại lại có Trương Vô Cấu[130] Thị lang, Lý Hán Lão[131] Tham chánh, Lã Cư Nhân[132] học sĩ, đều hỏi đạo ở Diệu Hỷ Lão nhân. Khi đăng đường lúc nhập thất[133] đều bảo là những bạn đạo xuất trần. Hành động yêu ghét thuận nghịch, mạnh như chớp giựt sấm vang, không câu nệ chỗ kiêng kỵ của thế gian, khiến người thấy phải khép nép lo sợ mà chẳng lường được bờ bến. Song le, những người hiền sĩ quân tử là cốt cùng nhau tìm đến không nhàn tịch mịch, ngưng tâm nơi thiền tịch để phát huy cái phần chân tâm sẵn có của mình mà thôi. Người đời sau đã chẳng bắt chước được cái khuôn phép mẫu mực của tiên đức lại chuyên việc ron ngót nịnh bợ để mog cầu tiến thân hiển đạt. Phàm người lấy chức vị trụ trì để dương lên làm bậc Trưởng lão, thì thường thường viết tên trên thư thiếp để xưng mình là Tăng trong môn hạ. Cung phụng người thí chủ trước kia lấy đó làm ân phủ, rồi đem của thường trụ Tăng đùm bọc nịnh bợ hiến dâng, làm trò cười cho kẻ thức giả mà vẫn điềm nhiên chẳng biết hổ. Than ôi! Sa môn Thích tử của đạo ta, một bình một bát như mây chạy chim bay, không lo sợ phần đói rét bức bách, chẳng luyến ái về con cái, tơ lụa ngọc ngà, mà lại muốn khom lưng uốn mình, rón rén run sợ để tự chuốc lấy sự việc ti tiện nhục nhã như thế vậy ư! Người được gọi là ân phủ (ân hậu sâu dày), chỉ là điểm xuất phát phần riêng biệt của một mình mình, không chỗ y cứ, nhưng vì một người càn bậy tầm thường xướng xuất việc đó ở trước, nên trăm kẻ càn bậy tầm thường lại phụ hoạ theo sau, rồi phỏng theo mà tranh nhau cung phụng lại họ, thì quả thật là việc thấp hèn nhỏ mọn vậy. Người làm cho phong giáo suy đồi chẳng gì tệ hại hơn bằng kẻ nịnh bợ. Quả thật chỗ tiêm nhiễm gian tà dối trá, tuy là đoan nhân chính sĩ, nếu một khi đã bị nó xâm nhập, thời tất phải hãm mình vào chỗ bất nghĩa, thất đức mà không thể cứu được. Thật đáng thương thay! Tỷ khưu phá pháp, bị ma khí ám ảnh, nói láo nói sằng tự đắc, giả hiện thân tướng người trí thức, nhận đại lão chốn thiền lâm bảo đó là sư thừa, nịnh người sang trọng ở giữa đường bảo đó là tông thuộc, tỏ thái độ cung kính chẳng đợi mời, mở đầu mối phá hoại nơi chánh pháp. Người bạch y để ngồi ngạo nghễ trên giường, còn mình lạy quỳ lạy dưới đất, bẻ cong điều cấm chế của đức Phật, làm nhuốc nhơ thậm tệ tới tông phong. Sự suy đồi của đạo ta đến như thế là cùng cực vậy. Than ôi! Trời ghi quỷ chép những tội trạng, đáng muôn phần chết làm thế nào mà chuộc lại được. Đó chẳng phải đều từ tội trạng của con người nịnh bợ mà ra vậy ư? Luận Nguyên Giáo của Minh Giáo Tung Thiền Sư chép: “Bậc cao Tăng thời xưa, khi yết kiến Thiên tử cũng còn chẳng chịu lễ bày tôi. Dự thảo chế thư thời gọi rằng quốc sĩ, rằng vương sư, Tăng Viễn[134] ở Chung Sơn, khi xe loan nhà vua tới cửa, vẫn ngồi trên giường không nghinh tiếp, Tuệ Viễn[135] ở Hổ Khê, lúc Thiên tử tới đất Tầm Dương có chiếu mời, cũng chẳng chịu ra khỏi núi”. Đương thời đó, sự đãi người như thế, tôn đức như vậy, nên cái đạo của Thánh nhân được hưng thịnh. Đời sau, những người hâm mộ cao Tăng thì khi giao thiệp với công khanh đại phu, còn không được đối đãi với phần lễ nghi của hạ sĩ. Xét phần xuất xứ của họ, đã chẳng bằng chỗ tự đắc của người thường, đâu được như thái độ yết kiến Thiên tử của Tăng Viễn vậy ư? Đâu được như thái độ tự tại của Tuệ Viễn vậy ư? Như vậy mà mong đạo của ta hưng thịnh, sự tu của chúng ta tiến đạt, đâu có thể được vậy ư? Cũng vì thế mà ta không thể không rơi lệ. Niên hiệu Thuần Hy, năm Đinh Sửu, ta thôi công việc chùa Hiền Ân, ngụ tại một làng xóm nhỏ tại Tây Sơn đất Bình Điền, nhân chỗ mắt thấy tai nghe ở những ngày gần đây, nhận xét thấy những sự việc phần nhiều là giả trá, làm suy tàn mất thói xưa. Lời nói của ta chẳng đủ để cân nhắc nặng nhẹ liền vội viết ra đây để tự cảnh sách mình!”.
.
