Thiền Lâm Bảo Huấn - Quyển III.
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế, đều là những kỷ cương yếu lĩnh về cách trụ trì, hoằng đạo của các bậc Thạc đức danh Tăng.
Xuất bản năm 1996
THIỀN LÂM BẢO HUẤN
---o0o---
QUYỂN THỨ BA
Sa Môn Tịnh Thiện đất Đông Ngô trùng tập.
Sa Môn Thích Thanh Kiểm dịch và chú thích.
151.- Tuyết Đường Hạnh[1] Hoà Thượng trụ trì chùa Tiến Phúc. Một hôm hỏi một vị Tăng vừa mới tới: “Ông từ đâu lại?”. Vị Tăng thưa: “Từ Phúc Châu lại”. Tuyết Đường nói: “Trên quãng đường đi, ông có thấy bậc Trưởng lão nào tốt chăng?” Vị Tăng thưa: “Đoạn đường qua Tín Châu, có Bản Hoà Thượng[2] trụ trì chùa Bắc Sơn. Tuy tôi chưa từng lễ bái chào hỏi, nhưng biết được đó là bậc Trưởng lão tốt”. Tuyết Đường nói: “Tại sao biết được đó là bậc Trưởng lão tốt?”. Vị Tăng thưa: “Khi vào chùa tôi thấy đường lối rộng rãi, hai bên hành lang đều được tu chỉnh giải vũ, điện đường hương đăng không gián đoạn, sớm tối chuông trống phân minh, hai thời cháo cơm tinh khiết, Tăng hàng tiếp người có lễ độ. Vì thế nên biết đó là bậc Trưởng lão tốt”. Tuyết Đường mỉm cười nói: “Bản Hoà Thượng vốn là người hiền nhưng ông cũng là người có mắt tinh đời”. Tuyết Đường liền đem lời nói này trình bày với quan Quận Thú Ngô Công Phó Bằng: “Theo chỗ bàn luận của vị Tăng ấy, sự việc cũng giống như Phạm Diên Linh[3] tiến cử Trương Hy Nhan, và chỗ hiền đức của các hạ[4] cũng không kém gì Trương Trung Định Công.[5] Nay lão Tăng tuổi đã già, xin nhờ Quận Thú thỉnh Bản Hoà Thượng về trụ trì thay thế, ngõ hầu làm những việc hưng thịnh cho thiền lâm”. Ngô Công rất mừng. Ngay ngày hôm ấy Bản Hoà Thượng dời về chùa Tiến Phúc.
“Ba mươi năm trọn lánh trần ai
Bỗng được quan sai sứ[35] lại mời
Việc vụn nhan gian đừng đổi chác
Đời nhàn rừng núi cuộc đời tôi”.
Cảnh Công lại sai sứ đến lần thứ hai, nhưng ngài vẫn cố từ. Cảnh Công than: “Đó là dòng của Ẩn Sơn[36] ngày nay vậy”. Vạn Am nói: “Chùa Thiên Thai có bậc lão Tăng, ghi lại được lời nói của Đức Quán Thủ Toạ rằng: “Chẳng liễu được gốc đạo chìm đắm bể sinh tử. Xúc cảnh liền sinh tâm, tuỳ tình động niệm dấy. Tâm ý như hổ lang xiểm nịnh lừa dối người. Cậy thế lực a tòng, theo danh và trục lợi. Bỏ chân theo đuổi vọng, trái giác hợp với trần. Đều là những việc mà người tu đạo nơi rừng núi, trọn chẳng bao giờ làm”. Ta nói: “Đức Quán cũng là một anh tài[37] trong hàng Tăng”.166.- Tuyết Đường nói: “Tử Tâm trụ trì chùa Vân Nham. Trong chốn trượng đường, ngài hay có tính nóng giận chửi mắng. Các hàng nột tử vì thế, đều nhìn về phía trời xa thẳm mà lần lượt ra đi. Phương Thị giả[40] nói: “Ôi! Bậc thiện tri thức, thực hành đạo của Phật Tổ làm hiệu lệnh cho nhân thiên nên phải coi người học như con đỏ. Nay ngài lại chẳng rủ lòng lo lắng thương hại, ban bố ân hụê, nuôi nấng vỗ về, dùng lời dạy bảo trung hoà, tại sao lại coi họ như cừu thù, thấy thời mắng nhiếc, đâu có phải là chỗ dụng tâm của bậc thiện tri thức vậy ư?”. Tử Tâm liền cầm chiếc gậy đang chống đuổi Phương Thị giả và nói: “Chỗ thấy nghe hiểu biết của ông như thế, ngày kia tất sẽ xu nịnh sùng chuộng kẻ thế vị, don ngót kẻ hào quyền, bán rẻ cả Phật Pháp, lừa dối đám ngu hèn. Vì ta không nỡ thấy những việc như thế nên ta nặng lời kích động, để họ gắng chí, nào có ý gì khác đâu. Ta chỉ muốn họ biết hổ thẹn để sửa lỗi, ghi tạc vào tâm khảm đừng quên, mong một ngày kia trở nên người tốt vậy”.
.
167.- Tử Tâm Tân Hoà Thượng nói: “Tú Viên Thông[41] thường nói: “Tự mình không chân chính mà muốn người ta chân chính, đó là thất đức. Tự mình chẳng cung kính, mà muốn được sự cung kính ở người, đó là trái lễ. Ôi! Làm bậc thiện tri thức mà thất đức trái lễ, thì đem gì làm khuôn mẫu cho người sau”.
.
168.- Tử Tâm bảo Trần Oánh Trung: “Người cầu đại đạo, trước hết tự mình phải chính tâm, nếu hơi vướng chút hờn giận thời tâm chẳng được chính. Nhưng nếu tự mình không phải là thánh hiền ứng thế, sao tránh khỏi được tâm không yêu ghét mừng giận được, mà chỉ cần ngăn chận chúng trước khi phát khởi, để khỏi phương hại mất chính tâm, thế là được vậy”.
.
169.- Tử Tâm nói: “Tiết kiệm và buông xuôi mọi duyên là con đường tắt vào đạo. Phần nhiều thấy những người học đạo ngày nay, trong tâm thì hậm hực, ngoài miệng thì tấm tức, ai cũng muốn nối gót người xưa. Nhưng xét tới chỗ tiết kiệm và phóng há mọi duyên thì trong muôn phần không được một. Cũng giống như con cái nhà thứ tục, không chịu đọc sách mà lại muốn làm quan, dẫu là đứa trẻ nít cũng biết đó là việc không thể làm được”.
.
170.- Tử Tâm bảo Trạm Đường: “Người học đạo, nếu người nào có tài trí trung tín, tiết nghĩa, thì đó là hạng người ở trên. Còn người tuy tài năng không cao, nhưng lại cẩn thận và có độ lượng thì đó là hạng người ở bậc giữa. Còn hoặc có hạng người tâm mang thói tà xem xét mong ngóng dư luận thiên hạ, tuỳ theo thời thế mà thay đổi thì đó quả thật là kẻ tiểu nhân. Nếu đem hạng ngươi đó mà đặt ở địa vị cao, thì tất nhiên họ sẽ làm bại hoại tùng lâm, mà làm nhơ nhuốc chốn pháp môn vậy”.[42]171.- Tử Tâm bảo Thảo Đường: “Phàm là chức trụ trì, phát ngôn làm việc cần ở thành và tín. Lời nói thành tín thì chỗ cảm rất sâu xa. Lời nói không thành tín thì chỗ cảm ắt nông cạn. Lời nói không thành thực, làm việc không tin cẩn, dù rằng là người dân thường sống nếp sống bình thản cũng còn không nỡ làm, vì họ sợ người ta thấy sự lừa dối của mình với hương đảng,[43] nữa là người chủ tùng lâm, thay Phật Tổ tuyên dương giáo hoá. Mà khi nói năng hay lúc làm việc, nếu không có thành và tín, thì kẻ nột tử khắp chốn hải hồ, ai là người theo với mình vậy”.[44]
.