148.– Viên Cực Sầm[136] Hoà Thượng làm bài Bạt rằng: “Đời Phật cách xa, chính tông đạm bạc, phong hạnh phai mờ, đến chỗ cùng cực. Bậc tiền bối thì tàn tạ, kẻ hậu sinh chưa nghe tên. Khuôn phép sẵn có của tùng lâm, gần tời lúc hoàn toàn sụp đổ. Ví có người đứng ra phù trì, lại trái lại làm người nô bộc.[137] Nay xem thiên Biện Nịnh của Bản Thiền Sư núi Sơ Sơn, lời thì xa mà ý lại rộng, thật là thâm thiết rõ ràng, rất có thể là những liều thuốc hay để chữa bệnh hiểm nghèo. Nhưng những kẻ bình thường xằng bậy, tri thức kém cỏi đen tối chìm đắm trong lãnh vực tà nịnh thì tất lấy vị đề hồ làm độc dược vậy.149.- Thư của Đông Sơn Không[138] Hoà Thượng trả lời Dư Tài Mậu hỏi mượn tiền rằng: “Trước đây hân hạnh được ông hạ cố rất nồng hậu. Sau thời gian cách biệt lại tiếp được hụê thư, tôi tự rất lấy làm hổ thẹn. Tôi vốn là người an phận nơi núi rừng, cùng với đời xa cách, Tài Mậu hình như đã biết rõ. Nay tôi tuy làm ngôi Trưởng lão trong chốn phương trượng, cũng chỉ là Không Thượng Toạ như ngày xưa không khác. Vì của cải của thường trụ có hay không, nhất nhất đều giao phó cho người chủ sự, sổ chi thu xuất nhập cũng đều chẳng hề để mắt tới, chẳng chứa chấp áo bát không dùng của thường trụ, chẳng theo lời mời ở bên ngoài, không cầu cạnh ở ngoại viện, chỉ tuỳ theo duyên mà ở, chẳng hề tính kế ngày mai. Tài Mậu đã lấy chỗ đạo tình quen biết cũ mà nhắc tới, thế nên cùng nhau hãy cùng quên “vật” và “ngã” để cùng vui ở đạo. Nay thấy trong thư gởi tới, ông cậy tôi mượn chút tiền, không biết ông muốn mượn tiền đó, là tiền ở nơi thường trụ hay ở Không Thượng Tọa vậy ư? Nếu xuất tiền ở nơi Không này, thì Không cũng chẳng có gì, nếu từ nơi thường trụ thì là lạm dụng của riêng của thường trụ. Một khi đã lạm dụng của thường trụ dùng vào việc riêng thời phạm tội ăn trộm. Lẽ đâu bậc thiện tri thức mà lại trộm dùng của thường trụ vậy ư? Ông đã dự định vào chốn Đế hương (Kinh Đô) để tìm việc tốt, thì không nên làm những việc như thế ở nơi tự viện. Ông là người đất Mân, chỗ thấy chỗ biết của ông đều là chỗ thấy biết về Trưởng lão của đất Mân. Vì, khi một Trưởng lão đó trụ trì một tự viện nào, thì trộm cắp của thường trụ làm của riêng mình, hoặc dùng để kết bạn với quí nhân, hoặc dùng tư cấp người thế tục, hoặc dùng để tiếp đãi người mình quen biết, mà chẳng nghĩ những của cải đó là của thập phương thường trụ chiêu đề Tăng. Đời nay những loài mang lông đeo sừng để đền bù những món nợ trước đó, phần nhiều là những bọn người ấy vậy. Đức Phật đã nói rõ, thật đáng run sợ! Những năm gần đây, tự viện tịnh xá bị tàn phế, Tăng đồ thì vắng vẻ, đều là lỗi ở bọn ấy mà ra. Vậy xin ông chớ để tôi nằm trong hàng ngũ của bọn ấy. Quả thật ông thấy thế mà tin lời nói của tôi, thời dù chùa khác có nhận lời hứa cho ông mượn tiền, ông cũng nên chối từ mà đừng nhận, nếu không, thời trên đường hành trình Kinh đô của ông, chưa thể lường được, lời nói tuy trái tai, chẳng biết ý ông thế nào? Thời tiết giá lạnh, ông nên giữ gìn ngọc thể trên bước đường dài”.
Thiền Lâm Bảo Huấn.
Quyển thứ hai.
Hết.
[1] Biểu Xuất sư. Trạm Đường Khai ngộ, nhờ được nghe câu ! “Cung trung Phủ trung câu vi nhất thể”. Trong cung trong phủ đều là một thể” trong bài Xuất sư biểu của Gia Cát Lượng.
[2] Chính. Chính là con đường thẳng.
[3] Quyền. Quyền là con đường tắt, con đường bất thường, tạm đặt ra trong lúc cần dùng rồi lại bỏ đi.
[4] Triệu Châu. Tức Triệu Châu Quan Âm Viện tên là Tòng Thẩm Thiền Sư, pháp tự của Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư, ngài nói ra công án này, thuộc tắc thứ 45 trong Bích Nham Tập và Triệu Châu Lục.
[5] Câu này trích trong văn bia chùa Gian Thê Đầu Đà.
[6] Câu này ý nói đạo đang lúc suy vi trong thời mạt pháp.
[7] Đoạn này nói các Tỷ khưu thời Mạt pháp không kịp được với cái đức độ của cổ nhân, và răn dạy phải chọn bạn tốt để giao tế.
[8] Tượng quí. Thời Tượng pháp và Mạt pháp.
[9] Phúc Nghiêm Nhã. Phúc Nghiêm Lương Nhã Thiền Sư, pháp tựcủa Đổng Sơn Thủ Sơ, đời thứ 8 phái Thanh Nguyên.
[10] Đại Ninh Khoan. Đại Ninh Khoan Đạo Thiền Sư, pháp tự của Thạch Sương Sở Thiền Sư, đời thứ 11 phái Nam Nhạc.
[11] Tưởng Sơn Nguyên. Tán Nguyên Giác Hải Thiền Sư, pháp tự của Thạch Sương.