172.- Tử Tâm nói: “Người cầu lợi không thể cùng với đạo, người cầu đạo không thể cùng với lợi. Người xưa không phải không thể làm kiêm cả lợi và đạo, bởi lẽ, cái thể đó không thể cho phép làm như thế vậy. Vì khiến nếu thực hành được cả lợi và đạo, thì những kẻ buôn đứng, bán ngồi, buôn thịt, buôn rượu, hay những kẻ buôn thúng bán mẹt nơi hang cùng ngõ hẻm cũng đều có thể làm được, hà tất phải cần đến cổ nhân phải bỏ giàu sang, quên công danh, nguội tâm, lắng trí, trong nơi rừng suối, uống nước lã ăn quả cây cho đến trọn đời vậy ư? Tất có người cho rằng, lợi và đạo đều cùng làm chung cả với nhau được mà vẫn không ngang trái chướng ngại lẫn nhau, thì cũng ví như người mang chén rượu bị dò mà tưới vào vạc than hồng, tất nhiên không thể giúp ích được gì vậy”.[45]
.
173.- Tử Tâm nói: “Hối Đường tiên sư, xưa kia du hành tới đất Đông Ngô, thấy Viên Chiếu[46] nhận lời mời tới khai pháp chùa Tịnh Từ. Các hàng Tăng tục ở Tô Châu và Hàng Châu tranh nhau mời thỉnh ngài không ngớt. Một bên nói: “Đây là thầy của chúng tôi, các ngươi sao lại tới cướp đoạt”. Một bên nói: “Hiện nay là thầy của chúng tôi, không phải của các người đâu vậy”.
.
174.- Tử Tâm trụ trì chùa Thuý Nham, nghe biết Giác Phạm bị đày nơi hải ngoại, trên đường qua đất Nam Xương, ngài liền đón về trong chùa tiếp đãi nhiều ngày, còn đem hậu lễ đưa tiễn tới bến đò. Hoặc có người nói: “Tử Tâm là người mừng giận bất thường”. Tử Tâm nói: “Giác Phạm là một người nột tử có đức, chỉ vì trước đây ta cực lực nói thẳng là muốn trừ khử cái tính róc rách hay soi bói lỗi người của ông, nay cũng vì thế mà ông mắc phải hoạch nghịch, âu đó cũng là tố phận. Ta chỉ thấy tình đạo nghĩa ngày thường ở tùng lâm mà đối xử vậy”. Thức giả bảo: “Tử Tâm là người không có tâm riêng tư nên mới biểu lộ cử chỉ như thế”.
.
175.- Tử Tâm bảo Thảo Đường: “Hối Đường nói: Đức khoan hậu của con người bẩm nơi thiên tính mà được. Nếu cưỡng lại thiên tính mà đem khoan hậu làm cho mạnh, tất nhiên cái mạnh đó chẳng lâu dài. Một khi cái mạnh không lâu dài, thì tất bị khinh khi bởi kẻ tiểu nhân. Song, tà, chính, thiện, ác cũng do nơi thiên tính mà có, đều không thể làm cho đổi dời, duy tính trung dung của con người thì thay đổi lên xuống được dễ dàng, mới có thể căn cứ theo đó mà giáo hoá”.
.
176.- Thảo Đường Thanh[47] Hoà Thượng nói: “Ngọn lửa cháy lan nơi đồng nội, phát sinh bởi một đốm lửa nhỏ bé, thế nước vỡ núi, tích chứa bởi những giọt nước nhỏ ly ti. Ôi! Giọt nước tuy nhỏ, chỉ một nắm đất có thể lấp ngay được, nhưng tới lúc thế đã mạnh, thì nó làm trôi cả gỗ đá, san phẳng gò đống. Ngọn lửa tuy nhỏ, chỉ một gáo nước có thể dập tắt, nhưng tới lúc thế đã mạnh, thời nó thiêu huỷ cả đô ấp, đốt cháy cả núi rừng. Như vậy, nếu đem so sánh với nước ái dục, với lửa sân hận, đâu có khác chi vậy. Con người thời xưa, họ trị tâm phải đề phòng cái niệm đó từ khi chưa phát sanh, cái tình đó từ khi chưa bột khởi. Thế nên, dùng sức chỉ tốn rất ít, mà thu được công lại rất lớn. Kịp tới lúc tình và tính cùng nhau rối loạn, yêu và ghét cùng nhau công kích thì đối với mình tự hại cả cuộc đời, đối với người lại hại cả người đó, quả thật là mối nguy ngập, không tài nào cứu vãn được nữa vậy”.[48]
.
179.- Thảo Đường bảo Như Hoà Thượng:[52] “Tiên Sư Hối Đường nói: Trong chỗ trù nhân quảng chúng, người hiền và kẻ bất tiếu nối gót nhau. Bởi cửa giáo hoá rộng lớn, không dung thứ ai là kẻ thân người sơ ở trong đó, chỉ cốt ở điểm gia công lựa chọn kỹ càng. Nếu là người có tài đức hợp với chỗ mong muốn của mọi người, thì không đem chỗ giận riêng mình mà xa cách họ. Nếu là người kiến thức tầm thường, mọi người ai nấy đều ghét, thì cũng không thể lấy chỗ yêu riêng mình mà thân với họ. Làm như thế thời người hiền tự họ có cơ hội tiến, kẻ bất tiếu tự họ phải lùi, chốn tùng lâm tất được an định. Nếu người làm chủ tùng lâm lại thích theo tâm riêng của mình, chuyên chỗ mừng giận của mình, mà ngăn cản sự tiến thoái của người, thì người hiền phải bịt miệng im lặng,[53] kẻ bất tiếu đua nhau tiến lên, làm cho kỹ cương rối loạn, chốn tùng lâm tất hỏng vậy. Hai điều trên đây đại thể của người trụ trì, nếu hay thành thật xét kỹ mà noi theo, thì người ở gần tất đẹp lòng, người nơi xa phải truyền tụng, lo gì kẻ nột tử khắp nơi không hâm mộ mà chẳng lại vậy ư?”.
.
185.- Sơn Đường nói: “Phương pháp trị người, thi ân không nên quá mức độ, quá mức độ thời người kiêu. Gia uy không nên quá nghiêm khắc, quá nghiêm khắc thời người oán. Muốn thi ân mà người không kiêu, gia uy mà người không oán, tất nhiên phải thi ân ở kẻ có công chứ không nên thi ân bừa bãi, gia uy ở kẻ có tội, mà không nên lẫn ở kẻ không tội lỗi. Thế nên thi ân tuy hậu mà người không có kiêu, gia uy tuy nghiêm mà người không có oán. Nếu, công hoặc không xứng mà thưởng họ quá trọng hậu, tội không đáng trách mà phạt họ rất nặng nề, như vậy, liên khiến kẻ tiểu nhân sinh ra kiêu căng và oán hận vậy”.
190.- Sơn Đường nói: “Lý Thương Lão[65] thường nói: “Diệu Hỷ là người có đại khí, độ lượng cô đọng sâu xa, tiết nghĩa hơn người, hiếu học không biết mỏi. Ngài cùng với Lão phu cùng tới Bảo Phong, và ở đây gần bốn năm năm trời, cứ trong khoảng mười ngày mà không gặp nhau, tất ngài khiến người tới thăm hỏi. Lão phu bất hạnh cả nhà bị bệnh phù thũng. Diệu Hỷ tới tận nhà chăm nom săn sóc, tự ngài sắc thuốc nấu cơm, cư xử như nghi lễ đệ tử đối với bậc phụ huynh không khác. Khi ngài trở về chùa, Nguyên Thủ Toạ[66] quở trách ngài, nhưng ngài chỉ vâng vâng dạ dạ, kính nghe lời thầy dạy bảo. Thức giả thấy thế, biết Diệu Hỷ là người có đại khí”. Trạm Đường thường nói: “Cảo thị giả (Diệu Hỷ) là người tái lai (ứng thế), sơn Tăng rất tiếc không được gặp”. Khi Trạm Đường viên tịch, Diệu Hỷ đi bộ đường xa ngàn dặm, hai chân bị xưng lên như tổ kén, tìm đến Vô Tận Cư sĩ ở đất Chử Cung, nhờ làm bài Minh khắc vào tháp của ngài Trạm Đường. Quãng đời sáng chói cuối cùng của Trạm Đường là nhờ sức của Diệu Hỷ vậy”.
.
194.- Diệu Hỷ nói: “Yêu, ghét, khác, cùng là thường tình của con người, duy bậc hiền đạt cao minh mới không bị chúng lay chuyển. Xưa kia Viên Ngộ ở chùa Vân Cư. Cao Am[71]lui về nhà Đông đường. Có người ưa Viên Ngộ thì ghét Cao Am, có người cùng với Cao Am lại khác với Viên Ngộ. Vì thế chốn tùng lâm sinh ra rối bời, nên chia thành hai đảng Viên Ngộ và Cao Am. Trộm nghĩ, hai bậc đại sĩ đều là những vị có tên tuổi lừng lẫy trên đời, không thể bọn thường lưu có thể so sánh kịp. Nhưng rất tiếc, các ngài lại bị mê hoặc ở chỗ nhẹ tin lời xiểm nịnh, nó làm mờ mịt trí óc thông minh, đáng làm trò cười cho các hàng thức giả. Thế nên, ta nên đem lưu phái của Lượng Toạ Chủ và Ẩn Sơn[72] để làm kẻ sĩ cao thượng”.
.
195.- Diệu Hỷ nói: “Cổ nhân thấy điều thiện thời làm, thấy có lỗi thời đổi. Sửa đức nghiệp noi chính hạnh, nghĩ sao tránh khỏi lỗi lầm, Lo chẳng gì lớn hơn ở chỗ không biết được điều xấu của mình. Đẹp chẳng gì tốt hơn ở chỗ thích được nghe điều lỗi của mình. Song, đâu có phải tài trí của cổ nhân không đầy đủ, kiến thức của cổ nhân không sáng suốt lại làm như thế vậy ư? Quả thật, cổ nhân chỉ muốn cho những người ở sau này có tính tự rộng mình mà lại hẹp ở người phải lấy đó làm điều răn vậy. Ôi! Chỗ quảng đại của tùng lâm, nơi qui tụ chúng nhân trong bốn biển, không phải là việc ở một người có thể biết hết được, mà phải cần đến tai mắt tâm tư của những người tả hữu phù trì, mới suốt hết được nghĩa lý, mới phù hợp được nhân tình. Nếu, hoặc giả có người chỉ biết tự trọng ở ngôi tôn, chỉ cẩn thận ở việc nhỏ, lại khinh hốt đại thể, chẳng biết đến người hiền, chẳng xét tới kẻ ngu, việc làm trái không chịu đổi, việc làm phải lại không theo, buông ý làm càn, không chút kiêng sợ. Thì đó thật là cái nền tảng của hoạ hại, sao được không sợ hãi? Hoặc giả bên tả bên hữu mình không có người để hỏi han, cũng còn phải bắt chước khuôn phép của bậc Tiên thánh, đâu có thể như thành trì kiên cố, binh sĩ gan lì, không có thể nương từ ở một nơi nào mà xâm nhập được vậy ư? Nếu làm như vậy thì không có thể bảo rằng: “Nhận nước trăm sông để tạo thành biển cả” được.199.- Diệu Hỷ nói: “Cổ đức trụ trì, không tự mình coi sóc các việc trong thường trụ, mà hết thảy công việc đó đều giao cho chức Tri sự trông nom. Gần đây, người làm trụ trì, tự cậy vào tài lực có thừa của mình, công việc bất cứ là lớn hay nhỏ đều qui tụ về nơi phương trượng, còn chức Tri sự chỉ là hư danh mà thôi. Ôi! Nếu đem tư chất thông minh của một người muốn nắm giữ hết mọi việc trong tự viện, mà khiến kẻ tiểu nhân không che đậy được, khiến kỷ cương không rối loạn, lại hợp với lời bàn chí công, thật cũng khó khăn lắm vậy”.
.
205.- Tử Thiều cùng Diệu Hỷ, Vạn Am ba người đều đến thăm bệnh Bản Thủ Toạ[78] ở một phòng nơi trượng đường. Diệu Hỷ nói: “Người trong chốn thiền lâm, thân có mạnh khoẻ, sau mới có thể học đạo được”. Vạn Am bảo thẳng rằng: “Nếu người muốn học đạo, tất nhiên, không nên đoái tưởng đến thân mình”. Diệu Hỷ nói: “Giả thử đặt ông là người bệnh như thế này có lẽ ông lại chẳng hóa điên hay sao?”. Tử Thiều tuy trọng lời nói của Diệu Hỷ, nhưng vẫn thích lời nói của Vạn Am là chính đáng.
.
206.- Tử Thiều hỏi Diệu Hỷ: “Thời nay, các nơi trụ trì, cần phải thực hiện điều gì trước?”. Diệu Hỷ nói: “An định Tăng chúng, bất quá chỉ cần tiền và gạo mà thôi”. Lúc đó có Vạn Am cũng ngồi tại đó liền bảo: “Không phải thế, trụ trì cần phải kế toán của cải thu được của thường trụ. Nếu biết cắt bớt những món chi tiêu lãng phí, chỉ dùng vào việc hợp đạo thì tiền và gạo chẳng thiếu chi, đâu phải là việc đáng lo ngại. Song le, việc của người trụ trì hiện nay chỉ cần có được các hàng nột tử giữ đạo là việc cần thiết trước. Giả sử, người trụ trì có mưu trí tích chứa được lương thực ăn trong mười năm, mà dưới toà mình không có người nột tử giữ đạo, thì đúng như lời Tiên thánh đã nói: “Ngồi ăn uổng phí của tín thí, ngửa mặt hổ thẹn với Long Thiên, thì trụ trì có bổ ích gì vậy?”. Tử Thiều nói: “Thủ Toạ nói rất xác đáng”. Diệu Hỷ quay lại bảo Vạn Am: “Tất cả mọi việc đều giống như ý ông chăng?”. Vạn Am lặng thinh lui gót.214.- Vạn Am nói: “Ôi! Nếu có bậc tôn túc đầy đủ uy danh đức hạnh tới thăm tự viện, thì chủ nhân phải thăng toà, dùng lời nói khiêm tốn cung kính giới thiệu và cảm tạ, phải khuất thân ở ngôi cao, lui về toà thấp để tăng phần kính trọng. Khi đã giới thiệu xong, chủ nhân xuống toà, cùng với các hàng Thủ Toạ và đại chúng đều cùng ra đảnh lễ và cầu thỉnh vị tôn túc ấy thăng tòa, hầu mong được nghe lãnh pháp yếu. Thời gian gần đây, ta thấy nhiều nơi tự viện, cũng làm ra vẻ ham chuộng phần đức hạnh bậc tôn túc, bằng cách đem những công án của cổ nhân, đối trước chúng nhân để phê phán, gọi đó là cách thí nghiệm kiến thức ở người. Ta thiết tưởng, không nên manh nha làm thử thách hơn thua như thế. Bậc Tiên thánh vị pháp quên tình, chỉ muốn đặt ra phương thức thù xướng lẫn nhau, mong cho giáo pháp được tồn tại ở thế gian lâu dài, chứ không hề có dung chứa tâm sinh diệt, mà gây ra ác niệm ấy vậy! Lễ cần phải lấy nhún nhường làm chủ, nên cần suy nghĩ kỹ lưỡng”.