[12] Thuý Nham Chân. Thuý Nham Khả Chân Thiền Sư.
[13] Đại Sĩ. Người có tam quảng đại hay đảm đương được Phật sự.
[14] Long tượng. Long là dòng vua loài thuỷ tộc, tượng là voi vua loài thú trên cạn, dụ cho người có tài xuất chúng.
[15] Đoạn này ý nói sự siêu việt của nột tử không phải là mục tiêu của người thường.
[16]Tử Tâm Tức Ngộ Tâm Thiền Sư, pháp tự của Hoàng Long Tổ Tâm Thiền Sư, đời thứ 13 phái Nam Nhạc.
[17] Đoạn này ý nói cổ nhân hiếu học là tự nơi đáy lòng thành thật phát ra.
[18] Phật Nhãn. Tức Thanh Viễn Thiền Sư ở chùa Long Môn thuộc Thư Châu.
[19] Câu này đại ý nói người tiếp chúng phải thích nghi cả vội và khoan để khỏi mất đạo trung dung.
[20] Trường Linh Trác . Trường Linh Thủ Trác Thiền Sư, pháp tự của Linh Nguyên Thanh Thiền Sư, trụ trì chùa Thiên Ninh ở Đông Kinh, đời thứ 14 phái Nam Nhạc.
[21] Liên thành. Nước Triệu có viên ngọc Bích Biện Hoà. Chiêu Vương nhà Tần muốn đem mười lăm thành trì liền nhau để đổi lấy viên ngọc quí. Nước Triệu bèn phái khiến Tương Như đem ngọc Bích vào nhà Tần. Tương Như nhận thấy Tần Vương, duy chỉ có tâm yêu thích viên ngọc Bích, không có ý định cắt thành để đổi. Tương Như bèn nói dối rằng : “Viên Ngọc Bích có tỳ vết, xin cho thần xem lại”. Vua trao ngọc Bích cho Tương Như. Tương Như liền cầm ngọc Bích tựa vào cột mà đứng, khí tức giận xung thiên mà nói rằng : “Thần nghe những kẻ áo vải giao kết với nhau cũng còn chẳng nỡ dối nhau nữa là mang danh một đại quốc vậy ư ? Vua nếu cấp bức thần, thì đầu thần cùng với viên ngọc Bích này đều vỡ nát ở bên cột”. Vua sợ ngọc Bích vỡ, liền khiến người đỡ Tương Như ra khỏi cột, và trả ngọc Bích về cho nước Triệu.
[22] Thần Đỉnh. Thần Đỉnh Hồng Đàm Thiền Sư, người Đàm Châu, pháp tự của Thủ Sơn Niệm Thiền Sư, đời thứ 9 phái Nam Nhạc, trụ trì chùa Thần Đỉnh, người đã làm cho chốn tông môn được hưng thịnh, các môn đệ của ngài đều lỗi lạc hơn các môn phái khác. Do thế, Từ Minh để tóc dài không cắt, mặc áo rách tới tham đạo ở Thần Đỉnh. Thần Đỉnh nói : “Ta nghe nói đất Phần Dương có Tây Hà Sư Tử phải hay không ?”. Từ Minh nhớ thế mà lãnh ngộ, sau tên tuổi ngài được vang lừng bốn phương.
[23] Lâm Tế. Lâm Tế Nghĩa Huyền Thiền Sư, thuỷ tổ của Lâm Tế Tông, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận.
[24] Đoạn này ý nói, sinh tử là việc lớn, người tu đạo cần phải cảnh giới cái tâm ở lúc bình thường.
[25] Câu này ý nói, ba cõi không yên, ví như nhà lửa. Đoạn này trích trong văn sớ của Lương Thái Phó Cổ Nghị dâng vua Hán Minh Đế ở năm thứ sáu, trong đó có câu : “Phù bão hoả thố vu tích tân chi hạ, nhi tẩm kỳ nhượng, hoả vị cập nhiên, cố vị chi an”.
[26] Câu Cẩu tử không có Phật tính. Trong Triệu Châu Lục chép : “Có vị Tăng hỏi Triệu Châu : “Con chó có Phật tính hay không ?”. Ngài trả lời : “Không”. Vị Tăng lại hỏi : “Trên từ chư Phật dưới đến các loài hàm thức, đều có Phật tính, tại sao con chó lại không có Phật tính ?”. Ngài đáp : “Vì có nghiệp thức nên mói có tính”.
[27] Toàn thể đoạn này là trích lời can vua nước Ngô trong Mai Thừa Truyện sách Hán.
[28] Cổ Hoà Thượng. Linh Phong Tuệ Cổ Thiền Sư, pháp tự của Linh Nguyên Thanh Thiền Sư, đời thứ 14 phái Nam Nhạc.
[29] Câu này ý nói tốt xấu tại hoạ phúc là đều do con người tự rước lấy. Lão Tử nói : “Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của hoạ, dễ ai hay biết được tới chỗ cùng cực đó vậy”.
[30] Y Xuyên Tiên sinh. Tiên sinh đây không có nghĩa là sinh trước hay sinh sau mà có nghĩa là tiên giác giác hậu giác. Y Xuyên họ Trình, tên là Hạo, tên chữ là Chinh Thúc, người đất Hà Nam, đời gọi là Y Xuyên Tiên sinh.
[31] Đoạn này đại ý nói về cái yếu điểm bỏ vọng tìm chân, tức là xả vọng qui chân, cầu tới chỗ tâm không sinh diệt.
[32] Giác Phạm. Tức Hồng Đức Thiền Sư, tên chữ là Giác Phạm, ở chùa Thanh Nguyên thuộc Thuỵ Châu, pháp tự của Chân Tịnh Văn Thiền Sư, đời thứ 14 phái Nam Nhạc, ngài là người quảng học đa văn, có biệt tài vô ngại, và là tác giả cuốn “Lâm Gian Lục Tăng Bảo Truyện”.