215.- Vạn Am nói: “Gần đây thấy các Sĩ Đại phu, Giám ty hay Quận thú vào núi để tìm xem có chốn nào khả dĩ hỏi đạo. Thế rồi, ngày hôm sau liền sai người hầu tới trình bậc Trưởng lão: “Ngày hôm nay đặc biệt xin ngày vì mỗ quan thăng toà thuyết pháp”. Ấy, chỉ một sự việc này, cũng nên phải suy nghĩ rất nhiều rồi hãy thực hiện theo. Bởi lẽ, cổ lai trong sách vở tuy có chép về việc các Sĩ Đại phu tới tự viện, nhưng các vị này đều vì mục đích tìm hỏi đạo bậc trí thức mà tới. Người trụ trì nhân chỗ tham vấn xong sẽ trình bày đại khái về ý nghĩa ngoại hộ giáo môn, về ý nghĩ làm rạng rỡ nơi tuyền thạch (tùng lâm). Nếu các Sĩ Đại phu đó đã là người bạn đạo trong nhà thiền thì chỉ nói vài ba câu chuyện trong nhà để họ sinh lòng chính tín. Cũng như Quách Công Phụ[96], Dương Thứ Công hỏi đạo ngài Bạch Vân, Tô Đông Pha, Hoàng Thái Sử[97] yết kiến ngài Phật Ấn là những người mến đạo mà lại cả, chứ đâu có phải là nương vào địa vị đặc biệt mà làm sằng để người thức giả chê cười”.
216.- Vạn Am nói: “Cổ nhân nhập thất trước hết là tập Tăng treo bảng báo cho đại chúng biết, rồi sau những người vì đại sự sinh tử vui mừng cùng tới để mong cầu quyết trạch (quyết trạch thâm áo, chứng ngộ chân nguyên). Phần nhiều thấy các nơi ngày nay, khi nhập thất thì không cứ là người già người bệnh, hết thảy đều khiến họ phải nộp giáng khoản (một khoản lệ vật để tỏ lòng chí thành chí kính, nếu không nộp tất nhiên không được nhập thất). Ôi! Hữu sạ tự nhiên hương, hà tất vị chủ pháp phải dùng đến danh nghĩa giới hạn công cộng để xua đuổi họ, ấy cũng nhân vì thế mà sinh ra biết bao chuyện rắc rối, khiến cho chủ khách bất an. Người chủ pháp phải nên nghĩ kỹ về vấn đề này”.
217.- Vạn Am nói: “Từ Sơ Tổ (Đạt Mạ) chùa Thiếu Lâm, trao truyền tâm ấn thì gồm cả y và pháp, nhưng đến đời Lục Tổ (Tuệ Năng), ngưng việc truyền y, mà chỉ lấy phần hành giải tương ứng để nối dõi gia nghiệp, tiếp sáng ngôi Tổ, con cháu ngày càng phồn thịnh. Thế nên, kế tiếp ngài Đại Giám (Lục Tổ) có Thạch Đầu, Mã Tổ đều là những cháu đích tôn, thật ứng với huyền sấm của Bát Nhã Đa la[98]: “Cần nhờ vào cẳng chân của con cháu để đi”, là nghĩa thế vậy. Những huyền ngôn diệu ngữ của hai vị đại sĩ trên được lưu bá khắp trong thiên hạ, những người ngầm hợp được mật chứng ấy thường thường thấy xuất hiện khá nhiều. Vì pháp tu đạo của thầy đã nhiều, mà người học đạo lại không chuyên theo cùng một pháp môn nhất định. Thế nên, nguồn dòng của Tào Khê (Lục Tổ) chia thành 5 phái[99]. Tuy là đồ dùng vuông tròn có khác, nhưng thể của nước vẫn chỉ là một. Ai nấy đều y cứ vào tiếng hay của phái mình mà tận lực duy trì truyền bá. Bình thường tuy nói ra một lời, hay đưa ra một lệnh, cũng đều là những khuôn pháp mẫu mực cho người học đạo. Làm cho chốn tùng lâm được hưng thịnh không phải chỉ những có thế mà thôi. Bởi thế, nên lại có sự thù xướng lẫn nhau để diễn nghĩa vi tế, mở chỗ u huyền, hoặc nén xuống, hoặc nâng lên để giúp đỡ cho pháp hoá. Những lời nói vô vị như nấu vỏ cây làm canh, thổi đinh sắt làm cơm, để kẻ hậu bối gặm nhấm, gọi đó là niêm cổ. Tuy những lời niêm cổ này có bắt đầu từ thời ngài Phần Dương, nhưng đến thời Tuyết Đậu lại mở rộng lời nói đó, hiển rõ ý chỉ đó, làm cho nghĩa lý rộng mênh mang như biển cả không bờ. Thế rồi, những tác giả ở sau lại bắt chước ngài Tuyết Đậu để trứ tác không hề đoái hoài chi đến phần đạo đức mà chỉ chuyên dùng lời văn cao kỳ bóng bẩy hoa mỹ làm đẹp, khiến cho kẻ sinh sau tiến muộn không thể thấy được ý chỉ vẹn toàn thuần phác hồn nhiên của cổ nhân. Than ôi! Ta đi thăm các chốn tùng lâm, và yết kiến các bậc tiền bối, nếu không phải là Ngữ lục của cổ nhân thì không xem, không phải là hiệu lệnh của Bách Trượng thì không làm. Đó không phải là ta đặc biệt hiếu cổ mà chỉ vì người đời nay, không đủ làm khuôn phép để ta theo đó vậy. Ta mong tất cả những bậc thông nhân đạt sĩ nên hiểu ý của ta ở ngoài lời nói”.
218.- Vạn Am nói: “Gần đây thấy các nột tử hay chấp thiên kiến, không thông vật tình, nhẹ dạ tin sằng khó quay lại đường chính, ưa người nịnh mình, thuận thì khen, trái thì chê. Ví khiến có hiểu biết được một câu hay nữa câu chăng nửa, lại bị những ác tập ấy nó che lấp, cho đến khi bạc đầu mà cũng không thành đạt được thì nhiều vậy”.
“Chớ bảo Thê Hiền cùng,
Thân cùng đạo chẳng cùng,
Giầy cỏ nanh như hổ,
Gậy chống mạnh tựa rồng.
Khát uống Tào Khê thuỷ.[103]
Đói ăn lật cức bồng.[104]
Kẻ đầu đồng trán sắt,
Đều trong núi ta cùng”.
Hỗn Dong xem xong bài kệ trên, có vẻ tự thẹn.
Nguyệt Hốt Tập.
Thiền Lâm Bảo Huấn
Quyển Thứ Ba
Hết.
[1] Tuyết Đường Hạnh. Tuyết Đường Đạo Hạnh Thiền Sư, pháp tự của Phật Nhãn Viễn Thiền Sư, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[2] Bản Hoà Thượng. Ngộ Bản Thiền sư, trước ở chùa Bắc Sơn sau ở chùa Tiến Phúc, pháp tự của Đại Tụê Thiền sư, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[3] Phạm Diên Linh. Thời nhà Tống, Trương Hy Nhan giữ chức Ấp Tể ở Bình Hương. Phạm Diên Linh giữ chức Điện Trực, khi kéo quân qua Kim Lăng, Trương Vịnh vâng mệnh vua coi việc tại Kim Lăng. Trương Vịnh hỏi: “Trên quãng đường đi qua, thiên sứ có thấy viên quan nào tốt chăng?”. Phạm Diên Linh đáp: “Hôm trước tôi đi qua Bình Hương, thấy viên quan Ấp Tể Trương Hy Nhan là người tốt”. Vịnh hỏi: “Sao ông biết là viên quan tốt?”. Đáp: “Từ lúc đi vào cảnh giới đó, tôi thấy cầu cống đường sá hoàn mỹ, ruộng vườn rộng rãi thênh thang, ngoài đồng nội không có người nông phu lười biếng, trong chợ không có kẻ cờ bạc, ban đêm nghe tiếng trống cầm canh phân minh, tất nhiên tôi biết đó là người thi chính tốt đẹp”. Vịnh nói: “Hy Nhan vốn là người hiền, thiên sứ cũng là viên quan tốt”. Ngay ngày hôm ấy Vịnh đem sự việc đó tâu về triều đình. Vua thăng Trương Hy Nhan làm Phát Vận Sứ, Phạm Diên Linh làm Các Môn Hầu. Trương Vịnh tên chữ là Phục Chi, sau được phong là Định Quốc Công.