[33]Thánh nhân. Thánh nhân đây chỉ vào Lão Tử. Theo sử ký ngài Khổng Tử đến nước Chu, thấy Lão Tử. Lão Tử nói : “Ta nghe người giàu sang tiễn người bằng của cải, người nhân đưa tiễn bằng lời nói. Ta tuy chẳng phải giàu sang, mà cũng lạm dụng cái hiệu của nhân giả, nay tiễn ngài bằng lời nói : “Kẻ sĩ đương thời thông minh sáng suốt, mà lại gần kề với cái chết, là vì họ hay nghị luận về người. Kẻ có tài biện bác cao rộng, mà lại hay nguy đến thân, là vì họ hay bới cái xấu của người. Người làm thần tử, hạ lại chẳng cẩn thận vâỵ ư”.
[34] Giác Phạm. là người đã phá cái thuyết Cố tháp chú biện chỗ trái của Thần Tú, phá chỗ trái của Nhị Tổ… nên Linh Nguyên chỉ Giác Phạm là người hay bới cái xấu của người.
[35] Thời vua Đức Tôn, niên hiệu Chính Nguyên đời Đường, Binh Bộ thị lang Lục Chi can vua rằng : “Minh vương không thể lấy lời mà hết được tình, không lấy ý mà tuyển chọn Tiến sĩ. Tiến thoái theo cái tình yêu ghét, ly hợp lệ ở chỗ dị đồng, thế là bỏ chỗ dây mực mà cắt đường cong, thẳng, bỏ cân lường mà lấy tay nhắc nặng nhẹ, tuy nói rằng tinh mật, nhưng sao tránh khỏi không lầm lỗi”.
[36] Ngọc châu Diệu thặng. Nguỵ Huệ Vương bảo Tề Vương rằng : “Quả nhân có một ngọc châu rất nhỏ mà hay soi sáng được tất cả đằng trước đằng sau trong phạm vi mười hai cỗ xe”.
[37] Học Dịch. Thánh nhân tuy sanh ra đã biết, nhưng chưa từng tự mình nói là ta không có lầm lỗi. Tuy là lời khiêm tốn, mà đạo lý thật không cùng tận vậy. Học dịch thời minh được cái lý cát hung tiêu trưởng, cái đạo tiến thoái tồn vong. Nên Thánh nhân phải nhiều năm để nghiên cứu cho cùng tận nghĩa kinh, ngõ hầu để chỗ thực hành mới không phạm lầm lỗi.
[38] Khế Kinh. Tiếng Phạn gọi là Tu Đa La, Tàu dịch là Khế Kinh, có nghĩa là khế lý hợp cơ, tức là cái pháp của Phật nói ra thích hợp với lý với cơ của chúng sinh.
[39] Phẩm vật. Nói gồm cả những người cao, thấp, lớn, nhỏ, thông minh, ám độn, không bỏ sót một ai.
[40] Theo Thiên Thiên Đạo sách Trang Tử. Xưa kia Tề Hoàn Công đọc sách ở trên nhà, Luân Biển đẽo bánh xe ở dưới nhà. Luân Biển buông rìu hỏi : “Thần dám mạo muội hỏi vua, vua đang đọc sách đó là sách gì ?”. Vua nói : “Lời Thánh nhân”. Biển tâu : “Thánh nhân ở đâu ?”. Vua nói : “Thánh nhân đã chết rồi”. Biển tâu : “Vậy thì vua đang đọc sách đó, đó chỉ là cái bã giả của Thánh nhân vậy”. Vua cả giận nói : “Quả nhân đọc sách, ngươi là người thợ đẽo bánh xe, sao được xen bàn tới, nếu nói được ta tha, không nói được ta chém đầu”. Biển thưa : “Đem ngay việc của thần làm mà xét, thần đây đẽo bánh xe, đẽo từ từ thời trơn tru mà chẳng chắc, đẽo nhanh thời chối tay mà chẳng vào, đẽo chẳng chậm chẳng nhanh đó là việc thích nghi ở tâm rồi ứng ra tay. Miệng chẳng hay dạy được người con của thần, người con của thần cũng chẳng hay lãnh thụ được cái diệu dụng ở thần, thần tuổi đã bảy mươi, mà vẫn là người già đẽo bánh xe. Những người đẽo bánh xe ở thời xưa, vì không thể truyền được nghề cho người mà chết rất nhiều vậy. Cho nên chỗ đọc sách của nhà vua cũng chỉ là cái bã giả của Thánh nhân thôi vậy”. Tề Hoàn Công nghe rồi rất vui mừng.
[41] Ngựa Nô ngựa Ký. Nô là con ngựa hèn, Ký là con ngựa hay, ngựa giỏi.
[42] Đoạn này đại ý nói về cái yếu chỉ của người trụ trì.
[43] Đại ý đoạn này nói rõ về địa vị người tu hành chân chính phải thích ứng với hoàn cảnh thuận nghịch để làm phưong tiện khéo léo cho sự giáo hoá.
[44] Hai thứ gió. Dịch ở chữ nhị phong, tức là suy phong và lợi phong. Theo phẩm Phật Quốc kinh Duy Ma Cật : “Lợi, suy, huỷ, dự, xưng, cơ, khổ, lạc là tám thứ gió, không làm lay động được Như Lai, cũng như bốn thứ gió thổi núi Tu Di vậy”.
[45] Suy phong. Thứ gió suy diệt.
[46] Lợi phong. Thứ gió danh lợi.