[4] Các Hạ. Các chức Tể Tướng, Tam Công và Quận Thú đều được gọi là Các hạ.
[5] Trương Trung Định Công. Người Bộc Châu, đỗ tiến sĩ đời Tống Thái Tôn, khi làm quan Chi Châu tại Ích Châu, ông ra công đôn đốc việc đắp đê điều, khai khẩn việc dẫn thuỷ nhập điền, dân vùng đó đều cảm phục. Khi ông mất, được tặng tên hèm là Trung Định Công.
[6] Vương Thập Bằng. Vương Thập Bằng, tên chữ là Quy Linh, người đất Hạc Thanh, học sĩ của Long Đồ Các. Năm Thiệu Hỷ thứ ba, được tặng tên là Trung Văn.
[7] Nhược Quán. Ngày xưa người đến tuổi 20, gọi là tuổi nhược, lúc đó mới cho đợi mũ, nên 20 tuổi trở lên gọi là nhược quán.
[8] Kiến Độc cư sĩ. Tức thân phụ của Tuyết Đường Hoà Thượng.
[9] Tổn ích. Dịch ở chữ lợi bệnh. Làm việc gì tổn đến người gọi là bệnh, làm việc gì ích cho người là lợi.
[10] Ứng Am Hoa. Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư, pháp tự của Hổ Khâu Long Thiền Sư đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[11] Phổ Vân Viên. Phổ Vân Tự Viên Thiền Sư, pháp tự của Bạch Vân Ngọ, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[12] Thủ Toạ. Vị đứng đầu trong chúng Tăng, người tiêu biểu trong tùng lâm, làm nhãn mục cho nhân thiên, khai tràng thuyết pháp, tiếp dẫn hậu côn.
[13] Nhất Tài Tăng.Tuyết Quả Pháp Nhất Thiền Sư, pháp tự của Thảo Đường Thanh.
[14] Thư Ký. Người giữ gìn về văn thư sổ sách, sớ bảng trong tùng lâm.
[15] Bạch Dương Thuận. Bạch Dương Pháp Thuận Thiền Sư, pháp tự của Phật Nhãn Viên, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[16] Tạng Chủ. Người coi giữ Tam tạng kinh điển, thông hiểu nghĩa lý, biết phân chia mục lục trong ba tạng kinh để dễ bề kê cứu.
[17] Thông Ô Đầu. Bắc Sơn Pháp Thông Thiền Sư, pháp tự của Trường Lưu Liễu Thanh.
[18] Tri Khách. Người trông coi tân khách, ứng tiếp hai hàng xuất gia và tại gia.
[19] Hiền Chân Mục. Chính Hiền Chân Mục Thiền Sư, pháp tự của Phật Nhãn Viễn, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[20] Duy Na. Người giữ kỷ cương trong Tăng chúng, làm cho Tăng chúng trong ngoài êm đẹp, nên lại có tên Duyệt chúng.
[21] Hoa Điệt. Tức Đàm Hoa Thiền Sư.
[22] Phó tự. Chức coi việc chi thu xuất nhập, tiền bạc thóc lúa.
[23] Giám Tự. Tiếng Phạn là Ma Lam Đế, Tàu dịch là Tự Chủ, nay gọi là Giám Viện, hoặc Giám Tự, trông nom coi sóc công việc Tam bảo, ứng tiếp quan khách, làm việc nghiêm minh công cẩn, không để trên dưới oán hận.
[24] Dụng Điệt. Song Tâm Đức Dụng Thiền Sư, pháp tự của Cao Am Thiện Ngộ.
[25] Hổng mũi ngay thẳng. Ý nói, tỏ lộ hoàn toàn được pháp thân đạo thể.
[26] Mã Tổ. Mã Tổ Đạo Nhất Thiền Sư, pháp tự của Nam Nhạc Hoài Nhượng.
[27] Bách Trượng. Bách Trượng Thiền Sư, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất.
[28] Nam Tuyền. Nam Tuyền tham học Mã Tổ ở núi Đại Hùng mà đốn ngộ được đại sự, hiểu liễu được đại dụng, biệt hiệu là Phổ Minh Thiền Sư.
[29] Thiên này đại ý nói sự tiến thoái, đi hay ở chùa của các bậc cổ đức thì tự do tự tại.
[30] 12 ngày. Dịch ở chữ Bát tuần tiếp gian. Tuần là 10 ngày, Tiếp là 12 ngày. Chạy quanh khắp một vòng 12 chi từ Tý đến Sửu gọi là tiếp thời.
[31] Cổ Nhân. Chỉ vào Hoàn Hách Hàn Phi Tử đưa ra lời dẫn giải này.
[32] Lời sách Luận ngữ ba lần suy nghĩ rồi sau mới làm.
[33] Vạn Am. Đông Lâm Vạn Am Đạo Nham Thiền Sư, pháp tự của Đại Tuệ Cảo, đời thứ 16 phái Nam Nhạc.
[34] Đức Quán. Đức Quán Thủ Toạ pháp tự của Phật Nhãn Viễn, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[35] Sứ lại mời. Dịch ở chữ Sứ phù. Ở đời nhà Hán, vua hay quan muốn phái khiến sứ thần đi đâu, thì giao cho thanh tre dài 6 tấc tách ra làm hai mảnh, cùng ăn khớp với nhau, để làm tín hiệu.
[36] Ẩn Sơn. Đàm Châu Long Sơn Hoà Thượng, cũng gọi à Ẩn Sơn Hoà Thượng, pháp tự của Mã Đại Sư.
[37] Anh Tài. Dích ở chữ “gián khí” có nghĩa là con người xuất cách không can dự với đời, tức là người anh tài rất hiếm có.
[38] Cha của Tuyết Đường là Kiến Độc cư sĩ, một người rất giàu sang lại có địa vị cao quý.
[39] Tắc trách. Dịch ở chữ “thất tự gian”, lời tục ngữ ở địa phương, có nghĩa không thiết yếu.
[40] Phương Thị giả. Siêu Tông Hụê Phương Thiền Sư, pháp tự của Hoàng Long, đời thứ 12 phái Nam Nhạc.
[41] Tú Viên Thông. Tú Thiền Sư, pháp tự của Thiên Y Hoài Thiền Sư, đời thứ 11 phái Thanh Nguyên.
[42] Đại ý thiên này nói về căn cơ của người học đạo có thượng trung hạ cần phải theo đó để chỉ dẫn cho người học sau.
[43] Hương đảng. Theo sách Luận ngữ, cứ 5 nhà một “lân”, 5 lân một “lý”, 1250 nhà là một “hương”, 500 nhà là một “đảng”.
[44] Đại ý thiên này chỉ rõ về cách muốn thuyết phục người, trước hết tự mình phải thành và tín từ lời nói đến việc làm.
[45] Đại ý thiên này nói, đạo đức cùng với thanh lợi không thể cùng dong hợp với nhau.
[46] Viên Chiếu. Viên Chiếu Tông Bản Thiền Sư, pháp tự của Thiện Y Nghĩa Hoài Thiền Sư, đời thứ mười một phái Thanh Nguyên.
[47] Thảo Đường Thanh. Thảo Đường Thiện Thanh Thiền Sư, pháp tự của Hoàng Long Tổ Tâm, đời thứ 13 phái Nam Nhạc.
[48] Thiên này đại ý nói, người cầu đạo đừng để cho mối niệm thứ hai phát khởi.
[49] Lời nói của Nhiễm Cầu, Khi Đức Khổng Tử ở nước Vệ, Nhiễm Cầu nói với Quý Tông rằng: “Nước có Thánh nhân mà không biết dùng, lại mong nước được thịnh trị, thì cũng như người đi giật lùi mà mong tới trước, đâu có thể kịp được”.
[50] Sơn Đường. Sơn Đường Đảo Chấn Thiền Sư, pháp tự của Thảo Đường Thanh Thiền Sư.
[51] Bình Thị giả. Thái Dương Bình thị giả, trước đây đã được theo học nơi ngài Minh An, Ông tuy hiểu hết được tôn chỉ của Minh An, nhưng lại hay có tính chèn ép người đồng hàng, đố kị kẻ hơn mình. Khi ấy trong chúng có Lang Gia, Quảng Chiếu, Viên Giám. Nhân lúc đó có Phần Dương Chiếu Thiền Sư khiến Bình Thị giả tham cứu tôn chỉ của Minh An. Thái Dương Minh An nói: “Làm cho một tông Đỗng Sơn được hưng thịnh, nếu không phải Viễn Thiền Sư, thì Giác Thiền Sư”. Hai Thiền sư nói: “Hiện có Bình Thị Giả ở nơi đây”. Minh An lấy ngón tay chỉ vào ngực nói: “Vì chốn này không tốt” rồi lại ấn ngón tay cái vào trong lòng bàn tay và nói: “Bình về sau dẽ chết ở chốn này vậy”. Đến khi Minh An viên tịch, có di chúc lại: “Chôn cất thi hài ta sau mười năm không xảy ra tai nạn gì, nhưng sau đó thì sẽ bị Thái Dương Sơn đánh”. Sau Bình Thị Giả ở chùa Thái Dương, đột nhiên nói với chúng Tăng: “Linh cốt của tiên sư để ở nơi không hợp với phong thuỷ, nên ta phải đào lên để đốt”. Các bậc kỳ túc trong sơn môn, đều khuyên ngăn Bình Thị Giả không nên làm việc như thế. Bình nói: “Nhưng đối với ta có chỗ phương hại”. Rồi Bình phát quật tháp, thấy thi hài của Minh An, nhan mạo như lúc còn sống, Bình lại đem chất củi đốt, nhưng thi hài vần không cháy trong chúng ai nấy đều kinh ngạc. Bình bèn lấy búa bổ óc rồi đổ thêm dầu đốt, chẳng bao lâu thi hài cháy hết. Chúng Tăng mới đem chuyện này thưa lên quan cai trị địa phương, quan kết tội Bình là kẻ bất hiếu, bắt phải hoàn tục. Bình sau đổi tên là Hoàng Tú Tài, và đi đến đâu cũng không được ai nâng đỡ chứa chấp, nên phải lang thang nay đây mai đó. Sau bị hổ xé chết ở ngã ba đường. Thật đúng như lời sấm ký của Minh An đã nói.
[52] Như Hoà Thượng. Có lẽ là Vân Cư Pháp Như Hoà Thượng, pháp tự của Phật Nhẫn Viễn Thiền Sư.
[53] Bịt miệng im lặng. Dịch ở chữ “giam mặc”. Xưa kia đức Khổng Tử vào thăm miếu Hậu Tắc nhà Chu, thấy một pho tượng đúc bằng vàng, miệng được bịt ba lần và ghi ở sau tượng đó rằng: “Cơ trời không kín thời bốn mùa sao thay đổi được, cơ đất không mật thời vạn vật sao sinh thành? Cơ người không kín, thời muôn việc sao thành tựu được? Đó là lời răn về thận trọng của cổ nhân.
[54] Không Thủ Toạ. Tức Tuyết Phong Đông Sơn Tụê Không Thiền Sư, pháp tự của Thảo Đường Thanh.
[55] Pháp tự của Thạch Đầu Thiên Thiền Sư gồm có 21 người, pháp tự của Mã Tổ Nhất Thiền Sư gồm có 84 người, pháp tự của Tuyết Phong Tồn Thiền Sư gồm có 42 người, và pháp tự của Vân Môn Uyển Thiền Sư gồm có 61 người.
[56] Pháp tự của Hoàng Long Nam Thiền Sư có 24 người, pháp tự của Ngũ Tổ Diễn Thiền Sư có 22 người.
[57] Cơm xuất sinh. Cơm cho chúng sinh ăn. Theo luật Phật, các Tỷ khiêu khi ăn ngọ đều dành riêng một chén cơm xuất sinh, trong đó để ít hạt cơm và chút nước lã để bố thí cho các loài Quỷ Mẫu Tử đói khát.
[58] Cổ Nhân. Nghiêm Dương Tôn Giả, thường thường ở bên tả hữu ngài có một con rắn và một con hổ theo làm bạn, ngài thường lấy cơm ở trong lòng bàn tay ra cho chúng ăn.
[59] Lão Bàng. Lão Bàng Cư sĩ, tên là Bàng Uẩn, tên chữ là Đạo Huyền, pháp tự của Giang Tây Mã Tổ Đại Sư.
[60] Chu Cư Sĩ. Hoặc là Thừa Ích Quốc Chu Công hay Giám Thừa Tuất Chu Công chưa biết rõ, pháp tự của Đại Hồng Lão Nột Tổ Chứng Thiền Sư.
[61] Triệu Siêu Nhiên. Quận Chúa Triệu Lệnh Khâm, tên chữ là Biểu Chi, hiệu là Siêu Nhiên Cư Sĩ, pháp tự của Viên Ngộ Cần Thiền Sư.
[62] Hàn Tử Thương. Tên là Câu, tên chữ là Tử Thương, làm quan tới Thượng Thư, tham học ở Sơn Đông Đạo Chấn Thiền Sư.
[63] Lý Thành. Năm đầu nổi loạn, tụ tập quân lính ở các quận Triết Giang đất Hoài. Tự xưng là Lý Thiệu Vương, cướp bóc đất Tương Dương, gặp quân của Nhạc Phi, quân của Lý Thành đại bại. Do thế các nơi được bình định.
[64] Dã Am. Dã Am Tổ Toàn Thiền Sư, pháp tự của Tụê Tông Cảo Thiền Sư.
[65] Lý Thương Lão. Thương Lão phu vì việc xây cất đào đất, động đến long mạch, nên cả nhà bị bệnh phù thũng, chữa khắp nơi không khỏi. Ông liền trai giới thành kính tụng niệm cầu đảo chưa tới bảy ngày, thì một đêm nằm mộng thấy một cụ già mặc áo trắng cưỡi trâu lướt trên mặt đất mà đi. Vì thế ngày hôm sau cả nhà khỏi bệnh.
[66] Nguyên Thủ Toạ. Chiêu Giác Vi Am Đạo Nguyên Thiền Sư, pháp tự của Viên Ngộ Cận, đời thứ 15 phái Nam Nhạc, Đại Huệ Võ Khố (Lý Thương Lão) nói: “Khi ngài Diệu Hỷ ở chùa Bảo Phong, Nguyên Thủ Toạ thấy ngài rất lấy làm mừng rỡ. Nhân một lần Diệu Hỷ xin phép một tháng đi thăm bệnh Lý Thương Lão tôi đây, nhưng bị chậm mất mười ngày, tức sau bốn mươi ngày mới về, vì thế Nguyên Thủ Toạ mới mắng trách là “Vô thường tấn tốc, ông không nghĩ đến sự nghiệp tu hành như lửa cháy đầu hay sao?”.