[47] Lang Gia Hoà Thượng. Tức Lang Gia Sơn Tụê Giác Quảng Chiếu Thiền Sư, pháp tự của Phần Dương Chiếu Thiền Sư, người Từ Châu, đời thứ 10 phái Nam Nhạc.
[48] Phạm Hy Văn. Họ Phạm, tên là Trọng Yên, tên chữ là Hy Văn, tên hèm là Văn Chính Công, người đất Nhã Nam, làm quan Tham Tri Chính Sự đời Tống Nhân Tông.
[49] Đức Hoà Thượng. Tức Khâm Sơn Nguyễn Đức Thiền Sư, người Nùng Châu, pháp tự của Hoàng Long Linh Nguyên Tỉnh Thắng Thiền Sư.
[50] Thuỵ Quang . Chùa Thuỵ Quang nằm trong thành Tô Châu. Vì chùa này có nhiều điềm lạ nên gọi là Thuỵ Quang.. 1- Chuông trông không người đánh tự nhiên kêu. 2- Bảo tháp phóng ra hào quang rực rỡ. 3- Trúc xanh giao nhau. 4- Rùa trắng biết nghe pháp.
[51] Tô Tú. Tú tức phủ Gia Hưng thuộc Tô Châu.
[52] Chim là loài vật, nhưng nếu nó nhìn thấy sắc mặt hung ác của con người, thì nó liền tung cánh bay đi, rồi bay liệng quan sát tới chỗ nào không có súng đạn cung tên mới đậu. Con người nếu biết ứng cơ mà làm việc cũng tương tự như vậy”.
[53] Đoạn này đại ý nói đạo học phải chú trọng ở chỗ thực hành và thệ nguyện độ sinh.
[54] Đại ý đoạn này chỉ cách dùng lời khiêm nhượng để khen ngợi tán thán các bậc sư tượng trong các tông phái khác.
[55] Khắc Ninh. Khai Phúc Đạo Ninh Thiền Sư, người Đàm Châu.
[56] Thuần thành hậu đức. Tinh nhất không tạp gọi là thuần, chân thật không dối trá gọi là thành.
[57] Đoạn này ý nói, cần phải nuôi dưỡng pháp thai, dù cả khi ngộ đạo rồi cũng còn phải ẩn náu nơi núi rừng để rèn luyện thêm định lực.
[58] Câu này trích trong sách luận ngữ.
[59] Tính đức vẹn toàn, lý luận đầy đủ, không có cái riêng tư về nhân dục.
[60] Ngu Sát Viện. Tên chữ là Kinh Thần, người đất Tiền Đường thuộc Hàng Châu, năm Nguyên Hựu thứ năm được vời làm quan Giám Sát Ngự Sử (theo Tống Sử Liệt truyện).
[61] Ông. Ông đây là chỉ vào Văn Chủ Bạ.
[62] Quên đi ở ngoài lời nói. Ý nói, nên quên đi những dấu vết của ngôn ngữ để đạt tới chỗ tự đắc.
[63] Long Tạng Chủ. Tức Hổ Kỳ Thiệu Long Thiền Sư, pháp tự của Viên Ngộ Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[64] Câu này trích trong kinh Thư.
[65] Phật Trí. Phật Trí Đoan Dụ Thiền Sư, chùa Dục Vương thuộc Minh Châu, pháp tự của Viên Ngộ Cần Thiền Sư.
[66] Nguyên Bá Đại. Tức Cảnh Nguyên Thiền Sư trụ trì chùa Hộ Quốc, pháp tự của Viên Ngộ Thiền Sư, đời thứ 13 phái Nam Nhạc.
[67] Đoạn này đại ý chỉ cho người nột tử cách xử sự phải thuỷ chung nhất quán, trước sao sau vậy.
[68] Hoàng Nghiệt Thắng. Tức Duy Thắng Thiền Sư núi Hoàng Nghiệt, thuộc Thuỵ Châu, pháp tự của Hoàng Long Nam Thiền Sư, đời thứ 12 phái Nam Nhạc.
[69] Đoạn này ý nói, công việc ứng thế của cổ đức là việc bất đắc dĩ, nhưng công việc trụ trì cũng là một việc rất thiết yếu.
[70] Bính Thủ Tọa. Trí Bính Thiền Sư chùa Nam Hoa ở Thiều Châu, pháp tự của Phật Giám Cần Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[71] Trình Thân. Ý nói cần phải thấy rõ thân thế của người đó ra sao rồi sau hãy mời nhậm chức trụ trì.
[72] Tư Không. Núi Tư Không thuộc Thư Châu, cách chừng 160 dặm phía Tây Bắc huyện Thái Hồ, nơi truyền yy bát của đệ Tam Tổ.
[73] Tuân Phật Đăng. Phật Đăng Thủ Tuân Thiền Sư, pháp tự của Phật Giám Cần Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[74] Bài khắc bia đá chùa Nam Hoa. Tô Hàn Lâm Tử Chiêm, nhân vào mùa Thu, năm đầu niên hiệu Thiệu Thánh đi qua chùa Nam Hoa có làm bài Minh khắc vào bia đá của chùa.
[75] Ngộ Thượng Toạ. Có lẽ là Cao Am Thiện Ngộ Thiền Sư.
[76] Áo vải lông. Thứ áo dệt bằng hai thứ lông chuột, mùa Đông mặc thì ấm, mùa Hạ mặc thì mát.
[77] Ngưng Thị Giả. Thiền Trụ Độ Ngưng Thiền Sư, pháp tự của Bạch Vân Đoan Thiền Sư.
[78] Đại ý đoạn này là nói rõ phần tầm đạo của cổ nhân thì khắc khổ, phần đắc đạo thì tôn quí.
[79] Tú Tử Chi. Tức Tổ Tú tên chữ là Tử Chi. Tăng người đất Thục.