[67] Lễ Trà Tỳ, Lễ hoả thiêu, lễ đốt xác.
[68] Phật Tính. Đại Qui Pháp Tính Pháp Thái Thiền Sư, pháp tự của Viên Ngộ Cần, đời thứ 15 phái Nam Nhạc.
[69] Hành Giả. Người mới vào chùa tu chưa thụ giới.
[70] Tổ Siêu Nhiên. Siêu Nhiên Văn Tổ Thiền Sư, pháp tự của Thiên Y Hoài, đời thứ 11 phái Thanh Nguyên.
[71] Chỉ vào Cao Am là cựu trụ trì chùa Vân Cư.
[72] Lượng Thủ Toạ và Ẩn Sơn. Hai người đều tham học ngài Mã Tổ, sau khi đã phát minh được tâm yếu và đại sự, thì Lượng Thủ Toạ về ẩn dật núi Tây Sơn thuộc Hồng Châu, Ẩn Sơn sau ở ẩn núi Long Sơn thuộc Đàm Châu.
[73] Bảo Hoà Thượng. Có lẽ là Đại Qui Pháp Bảo Hoà Thượng, pháp tự của Đại Tụê Cảo Thiền Sư.
[74] Quẻ Phong. Đó là quẻ “Lôi Hoả Phong” trong kinh Dịch, quẻ này thì ly ở dưới, chấn ở trên. Chấn là lôi, ly là hoả (lửa), nên tên quẻ đọc bằng “Lôi Hoả Phong”. Phong có nghĩa là thịnh, cũng có nghĩa là lớn. Theo về thể quẻ trên chấn dưới ly. Chấn là động, Ly là minh, lấy đức minh mà động, lại động mà hay minh, đều là phương pháp làm cho thịnh đại, theo nghĩa ấy chắc chắn được hanh thông, nên lại gọi là “Phong Hanh”.
[75] Nên nói. Soán truyện lại nói rộng ra ỹ nghĩa ngoài quẻ. Nhân vì thì Phong là “thì” cực thịnh, hễ thịnh cực thời e suy tới nơi. Nên hễ mặt trời mọc đến lúc trung thời thế nào cũng xế, mặt trăng đã đến lúc tròn đầy, thời thế nào cũng khuyết lần. Dầu rất to lớn như trời đất mà khí số tuần hoàn vẫn có khi đầy khi vơi, theo với “thời” mà tiêu (tan đi mòn đi) mà tức (lớn lên nở ra). Khí cơ tuần hoàn, thịnh suy đắp đổi, ngay cả trời đất còn thế, phương chi là con người vậy ư?
[76] Trương Thị Lang. Trương Cửu Thành, tên chữ là Tử Thiều, đậu Tiến sĩ năm Thiệu Hưng thứ hai, làm quan đến Lễ Bộ Thị Lang và Hình Bộ Thị Lang.
[77] Phu Thiết Cước. Ứng Thiên Vĩnh Phu Thiền Sư, pháp tự của Lặc Đàm Hoài Chừng, vì trong khi đi hành cước, ngài phải ép vào nhà dâm nữ, mà không sa ngã vào nữ sắc, nên có tên là Phu Thiết Cước.
[78] Bản Thủ Toạ. Ngộ Bản Thủ Toạ chùa Tiến Phúc, pháp tự của Đại Tụê Cảo Thiền Sư.
[79] Đại ý thiên này chia làm hai đoạn. Đoạn một nêu cao về tác phong đạo đức của thầy. Đoạn hai chỉ rõ sự hoạ hoạn của kiếp người không thể ai tránh khỏi.
[80] Tào Động. Động Sơn Lương Giới Thiền Sư, người đất Cối Kê, pháp tự của Vân Nham Đàm Thành Thiền Sư. Và, Tào Sơn Bản Tịch Thiền Sư người Tuyên Châu, pháp tự của Động Sơn Lương Giới, Hai vị này sáng lập ra tông phái thiền riêng, lấy tên là “Tào Động Tôn”.
[81] Âm Thủ Toạ. Pháp Âm Thủ Toạ Thiền Sư, pháp tự của Trường Lư Hoà Thiền Sư.
[82] Tiên sư bị đày ở Hành Dương. Đời Tống Cao Tôn, niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 7, vua ban chiếu chỉ mời Diệu Hỷ trụ trì chùa Năng Nhân ở Kính Sơn. Năm Thiệu Hưng thứ II, Ông Trương Cửu Thành tự Tử Thiều cùng các vị đại phu đến yết kiến, bàn về câu chuyện cách vật. Diệu Hỷ nói: “Các ông chỉ biết có cách vật mà không biết được vật cách”. Các ông kia không hiểu chi cả lại hỏi lại. Diệu Hỷ nói: “Các ông xem tiểu thuyết không thấy chuyện nhà Đường có An Lộc Sơn làm phản hay sao? An Lộc Sơn trước làm Quận Thú ở Lương Châu, có vẽ một bức tranh vẫn còn lưu lại đó. Khi vua Đường Minh Hoàng đi sang Thục qua đây, nhà vua thấy bức tranh ấy, giận lắm, liền sai bầy tôi lấy gươm chém bức tranh ấy, đầu rơi xuống đất, thì tự nhiên An Lộc Sơn ẩn ở trong núi lúc ấy, đầu cũng rơi xuống đất”. Ông Trương Cửu Thành nghe tới đây tỉnh ngộ. Nhân thế, ngài Diệu Hỷ lại nói thêm về chuyện Thần Tý Cung. Tần Cối nghe được chuyện Thần Tý Cung, ngờ Trương Cửu Thành có ý làm phản, liền đem chuyện này tâu triều đình. Vì thế, vua liền đày ngài Diệu Hỷ ra Hành Dương và giáng chức Trương Cửu Thành xuống làm Quận Thú Nam Khang.
[83] Hiền Thị Giả. Tức Phúc Nghiêm Liễu Hiền Thiền sư, pháp tự của Đại Tuệ Cảo Thiền Sư.
[84] Cốc Tuyền. Đại Đạo Cốc Tuyền Thiền Sư, ở am Ba Tiêu núi Nam Nhạc, pháp tự của Phần Dương Chiêu Thiền Sư, đời thứ 10 phái Nam Nhạc.
[85] Đại Ngu. Thủ Chi Thiền Sư núi Đại Ngu, pháp tự của Phần Dương Chiêu Thiền Sư.
[86] Phần Dương. Phần Dương Thiện Châu Thiền Sư, pháp tự của Thủ Sơn Niệm Thiền Sư, đời thứ 9 phái Nam Nhạc.
[87] Đại ý thiên này nói về hành vi của bậc Đại Đức thì không phải chỗ người thường có thể biết được, vậy chớ nên bình luận hồ đồ.
[88] Đày đến huyện Mai Dương. Diệu Hỷ khi bị đày ra Hành Dương, ngài trước tác ba quyển Chính pháp nhãn Tạng, bị người đời sàm tấu, lại phải bị đày đến huyện Mai Dương, không bao lâu ngài lại được mặc áo đạo trở lại. Tới niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 20, nhà vua hạ chiếu chỉ ngài trụ trì chùa A Dục Vương. Năm thứ 28 lại được chiếu chỉ mời ngài trụ trì chùa Kính Sơn. Ngài tịch vào năm đầu niên hiệu Long Hưng đời vua Hiếu Tôn.
[89] Dấu vết. Dấu vết bị đày.
[90] Lời nói này chỉ là lời nói suông của Âm Thủ Toạ, nhưng sau đó mười lăm năm, thì ngài Diệu Hỷ được vua Cao Tôn đại xá. Tới niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 20 được nhà vua mời ngài trụ trì chùa A Dục Vương v.v…
[91] Lâm Tế. – Lâm Tế Viện, Nghĩa Huyền Thiền Sư, pháp tự của Hoàng Nghiệt Hy Vận Thiền Sư, đời thứ 4 phái Nam Nhạc.
[92] Đức Sơn.- Đức Sơn Tuyên Giám Thiền Sư, pháp tự của Long Đàm Sùng Tín Thiền Sư, đời thứ 4 phái Nam Nhạc.
[93] Tư Mã Quang nói: “Vua Trang Công nước Sở lấy việc không có tai ương làm lo sợ, nên nói: “Trời há bỏ kẻ chẳng hiền này vậy ư?”.
[94] Báng nhục.- Vì vua Nghiêu có tâm bất từ, vua Thuấn có lỗi bất hiếu.
[95] Thuỷ Lạo Hạc.- Khi ngài A Nan Đà, cùng với các Tỷ khưu ở Trúc Lâm viên, có một vị Tỷ khưu tên là Thuỷ Lạo Hạc, tụng bài kệ rằng: “Nếu người sống trăm tuổi, không thấy Thuỷ Lạo Hạc, chẳng bằng sống một ngày mà được trông thấy nó”. Ngài A Nan nghe thấy thế mới bảo vị Tỷ khưu kia rằng: “Bài kệ đó không phải là lời đức Phật, ông nên nghe tôi nói bài kệ của đức Phật nói như sau: “Nếu người sống trăm tuổi, không liễu pháp sinh diệt, chẳng bằng sống một ngày, mà hiểu được pháp đó”. Lúc đó vị Tỷ khưu về trình bày lại với thầy mình. Ông thầy của vị Tỷ khưu đó nói: “A Nan là người già nua, nói năng sai lầm, không thể tin cậy, ông nên theo bài kệ trước mà tụng”. Chủ ý đoạn này nhấn mạnh ở chỗ phải chỉnh lại cái óc thiên kiến của mình vậy.
[96] Quách Công Phụ, Dương Thứ Công.- Quách Công Phụ đã được tham học ngài Bạch Vân Đoan nhiều năm, sự ứng đối rất hợp đạo. Dương Thứ Công cũng là người thích tham thiền, nhân một hôm được phỏng vấn ngài Bạch Vân Đoan, qua một buổi dạ thoại, Dương Thứ Công liền hiểu được Tông chỉ của Thiền Tông.
[97] Tô Đông Pha, Hoàng Thái Sử.- Tô Đông Pha cư sĩ tới tham học ngài Phật Ấn, Phật Ấn nói: “Nơi này không có giường chõng chi cả, ông phải làm thế nào?” – Cư sĩ thưa: “Tạm mượn thân tứ đại của Ngài làm giường ngồi”. Phật Ấn nói: “Sơn Tăng đặt một câu hỏi, nếu không đáp được ông phải cởi bỏ đai ngọc để lại”. Tô Đông Pha vui vẻ nhận lời. Phật Ấn nói: “Ông nói, ông mượn thân tứ đại của Sơn Tăng, nhưng thân của Sơn Tăng này vốn là không, năm uẩn cũng chẳng có, thì ông đem cái gì để ngồi?”. Tô Đông Pha không đáp được, liền cởi đai ngọc lưu lại. Phật Ấn cũng tặng cho Tô Đông Pha một chiếc áo vá làm kỷ niệm. Hoàng Thái Sử.- Thấy ngài Phật Ấn ngồi trên thiền đường liền hỏi: “Sau khi đức Phật nhập diệt nơi Song Lâm rồi thì ai là Phật? Hải ấn phát quang minh thì ấn ấy là ai?”. Ngài Phật Ấn đáp: “Trái Đông qua ở Giang Nam là giống ở Giang Bắc, trái Tây qua ở Giang Bắc là trồng ở Giang Bắc”. Hoàng Thái Sử im lặng không nói.
[98] Huyền sấm Bát Nhã Đa La.- Đạt Mạ Đại Sư Tổ thứ 28 bên Tây Trúc, sau khi đắc pháp ở ngài Bát Nhã Đa La người Đông Thiên Trúc Tổ thứ 27 của Thiền Tông, kể từ thời đức Phật trở lại, ngài có hỏi Bát Nhã Đa La rằng: “Sau này phải đi đến chốn nào để làm Phật sự?”. Ngài Bát Nhã Đa La nói: “Sau khi ta mất ông sẽ tới nước Chấn Đán (Trung Quốc) để truyền bá đại pháp”. Ngài lại hỏi nơi ấy có bậc đại sĩ nào hay lãnh hội được pháp khí không?” Ngài đáp: “Nơi ông giáo hoá có rất nhiều người nối dõi, ta thấy có những người chứng đạo quả, vậy hãy nghe ta nói bài kệ:
“Thênh thang Chấn Đán một con đường,
Nhờ vậy cháu con việc xiển dương.
Đến lúc gà vàng buông hạt thóc
Cúng dường La Hán khắp mười phương”.
Bài kệ trên, câu đầu có ý chỉ vào ngài Đạo Nhất tức Mã Tổ Đạo Nhất. Câu hai chỉ vào ngài Thạch Đầu. Câu ba chỉ vào ngài Nam Nhạc Nhượng, người huyện Kim Kê, Câu bốn cũng chỉ vào ngài Mã Tổ ở chùa La Hán huyện Thập Phương tỉnh Tứ Xuyên.
“Thênh thang Chấn Đán một con đường,
Nhờ vậy cháu con việc xiển dương.
Đến lúc gà vàng buông hạt thóc
Cúng dường La Hán khắp mười phương”.
Bài kệ trên, câu đầu có ý chỉ vào ngài Đạo Nhất tức Mã Tổ Đạo Nhất. Câu hai chỉ vào ngài Thạch Đầu. Câu ba chỉ vào ngài Nam Nhạc Nhượng, người huyện Kim Kê, Câu bốn cũng chỉ vào ngài Mã Tổ ở chùa La Hán huyện Thập Phương tỉnh Tứ Xuyên.
[99] Ngược dòng Tào Khê.- Dòng Tào Khê: (xem biểu đồ)
[100] Kinh Duy Ma Cật.- Kinh nói: “Đại thức Bồ tát, tuy vào nơi dâm xá, hay có vợ con, nhưng vẫn thường tu phạm hạnh”.
[101] Kinh Viên Giác.- Kinh nói: “Hết thảy chướng ngại là cứu cánh giác, rồi đến các Giới, Định, Tuệ và dâm, nộ, si đều là phạm hạnh”. Đó là việc của đại quyền Thánh nhân thị hiện lợi sinh, mà ngoại đạo tà nhân lại lấy việc đó để dối người, lạm dụng sự cung kính.
[102] Biện Thủ Toạ.- Biện Thiên Thiền Sư chùa Chiêu Giác, pháp tự của Đại Qui Pháp Thái Thiền Sư.
[103] Tào Khê Thuỷ.- (Nước Tào Khê) Theo Thiên Thai Thiều Quốc Sư truyện, một hôm Tịnh Tụê thượng đường, có vị Tăng hỏi: “Thế nào là một giọt nước Tào Khê?”. Tịnh Tụê đáp: “Như thế là một giọt nước Tào Khê”.
[104] Lật cức bồng.- Ngài Dương Kỳ thị chúng rằng: “Thấu được kim cương quyền, nuốt được lật cức bồng (gai vỏ quả hạt giẻ), liền cùng với chư Phật ở ba đời cùng dắt tay cùng đi, cùng với lịch đại Tổ sư cùng một hổng mũi. Nếu hoặc chưa được như thế, thì tham thiền phải là người thực tham, chứng ngộ phải là người thực chứng ngộ mới được vậy”.HET=NAM MO BON SU THICH CA MAU NI PHAT.( 3 LAN ).GIAO HOI PHAT GIAO VIETNAM TREN THE GIOI.TINH THAT KIM LIEN.AUSTRALIA,SYDNEY.5/8/2013.THICH NU CHAN TANH.MHDT.
No comments:
Post a Comment