[80] Long Nha Tài. Trí Tài Thiền Sư chùa Long Nha, pháp tự của Phật Giám Cần Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[81] Chân Mục. Chân Mục Chính Hiền Thiền Sư, pháp tự của Phật Nhãn Viễn Thiền Sư.
[82] Ứng Chân. Theo phiên dịch Danh Nghĩa, A La Hán dịch là Ứng Chân
[83] Đạt Quan Dĩnh. Kim Sơn Đàm Dĩnh Thiền Sư, pháp tự của Thạch Môn Thông Thiền Sư.
[84] Đoạn này nói về cách áp dụng qui củ. Qui củ chỉ có mục đích để ngự chế tình người mà chế lập vậy.
[85] Bách Trượng Thanh Qui. Bách Trượng Thiền Sư, lần đầu tiên ngài muốn chỉnh lý về qui củ trong chốn tùng lâm, tu chỉnh lại mọi việc trong Thiền Tăng và Tiền viện, nên ngài mới soạn ra bộ sách “Bách Trượng Thanh Qui” để qui định cái qui củ cho Thiền Tông.
[86] Đại ý đoạn này nói rõ con người chỉ biết trách cái lỗi của người mà không đoái biết đến cái lỗi của chính mình.
[87] Cao Am. Cao Am Thiện Ngộ Thiền Sư, pháp tự của Phật Nhãn Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[88] Lông nhỏ ở mùa Thu. Dịch ở chữ thu hào. Hào có nghĩa là lông dài và nhọn. Lông loài vật cứ đến mùa Thu thì lại mọc đợt mới nên gọi là Thu hào. Trang Tử nói : “Loài thú ở mùa Thu thường mọc thứ lông rất nhỏ”.
[89] Quân. Ngày xưa cứ ba mươi cân ta gọi là một Quân.
[90] Tiểu Xam. Tiểu Xam tương đối với đại xam, thượng đường diễn đại pháp goị là đại xam, bất thường khai thị thuyết pháp gọi là tiểu xam.
[91] Đệ tử. Dịch ở chữ Quải Tháp. Nghĩa là khoác túi đựng áo bát tức là nghĩa tuỳ tùng tham thiền nhập đạo.
[92] Đoạn này đại ý nói : “Tâm nhân nghĩa đạo đức thì thánh hay phàm cũng vẫn đầy đủ không khác, mà chỉ khác nhau ở chỗ đạt được hay không mà thôi.
[93] Thành Khô Mộc. Khô Mộc Pháp Thành Thiền Sư, pháp tự của Phù Dung Giai Thiền Sư, đời thứ 12 phái Thanh Nguyên.
[94] Xa hoa. Dịch ở chữ khinh phì, Khinh là nhẹ, nghĩa là mặc áo lông cừu nhẹ; Phì là béo tức là cưỡi ngựa béo, ý nói xa hoa.
[95] Khu biệt. Khu biệt căn cơ.
[96] Trao phó. Trao phó y bát tâm ấn.
[97] Thối nát. Dịch ở chữ Lăng trì. Lăng trì là hình phạt xử tội xẻo thịt ra từng mảnh, ý nói thối nát.
[98] Kham Thiền Sư chùa Dục Vương. Vô Thị Giới Kham Thiền Sư, pháp tự của Linh Trường Trác Thiền Sư. Thiền Sư là người cương nghị, tới chỗ đại chúng đều hợp với pháp tắc xưa, đương thời đặt cho tên là Kham Thiết Diện.
[99] Vĩ Thiền Sư chùa Ngưỡng Sơn. Hành Vĩ Thiền Sư, pháp tự của Hoàng Long Nam Thiền Sư. Thiền Sư là người tính khí cương trực, làm việc theo đúng khuôn phép. Sai người nào làm việc gì thì không ai dám trái lệnh. Như việc từng đem mười hai người giao cho Duy Na, tới ngày mai những người này phải có mặt ở Phương Trượng đường. Kịp tới giờ hội hợp, lúc điểm danh lại thiếu một người. Vĩ Thiền Sư hỏi, người đó là ai ? Thị giả thưa : “Đó là Tuỳ Châu Vĩnh Thái”. Thủ Toạ nói : “Thái đi chơi núi chưa trở về” xin thỉnh vị Tăng khác sung vào cho đủ!”. Vĩ Thiền Sư bừng sắc mặt không vui. Chợt có người nói rằng : “Vĩnh Thái hiện còn ở nhà, đó là Thủ Toạ đem giấu đi một nơi”. Vĩ Thiền Sư nghiêm sắc mặt rồi khiến người tìm bằng được Vĩnh Thái, Vĩnh Thái lúc đó, mới tự trình bày tình thực là vì mình vụng về và yếu đuối, sợ hỏng mất việc được giao phó nên tự lẫn tránh, còn Thủ Toạ quả thật chẳng biết chi về việc này. Vĩ Thiền Sư liền cho đánh chuông tập chúng và nói : “Mờ tâm dối chúng là điều người khác chẳng dám làm, nữa là ngôi Thủ Toạ là chức chia toà ngồi trao đạo pháp, đó là cái chức Tiên sư đã ban cho mà lại tự phá hoại vậy ư. Thế rồi cả hai người đều bị tội xuất viện, bởi thế mà chúng nhân đều phục cái lẽ công bằng đó. Thái về sau nối pháp ở núi Hoàng Nghiệt. Thủ Toạ ở núi Qui Sơn, nối pháp Hoàng Long Thiền Sư. Theo Tăng Bảo Truyện.
[100] Lại thích ngủ trưa. Dịch ở chữ túc hưng. Túc hưng có nghĩa là dậy sớm.
[101] Cơ. Chỗ khế hợp giữa tâm năng hoá và sở hoá.
[102] Thả Am. Thả Am Thủ Nhân Thiền Sư, pháp tự của Ô Cự Hành Thiền Sư.
Dật Sự. Sự việc ghi chép trong lúc nhàn rỗi thư thả.
Dật Sự. Sự việc ghi chép trong lúc nhàn rỗi thư thả.
[103] Nhà Diên Thọ. Nhà để nuôi dưỡng người già và bệnh. Xưa kia mỗi tùng lâm đều có lập “An Lạc Đường” để dành riêng cho các lão Tăng, và “Diên Thọ Đường” dành cho các bệnh Tăng.
[104] Phật Ấn. Liễu Nguyên Phật Ấn Thiền Sư núi Vân Cư, pháp tự của Khai Thiên Kiêm Thiền Sư.
[105] Nơi nghĩ ngơi tĩnh dưỡng. Dịch ở chữ Yến hưu.
[106] Tuổi tòng tâm. Tuổi 70, tức là đến tuổi muốn làm công việc gì cũng đều theo tâm mình muốn mà không vượt ra ngoài phép tắc qui củ. Sách Luận Ngữ chép : “Ta mười lăm tuổi mà chí ở việc học, 30 tuổi mà tự lập, 40 tuổi thì không hoặc, 50 tuổi biết được thiên mệnh, 60 tuổi tới chỗ nhĩ thuận, 70 tuổi thì tòng tâm, chỗ muốn không vượt ngoài qui củ”.
[107] Sao Trường Canh. Sao buổi sớm, phía Đông có sao Khai Minh gọi là Kim Tinh, phía Tây có sao Trường Canh gọi là Thuỷ Tinh, Kim Tinh ở phía Tây thì mặt trời mọc, Thuỷ Tinh ở phía Đông thì mặt trời lặn.
[108] Hiểu Nguyệt. Trăng mọc khoảng ngày 27, 28 trong tháng, khi trăng vừa mọc trời đã sáng, ý nói ánh sáng chẳng được là bao.
[109] Ngọc Khuê, Chương. Thứ ngọc đẽo phẳng gọi là Khuê, xẻ đôi lấy một nửa gọi là Chương.
[110] Tượng Quí. Tượng pháp và quí pháp hay mạt pháp.
[111] Lý Đô Vận. Lý Sĩ Hành, tên chữ là Thiên Quân, đỗ Tiến Sĩ, làm chức Đô Chuyển Vận Sứ ở Hà Bắc.
[112] Thạch Đầu. Thạch Đầu Hy Thiên Thiền Sư, pháp tự của Thanh Nguyên Hành Tư Thiền Sư.
[113] Đại ý đoạn này nói sự tu hành của người đi hành cước, lúc nào cũng phải giữ phần chính niệm, không để cho mối nghĩ cẩu thả xen vào.
[114] Pháp Nhãn. Pháp Nhãn Văn Ích Thiền Sư đi hành cước bị mưa, tới nghĩ ở viện Địa Tạng thuộc Thạch Sơn, nhân thể được gặp vị lão Tăng hiệu là Sâm Thiền Sư, do chỗ trao đổi một vài câu chuyện đạo mà Pháp Nhãn đại ngộ.
[115] Minh Giáo. Khí Minh Giáo Tung Thiền Sư yết kiến Thần Đỉnh, Đỉnh đang ngồi trên Thiền đường. Tung giải toạ cụ kính lễ. Đỉnh chỉ lên hai cái hủ nhỏ trên nhà Thiền và nói: “Ông tới đây rất đúng lúc, trong chùa năm nay bắt đầu có tương ăn”. Đến sáng, khi ăn cháo. Tung thấy một tịnh nhân ăn cắp một cái sọt vuông, lấy đồ vật trong đó để vào trong bát của chúng Tăng. Tung đưa mắt nhìn trên dưới, có người thì nhai nhắm chút ít, có người thì để đấy không ăn. Tung không ăn liền để vật đó vào trong tay áo xuống dưới nhà bửa ra xem, thì đó là một thứ bánh làm bằng cơm khô. Tung mới hỏi bậc kỳ túc thì được biết, chùa này không bao giờ nấu cháo bữa sáng, nếu ngày nào có đàn việt thỉnh trai, thì lần lượt phái khiến chư Tăng đi, nếu ăn còn thừa thì thức ăn đem về phơi khô để trong kho, tới ngày nào không có người thỉnh trai, phần đó đem ra chia đều để ăn. Đó là tiêu biểu cho sự cam khổ dữ đồng vậy.
[116] Hứa khả. Tham thiền cốt yếu ở chỗ thực chứng thực ngộ, nên người nào có chứng ngộ xác thực mới được thầy hứa khả cho, tức chứng nhận.
[117] Bậc nhất. Dịch ở chữ Giáp Giáp có nghĩa là thứ nhất, đứng đầu.
[118] Chiêu Đề. Chiêu đề là phiên âm của tiếng Phạn, Tàu dịch là tứ phương Tăng, hoặc gọi là chiêu đề Tăng. Hay gọi là của thập phương thường trụ Tăng.
[119] Điều Ngự Sư. Chỉ đức Phật Thích Ca Giáo Chủ đạo Phật.
[120] Trương Vô Tận. Thừa Tướng Trương Thương Anh, tên chữ là Thiên Giác, hiệu là Vô Tận, năm 19 tuổi thi đậu, sau thâm tín Phật pháp. Năm Nguyên Hựu thứ 6 đời vua Tống Triết Tôn, làm chức Tào Vận Sứ ở Giang Tây, sau đắc pháp ở Đâu Xuất Duyệt Thiền Sư.
[121] Qui Vân Bản . Như Bản Thiền Sư chùa Qui Vân núi Sơ Sơn thuộc Hàng Châu, pháp tự của Linh Ẩn Tụê Viễn Thiền Sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[122] Phú Trịnh Công. - Thừa Tướng Phú Bật, tên chữ là Ngạn Quốc, Đời Tống Nhân Tôn được phong làm Trịnh Quốc Công, tên hèm là Văn Trung Định Công, đắc pháp ở Đầu Tử Ngung Thiền Sư.
[123] Đầu Tử Ngung. Đầu Tử Ngộ Chứng Tử Ngung Thiền Sư, pháp tự của Tuệ Lâm Tông Bản Thiền Sư, đời thứ 12 phái Thanh Nguyên.
[124] Dương Đại Niên. Dương Ức đời Tống, tên chữ là Đại Niên, người Kiến Châu, huý là Văn Chính Công làm quan đến Hàn Lâm, đắc pháp ở Quảng Tuệ Nguyên Liễn Thiền Sư sau tham đạo với Từ Minh Thiền Sư.
[125] Lý Hoà Văn. Phò mã Đô Uý Lý Tuân Húc hiệu là Hoà Văn cư sĩ, đắc pháp ở Cốc Ản Uẩn Thông Thiền Sư.
[126] Quảng Tuệ Liễn. Quãng Tụê Viễn, Nguyên Liễn Thiền Sư, pháp tự của Thủ Sơn Niệm, đời thứ 9 phái Nam Nhạc.
[127] Kích dương thù xướng. Chặn lại khuấy lên, hỏi và trả lời, đó đều là những động cơ trong thiền tông, nhờ đó mà ngộ nhập.
[128] Đâu Xuất Duyệt. Tòng Duyệt Thiền Sư chùa Đâu Xuất, pháp tự của Chân Tịnh Văn, đời thứ 13 phái Nam Nhạc.
[129] Gõ cửa đánh xênh. - Dịch ở chữ khấu quan kích tiết, có nghĩa là nhắc nhở người tham thiền thông qua chỗ hiểm yếu khó khăn để tỏ lộ chân cơ.
[130] Trương Vô Cấu. Quan Thị Lang Trương Cửu Thành, tên chữ là Tử Thiều, hiệu là Vô Cấu cư sĩ, đắc đạo ở Diệu Hỷ Cảo Thiền Sư.
[131] Lý Hán Lão. Tham Chánh Lý Bính, tên chữ Hán Lão, đắc pháp ở Diệu Hỷ Thiền Sư.
[132] Lã Cư Nhân. Họ Lã, tên là Bản Trung, tên chữ là Cư Nhân, hỏi đạo ở Diệu Hỷ Cảo Thiền Sư, chức quan tới Hàn Lâm.
[133] Đăng đường nhập thất. Nơi để các người tham học, thỉnh thầy hỏi đạo, quyết đoán chỗ tâm còn nghi ngờ.
[134] Tăng Viễn. Khoảng tháng tám năm đầu niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề Cao Tổ, vua ngự giá tới núi Chung Sơn, nhân thế muốn gặp bậc cao Tăng Tăng Viễn. Khi vua ngự giá tới chùa, Tăng Viễn lấy cớ vì bệnh già nên không thể nghinh tiếp, mà ngồi ngay tên giường cùng vua tiếp chuyện.
[135] Tụê Viễn. Tụê Viễn Thiền Sư, chùa Hổ Khê, ở Đông Lâm Sơn, Ngài lập hội Liên Xã tu pháp môn Tịnh Độ đầu tiên ở núi này để thâu nạp mọi bậc hiền nho và Sa môn Thích tử gồm hơn 1000 người, chuyên cầu vãng sinh Tịnh Độ. Vua An Đế đời Đông Tấn, xa giá đến đất Tầm Dương, chiếu chỉ mời Tụê Viễn hạ sơn. Tụê Viễn lấy cớ vì bệnh già mà từ chỗi. Do đó, vua bèn sắc cho quan Thái Thú đất Cửu Giang, Hằng năm, phải đưa đồ dùng cần thiết tới cung cấp. Ngài ở núi này ba mươi năm không bao giờ ra khỏi núi, nếu một khi có đưa khách thì chỉ đưa tới cầu Hổ Khê làm giới hạn.
[136] Viên Cực Sầm. Viên Cực Ngạn Sầm Thiền Sư chùa Ẩn Tỉnh châu Thái Bình, pháp tự của Vân Cư Pháp Như Thiền Sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[137] Nô Bộc. Dịch ở chữ vương man tử, lời tục ngữ địa phương, có ý nghĩa là nô bộc.
[138] Đông Sơn Không. Tuyết Phong Đông Sơn Hụê Không pháp tự của Lặc Đàm Thiện Thanh Thiền Sư, đời thứ 14 phái Nam Nhạc.
[139] Triết Ông Diễm. Như Diễm Thiền Sư, hiệu là Triết Ông, chưa tường về nguồn gốc pháp phái.
[140] Cổ nhân. Tức Đông Sơn Tự Bảo Thiền Sư, pháp tự của Ngũ Tổ Giới Thiền Sư, đời thứ 9 phái Thanh Nguyên. Thiền Sư là người rất nghiêm cẩn, khi ở với Ngũ Tổ đã từng làm chức coi kho. Nhân khi Giới Thiền Sư có bệnh ngài sai thị giả tới kho lấy gừng để sắc thuốc. Bảo Thiền sư liền trách mắng thị giả. Thị giả đem chuyện này bạch lại với Giới Thiền Sư, rồi Giới Thiền Sư phải đưa tiền để mua, Bảo mới chịu lấy gừng cho thị giả. Về sau Bảo có tên là “Mại Sinh Khương Hán” (người bán gừng).HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.5/8/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment